NHÀ THƠ CAO BÁ QUÁT
(ĐC sưu tầm trên NET)
(ĐC chép từ .ctu.edu.vn)
Chương 8
CAO
BÁ QUÁT
(?-1855)
-Cao Bá Quát là một nhà thơ lỗi lạc đồng
thời là một lãnh tụ của phong trào nông dân
khởi nghĩa ở giai đoạn nửa cuối
thế kỷ XVIII, nửa đầu thế kỷ XIX.
-Cao Bá Quát sinh vào khoảng 1808-1810 và mất năm
1855.
-Cao Bá Quát tự là Chu Thần (bậc thần tử
của nhà họ Chu), hiệu là Cúc Ðường, Mẫn
Hiên. Ông người làng Phú Thọ, huyện Gia Lâm,
tỉnh Bắc Ninh.
- Cao Bá Quát xuất thân trong một gia đình nhà nho
nghèo. Thân sinh của ông sống vào thời kỳ Lê
mạt, xã hội loạn lạc nên ông không đi thi
để ra làm quan mà chỉ sống bằng nghề
dạy học. Nhưng dòng họ Cao là một dòng họ
có truyền thống về thi phú và khoa bảng.
-Ngay từ nhỏ, ông đã là một người thông
minh, học giỏi và bản lĩnh. Tương truyền
năm 14 tuổi ông đã lều chõng đi thi nhưng không
đỗ, chín năm sau (1831) ông mới đỗ thứ
hai kỳ thi hương (đỗ á nguyên, sau giải nguyên,
đỗ cử nhân thứ hai nhưng sau bộ Lễ
xếp lại đánh tuộtt xuống cuối bảng).
Sau đó nhiều lần Cao Bá Quát đi thi hội ở
kinh đô nhưng không đậu, trượt mãi
(chắc không phải vì bất tài mà vì ông là người
cương trực nên bị bọn quan lại ghen ghét).
Mặt khác ông vốn là người tự do, phóng túng nên
không chịu viết văn theo khuôn phép trường thi.
-Ðậu cử nhân từ năm 1831 nhưng mãi đến
năm 1841 ông mới được bổ làm một
chức quan nhỏ mọn: chức hành tẩu bộ
Lễ (bộ Lễ: nơi làm việc của quan văn có
nhiều chức, chức hành tẩu là nhỏ nhất
chỉ là chân thư ký). Thời gian này ông được
cử làm sơ khảo kỳ thi hương ở trường
thi Thừa Thiên. Thấy một số bài thi xuất
sắc nhưng phạm húy, ông đã cùng một người
bạn chữa lỗi cho những bài thi đó để
lấy đậu nhưng bị phát giác. Ông bị khép vào
tội chết, sau triều đình xét lại
chỉ cách chức và đày vào Ðà Nẵng. Sau ba năm
bị giam, ông được cử đi phục dịch
một đoàn sứ bộ của triều đình đi
công cán ở Xinhgapo để lập công chuộc tội
(gọi là đi dương trình hiệu lực).
-Ở nước ngoài về, ông được
giữ chức cũ một thời gian rồi lại
bị thải, ông trở về sống với vợ con
ở Thăng Long.
-1847, ông lại nhận được chiếu
chỉ của nhà vua bổ vào làm việc ở Viện Hàn
Lâm (sưu tầm, sắp xếp các bài thơ cho nhà vua ngâm
vịnh). Nhưng vốn là một con người có tài.và
cương trực cho nên Cao Bá Quát trở thành cái gai
trong mắt bọn quan lại ở triều đình, vì
thế chúng đã tìm cách đẩy ông đi xa.
-1852, ông bị đẩy đi làm Giáo thụ ở
phủ Quốc Oai, Sơn Tây (chức quan trông coi việc
học hành ở một vùng). Nơi này là một vùng
hẻo lánh, ít người đi học. Ðối với ông,
đó là một việc đày ải thực sự nên càng
làm cho ông bất bình. Năm ấy mùa màng lại bị
châu chấu tàn phá, nhân dân vô cùng đói khổ, nhất
là ở vùng Sơn Tây. Bị đẩy đến bước
đường cùng, họ đã đứng lên chống
bọn địa chủ, quan lại để giành sự
sống. Cao Bá Quát liên lạc được với các lãnh
tụ khởi nghĩa bèn vứt bỏ chức Giáo
thụ quèn. Ông mượn cớ phò Lê, tôn Lê Duy Cự làm
minh chủ, mình làm quốc sư đứng lên kêu
gọi nhân dân vùng này khởi nghĩa đánh đổ
triều Nguyễn. Ðáng tiếc là cuộc khởi nghĩa
lại sớm thất bại. Cao Bá Quát hi sinh trong một
cuộc chiến với quân triều đình. Sau khi ông
mất, nhà Nguyễn đã trả thù dòng họ này
một cách dã man bằng cách thi hành lệnh tru di tam
tộc cả dòng họ.
2.Sự nghiệp thơ văn. |
-Sáng
tác của Cao Bá Quát chủ yếu bằng chữ Hán,
chữ Nôm cũng có nhưng ít. Khác với Nguyễn Công
Trứ, Cao Bá Quát sống vào thời kỳ chính sách đề
cao chữ Hán của nhà Nguyễn đã có ảnh hưởng
sâu rộng trong giới nho sĩ. Có lẽ Cao Bá Quát
chịu ảnh hưởng của chủ trương này.
-Về
tác phẩm chữ Hán ông có hai tập thơ: Chu Thần
thi tập và Cúc Ðường thi thảo. Cả hai tập
thơ này có tên chung là Cao Bá Quát thi tập. Số bài thơ
của hai tập thơ này chưa rõ là bao nhiêu nhưng
chắc chắn nhiều hơn số hiện nay chúng ta sưu
tập được: 1353 bài thơ và 21 bài văn xuôi.
Sau khi nhà thơ qua đời, tác phẩm của ông cũng
phải chịu sự bạc đãi của triều đình
nhà Nguyễn.
-Về
mặt chữ Nôm: ông có bài phú nổi tiếng Tài tử
đa cùng (Người tài giỏi có nhiều điều
cùng khổ).
Ngoài
ra ông còn có một số bài thơ Ðường luật và
ca trù.
1.Thơ ông chứa đựng một nội dung hiện thực phong phú. |
-Thơ
văn Cao Bá Quát thuộc khuynh hướng phê phán
hiện thực, bộ mặt của xã hội
đương thời được phản ánh khá
rộng rãi, đa dạng và phong phú trong tác phẩm
của ông. Chẳng hạn qua thơ văn của ông người
ta có thể thấy cuộc sống thiếu thốn,
vất vả của một nhà nho nghèo có hoài bão, tâm
huyết đến cuộc sống của một kẻ
bị tù tội oan uổng; những sức ép tàn bạo
bằng ngục tù, roi đòn của nhà Nguyễn đối
với những con người có tài năng, có tư tưởng
tiến bộ rồi cuộc đời cùng quẫn
của nhân dân lao động trong xã hội đương
thời. Cũng như bao nhà thơ tiến bộ khác, Cao
Bá Quát cũng bắt đầu từ những vấn
đề của cá nhân để đi đến
những vấn đề có tính xã hội và càng về
sau thơ văn ông càng giàu
tính hiện thực. Từ những chi tiết mang tính
hiện thực ấy ta thấy hiện lên bộ mặt
của một chế độ đã già cỗi, tàn
bạo, bất nhân đáng nguyền rủa và đáng
bị tiêu diệt.
2. Thơ Cao Bá Quát chứa đựng nhiều tình cảm tốt đẹp, nhiều tư tưởng tiến bộ. |
Thơ
văn Cao Bá Quát là sản phẩm tinh thần của
một con người có nhân cách cứng cỏi, trí
tuệ sáng suốt; một tâm hồn lộng gió thời
đại, một trái tim nhạy bén giàu cảm xúc. Vì
vậy thơ văn ông chứa đựng nhiều tình
cảm tốt đẹp, nhiều tư tưởng
tiến bộ.
2.2.1.Lòng yêu nước và tự hào dân tộc.
-Khâm phục và ngưỡng mộ những người
anh hùng cứu nước, ông viết các bài thơ
Vịnh Phù Ðổng Thiên Vương, Vịnh Trần Hưng
Ðạo...Qua việc ca ngợi những người anh hùng
đó Cao Bá Quát bộc lộ ước muốn cứu dân,
cứu nước của mình. Ông như tìm thấy
sự tiếp sức từ trong lịch sử của dân
tộc. Ðây là điểm khác biệt giữa thơ
vịnh lịch sử của ông và các nhà thơ khác
(họ vịnh lịch sử để quay lưng với
hiện thực cuộc sống).
-Cao Bá Quát còn là con người say mê với
những cảnh đẹp của non sông đất nước,
ông ca ngợi những cảch đẹp ấy. Hầu
hết các danh lam thắng cảnh của miền Bắc,
ông đều có đến thăm và đề thơ ngâm
vịnh như: núi Ba Vì, hồ Tây, núi Thúy Dục, sông Hương.
Nét đặc sắc của nhà thơ khi miêu tả các
cảnh này là ở chỗ ông không miêu tả nó theo
lối của những ẩn sĩ đi du ngoạn để
chữa bệnh tinh thần mà lại kèm theo hào khí dân
tộc. Dải sông Hương mềm mại đến
thế mà khi hiện lên trong thơ ông vẫn mang một hào
khí hùng tráng:
Trường
giang như kiếm lập thanh thiên
(Con
sông dài như thanh kiếm dựng giữa trời xanh)
(Buổi sáng qua sông Hương).
Núi
Dục Thúy, núi Tản Viên, hồ Tây từ lâu đã
trở thành niềm tự hào của đất nước
và đặc biệt là là hình tượng núi Tản
đã từng tượng trưng cho khí phách hào hùng
của dân tộc ta. Và trong thơ Cao Bá Quát nét đặc
sắc là câu tự
vấn của tác giả: Non sông như thế, mình thì sao
đây? khi đứng trước những thắng
cảnh ấy. Tình cảm của ông bao giờ cũng là
tình cảm hai chiều: Yêu thương và trách nhiệm.
Ðây không phải là điều dễ tìm thấy ở các
nhà thơ đương thời.
-Ðặc
biệt trong thời đại sống của mình Cao Bá Quát
đã ý thức, đã băn khoăn cho số mệnh
của đất nước trước hiểm họa xâm
lăng từ phương Tây.
2.2.2.Lòng yêu thương con người nghèo khổ,
bất hạnh.
Ðây
là nét đặc sắc nổi bật nhất, phân cách
giữa Cao Bá Quát và các nhà thơ đương thời.
Cao Bá Quát có một ý thức vì dân thực sự, ông
đã đứng về phía quần chúng lao động
để thông cảm với những nỗi khổ đói
cơm, rách áo của họ.
-Nhà thơ đã thực sự xúc động trước
những tình cảnh đói cơm, rách áo của những
người dân nghèo:
+Bài thơ Dọc đường gặp người
đói giúp ta cảm nhận được một tấm
lòng yêu thương với tình cảm dạt dào.
+Bài Người tát nước trên đồng cao
buổi sángtáïc giả miêu tả cảnh những người
lao động đang tát nước trên đồng cao.
Buổi sáng sương núi còn dày đặc, trời rét,
bụng đói, môi run cầm cập mà cứ phải luôn
tay kéo gàu.
+Bài Cô gái từ trên cầu trở về lúc
buổi tối (Mộ kiều qui nữ) tả cảnh
buổi chiều tối, trời rét, một cô gái phải
đi bán áo để mua cám cho gia đình, khi trở
về qua cầu gió hun hút thổi mà cô gái vẫn
thản nhiên bước đi bởi lòng cô như ấm
lên khi nghĩ tới người nhà đang tựa cửa
chờ mình.
-Cao Bá Quát cũng đã nhìn thấy được
nguyên nhân của sự đói khổ của quần chúng
lao động là do sự áp bức, bóc lột của giai
cấp thống trị. Vì thế nhà thơ đã hết
sức căm giận và trực tiếp phê phán chính sách
cai trị hà khắc của triều đình nhà Nguyễn.
Lòng yêu thương quần chúng của Cao Bá Quát cũng
đã biến thành trách nhiệm, đây cũng là nét
đặc sắc của tác giả này. Ông băn khoăn,
day dứt về trách nhiệm của mình đối
với dân. Có lúc ông tỏ ra bực tức vì thấy mình
đã già, đã bất lực:
Lòng
thẹn với lòng này hóa lão
Cúi
đầu lẳng lặng dựa bên tường
2.2.3.Thơ ông chứa đựng nhiều tình
cảm đậm đà, chung thủy
trong
quan hệ bè bạn, gia đình, làng xóm.Thời kỳ
bị giam, nhà thơ đã viết nhiều bài thơ
thể hiện lòng thương vợ, nhớ con, nhớ
quê hương, bạn bè da diết.
-Ở bài thơ Tiếp thư của vợ gửi
áo rét, bút và vài thứ nhà thơ đã viết những
câu thơ thật xúc động:
Trước
đèn thư mở lệ muôn hàng
Hồn
gửi phòng the luống vấn vương
-Bài Mộng vong nữ
(Chiêm bao thấy con gái đã mất) là tiếng nói
yêu thương, đau xót thể hiện một tâm
hồn giàu chất nhân văn của nhà thơ. Tronh mơ
ông thấy người con gái đã mất trở về
với quần áo mong manh, rách nát, sắc diện thê
thiết.
-Bài Trả lời người bạn hỏi thăm
viết khi bị thải về nhà:
Chợt nghĩ tới mình ruột gan như từng khúc
Nhớ
bạn mỗi ngày tính đến trăm lần
2.2.4.Thơ ông còn chứa đựng nhiều tư tưởng
tiến bộ.
-Ông
là người có thái độ đúng đắn trước
sức mạnh vật chất của người phương
Tây. Ông không tỏ ra khiếp sợ tuy có ngạc nhiên. Bài
thơ Hồng mao hỏa thuyền ca ông miêu tả con tàu
không buồm, không chèo, không người đẩy mà
đi ngang, chạy ngược nhanh như ngựa phi. Khói
phun ngùn ngụt, sóng tung tóe ầm ầm như sóng. Nhưng
kết thúc bài thơ, ông kết luận đầy khí phách,
cảnh cáo con tàu đừng chủ quan khi đến
biển Ðông. Bởi sóng nước ở đây không
dễ dàng như bể Tây đâu.
-Ông
có một thái độ đúng đắn và tiến
bộ trước lối học từ chương khoa
cử của nền giáo dục phong kiến từ ngàn
đời nay. Cao Bá Quát là người đầu tiên dám
phê phán và phủ định lối học đó, ông coi
lối học từ chương là trò nhai văn nhá
chữ, là lối học trẻ con, hoàn toàn xa lạ
với cuộc sống thực tế. Ông phê phán bằng
lời và cả hành động của mình. Việc ông
chữa các bài phạm húy tựu trung cũng mang ý nghĩa
phản kháng, phê phán, xuất phát từ chỗ ông không
đồng ý với những phép tắc ngu xuẩn
của trường thi thời bấy giờ.
-Ông
quan tâm đến tác dụng của văn thơ và đề
xuất một số quan niệm về văn thơ
rất tiến bộ. Ông cho rằng thơ vừa phải
có quy cách vừa phải có tính tình nhưng tính tình là cái
quyết định.
3.Thơ Cao Bá Quát in đậm dấu ấn bản lĩnh và phong cách nhà thơ. |
Cao
Bá Quát là một con người phóng túng, có nhân cách
cứng cỏi, có tâm hồn, có trái tim giàu cảm xúc.
Những điều đó đã in đậm vào sáng tác
và trở thành phong cách riêng của nhà thơ, phong cách
đó tạm quy vào mấy nét sau:
-Sáng tác của ông mang tính chất phóng túng: Tiêu
biểu nhất là trong thơ chữ Hán, ông sử
dụng nhiều hình tượng mới mẻ, có
nhiều tứ thơ đột xuất. Nói tới hoa mai,
các nhà thơ xưa thường ca ngợi sự trắng
trong và tinh khiết của nó. Cao Bá Quát cũng ca ngợi
cái tinh khiết, cái trắng trong đó của hoa mai nhưng
thiết thực hơn ông muốn tự tay mình gieo lên núi
một rừng mai để rồi khi xuân đến mai
sẽ xanh tươi điểm tô cho bầu trời, mai
sẽ trở thành bức tranh tuyệt tác cho đời
xem chung (Tài mai). Nói đến dòng sông Hương của
Huế, người ta thường nghĩ tới một dòng
sông hiền hòa mềm mại, nhưng dưới con
mắt của Cao Bá Quát thì sông Hương lại
giống như một thanh kiếm dựng đứng
giữa trời xanh. Bài phú Tài tử đa cùng cũng là
một hiện tượng đặc biệt. Do tính
chất biền ngẫu của câu văn nên phú thường
có cái gò bó của nó nhưng đọc bài phú của Cao
Bá Quát ta thấy ngòi bút của ông vẫn phóng túng
hết mực. Ông vẫn diễn tả được
một cách sôi nổi cái háo hức của tuổi
trẻ. Trong bài phú ông dùng nhiều động từ
diễn tả hành động mạnh bạo để
thể hiện tư tưởng lành mạnh, tiến
bộ của mình.
-Thơ Cao Bá Quát kết hợp nhuần nhuyễn
giữa cảm xúc và suy nghĩ, giữa tình cảm và lí
trí. Lí trí làm cho tình cảm của nhà thơ trở nên sâu
sắc hơn, đậm đà hơn ngược lại
tình cảm làm cho suy nghĩ của nhà thơ trở nên
đúng đắn hơn. Ông luôn băn khoăn về con
đường đi của mình, về trách nhiệm
của một nhà nho đối với nhân dân.
-Hiện thực trong thơ ông nôm na mà bay bổng
(chất thơ) để nói rõ sự việc Cao Bá Quát
đã không ngại đi vào những chi tiết chân
thực nhất của cuộc sống.
Cao
Bá Quát là nhà thơ lớn nhất trong khuynh hướng
phê phán hiện thực của văn học nửa đầu
thế kỷ XIX. Ðóng góp của thơ văn Cao Bá Quát trước
hết là ở nội dung, cái hơn
người của ông là nội dung tư tưởng, là
lòng dũng cảm, là sự sáng suốt cả về chính
trị lẫn văn hóa. Cuộc đời của ông
vẫn là một bài học quí, khi cần thiết ông
biết ném cây bút để nắm lấy Long tuyền.(ĐC chép từ .ctu.edu.vn)
THƠ CAO BÁ QUÁT
Cao Bá Quát (Chu Thần, 1809 – 1854) quê làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh. Ông chỉ đỗ đến cử nhân nhưng trên thực tế, Cao Bá Quát đã trở thành một nho sĩ kiệt hiệt của thời đại. Vua Tự Đức đã phải khen:Văn như Siêu, Quát vô Tiền Hán.(Với văn của Nguyễn Văn Siêu và Cao Bá Quát thì văn thời đời Tiền Hán coi bằng không).Còn những người sùng bái ông thì gọi ông là Thánh Quát!Danh bất hư truyền, Cao Bá Quát là người con trác việt mà non sông Việt Nam đã sản sinh ra: một con người toàn diện với trái tim vô cùng nhân hậu, tâm hồn đằm thắm, với hồn thơ và tài năng văn chương lỗi lạc, với nhãn quan vô cùng sâu sắc của một hiền triết am tường chân tướng của thời đại, với tầm vóc và cốt cách của một bậc đại hùng đại đức. Ông đã để lại trên thi đàn Việt Nam cổ kim một tên tuổi bất hủ, đồng thời để lại một trang sử chói lọi chống chính quyền phong kiến thối nát.Mặc dù đại sự “thay đổi thời cục” không thành, Cao Bá Quát đã thực thi một sứ mạng lịch sử: dùng tất cả sức mạnh “hích” lịch sử tiến lên phía trước! Sự phủ nhận triệt để của ông với chính quyền phong kiến đương thời là một sự cảnh báo nghiêm khắc, là lời tiên tri cực kì chuẩn xác: chỉ vài ba năm sau khi ông từ trần, triều đình Tự Đức, vì cố tình cưỡng lại cú hích ấy, không tiếp nhận lời cảnh báo ấy, không chịu lột xác, đã dần đi đến chỗ bại vong, rốt cuộc phải đầu hàng nhục nhã trước thực dân Pháp, chịu để mất nước và trở thành bù nhìn cho kẻ xâm lược.Những trăn trở, đớn đau của Cao Bá Quát với số phận của đất nước ta thời ấy sao mà giống với những trăn trở đớn đau của thi hào Puskin với số phận của nước Nga dưới chế độ Sa hoàng đến thế!Có lẽ vì vậy mà cả hai thiên tài, đồng thời là hai nhân vật anh hùng ấy đều phải ngã xuống vì mũi tên hòn đạn của những thế lực phản động!Tục ngữ Việt Nam có câu: “người đôi ba đấng”. Theo chúng tôi, để tìm hiểu “chân tướng” của một hiện tượng rất lớn lao, phức tạp – hiện tượng Cao Bá Quát – có lẽ phương pháp tốt hơn cả là “giải mã” cái bản chất “đấng” ấy của ông, tức là bản chất tính cách anh hùng của ông phát lộ theo một logic nội tại trải qua các giai đoạn: ra đời, được đào luyện, thử thách trong “lò đời”, và phát triển tới tột bậc. Căn cứ nguyên lí “những người có tài trí lỗi lạc, đức độ bao la, khi đem tài đức ấy thi thố ra việc làm, thì là sự nghiệp, khi thổ lộ ra lời nói, thì là văn chương” (Nguyễn Năng Tĩnh), chúng ta có thể thông qua những áng văn chương ông để lại để nghiên cứu toàn diện về ông.Trên thi đàn Việt Nam kim cổ, ngoài thơ của Nguyễn Công Trứ và một vài thi nhân sau này như Tú Xương, Tản Đà… thơ Cao Bá Quát đã đặc tả cái tính cách anh hùng ấy hết sức đậm nét. Sở dĩ ông làm được điều đó bởi vì ông đích thị là người mang cái tính cách ấy (những thi nhân không có tính cách ấy thì lấy gì mà miêu tả nó?).Một người sinh sau Cao Bá Quát là Phan Bội Châu đã viết:Sinh vi nam tử yếu hi kì,Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di?(Sinh ra làm trai cần phải hiếm, phải lạ,Không lẽ để cho trời đất tự ý xoay vần?)Ngay từ khi còn rất trẻ, Cao đã tỏ ra là một đấng nam tử “hiếm, lạ”. Cái “chí làm trai” của ông đã luôn luôn thôi thúc ông tìm đến hoà mình vào với đất trời cao rộng:Trời đất có núi ấy,Muôn thuở có chùa này.Phong cảnh đã kì tuyệt,Lại thêm ta đến đây.Ta muốn lên đỉnh núiHát vang với nước mây…(Qua núi Dục Thuý) – Ngô Lập Chi dịchNhiều bài thơ biểu đạt cái tráng khí ngất trời của một chàng thanh niên đang nung nấu một lí tưởng cao vời:Ví không sóng gió phũ phàngThì sao biết được dặm trường chí xa?(Từ Thanh Trì buông thuyền xuôi nam) – Trần Huy Liệu dịchSáng lên Hoành Sơn trông,Chiều xuống Bàn Thạch tắm.Nhặt hòn đá mỗi nơi,Núi sông không đầy nắm.(Tắm ở khe Bàn Thạch) – Hoá Dân dịchCùng với thiên nhiên kì vĩ, những tấm gương hiển hách của bao đấng anh hùng trong lịch sử dân tộc đã khích lệ và đào luyện nên khí phách anh hùng của nhà thơ, đúng theo qui luật “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”. Những câu thơ Cao viết về đề tài này thật hùng hồn khác thường:… Phá giặc roi vàng gầm sấm sét,Lên không ngựa sắt lạ xưa nay.Công ghi cõi Việt so trời đất,Oai dẹp quân Ân khiếp cỏ cây.Miếu cũ thông reo khi gió động,Tưởng quân thắng trận trở về đây.(Vịnh Đổng Thiên Vuơng) – Vũ Mộng Hùng dịchTiết cứng, lòng trong, khí phách hùng,Một tay muốn kéo lại vầng hồng.Cô trung sấm sét không sờn chí,Thất trảm yêu ma phải rợn lòng…(Vịnh Chu An) – Vũ Mộng Hùng dịchCon đường lập danh phổ biến nhất của kẻ sĩ đương thời là… thi đỗ ra làm quan! “Ở đời thì phải chiều đời”, Cao đã cố gắng nhập cuộc. Nhưng ác hại thay, chế độ thi cử đương thời không phải là cái thước có thể đo được những tài năng kiểu như Cao (hoặc Tú Xương sau này). Chính vì vậy mà “Thánh Quát” lúc trẻ đã nhiều lần… thi trượt:Đời ta vì chữ danh,Mười năm uổng miệt mài.Một chút tên trên bảngPhờ phạc cả con người…(Viết hôm tiếp được thư nhà) – Hoàng Tạo dịchCó thể nói, những thất bại về khoa cử giống như “những cú đấm đầu tiên” vào tính cách anh hùng của Cao và nó làm cho chàng thanh niên nhức nhối. Thế rồi, do đỗ đạt thấp, Cao chỉ được nhận một chức quan nhỏ: hành tẩu bộ Lễ (chạy việc vặt trong bộ Lễ). Một tiềm năng lớn lao bị cột vào một địa vị nhỏ nhoi vô bổ như vậy, khác nào một chú chim đại bàng bị nhốt chặt trong lồng? Phản ứng lại tình trạng đó là những lời thơ cám cảnh:Cỏ vườn, tên chẳng rõHoa đỏ cháy bên thềm.Có sắc, được người chuộng,Không hương, đời lãng quên.Cành mọc, vẻ xuân đượm,Quả ra, chẳng thể ăn!Nét thanh cao riêng giữ,Xui ta luống thở than!(Cỏ trong vườn) – Kiều Văn dịchCũng như Nguyễn Công Trứ, cái tôi nhân bản của Cao Bá Quát được thể hiện vô cùng sắc nét trong thơ, làm nên “máu thịt” của một dòng văn chương đích thực về con người, đối lập với thứ văn chương ước lệ vô giá trị vẫn thường xuất hiện đầy dẫy trong mọi thời:Đời ta vốn là hơi là bụi,Theo từng cơn gió thổi tơi bời,Đi về chẳng có định nơi,Chỉ trong giữa khoảng đất trời mênh mang.Từ trăm luyện sắt gang cứng rắn,Khí hào hùng một đấng ngang tàng,Lưới đời từ độ vấn vương,Giày vò kể đã nhiều phương giũa mài.Lòng ta vốn một hai phóng khoáng,Nỗi lo buồn bỗng vướng như không,Khác chi chiếc lá vẫy vùng…(…ở ngục Thừa Thiên) – Vũ Mộng Hùng dịchQuả thật con người mang tính cách anh hùng ấy đã bị dằn vặt ác liệt vì không tìm được đường tiến thân:Bãi cát, bãi cát, ngao ngán lòng,Đường phẳng mờ mịt, đường hiểm vô cùng!Nghe ta hát “cùng đồ” một khúc!Phía bắc núi bắc, núi muôn lớp!Phía nam núi nam, sóng muôn đợt!Sao mình anh còn trơ trên bãi cát!(Đoản ca “Đi trên bãi cát”) – Huệ Chi dịch“Anh hùng đa nạn”, chính lúc đang ở bước “đường cùng” ấy thì một tai hoạ lớn ập xuống: Cao bị tù tội chỉ vì lòng “liên tài” (ông đã chữa một chữ trong quyển thi của một thí sinh để cứu thí sinh này khỏi bị rớt uổng). Không còn là chuyện một thư sinh lãnh “những cú đấm” trong thời “thi trượt” nữa, mà là một nhân tài lỗi lạc, một nhân cách cao cả bị một triều đình phong kiến làm nhục, gìm sâu xuống vũng bùn nhơ:…Thân tù nằm sấp, vẻ xanh xám,Như con dê sợ nhìn trước sau…Bị tra tấn mãi miệng cứng đờ…Tiếng quan như sét rường nhà rungÁnh roi như chớp vụt tứ tung,Giơ lên, rồng quật bờ ao lở,Ngừng lại, nước dội nồi canh bồng…(Bài ca “cái roi song”) – Xuân Trang dịchNội dung đặc biệt nổi bật trong thơ Cao Bá Quát là những tâm tư, những nỗi uất hận sâu sắc về thân thế mù mịt, về cảnh sống tù hãm của một con người hào kiệt bất phùng thời. Những lời thơ rướm máu tuôn trào dưới ngòi bút của họ Cao tưởng có thể làm đau đớn đến muôn đời:Con nước mới, giục đêm tàn,Rét đầu mùa tiễn muộn màng cảnh thu.Tháng ngày đôi mắt mịt mù,Giữa đất trời, một anh tù làm thơ.Trông gươm tựa gối bơ phờ,Gọi đèn xem lại xác xơ áo cừu.Xót mình tâm lực cạn đâu,Mà thân giam hãm mối sầu khôn nguôi!(Đêm một mình cảm nghĩ) – Hoàng Trung Thông dịchChết trong nghiên bút, ta nào phải,Sống cậy văn chương, chuyện có rồi.Công mẹ uổng sinh ngoài xứ sở,Thân con thừa gửi giữa trần ai…(sau khi bộ Lễ tra tấn… gượng đau viết) –Khương Hữu Dụng dịchDòng thơ oán hận lệ hoà máu,Chén rượu phân kì hồn dễ say.(Gửi hận) – Hoa Bằng dịchThời gian trôi qua, mối hận lớn đối với thời cuộc càng tích tụ trong lòng, và biến người anh hùng thành một… cuồng sĩ. Chúng ta hãy đọc đôi câu đối của “cuồng sĩ” dán ở nhà dạy học khi ông làm giáo thụ Quốc Oai:Nhà trống ba gian, một thầy, một cô, một chó cái;Học trò dăm đứa, nửa người, nửa ngợm, nửa đười ươi.Với trí tuệ sáng suốt phi thường, Cao Bá Quát nhận thức được rằng hoàn toàn không phải “những rủi ro vụn vặt” tạo nên bất hạnh của đời ông. Trái lại, bất hạnh lớn nhất của bản thân ông cũng như của toàn dân tộc ông chính là không được ở vào một thời đại tốt đẹp như thời Nghiêu – Thuấn (ông gọi thời đại của ông là thời “vô Nghiêu Thuấn”!). Để khẳng định nhận định ấy, ông đã thâm nhập vào cuộc sống của nhân dân ông, kể cả những tầng lớp cùng đinh của xã hội. Và ông đã phát hiện toàn bộ hiện thực xã hội thối nát và đen tối thời Tự Đức. Cũng như trong văn thơ của Nguyễn Du trước kia, trong thơ ông đầy dẫy những hình ảnh bi thương, đau xót của “thập loại chúng sinh”: những người nông dân “môi run, bụng lép, tơi quèn” tát nước trên đồng cao, một cô gái “chịu rét bước qua cầu” vì vừa phải cầm áo để đổi gạo cứu người nhà đang đói lả, những người dân đói đi lĩnh phát chẩn, những người ăn xin…“Những điều trông thấy” ấy, trước kia thi hào Nguyễn Du đã mô tả trong thơ với lòng cảm thương, đau xót. Còn Cao Bá Quát thì khác, ông cũng ghi chép tất cả với lòng thương xót vô hạn, nhưng không chỉ thế, ông còn đặt ra một câu hỏi lớn: tấn bi kịch cuộc đời ấy do đâu mà có? Và những nhà nho, những bậc sĩ phu, những đấng quốc sĩ có trách nhiệm gì với tấn bi kịch đó hay không? Một câu hỏi như vậy chỉ có những ngươi anh hùng mang ý chí dời non lấp biển như Cao Bá Quát mới có thể đặt ra mà thôi! Ông cảnh cáo những kẻ mang “mục dân chi trách” (trách nhiệm chăn dân):Chú bé chăn bọ ngựaBuộc nó bằng sợi dây.Sợi dây quấn chằng chịt,Nó chết trên cành cây…Người dắt dân ta hỡi!Xét kĩ trên lông mày.(Chú bé chăn bọ ngựa) –Hoàng Trung Thông dịchVới lí trí xét đoán tinh tường và tấm lòng ưu thời mẫn thế, ông nhìn rõ cảnh suy vong của đất nước:Bậc nhất phồn hoa kinh khuyết cũCao sâu Nùng, Nhị vẫn sơn hà.Thành trì trơ mấy hồi kim cổ,Phường phố thay bao lớp trẻ già.Tết lạnh cửa hầu, đèn lạt khói,Gió thơm quán rượu, liễu tươi hoa.Hồ Tây khôn nỡ thuyền trăng dạo,Sáo gợi hồn quê rợn bóng tà.(Cảm xúc khi lên thành Thăng Long ngắm cảnh) –Hoàng Tạo dịchCó thể nói, vào những năm cuối đời, trong tâm hồn Cao Bá Quát luôn luôn sôi réo một ngọn lửa cháy ngầm dữ dội… Những câu hỏi thi nhau dằn vặt ông:- Kim cổ miên man tình đất nuớc,Sao mình làm mãi một thi ông?- Dưới thì không ngủ có ta,Trên thì sao sáng lững lờ muốn rơi.- Phí công cầm bút đã mười năm,Lo trước vui sau chí chửa cam.- Trai ba mươi tuổi chẳng nên danh,Mỏi gót chưa nguôi nỗi bất bình…Ca đoạn bảy bài nhìn trở lại,Cau mày thêm giận kiếp phù sinh.- Thái bình một chước chưa thành,Tầm thường nghĩ thẹn cho mình nhà nho.- Muốn khơi cạn nước dòng Tô thuỷ,Rửa sạch cho đời dạ nhớp nhơ…Mặc dù thể chất ông đã suy yếu sau những chặng đời đầy dẫy chông gai, khổ ải, lo buồn, nhưng trong người anh hùng dường như có một sức mạnh nội tại phi thường, đúng như Kinh Dịch đã nói: “Thiên hành kiện. Quân tử dĩ tự cường bất tức” (Trời chuyển vận mãnh liệt. Người quân tử cũng tự làm mạnh mình không ngừng nghỉ). Rốt cuộc cái nhân cách anh hùng của Cao Bá Quát đã đi đến chỗ “cùng”. Ông quyết chối bỏ quá khứ vô nghĩa:Ngán cho mình đóng cửa nhai văn, nhấm chữ bấy lâu rồiSâu đo nọ những đòi đo thế giới!Từ vượt bể qua Ba Sơn đất mới,Bừng mắt trông, ôi sáu cõi mênh mang!Rõ trò chơi từ trước, chuyện văn chương,Khách nam tử ai sống suông bằng sách vở?(Đề sau khúc “Yên đài anh ngữ”…) – Hoàng Tạo dịchÔng đã mô tả cái trạng thái ngột ngạt của một xã hội như đang chờ đợi những biến cố sẽ xảy ra:Mây trôi trôi mãi chưa về,Sớm hôm tất tả chẳng hề được yên.Bỗng đâu trận gió nổi lên,Đưa mây trôi dạt vào miền núi cao.Trần gian đang ngóng mưa rào,Sấm đâu còn ở nơi nào im hơi1(Đám mây trôi) – Nguyễn Văn Tú dịchThế rồi “cùng tắc biến”, tính cách anh hùng hào kiệt của Cao Bá Quát đã loé sáng như một tia chớp giữa bầu trời đen tối của lịch sử. Ông rũ sạch cả món nợ văn chương vô bổ lẫn cái “công danh” đáng phỉ nhổ, oai phong lẫm liệt bước lên chiến luỹ để tuyên bố một cuộc chiến sống mái với triều đình nhà Nguyễn! Những khái niệm “khi quân”, “loạn thần”… thường vẫn làm các nhà nho khiếp hãi và “tránh như tránh tà” thì người anh hùng họ Cao thản nhiên chấp nhận tất! Không nghi ngờ gì nữa, dưới mắt ông, Tự Đức chỉ là một tên vua hề bất lực và vô vị, không thể bén gót ông ở bất cứ phương diện gì. Ông khẳng định phẩm chất cao cường của mình và hoàn toàn tin rằng phải một nhân vật như ông mới có thể cứu vớt được nhân dân khỏi vòng khốn đốn, mới đủ bản lĩnh và tư cách lãnh trách nhiệm “chăn dân”! Mặc dù do hạn chế tất yếu của thời đại, ông chưa tìm được một “chủ nghĩa” đúng đắn, khoa học để đưa đất nước thoát khỏi chế độ phong kiến đã đến hồi tan rã, nhưng tư duy của ông có một nhân tố hết sức đúng: nếu người đứng đầu triều đình không phải một ngu quân mà là một đấng minh quân thật sự thì triều đình ấy tất sẽ lãnh đạo quốc dân tốt hơn gấp bội. Ông chủ trương một cuộc “thay đổi lãnh đạo” theo tinh thần ấy.Năm 1853, cuộc khởi nghĩa Mĩ Lương (thuộc Hà Nội) do ông lãnh đạo đã nổ ra. Tinh thần “thế thiên hành đạo” và triệt để phủ nhận triều đình Tự Đức – một điều hoàn toàn phù hợp với yêu cầu bức xúc của lịch sử dân tộc lúc đó - được thể hiện đầy đủ trong đôi câu đối của ông thêu trên cờ nghĩa:Bình Dương, Bồ Bản vô Nghiêu – Thuấn,Mục Dã, Minh Điều hữu Vũ – Thang.(Bình Dương, Bồ Bản không Nghiêu – ThuấnMục Dã, Minh Điều có Vũ – Thang)Sau nhiều trận đụng độ dữ dội với quan quân triều đình, cuối cùng Cao Bá Quát đã bị trúng đạn và ngã xuống trên chiến trường. Ba họ của ông bị triều đình Tự Đức tru di.Từ một nhà văn hoá với danh hiệu “Thánh Quát”, bỗng chốc trở thành một lãnh tụ nghĩa quân và tử trận trong một cuộc chiến đấu: Cao Bá Quát trở thành một hình tượng anh hùng hiển hách, chói lọi như Spartacus (nước Ý), Pougachev (nước Nga) hoặc anh em nhà Tây Sơn trước kia. Một hình tượng anh hùng kì vĩ như vậy, lịch sử có khi phải thai nghén cả nhiều trăm năm mới sản sinh ra được. Con người kì vĩ đó lại đích thực là một bậc văn chương quán thế cho nên những tác phẩm ông viết ra ắt hẳn phải là những tác phẩm thượng thặng cả về nội dung lẫn nghệ thuật!Sau khi ông chết, tri kỉ của ông là Phương Đình Nguyễn Văn Siêu đã vô cùng thương tiếc khóc ông:Duy biên thư sử, bích biên cầm,Nhất mộng du du thất hảo âm.Sơn hải di tung hà xứ ẩn,Hương quan li hận thử hồi thâm…(Đàn cầm bên vách, sách bên màn,Một giấc miên man bặt tiếng vàng.Non biển chốn nao lưu dấu cũ,Quê hương mấy bận xót li tan…)Kiều Văn dịch Vậy mà, nếu chỉ khảo sát tính cách anh hùng của Cao Bá Quát qua thơ ông như chúng tôi vừa trình bày thì chúng ta vẫn chưa thấy được toàn bích bức chân dung tuyệt diệu của con người ông. Thật vô cùng đáng kinh ngạc: Cao Bá Quát là đấng anh hùng cái thế, nhưng ông đồng thời là một “đệ nhất tao nhân mặc khách” trong đời, một tâm hồn đa cảm, lãng mạn, và một nhà thơ trữ tình lớn! Những áng thơ của ông viết về đề tài “tình cảm cá nhân và gia đình” thật quí vô giá trong nền thơ cổ điển Việt Nam.Là bậc quốc sĩ trọn đời lo lắng về đất nước, ông đồng thời là người của quê hương, là con, là chồng, là cha trong một gia đình Việt Nam bình thường với những tình cảm vô cùng thắm thiết. Ông thú nhận ông không thuộc hạng “thánh nhân vong tình”:Vong tình riêng những thẹn không hay,Vui, xót, lòng ta rộn bấy chầy.Mảnh kính còn phong niềm biệt cũ,Ngọn đèn không tỏ mối sầu tây.Hồn quê bên gối ba canh dõi,Hoa tuyết trong khăn một tối dày…(Từ biệt người nhà…) – Nguyễn Văn Bách dịchLà “lữ khách xa nhà”, nhà thơ đã bao phen phải “thổn thức gan vàng” mỗi khi được nghe chuyện quê hương, làng xóm, gia đình:Lặng lẽ nhìn nhau gạt lệ dồn,Rì rầm chưa dứt chuyện trong thôn.Cha già mạnh khoẻ thương con vắng,Bé dại mừng vui biết bố còn…(Thấy người ngoài Bắc vào, nhân hỏi chuyện quê) –Hoá Dân dịchSau khi bị nếm đủ mùi cay đắng của cuộc đời, thoát cảnh gông cùm, ông lê gót trở về quê hương và “ngã vào lòng gia đình” như sau:Mái tóc bơ phờ sự chẳng dè,Trở về nay lại thấy làng quê.Điếm Cây gạo đó sương vừa ngớt,Hồ Ngựa trời đây nắng chửa hoe.Hàng xóm xôn xao dồn chuyện hỏi,Mẹ già mừng tủi thấy con về.Đời gian nan mãi từ nay hối,Bàn chuyện xa nhà dạ những e.(Về đến nhà) – Nguyễn Văn Tú dịchNhững vần thơ ông dành cho vợ thật là âu yếm nhưng thường là tràn đầy nước mắt vì vợ chồng ông phải hứng chịu biết bao nghịch cảnh khe khắt nhất của cuộc đời:…Người viễn tái, kẻ cô phòng,Tương tư ai chẳng não lòng như ai!(Mưa dầm suốt đêm cảm tác) – Hoàng Tạo dịchTựa gối, vợ đần tung tóc chải,Lôi tay, con nhỏ ngã đầu nằm…(Trong lúc ốm) – Nguyễn Quí Liêm dịchTrước đèn thư mở, lệ muôn hàng,Hồn gửi phòng the luống vấn vương!… Áo mền ủ ấm bao tình tứ,Bút mới dầm tan mọi thảm thương!Rồi nữa nhà Lai, khi trở lại,Bước vào mừng có bạn tao khang.(Tiếp thư vợ gửi áo rét…) – Nguyễn Quí Liêm dịchChắc chắn Cao Bá Quát là một người hiểu thấu chân giá trị tình yêu nhân bản của tất cả giống người trên khắp trái đất. Chính vì vậy, có lẽ ông là nhà thơ Việt Nam đầu tiên, ngay từ giữa thế kỉ XIX đã “cảm” được thứ “tình yêu phương Tây” mà phần đông các nhà nho lúc ấy cảm thấy... nghịch mắt! Thật hiếm thấy trong thơ chữ Hán một bài thơ mang “tứ mới lạ” như thế này:Thiếu phụ Tây dương áo trắng phau,Tựa vai chồng dưới bóng trăng thâu,Ngó thuyền Nam thấy đèn le lói,Kéo áo rì rầm nói với nhau.Hững hờ cốc sữa biếng cầm tay,Gió bể đêm sương thổi lạnh thay!Uốn éo đòi chồng nâng đỡ dậy,Biết đâu nỗi khách biệt li này!(Dương phụ hành) – Lê Tư Thục dịchCao Bá Quát cũng có những bài thơ viết về con cái mà ngày nay đọc lại, chúng ta vẫn thấy cảm động:Đôi trẻ nhà ai đóThỏ thẻ bước khoan thai.Quên tình nào mấy kẻ?Ta nhớ con ta hoài,Khi quấy mẹ, kêu đói,Lúc học ông, vái người…(Nỗi nhớ) – Hoá Dân dịchNhà xa bệnh lại dày vò,Nhớ con hằng nén xót chua nghẹn ngào.Đêm qua bỗng thấy chiêm bao,Gặp con, giọt lệ tuôn dào như mưa.Áo đơn lạnh lẽo xác xơ,Ủ ê nét mặt, bơ phờ hình dung.Tuy nghèo, dưa muối đủ dùng,Đắng cay con hãy về cùng với cha!(Chiêm bao thấy con gái đã mất) – Nguyễn Văn Bách dịchThơ Cao Bá Quát còn cho thấy ông là một đấng tao nhân mặc khách hay rượu, hay thơ và yêu thiên nhiên một cách vô cùng say đắm nhưng với phong cách rất “Cao Bá Quát”: phóng khoáng, lãng tử, mạnh mẽ, táo bạo!Ta muốn lên đỉnh núiHát vang với nước mây.(Qua núi Dục Thuý) – Ngô Lập Chi dịchSông tựa dải là cô gái đẹp,Núi như chén ốc khách làng say.(Dọc đường Ninh Bình) – Vũ Mộng Hùng dịchChao đảo lòng xuân khôn cầm nổi,Tây Hồ đây thật một Tây Thi!Mươn mướt nét mày, cơn sóng dịu,Lả lơi dải lụa, cỏ đương thì.(Tứ tuyệt chơi Hồ Tây) – Kiều Văn dịchThậm chí nhà tài tử còn nảy ra một ý “ngông” như sau:Ước ao quả động to kiaCó ai chịu khó khênh về cho taĐể bày những chỗ lại qua,Hồ Tây, Phượng Chuỷ cùng là Châu Long.(Chơi động Tiên Lữ) – Hoa Bằng dịchQua những phân tích trên, chúng ta thấy: Cao Bá Quát đích thực là một con người viên mãn và ưu việt trước khi là nhà thơ. Và chính sự viên mãn, ưu việt ấy đã quyết định tính ưu việt của thơ ông, đã khiến ông được đời suy tôn bằng một danh hiệu cao quí “Thánh Quát”!Tóm lại, chúng ta chỉ có thể hiểu được thơ Cao Bá Quát trên cơ sở tìm hiểu bản chất con người ông và lịch sử cuộc đời ông. Cũng giống như các trường hợp của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ…, con người ông, đời ông là một với thơ ông và quyết định phẩm chất thơ ông cả về nội dung lẫn nghệ thuật. Điều đó phân biệt ông với những “thi nhân”… rởm, suốt đời chỉ làm thơ trên “đầu môi chót lưỡi” bằng cách học mót nghệ thuật thơ của thiên hạ, bởi vì họ bị thiếu những cái vốn không thể thiếu đối với một người làm thơ: một con nguời đích thực và một cuộc đời đích thực!Cao Bá Quát hiểu hơn ai hết về “nguyên lí sáng tạo thơ” ấy, và ông đã rung chuông cảnh cáo các “thời bệnh”: kẻ kém cỏi thì làm thơ dễ dãi, kẻ có sức học dồi dào một chút thì mô phỏng quá nhiều mà phong cốt chưa cao, tô điểm có khéo nhưng tinh thần còn thấp… (Đề cuối tập thơ của Miên Thẩm). Ông cực lực phê phán những kẻ làm thơ chỉ cốt “ham khoe nhiều những điều… không quan hệ gì đến tính linh cả” (nói theo ngôn ngữ bây giờ, đó là thứ “thơ không hồn”).Bất luận viết về đề tài nào, thơ Cao Bá Quát cũng chứa chất cái “hồn” và cái khí lực rất mạnh mẽ của tinh thần ông. Vì vậy, nghệ thuật thơ của ông có phong cách rất gần với thơ Nguyễn Gia Thiều, hay thơ Hàn Mạc Tử sau này: đó là thứ thơ huyết lệ. Ông luôn vứt bỏ không khoan nhượng tất cả những gì “không phải thơ” cho dù chúng được người đời ưa chuộng, sùng bái đến mấy. Và chính vì luôn sáng suốt nhìn ra được những yếu tố đích thực là thơ mà ông có được những sáng tạo kì diệu như bài thơ “tả chân” sau đây:Sương nặng gầu đôi mới kéo lên,Môi run, bụng lép, chiếc tơi quèn.Ven đê cỏ vỡ ngoài trăm dặm,Dăm thước vừa gieo mạ ruộng trên.(Thợ tát nước trên đồng cao buổi sáng) – Khương Hữu Dụng dịchRõ ràng bài thơ này (cũng như bài Dương phụ hành) có thể được coi là những bài thơ tiên khu của dòng thơ hiện thực trữ tình sẽ phát triển mạnh mẽ vào nửa đầu thế kỉ XX, nhất là trong thời kì Thơ Mới. Cao Bá Quát đã đi trước thời đại mình đến gần một thế kỉ! Thiên tài thơ của ông thật đáng khâm phục biết bao!
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ SaìGòn ngày 28.02.2011.
. Trích đăng lại vui lòng ghi rõ nguồn newvietart.com
Nhận xét
Đăng nhận xét