Thứ Sáu, 16 tháng 10, 2015

BÍ ẨN ĐƯỜNG ĐỜI 5

-Mọi người đều mù quáng đi trên con đường đời của mình! Vì đố ai thấy chính xác con đường ấy!
-Đường đời riêng đã không thấy thì làm sao thấy được đường đời chung, tức định mệnh của nhân loại?
-Chỉ toàn suy đoán và tưởng tượng thôi! Vì vậy, hãy thận trọng trước những " tiên tri" về xã hội!

-----------------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)

Đại nguyên soái tự phong Stalin - lãnh tụ tối cao của đế chế cộng sản Liên bang Xô Viết giai đoạn 1922-1953 

-http://dandensg.blogspot.com/2014/11/ai-nguyen-soai-tu-phong-stalin-lanh-tu.html 



Bức thư bí mật Stalin gửi thầy giáo của con trai


    Không những là một nhà lãnh đạo nổi tiếng thế giới, I.Stalin còn là người cha, một người biết cầu thị khi đã trực tiếp viết bức thư bí mật cho thầy giáo của con trai mình.
    Trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại (1941-1945) chống phát xít Đức, Iosif Stalin - nhà lãnh đạo tối cao của Liên Xô đã cho 2 người con ruột và cậu con nuôi của mình ra mặt trận, trực tiếp chiến đấu chống lại quân thù.
    Người con trai đầu Yakov Dzhugashvili (con trai với bà vợ đầu tiên - Ekaterina Svanidze) sinh năm 1907, đã chiến đấu trong lực lượng Pháo binh, rồi bị bắt làm tù binh trong một trận đánh gần thành phố Smolensk cửa ngõ phía tây của nước Nga.
    Theo nhiều tài liệu, Stalin đã từ chối đề nghị đổi con trai mình lấy Thống chế Đức Friedrich Paulus bị Hồng quân Liên Xô bắt sống tại trận Stalingrad. Năm 1943, Yakov bị mất trong trại tập trung của quân Đức.
    Người con trai thứ hai là Vasily Iosifpovich Stalin là một phi công chiến đấu, đã lập nhiều chiến công hiển hách.
    Con nuôi của ông là Artyom Fedorovich Sergeyev đã trở thành một sĩ quan pháo binh, chiến đấu dũng cảm, bị bắt làm tù binh và sau đó mưu trí vượt ngục để trở về đội ngũ.
    Bức thư bí mật Stalin gửi thầy giáo của con trai
    I.Stalin và hai con Vasily và Svetlana.
    Cậu con trai “trái tính trái nết”
    Vasily Iosifpovich Stalin là con trai của Stalin với người vợ thứ hai, bà Nadezhda Alliluyeva. Vasily sinh ngày 24/3/1921 tại bệnh viện Kremli, thủ đô Moskva. Vasily có một em gái là Svetlana Alliluyeva (sinh năm 1926).
    Sau khi vợ mất (1932), Stalin chuyển các con từ điện Kremli về nhà nghỉ ở Zubalov và do bận bịu công việc của người đứng đầu nhà nước Liên Xô, mọi việc chăm sóc con cái ông đều nhờ vú nuôi và các nhân viên an ninh, đứng đầu là tướng Nikolai Vlasik đảm nhiệm.
    Nhờ các tư liệu giải mật sau này, chúng ta biết thời kỳ đó, Stalin và các con trao đổi với nhau chủ yếu qua đường thư tín. Ngoại trừ những cuộc gặp ít ỏi, do quá bận, Stalin biết tin về các con chủ yếu qua các báo cáo của lực lượng an ninh.
    Ngày 5/5/1937, Chính phủ Liên Xô quyết định thành lập các trường thiếu sinh quân đặc biệt. Đầu vào của trường là các em học sinh lớp 8, 9, 10 được tuyển chọn kỹ càng và theo học chương trình phổ thông trung học cùng các môn học chuyên ngành.
    Mỗi lớp học có khoảng 25-30 em. Theo nhiều tài liệu, Artyom Fedorovich Sergeyev, con nuôi của Stalin cùng con trai thứ của Stalin là Vasily (cùng sinh năm 1921) đã nhập học trường Thiếu sinh quân pháo binh đặc biệt số 2, ở Krasnaya Presnya (Moskva). Trường có nhiệm vụ đào tạo các thiếu sinh quân trở thành chính ủy tương lai trong lực lượng pháo binh
    Vào nửa cuối thập niên 30, để con cái trưởng thành trong quân ngũ là mơ ước của hàng triệu gia đình Liên Xô. Ai cũng hy vọng môi trường quân đội sẽ giúp con mình khỏe mạnh, sống có tổ chức, kỷ luật.
    Thời đó, trong dân gian đã lan truyền những câu ca: "Thông minh vào pháo binh, Bảnh bao vào kỵ binh, Lãng tử vào hải quân, Còn lại vào bộ binh”. Pháo binh, khi đó là số 1, như ở bên ta “nhất y, nhì dược” một thời.
    Vasily Stalin, sau những cú sốc tinh thần (mẹ cậu là Nadezhda Alliluyeva tự tử năm 1932, khi cậu 11 tuổi) đã trở nên một con người khác. Cậu đã rời bỏ trường phổ thông số 175 dành cho con em lãnh đạo, xin vào trường Thiếu sinh quân.
    Ở ngôi trường này, được nuông chiều bởi là con trai của lãnh tụ tối cao, “ngựa quen đường cũ”, Vasily tiếp tục lười học và nghịch phá, bất tuân kỷ luật. Nhưng mọi thông tin về cậu con trai của mình, Stalin không biết, bởi các nhân viên an ninh và Ban giám hiệu nhà trường giữ kín như bưng.
    Sau này, Vasily Stalin có viết lại về quãng đời đó của mình:
    “Khi còn nhỏ, tôi đã không còn mẹ và không có điều kiện được bố kèm cặp, dạy bảo thường xuyên, tôi sống và lớn lên trong vòng bảo vệ của những người đàn ông là nhân viên an ninh, không được dạy bảo về luân lý và tính nhẫn nại. Chính điều này đã để lại dấu ấn lên tính cách và quãng đời sau này của tôi”.
    Một thầy giáo dạy môn Lịch sử của trường, sau khi chứng kiến “cậu ấm” của Stalin sa sút trầm trọng với sự nuông chiều vô lối của Ban giám hiệu, đã dũng cảm viết thư “tố cáo” với Stalin, một việc làm khá “tày trời” thời đó.
    Đó là thầy giáo Vladimir Vasilevich Martyshkin.
    Và một điều bất ngờ đã xảy ra: Dù bận trăm công nghìn việc, Stalin đã viết thư trả lời thầy giáo Martyshkin và yêu cầu được giữ kín nội dung.
    Bức thư này tưởng như đã chìm sâu vào quên lãng.
    Nhưng không, báo “Giáo viên” (Uchitelskaya Gazeta) của Liên Xô, số 17 năm 1991 đã đăng bài báo của O.Martyshkin-con trai của thầy giáo Martyshkin cho biết gia đình ông vẫn giữ bức thư Stalin gửi ngày 8/6/1938 cho thầy giáo dạy môn lịch sử của con trai mình.
    Bức thư bí mật Stalin gửi thầy giáo của con trai
    Vasily Stalin trên khoang lái máy bay Yak-9 trong thời kỳ chiến tranh.
    Bức thư được yêu cầu giữ kín
    O.Martyshin viết trong bài báo của mình:
    “Bố tôi, Vladimir Vasilevich Martyshkin vào cuối thập niên 30 dạy môn lịch sử ở trường (thiếu sinh quân pháo binh đặc biệt) số 2, và một trong những học trò của ông là Vasily Stalin.
    Bố tôi cho rằng, cậu bé cũng có năng lực, nhưng cậu hay nghịch ngợm, thường tận dụng vị thế của mình để giải quyết các vấn đề trong trường. Cậu có thể im thin thít khi được hỏi, còn khi nhận điểm kém thường dọa là sẽ tự tử.
    Bố tôi không cho mình quyền đối xử với con trai Stalin khác với các học trò trong lớp, cho cậu điểm 2 vào cuối năm học. Tôi không rõ là Vasily có báo cho thầy hiệu trưởng biết điều này hay là ông ấy tự biết do theo dõi.
    Ngay sau đó, hiệu trưởng đã gọi bố tôi lên và yêu cầu ông tự tay sửa điểm, từ 2 thành 4 điểm (thang điểm học ở Liên Xô, điểm 5 là cao nhất-NV). Bố tôi thẳng thừng từ chối. Khi đó, trước mặt bố tôi, hiệu trưởng đã cầm bút sửa điểm và ít lâu sau, bố tôi bị đuổi việc.
    Khi đó, tìm được việc làm ở Moskva là điều không thể. Phải nuôi 2 con nhỏ, tình trạng của bố tôi khi đó cực kỳ tồi tệ. Không biết phải cầu cứu ai, ông liền quyết định viết thư cho Stalin.
    Bức thư đó chúng tôi không được biết nội dung, hy vọng nó vẫn còn được lưu giữ đâu đó trong các kho lưu trữ. Tôi chỉ biết, trong thư, bố tôi kể hết về sự dối trá, sự quỵ lụy của mọi người trước Vasily trong trường học.
    Mùa hè năm 1938, gia đình chúng tôi sống ở vùng Udelnaya dọc tuyến xe lửa Kazan. Một lần, có chiếc ô tô phóng đến. Hai người đàn ông bước xuống, vẻ quan trọng, nói họ muốn gặp thầy giáo Martyshkin.
    Mẹ tôi đáp ông đang vào thành phố, sắp về rồi và mời họ vào nhà ngồi đợi. Tuy nhiên, các vị khách từ chối và vào xe ngồi chờ. Có thể dễ hình dung là khi đó mẹ tôi lo lắng biết nhường nào trong suốt 2 tiếng chờ bố về. Tôi nghĩ, chắc mẹ đang lo bố sẽ bị bắt.
    Khi bố về, 2 người đàn ông mời luôn ông vào xe, chắc không muốn có ai nghe thấy nội dung cuộc nói chuyện. Nhưng thay vì chở ông đi mất tích, họ chuyển cho bố tôi bức thư của Stalin. Họ còn nói tác giả bức thư không muốn nội dung được công khai cho nhiều người biết.
    Đã hơn nửa thế kỷ trôi qua, không còn ai chứng kiến sự việc này còn sống. Điều này cho phép tôi đã đến lúc công bố một tư liệu quý giá.
    Bức thư của Stalin được ông viết tay, trên giấy chắc được xé ra từ một cuốn sổ cỡ vừa, khoảng một trang rưỡi. Còn đây là nội dung:
    Gửi thầy giáo Martyshkin!
    Tôi đã nhận được bức thư của thầy về những trò lố của cháu Vasily Stalin. Xin cảm ơn thầy đã gửi thư.
    Sở dĩ tôi viết trả lời thầy muộn, là do công việc quá nhiều. Tôi xin lỗi thầy về điều đó.
    Con trai tôi, Vasily là một thanh niên hư hỗn, có năng lực rất bình thường, là một đứa tự kỷ, thường nói dối, ưa dọa nạt những kẻ yếu, hay trơ tráo, với tư chất yếu đuối, nói đúng hơn, là vô tổ chức.
    Chính những kẻ dung dưỡng, luôn tâm niệm đó là “con trai Stalin” đã làm hư cháu.
    Tôi mừng, vì nhờ thầy mà tôi biết vẫn còn một giáo viên có lòng tự trọng, đối xử với cháu Vasily như với tất cả học trò khác, và yêu cầu đứa trò ngỗ ngược đó phải tuân theo quy chế chung của trường học.
    Chính các hiệu trưởng, như thầy đã đề cập, là dạng người chẳng ra sao, đã làm hư cháu Vasily. Dạng người đó không xứng có mặt trong trường học, và nếu như cháu Vasily vẫn chưa kịp tự giết mình, là bởi ở đất nước chúng ta vẫn còn có những giáo viên không nỡ để cho đứa học trò “con ông cháu cha”, tính khí thất thường đó trượt dài thêm nữa.
    Tôi có một lời yêu cầu: Đề nghị thầy cần nghiêm khắc hơn với Vasily và thầy đừng sợ bất cứ lời đe dọa “tự tử” nào của đứa học trò trái tính trái nết này.
    Nếu làm vậy, thầy sẽ luôn được tôi ủng hộ.
    Thật tiếc là chính tôi cũng không có điều kiện gần gũi với Vasily. Nhưng tôi hứa với thầy dần dần tôi sẽ đưa cháu vào khuôn khổ.
    Xin chào thầy!
    I.Stalin, ngày 8/6/1938
    Điều kỳ diệu đã xảy ra. Nỗi sợ hãi và căng thẳng của bố mẹ tôi ngay lập tức được giải tỏa. Tất nhiên là bố mẹ tôi rất vui mừng vì sự công bằng đã được phục hồi, bằng một cách bất ngờ nhất.
    Bố mẹ tôi không phải chờ lâu. Bố tôi ít lâu sau đã được nhận trở lại trường. Giữa ông và Vasily sau đó có quan hệ khá là tốt đẹp.
    Bay lên, Vasily!
    Đó cũng nhan đề của một bộ phim tài liệu về Vasily Stalin do kênh 1 của Nga sản xuất. Bộ phim nói về sự trưởng thành của người con trai thứ của Stalin, một thời đã từng là học sinh cá biệt.
    Các tài liệu được giải mật sau này của Liên Xô cho biết, sau khi nhận được thư của Stalin, thầy giáo Martyshin còn viết thêm một bức thư khác nữa gửi nhà lãnh đạo đất nước (gửi sau ngày 5/7/1938). Qua nội dung, chúng ta có thể biết sau khi Stalin gửi thư vài ngày, thầy giáo Martyshin đã được nhận lại về trường. Bức thư có đoạn:
    “Đã nhiều lần tôi nói với các đồng nghiệp là cần phải cho đồng chí biết sự thật về chuyện học hành của cháu Vasily, nhưng họ đáp “Nếu đồng chí Stalin biết, cũng chả có ích gì, nếu không còn nguy hiểm ấy chứ”, hoặc “Anh im đi. Sự im lặng tô điểm thêm cho tuổi trẻ của anh đấy”...
    Xin lỗi đồng chí vì sự làm phiền, nhưng tôi không thể giấu đồng chí một quan sát của riêng tôi: Đó là Vasily luôn cảm thấy đau đớn, ân hận vì những điều đã làm phiền lòng người bố mà cháu yêu thương hết mực.
    Có một lần, khi tâm sự với tôi, Vasily có nói là cháu sẵn sàng làm tất cả những gì để lấy lại sự tin tưởng của bố, để được gần gũi với bố hơn”.
    Và Vasily Stalin đã không phụ lòng tin cậy của bố. Sau khi tốt nghiệp trường Thiếu sinh quân, Vasily vào học tại trường Không quân Kacha ở Crưm, tốt nghiệp xong anh phục vụ trong lực lượng không quân.
    Trong Chiến tranh vệ quốc vĩ đại, Vasily Stalin đã dũng cảm tham gia 26 trận không chiến và bắn rơi 2 máy bay địch, được tặng thưởng huân chương Suvorov hạng nhì, huân chương Cờ Đỏ và huân chương Aleksandr Nevsky.
    Sau chiến tranh, Vasily Stalin có thời kỳ là Tư lệnh Lực lượng Không quân phòng thủ Moskva. Vasily Stalin mất năm 1962, khi mới 41 tuổi.
    Theo Phạm Việt Hùng/Tiền Phong

    Điều chưa biết về người con trai thứ hai của Stalin

     

    Ngay sau khi lãnh tụ J. Stalin từ trần vào đầu tháng 3/1953, những thế lực cơ hội đã tìm cách hãm hại người con trai của ông.

    Nhân kỷ niệm 135 năm ngày sinh của Đại nguyên soái Joseph Stalin (18/12/1878 - 18/12/2013), trên kênh 1 Đài Truyền hình Trung ương Nga trình chiếu một bộ phim tư liệu truyền hình nhiều tập. Bộ phim có nhan đề "Con trai Người cha của các dân tộc", nói về thân thế và sự nghiệp của Trung tướng Vasily Stalin (1921 - 1962), người con trai thứ 2 của nhà lãnh tụ Xô viết, từng đảm nhiệm chức vụ Tư lệnh Không quân của Quân khu Moskva sau Thế chiến thứ II.
    Đây là bộ phim truyền hình hợp tác giữa Nga và Ukraina, đề cập tới tiểu sử thăng trầm của Tướng V. Stalin ít nổi tiếng hơn so với người anh trai cùng cha khác mẹ là Trung úy Yakov Dzhugashvili (1907-1943), từng bị quân phát xít Đức bắt làm tù binh và đề nghị đổi lấy Thống chế Đức Friedrich Paulus bị Hồng quân Liên Xô bắt sống tại mặt trận Stalingrad. Do Stalin cương quyết từ chối nên Y. Dzhugashvili đã bị quân thù hèn hạ thủ tiêu.
    Thủ vai V. Stalin là diễn viên Tây Ban Nha 27 tuổi Gela Meshi, một ngôi sao đang lên của điện ảnh nước này, đồng thời cũng là người mang 2 dòng máu Nga - Gruzia như V. Stalin lúc sinh thời.
    Chào đời ngày 24/3/1921 tại thủ đô Moskva, với tên khai sinh đầy đủ là Vasily Iosifovich Dzhugashvili, V. Stalin là con đầu của J. Stalin với người vợ thứ 2 Nadezhda Alliluyeva, sau khi bà vợ đầu Ekaterina Svanidze mất lúc Y. Dzhugashvili mới được 9 tháng tuổi. Còn bà N. Alliluyeva cũng nhắm mắt xuôi tay vào tháng 11/1932, khiến J. Stalin lâm vào cảnh "gà trống nuôi con", do vậy tình thương của người cha càng thêm mãnh liệt hơn…
    Nhưng khi Thế chiến thứ II bùng nổ, không như giới lãnh đạo chóp bu ở các nước khác, lãnh tụ Stalin quyết định cả 2 người con trai của mình đều phải ra mặt trận cầm súng chống quân thù. Anh cả Y. Dzhugashvili chiến đấu trong lực lượng Pháo binh, rồi bị bắt làm tù binh trong một trận đánh không cân sức gần thành phố Smolensk cửa ngõ phía tây của nước Nga.
     Trung tá V. Stalin lái máy bay chiến đấu bảo vệ bầu trời Moskva trong Thế chiến thứ II.
    Về phần V. Stalin xung phong vào Không quân, lần lượt tham gia các trận đánh then chốt của Hồng quân như bảo vệ Moskva và Stalingrad (nay là Volgagrad), giải phóng Belarus và Ba Lan, rồi tổng công kích quân Đức Quốc xã tại sào huyệt cuối cùng của chúng là thủ đô Berlin. Trong các trận không chiến gìn giữ bầu trời của Tổ quốc, Trung tá V. Stalin đã bắn rơi 2 máy bay tiêm kích và cường kích của quân phát xít. Đến cuối năm 1942, ông được phong hàm Đại tá Không quân.
    Sau khi Thế chiến thứ II kết thúc, Đại tá V. Stalin được trao nhiều phần thưởng, huân, huy chương cao quý, cũng như với kinh nghiệm trực tiếp chiến đấu đã được Ban lãnh đạo Bộ Tư lệnh Đặc khu Thủ đô (nay là Quân khu Moskva) đề cử giữ chức Tư lệnh Lực lượng Không quân phòng thủ Moskva. Đồng thời ông cũng được đề nghị thăng hàm cấp tướng để tương xứng với chức vụ mới.
    Theo quy chế lúc ấy thì cấp tướng trong lực lượng vũ trang Xôviết phải được đích thân Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng J. Stalin ký duyệt bổ nhiệm. Do con trai đầu đã hy sinh nên J. Stalin dồn hết tình thương của mình cho V. Stalin, tuy vậy nhà lãnh tụ đã nhiều lần gác lại việc phong hàm tướng cho con bởi "phải trau dồi phẩm chất cùng tích lũy kinh nghiệm nhiều hơn nữa", như nguyên văn bút phê của Stalin kèm ký tự gạch chéo bằng mực đỏ xóa tên của V. Stalin trong danh sách dự kiến phong cấp tướng định kỳ.
    Mãi tới giữa năm 1946, Đại tá quyền Tư lệnh Không quân Moskva mới được phong hàm Thiếu tướng để trở thành Tư lệnh chính thức. Đến đầu năm 1948, ông được thăng lên Trung tướng Tư lệnh lực lượng Phòng không Không quân của Quân khu Moskva. Đồng thời tướng V. Stalin cũng thân chinh đứng ra thành lập 2 đội bóng đá và khúc khôn cầu đại diện Quân khu Moskva, từng giành được thứ hạng cao trong các giải đấu quy mô toàn Liên bang.
     Một cảnh của bộ phim truyền hình được đông đảo khán giả theo dõi.
    Một sự việc nữa chứng tỏ đức tính đáng ca ngợi của lãnh tụ Stalin, bất chấp các thế lực sau này vì mục đích hèn hạ cố tình làm hoen ố hình ảnh của nhà lãnh đạo kiên cường. Chủ tịch J. Stalin cương quyết cách chức con trai ruột, sau khi xảy ra sự cố tai nạn tại cuộc trình diễn phi cơ quân sự thường niên ở sân bay Tushino vào tháng 7/1952, tuy V. Stalin không trực tiếp chỉ đạo sự kiện này. Sau đó ông phải chuyển về Học viện Quân sự Trung ương, trở thành một giảng viên bình thường của Khoa Huấn luyện Không quân.
     V. Stalin cùng cha và em gái Svetlana.
    Ngay sau khi lãnh tụ J. Stalin từ trần vào đầu tháng 3/1953, những thế lực cơ hội đã tìm cách hãm hại người con trai của ông. Chỉ nội 3 tuần lễ sau, Tướng V. Stalin đã bị Bộ trưởng Quốc phòng Nikolai Bulganin "không cho mang quân phục cấp tướng nữa, do hình thức kỷ luật trước đây của Stalin còn quá nhẹ"(?!), như sử sách quân sự từng ghi lại.
    Tới cuối tháng 8/1954, Tướng V. Stalin chính thức bị tước quân tịch và phải ra Tòa án binh, dựa trên những bằng chứng vô căn cứ, tòa đã tuyên phạt ông mức án 8 năm tù giam về tội "tiết lộ bí mật nhà nước và làm mất uy tín của lãnh đạo cao cấp".
    Sau 7 năm ngồi tù dưới một cái tên khác để bạn tù khỏi phát hiện ra, trước sự phản đối của những cán bộ trung kiên từng làm việc dưới quyền lãnh tụ Stalin, tháng 4/1961, V. Stalin được tha trước thời hạn, đồng thời được phục hồi cấp bậc và được hưởng phụ cấp là 300 rúp/tháng, tương đương mức lương cấp tướng. Nhưng điều nghiệt ngã hơn là con trai của Stalin bị cấm cư trú vĩnh viễn tại Moskva và Gruzia quê hương, cũng như không được mang họ Stalin "cha sinh mẹ đẻ" nữa.
    Trong những năm cuối đời, V. Stalin sống cùng vợ con tại thành phố Kazan, thủ phủ nước Cộng hòa tự trị Tatarstan, rồi mất tại đây vào ngày 19/3/1962, thọ 42 tuổi.
    Theo An ninh thế giới

    Lý giải sự tàn bạo của Stalin

    Print Friendly
    stalin
    Tác giả: Anne Applebaum | Biên dịch: Lương Khánh Ninh
    Kho lưu trữ hồ sơ của Nga hé lộ rằng Stalin không phải là một kẻ điên rồ mà là một nhà lý luận tài tình và duy lý đến mức không gì lay chuyển được.
    Làm sao mà Stalin đã trở thành Stalin? Hay nói một cách chính xác hơn: làm thế nào mà Iosif Vissarionovich Djugashvili – cháu của hai người nông nô, con của một người phụ nữ làm nghề giặt quần áo và một thợ sửa giầy – đã trở thành Nguyên soái Stalin, người chịu trách nhiệm cho những vụ giết người hàng loạt dã man nhất mà thế giới từng biết đến? Làm sao mà một cậu bé sinh ra tại một thị trấn vùng núi heo hút ở Gruzia đã trở thành một nhà độc tài nắm quyền kiểm soát một nửa châu Âu? Làm sao mà một chàng thanh niên mộ đạo, người đã chọn theo học để trở thành một linh mục, lại trở thành một người nhiệt thành với chủ nghĩa vô thần và một người theo chủ nghĩa Marx?
    Chịu ảnh hưởng của Freud, nhiều nhà viết tiểu sử tham vọng – chưa kể đến những nhà tâm lý học, triết gia hay sử gia – đã tìm kiếm câu trả lời cho các câu hỏi này dựa trên thời thơ ấu của Stalin. Giống như sự cuồng tín của Hitler được “giải thích” dựa trên nền tảng giáo dục, đời sống tình dục hay tinh hoàn được cho là chỉ có một bên của ông ta, sự tàn bạo mang hơi hướng tâm thần của Stalin được quy cho người cha của ông, người được chính Stalin miêu tả là “đã đánh đập ông ta không thương tiếc,” hay cho người mẹ vốn có thể đã ngoại tình với một vị linh mục địa phương. Những kiến giải khác đề cập đến một tai nạn khiến cho tay phải Stalin bị teo lại, việc ông bị bệnh đậu mùa làm cho khuôn mặt ông trở nên đầy sẹo, hay khiếm khuyết từ khi sinh ra khiến hai ngón chân của bàn chân trái dính vào nhau – dấu hiệu của quỷ dữ.
    Chính trị cũng có tác động đến những người viết tiểu sử Stalin. Trong cuộc đời Stalin, những người ủng hộ đã biến ông ta thành một siêu anh hùng nhưng những người phản đối cũng áp đặt thành kiến của họ với ông. Leon Trotsky, đối thủ nguy hiểm nhất của Stalin, là một người đưa ra kiến giải về Stalin có tầm ảnh hưởng nhất cho đến giờ, qua đó định hình quan điểm của một thế hệ sử gia từ Isaac Deutscher trở đi. Stalin trong con mắt của Trotsky là một người trí tuệ hạn chế và tâm hồn u ám, là một anh tỉnh lẻ không có giáo dục đã thâu tóm quyền lực nhờ thao túng chính trị và bạo lực đẫm máu. Trên hết, theo Trotsky, Stalin là kẻ ban đầu đã phản bội Lenin và sau đó là sự nghiệp của chủ nghĩa Marx. Đây là những phác họa về Stalin nhằm truyền cảm hứng cho những người theo chủ nghĩa Trotsky tiếp tục trung thành với một dạng thức cách mạng Xô-viết mà “đã có thể xảy ra” nếu như người lên nắm quyền là Trotsky chứ không phải là một Stalin ảm đạm, thận trọng và luôn nghi ngờ.
    Kể từ khi kho lưu trữ Liên Xô mở cửa từ những năm 1990, những bản mô tả mang màu sắc chính trị và tâm lý học kể trên về cuộc đời Stalin bắt đầu bị phủ nhận. Chính trị vẫn có ảnh hưởng đến việc ông được công chúng nhớ đến như thế nào: những năm gần đây, các nhà lãnh đạo Nga đã làm nhẹ đi những tội ác của Stalin đối với chính người dân của ông ta và tổ chức lễ kỷ niệm cuộc chinh phạt châu Âu do ông tiến hành. Tuy nhiên, sự sẵn có của hàng ngàn tài liệu mật một thời và nhiều thư từ cũng như hồi ký trước đây được giấu kín đã cho phép các sử gia nghiêm túc viết về những sự thật đáng chú ý hơn.
    - See more at: http://nghiencuuquocte.net/2014/11/03/ly-giai-su-tan-bao-cua-stalin/#sthash.i5H8zmTv.dpuf

    Lý giải sự tàn bạo của Stalin

    Print Friendly
    stalin
    Tác giả: Anne Applebaum | Biên dịch: Lương Khánh Ninh
    Kho lưu trữ hồ sơ của Nga hé lộ rằng Stalin không phải là một kẻ điên rồ mà là một nhà lý luận tài tình và duy lý đến mức không gì lay chuyển được.
    Làm sao mà Stalin đã trở thành Stalin? Hay nói một cách chính xác hơn: làm thế nào mà Iosif Vissarionovich Djugashvili – cháu của hai người nông nô, con của một người phụ nữ làm nghề giặt quần áo và một thợ sửa giầy – đã trở thành Nguyên soái Stalin, người chịu trách nhiệm cho những vụ giết người hàng loạt dã man nhất mà thế giới từng biết đến? Làm sao mà một cậu bé sinh ra tại một thị trấn vùng núi heo hút ở Gruzia đã trở thành một nhà độc tài nắm quyền kiểm soát một nửa châu Âu? Làm sao mà một chàng thanh niên mộ đạo, người đã chọn theo học để trở thành một linh mục, lại trở thành một người nhiệt thành với chủ nghĩa vô thần và một người theo chủ nghĩa Marx?
    Chịu ảnh hưởng của Freud, nhiều nhà viết tiểu sử tham vọng – chưa kể đến những nhà tâm lý học, triết gia hay sử gia – đã tìm kiếm câu trả lời cho các câu hỏi này dựa trên thời thơ ấu của Stalin. Giống như sự cuồng tín của Hitler được “giải thích” dựa trên nền tảng giáo dục, đời sống tình dục hay tinh hoàn được cho là chỉ có một bên của ông ta, sự tàn bạo mang hơi hướng tâm thần của Stalin được quy cho người cha của ông, người được chính Stalin miêu tả là “đã đánh đập ông ta không thương tiếc,” hay cho người mẹ vốn có thể đã ngoại tình với một vị linh mục địa phương. Những kiến giải khác đề cập đến một tai nạn khiến cho tay phải Stalin bị teo lại, việc ông bị bệnh đậu mùa làm cho khuôn mặt ông trở nên đầy sẹo, hay khiếm khuyết từ khi sinh ra khiến hai ngón chân của bàn chân trái dính vào nhau – dấu hiệu của quỷ dữ.
    Chính trị cũng có tác động đến những người viết tiểu sử Stalin. Trong cuộc đời Stalin, những người ủng hộ đã biến ông ta thành một siêu anh hùng nhưng những người phản đối cũng áp đặt thành kiến của họ với ông. Leon Trotsky, đối thủ nguy hiểm nhất của Stalin, là một người đưa ra kiến giải về Stalin có tầm ảnh hưởng nhất cho đến giờ, qua đó định hình quan điểm của một thế hệ sử gia từ Isaac Deutscher trở đi. Stalin trong con mắt của Trotsky là một người trí tuệ hạn chế và tâm hồn u ám, là một anh tỉnh lẻ không có giáo dục đã thâu tóm quyền lực nhờ thao túng chính trị và bạo lực đẫm máu. Trên hết, theo Trotsky, Stalin là kẻ ban đầu đã phản bội Lenin và sau đó là sự nghiệp của chủ nghĩa Marx. Đây là những phác họa về Stalin nhằm truyền cảm hứng cho những người theo chủ nghĩa Trotsky tiếp tục trung thành với một dạng thức cách mạng Xô-viết mà “đã có thể xảy ra” nếu như người lên nắm quyền là Trotsky chứ không phải là một Stalin ảm đạm, thận trọng và luôn nghi ngờ.
    Kể từ khi kho lưu trữ Liên Xô mở cửa từ những năm 1990, những bản mô tả mang màu sắc chính trị và tâm lý học kể trên về cuộc đời Stalin bắt đầu bị phủ nhận. Chính trị vẫn có ảnh hưởng đến việc ông được công chúng nhớ đến như thế nào: những năm gần đây, các nhà lãnh đạo Nga đã làm nhẹ đi những tội ác của Stalin đối với chính người dân của ông ta và tổ chức lễ kỷ niệm cuộc chinh phạt châu Âu do ông tiến hành. Tuy nhiên, sự sẵn có của hàng ngàn tài liệu mật một thời và nhiều thư từ cũng như hồi ký trước đây được giấu kín đã cho phép các sử gia nghiêm túc viết về những sự thật đáng chú ý hơn.
    - See more at: http://nghiencuuquocte.net/2014/11/03/ly-giai-su-tan-bao-cua-stalin/#sthash.i5H8zmTv.dpuf

    Vụ thảm sát Katyn – đâu là nguyên nhân?

    Posted by expressvnn on April 15, 2010
    Vụ thảm sát Katyn – đâu là nguyên nhân?
    Joseph (Józef) Klemens Pilsudski
    (5 tháng Chạp năm 1867 – 12 tháng Năm năm 1935)
    Bài viết này không có tham vọng viết về vụ thảm sát Katyn, vì khả năng tìm kiếm tài liệu về nó là khó khăn. Nhưng người viết hy vọng sẽ cung cấp được cho các thành viên một số thông tin về mặt lịch sử để có thể tự rút ra được kết luận về một sự kiện – cũng có thể được coi là bi thảm đó.
    Trên thực tế, khó có thể viết được về vấn đề này mà không dông dài một chút về những vấn đề trong lịch sử quan hệ quốc tế, nhất là trong thời gian giữa hai cuộc Đại chiến thế giới. Đó là một thời kỳ có thể nói là phức tạp nhất trong quan hệ quốc tế. Mọi mối quan hệ được hình thành trong giai đoạn này đều nhằm đến không chỉ một cái đích, mà là nhiều mục tiêu, do đó nhiều khi có thể được giải thích và đánh giá bằng những cái nhìn khác nhau, và cũng phụ thuộc nhiều vào cả các nhà chép sử nữa.
    Cần phải nhìn nhận thời gian này trong lịch sử châu Âu nói riêng và lịch sử thế giới nói chung, là thời kỳ ngoài những nghi kỵ, những âm mưu quân phiệt hóa nhằm giành lại đất đai, còn là những cố gắng để có được một nền an ninh tập thể, được đánh dầu bằng sự thành lập của Hội quốc liên (thành lập ngày 10 tháng Giêng năm 1920), tổ chức có thể nói là tiền thân của Liên Hiệp quốc ngày nay.
    1 – Nước Balan sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Những mối quan hệ và những cuộc xung đột với nước Nga Xô-viết.
    Chúng ta quay lại với nước Nga thời kỳ sau cuộc Cách mạng tháng Mười. Nước Nga bước ra được khỏi cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất với đầy thương tích, chấm dứt chiến tranh với Đức bằng Hiệp ước Brext – Litôpxcơ, mà những thiệt thòi được giành cho Nga là chủ yếu. Thời kỳ này được xem như là thời kỳ nổi bật của chính sách can thiệp của các nước phương Tây, chủ yếu là nước Anh, vào nội bộ các nước khác trong đó có nước Nga. Xung quanh nước Nga còn rất nhiều thù trong giặc ngoài, như những bọn bạch vệ hoạt động không chỉ như những toán phỉ mà còn là những đội quân lớn, có tổ chức như Côntsắc, Đênikin – Vrăngghen… và cả những mối quan hệ quốc tế mà đế chế Nga Sa hoàng để lại.
    Cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất kết thúc với hiệp ước Véc-xay, trong đó có đề cập đến vấn đề quan trọng là tái thành lập nước Balan, mà nóng bỏng nhất là vấn đề những đường biên giới của nước Balan mới. Nước Balan, trong cuộc đại chiến thế giới lần thứ nhất cũng là một trong những chiến trường chính và bị chiến tranh tàn phá. Sau Cách mạng tháng Mười, nước Nga Xô-viết đã tuyên bố từ bỏ quyền của Đế chế Nga đối với Balan và công nhận nền độc lập của nước Balan ngày 29 tháng Tám năm 1918, tức là chưa đầy một năm sau Cách mạng.
    Một vị tướng người Balan, Joseph (Józef) Pilsudski (5 tháng Chạp năm 1867 – 12 tháng Năm năm 1935) đã tuyên bố thành lập nước Cộng hòa Balan vào ngày 22 tháng Mười một năm 1918. Trước đó, đến trước tháng Bảy năm 1917 ông ta đã chỉ huy “Quân đoàn Balan” chống lại người Nga. Trên đất nước Balan còn tồn tại “Ủy ban quốc gia Balan”, được các nước đồng minh Anh – Pháp – Mỹ đỡ đầu, Ủy ban này bất hòa với tướng Pilsudski. Nhân tiện cần phải nói thêm, lúc này “dưới trướng” của ông ta có một nhân vật, sau này sẽ góp phần quan trọng vào câu chuyện của chúng ta: Đại tá Józef Beck, chánh văn phòng nội các của Pilsudski.
    Cuối năm 1918, đầu năm 1919, nước Balan phải chiến đấu chống lại người Đức, cho đến khi nước Đức thua hẳn, buộc phải ngừng chiến trước sức ép của các nước đồng minh vào ngày 16 tháng Hai năm 1918. Tuy nhiên, nước Balan non trẻ không định dừng lại ở đó. Ở phía đông, họ đánh nhau với Ucraina và chiếm được thành phố Lvov. Cuộc chiến đấu này của họ khá thắng lợi. Liên minh các nước đồng minh thành lập một Ủy ban do một ông tướng người Nam Phi làm chủ tịch, ông Botha, đã không thuyết phục được người Balan ngừng chiến. Kết quả, người Balan còn chiếm thêm được toàn bộ vùng đông Galicie.
    Ngày 27 tháng Năm năm 1919, Hội nghị Paris của các nước Đồng minh đã ra tuyên bố sẽ cắt đường tiếp tế cho Balan nếu tiếp tục phiêu lưu quân sự.
    Ở phía bắc, không hiểu vì những lý do gì mà người Balan vẫn tiếp tục đánh nhau với người Nga, và tháng Năm năm 1919, họ chiếm được đường biên giới kéo dài đến tận thủ đô Minxcơ của xứ Bạch Nga. Ngày 22 tháng Chạp năm 1919, người Bôn-sê-vích đề nghị ngừng chiến, công nhận nền độc lập hoàn toàn của Balan và cam kết không vượt qua biên giới mà họ đã vạch ra trước đây. Cũng trong tháng này, các nước đồng minh thỏa thuận với Balan về lãnh thổ của nước này: đường biên giới sẽ đi qua Grốdnô, Vôlốpca, Nêmurốp, Brext – Litôpxcơ và phía đông Przemysl. Đường biên giới này được gọi là “Đường biên giới Curzon”, theo tên của ngoại trưởng Anh lúc bấy giờ.
    Người Balan đồng thời không chấp nhận cả hai đề nghị của hai phía. Hầu hết những người Balan đều muốn có được đường biên giới năm 1772 nghĩa là chiếm toàn bộ nước Ucraina. Ngày 25 tháng Tư năm 1920, họ lại tấn công vào quân Nga Xô-viết. Họ thu được những thắng lợi bước đầu, ngày 6 tháng Năm họ chiếm thủ đô Kiép của Ucraina. Nhưng họ bị Hồng quân Xô-viết dưới sự chỉ huy của hai Nguyên soái Tukhachépxki và Buđionnưi nhanh chóng đẩy lùi. Tháng Bảy, Hồng quân chiếm lại được Minxcơ, Vilna, Grốdnô, Brext – Litôpxcơ. Hồng quân còn cắt đứt đường sắt Vác-sa-va – Đăng-dích, trong khi nước Đức và Áo từ chối không cho vũ khí đạn dược đi qua nước mình. Balan, do chính sách hiếu chiến của mình, lâm nguy.
    Đối với nước Anh, thì Balan đã thất bại, và người Anh chơi một con bài hai mặt. Một mặt, họ đề nghị Hồng quân ngừng bắn, dừng lại cách Vác-sa-va 50 ki-lô-mét. Mặt khác, họ yêu cầu Balan chấp nhận cái gọi là “Đường biên giới Curzon”. Nhưng cả Nga lẫn Balan đều bác bỏ vai trò trung gian của người Anh. Tuy nhiên, nếu bây giờ đánh giá lại thì người Nga đã bỏ qua một cơ hội hiếm có, vì nếu nắm được chính sách này của Anh và thi hành thắng lợi thì đó chính là những tiền đề để thành lập nước Balan cộng sản ngay từ sau chiến tranh thế giới thứ nhất!
    Tuy nhiên sau đó người Balan đã có được một thắng lợi ngoạn mục chưa từng có, nhưng với sự giúp đỡ của Pháp. Tổng thống Pháp lúc bầy giờ – ông Alexandre Millerand (sinh tại Paris 10 tháng Hai năm 1859 và chết tại Versailles ngày 6 tháng Tư năm 1943) – cử sang Balan tướng Weygand, cùng với sự giúp đỡ nhiều vũ khí, đạn dược. Người Balan phản công và đẩy lùi được Hồng quân 400 ki-lô-mét về phía đông. Các cuộc hòa đàm đang được đặt ra bị cắt đứt, không còn vấn đề “Đường biên giới Curzon”. Ngày 25 tháng Chín năm 1920, Ủy ban hành pháp trung ương Xô-viết toàn Nga đã từ bỏ các điều kiện đặt ra cho Balan trước đây và, từ tháng Tám họ đã bắt đầu những cuộc thương lượng mới với người Balan. Ngày 12 tháng Mười năm 1920, các hiệp định hòa bình sơ bộ đã được ký, đường biên giới phía đông của Balan nằm cách “Đường biên giới Curzon” 150 ki-lô-mét về phía đông, nghĩa là bao gồm cả những vùng đất của người Ucraina và Bêlôruxia. Các hiệp ước sơ bộ này trở thành Hiệp ước hòa bình vĩnh viễn Riga ngày 12 tháng Ba năm 1921. Đồng thời người Balan còn thu được một thắng lợi nữa, là đạt được một liên minh chiến lược với nước Pháp bằng hiệp ước ký tháng Giêng năm 1921. Về phía Pháp, là có được một liên minh chống Đức, và có lẽ, cả nước Nga Xô-viết nữa.
    Kết luận: như vậy, sau Thế chiến thứ nhất, nước Balan đã giành được độc lập, cái đó xuất phát từ sự suy yếu của nước Nga, và người kế thừa là những người Bôn-sê-vích thì không đủ mạnh để thi hành chính sách quốc tế sô-vanh, tự từ bỏ quyền đế chế đối với nước các nước thuộc địa Sa hoàng cũ. Thứ hai, đó cũng chính do họ còn yếu, thời kỳ năm 1920 là thời kỳ Hồng quân phải thanh toán Đênikin, Côntsắc… do đó việc Balan có được sự ủng hộ quân sự của Pháp đã thu được thắng lợi. Thời kỳ này chấm dứt bằng việc Balan chiếm được đất của người Bạch Nga và Tiểu Nga (Bêlôruxia và Ucraina).
    2. Những hiệp ước song phương và đa phương tại châu Âu thời kỳ giữa hai cuộc Đại chiến. Mối quan hệ Xô – Đức.
    Thực ra, không thể quy kết cho Xta-lin là đặt quan hệ với Đức quốc xã được, mà ngay từ những năm 1920, khi nước Đức lúc đó chưa có Hit-le cầm quyền, đã đặt quan hệ với Nga Xô-viết và sau này là Liên Xô (trong đoạn này vì có nhiều sự kiện xảy ra trước và sau khi thành lập Liên bang Xô-viết nên tôi tạm viết là Liên Xô, không phân biệt nước Nga Xô-viết hay Liên Xô). Năm 1922 được đánh dấu bằng Hội nghị Gènes, được các nước đồng minh sau đại chiến thế giới 1 tổ chức, đã có nhiều lần nhóm họp không thành công do không mời đại diện Liên Xô (chủ yếu việc không mời này do không muốn thỏa thuận giải quyết nợ nần và chiến phí với người Nga; do những bất đồng Pháp – Anh, do sự xích lại gần nhau Xô – Đức…). Tuy nhiên khi được mời, Liên Xô tham gia với mục đích thuần túy thương mại, đại diện Nga là Chicherin. Hội nghị không đi đến được kết quả đáng kể vì kể cả phía phương Tây và Liên Xô đều không nhượng bộ về những khoản nợ nần (Liên Xô đòi phương Tây bồi thường những thiệt hại do quá trình can thiệp vào cuộc nội chiến, đồng thời phương Tây cũng đòi Liên Xô bồi thường nợ nần sau chiến tranh và nhất là những tài sản đã bị Liên Xô quốc hữu hóa sau Cách mạng).
    Tuy nhiên, như một hệ quả của Hội nghị, là đã dẫn đến một kết quả bất ngờ: ngày 16 tháng Tư Chicherin và đại diện Đức Rathenau đã gặp nhau ở Rapallo, gần Gènes và ký kết được với nhau một hiệp ước quan trọng mà sau này người ta gọi là Hiệp ước Rapallo. Theo Hiệp ước này, Đức sẽ không đòi lại những xí nghiệp của tư bản Đức đã bị quốc hữu hóa, với điều kiện là Liên Xô cũng không thỏa mãn những yêu cầu đòi bồi thường của các quốc gia khác (với Liên Xô cái này thì dễ quá). Quan hệ ngoại giao và lãnh sự giữa hai nước được phục hồi, hai bên áp dụng cho nhau chế độ tối huệ quốc trong lãnh sự và thương mại. Bộ trưởng, tức Ủy viên nhân dân ngoại giao Xô-viết thời bấy giờ, ông Pôtemkin đã phát biểu: “Rapallo đã làm thất bại âm mưu của đồng minh về lập mặt trận tư bản thống nhất. Kế hoạch phục hồi châu Âu trên cơ sở gây thiệt hại cho những nước thua trận và cho nước Nga, sẽ sụp đổ”.
    Rapallo là sự xóa bỏ vĩnh viễn Hòa ước Brext – Litôpxcơ, chấm dứt việc cô lập Liên Xô về kinh tế và chính trị. Nước Đức, thật bất ngờ, đã là nước phương Tây đầu tiên công nhận Liên Xô. Hiệp ước này chưa phải là hết. Nó được ký kết độc lập với quân đội Đức, nhưng tổng tư lệnh lục quân Đức thời gian đó là tướng Von Seeckt đã ngấm ngầm có những quan hệ bán chính thức với Hồng quân. Những cuộc tiếp xúc đầu tiên bắt đầu từ mùa thu năm 1919, nhưng quan hệ tích cực hơn diễn ra vào các năm 1921, 1922. Người Nga tìm cách sử dụng công nghệ Đức để sản xuất vũ khí, còn người Đức thì “lách luật”, né khỏi Hiệp ước Véc-xay để thử nghiệm những vũ khí mới cần thiết cho tái vũ trang trên đất Nga. Một vài nhà máy vũ khí của Đức được xây dựng trên đất Nga. Từ năm 1924 đến năm 1932, có các trại huẩn luyện xe tăng (ở Kama), máy bay (ở Lipetxcơ), hơi độc (Xaratốp) của Đức được xây dựng trên đất Liên Xô. Quân đội Đức có ở Liên Xô một “trung tâm chỉ huy Mát-xcơ-va” (Zentrale Moskau). Nhưng tất cả những hoạt động này, và cả cái trung tâm này bị triệt tiêu khi bắt đầu thời kỳ Hit-le cầm quyền.
    Thời kỳ này còn là thời kỳ hợp tan của hàng loạt những liên minh to nhỏ, đều nhằm mục tiêu hướng tới một nền an ninh tập thể. Từ 1923 đến 1925 là thời kỳ mà sớm hay muộn, các nước phương Tây và cả Nhật Bản, công nhận Liên Xô là một thực thể của pháp luật quốc tế.
    Ngày 19 tháng Mười một năm 1925, Đức gia nhập Hội quốc liên, một bước cuối cùng của quá trình biến Đức từ kẻ tội đồ của thế chiến I thành một quốc gia đáng gờm, không bị hạn chế. Thời gian này còn được đánh dấu bằng sự xích lại gần nhau của Đức và Pháp.
    3. Hiệp ước Đức – Balan năm 1934.

    Józef Beck (4 tháng Mười năm 1894 – 5 tháng Sáu năm 1944)
    Sự kiện quan trọng nhất trong câu chuyện của chúng ta có lẽ là việc Hít-le và Đảng quốc xã của y lên cầm quyền. Ngày 30 tháng Giêng năm 1933, Hít-le trở thành Thủ tướng nước Đức. Thời điểm đó Chính phủ của y chỉ có thêm hai đảng viên Đảng quốc xã là Goering và Frick Von Papen là phó Thủ tướng, ngoài ra còn có thêm Von Neurath giữ chức ngoại trưởng. Nhưng nhanh chóng Hít-le đã biến Chính phủ của mình thành Chính phủ độc tài, như chúng ta đã biết.
    Thời gian này cũng là thời kỳ của các Hiệp ước an ninh tập thể, hâu như là thất bại, nhằm giảm đi cái vai trò vốn đã không mấy quan trọng của Hội quốc liên. Một trong những ví dụ điển hình là việc Mút-xô-li-ni hô hào ký “Hiệp ước tay tư” giữa Italia, Anh, Pháp và Đức, chủ yếu là nhằm điều chỉnh lại bản đồ châu Âu đang bất lợi cho Italia và Đức. Nhưng vì sự quân phiệt hóa ngày càng rõ nét của hai nước Italia và Đức, đồng thời các Chính phủ Tổng thống Dalalier (Pháp), Thủ tướng Mc Donald (Anh), thì có những lợi ích riêng lẻ khác không hòa đồng được. Giữa Pháp và Balan còn tồn tại Hiệp ước liên minh.
    Ngày 19 tháng Mười năm 1934, Đức rút ra khỏi Hội quốc liên, đánh dấu bước đầu sự tan rã của tổ chức này.
    Đôi điều về đại tá Beck. Ông sinh ngày 4 tháng Mười năm 1894 tại Vác-sa-va và chết ngày 5 tháng Sáu năm 1944 tại Stăneşti, Rumani. Là quân nhân, sau này là nhà ngoại giao kiêm chính khách, ông đã bỏ nhiều công sức trong việc đưa Balan có một mối quan hệ đối ngoại mềm dẻo giữa hai thế lực là Đức và Liên Xô. Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, đại tá Beck là ủy viên Tổ chức quân sự Balan được Pilsudski thành lập năm 1914. Trong năm 1924, ông đã hoạt động để Chính phủ của Pilsudski được thành lập có quyền lực trên thực tế. Trong các năm từ 1926 – 1930 Beck làm việc tại Bộ ngoại giao Balan và từ năm 1930 đến 1932, là phó Thủ tướng Balan, kiêm bộ trưởng Ngoại giao từ tháng Mười một năm 1932 và giữ cương vị quan trọng đó trong Chính phủ Balan đến tận khi Chiến tranh thế giới lần thứ 2 bùng nổ. Ở Bộ ngoại giao, ông ta thay chân cho cựu bộ trưởng Zaleski, một người thích các biện pháp phi dân chủ. Tuy nhiên, Beck lại luôn ngờ vực những chính sách của người Pháp, nhất là thái độ không kiên quyết của họ thời Laval.
    Một trong những thắng lợi của Đức là việc ký kết một tuyên bố không xâm lược với Balan ngày 26 tháng Giêng năm 1934, có giá trị trong mười năm. Beck, vốn bất bình với “Hiệp ước tay tư” (gạt Balan ra ngoài không có quyền lợi gì), tìm cách cân bằng giữa Đức và Liên Xô, bằng những việc tiếp xúc liên tục với lãnh đạo các nước khác nhau, nhất là các cường quốc. Tháng Tư, và cả vào tháng Chạp năm 1933, ông ta đã bí mật đề nghị với Pháp một chiến dịch ngăn ngừa đánh vào chủ nghĩa Hít-le. Khi bị Pháp từ chối, ông ta quay sang Đức và đề nghị ký với Đức một Hiệp định. Trong năm 1933, có nhiều cuộc đụng độ quân sự nhỏ trong quan hệ Đức – Balan, nhất là khi Balan tăng cường quân đội đồn trú ở bán đảo Westerplatte, trên lãnh thổ Dantzig ngày 6 tháng Ba năm 1933. Ngày 4 tháng Năm năm 1933, Hít-le tuyên bố với báo chí là đã có cuộc họp với công sứ Balan ở Béclin, ông Wysoki, bạn thân của Đại sứ Pháp tại Đức, Francois – Poncet, vì thế bị coi là thân Pháp. Sau đó, Lipski thay Wysoki tại Béclin.
    Ngày 16 tháng Mười một năm 1933, Hít-le gặp Lipski, đã có một thông báo rằng hai bên sẽ không sử dụng vũ lực trong mối quan hệ với nhau. Ngày 27 tháng đó, một dự án Hiệp ước hòa bình được bộ trưởng Đức Von Molke trình cho nguyên soái Pilsudski. Ngày 4 tháng Giêng năm 1934, Lipsky trình một bản dự án của Balan trả lời cho dự án của Đức, mà chính những dự thảo dự án này đã được đại tá Beck trong khi đi Genève đã rẽ qua Béclin ngày 13 tháng Giêng và có được những thỏa thuận bí mật với Chính phủ quốc xã. Tại sao những thỏa thuận này cần bí mật? Đó là vì trong nội bộ nước Đức có những thế lực Phổ căm ghét Balan, đồng thời thế lực Balan thân Pháp còn mạnh. Thậm chí ngày 25 tháng Giêng (trước hôm ký Hiệp định một ngày), Lipsky còn tuyên bố với đồng nghiệp Tiệp Khắc tại Đức, ông Mastny rằng không đời nào có chuyện “ác” như vậy. Hòa ước được ký kết, tuyên bố “hai Chính phủ muốn mở đầu một giai đoạn mới trong mối quan hệ chính trị hoàn toàn hòa bình… hai Chính phủ sẽ tham khảo ý kiến của nhau và sẽ bao giờ sử dụng vũ lực trong giải quyết những bất đồng”. Bản tuyên bố có giá trị trong 10 năm, và sẽ không làm thay đổi hiệu lực của các Hiệp ước đã ký trước đây.
    Trong nội dung của Hiệp định không hề chống lại nước Pháp, nhưng rõ ràng với hoàn cảnh của Balan, thì đó là một việc không khôn khéo. Về danh chính ngôn thuận, thì đó là việc làm không “fair play” với đồng minh Pháp, dù là Pháp còn chưa quyết đoán được chính sách với Đức. Đại sứ Pháp tại Đức Francois – Poncet nói: “Thái độ của Balan đối với chúng tôi và nhất là thái độ của Đại tá Beck, bộ trưởng ngoại giao Balan, không phải là thái độ của một người bạn, mà là của kẻ thù đích thực”.
    Như vậy bằng Hiệp ước này, Balan đã đặt một chân vào thảm họa diệt vong.
    4 – Liên Xô trên trường quốc tế trong những năm 1930. Nỗ lực của nước Pháp trong ngăn chặn chiến tranh.

    Thủ tướng Pháp Louis Barthou (25 tháng Tám năm 1862 – 9 tháng Mười năm 1934)
    Trước năm 1930, quan hệ Pháp – Xô rất xấu (cũng có thể do Hiệp ước Đức – Xô tháng Tư năm 1926?). Nhưng từ năm đó trở đi, quan hệ có được cải thiện hơn. Ngày 29 tháng Mười một năm 1932, Hiệp ước tương tự đã được ký kết giữa hai nước Pháp – Xô. Từ đó trở đi, mối quan hệ giữa hai nước tốt hơn nhiều, nhất là những giao lưu trao đổi về quân sự.
    Xin quay một chút sang nước Pháp. Để đối phó với sự nguy hiểm ngày càng tăng từ phía nước Đức quốc xã, mà nước Pháp cũng đang cố gắng có được những hành động tăng cường an ninh tập thể, vai trò chủ yếu thuộc về Thủ tướng thứ 78 của nền Cộng hòa, Louis Barthou (25 tháng Tám năm 1862 – 9 tháng Mười năm 1934). Ông ta đề ra một kế hoạch dự định thực hiện trong xuân – hè năm 1934. Theo kế hoạch, nước Pháp cần hướng mạnh về phía Đông. Không trông cậy gì được vào chính sách biệt lập của nước Anh, ông ta định quay sang Italia và Liên Xô. Nhưng ông ta, về đối nội, là người chống cộng lại vẫn tin tưởng ở Hồng quân hơn là quân đội Italia. Ngày 16 tháng Năm năm 1934, ông có cuộc gặp quan trọng với Ủy viên nhân dân ngoại giao Xô-viết Lítvinốp tại Genève. Tháng 6, ông thăm một số nước Đông Âu và Hoa Kỳ. Ngày 2 tháng Sáu, ông lại gặp lại Lítvinốp và trình bày kế hoạch “Hiệp ước phương Đông” chứa đựng những nội dung đi đến một liên minh quân sự Pháp – Xô thực sự. Đáng tiếc, những nỗ lực của ông chỉ đưa đến một kết quả duy nhất là việc ủng hộ mạnh mẽ cho Liên Xô gia nhập Hội quốc liên ngày 18 tháng Chín năm 1934, với 32/42 phiếu bầu. Ngày 9 tháng Mười năm đó, xảy ra một sự kiện nghiêm trọng. Thủ tướng Pháp Louis Barthou tiếp vua Alexandr của Nam Tư tại Marseille và cả hai cùng bị tổ chức khủng bố người Crôatia thân quốc xã “Oustacha” ám sát. Chính cái chết của Barthou đã chấm dứt những cố gắng của nước Pháp trong việc ngăn ngừa cuộc chiến tranh đến đã quá gần. Người kế vị ngai vàng Nam Tư, hoàng tử Paul, nhanh chóng xích lại gần nước Đức phát-xít. Thủ tướng mới của Pháp, Pièrre Laval (lên từ ghế ngoại trưởng thay Barthou) làm ra vẻ tiếp tục chính sách của ông, nhưng trên thực tế, là người có lập trường xoa dịu và hòa hoãn với phát-xít. Paul – Boncour nói: “Tôi nghĩ rằng không phải ngay một lúc ông ta đã đi theo tiến trình sẽ đưa ông ta đến các lập trường sau này. Thiên về kinh nghiệm chủ nghĩa hơn là lý thuyết giáo điều, ông ta chuyển biến dần theo hướng khác, tiếp tục dung hòa Hội quốc liên và các liên minh phương Đông của Pháp lúc đấy đang được đưa vào Hội. Ngay khi việc trừng phạt đang rộ lên ông ta vẫn còn tỏ ra bái phục Hội quốc liên và do đó gây ảo tưởng rằng ông ta vẫn tiếp tục những chính sách cũ”. Trong khi Barthou muốn thành lập một liên minh thực tế và có hiệu quả và khi cần thiết đã biết chống lại ảnh hưởng của Anh thì Laval lại thi hành chính sách hòa giải với tất cả mọi người, bằng một loạt thỏa hiệp ít nhiều bị khập khiễng. “Thay vì một chính sách lớn, với Laval người ta bước vào thời đại của những cuộc mặc cả ngắn hạn”. Đáng tiếc, điều này quá đúng và, ngay cả Liên Xô trong thời kỳ đó cho đến trước chiến tranh, cũng đã rơi vào những cuộc mặc cả ngắn hạn như thế.
    5 – Hội nghị Munich và sự thôn tính nước Tiệp Khắc

    Bản đồ vùng Xuyđét (Sudètes)
    Sở dĩ tại sao phải nói một chút về giai đoạn này, mặc dù nó không liên quan gì đến sự kiện Katyn, nhưng dù sao cũng góp phần làm rõ hơn những âm mưu và nước cờ của nước Đức phát-xít.
    Cho đến giữa năm 1937, nổi lên vấn đề kiều dân Đức ở Xuyđét (Sudètes), đông khoảng 3.200.000 người. Việc sáp nhập vùng đất này thuộc nước Tiệp Khắc được Hítle đặt lên hàng đầu trong chương trình của nước Đức. Thực chất, kiều dân Đức ở đây chưa hề có ý định muốn được gắn bó với đế chế Đức cho đến cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Họ chung sống hòa thuận với cư dân người Séc và Xlôvakia. Vùng này Chính phủ Tiệp Khắc đã xây dựng nhiều cơ sở công nghiệp quốc phòng quan trọng và biến vùng này trở thành một vùng công nghiệp hóa cao của đất nước.
    Nhưng tình thế năm 1937 lại khác. Đảng Sudèten Deusche Partei (Đảng của người Đức ở Xuyđét) do Konrad Henlein cầm đầu, nắm 70% ghế trong Quốc hội của vùng, lại có xu hướng thân quốc xã rõ rệt. Việc thành lập chính quyền tự trị, trong đó những công chức biết tiếng Đức được xúc tiến. Ghi nhận quyền lựa chọn sinh sống dưới chính thể Tiệp Khắc hay Đế chế Đức của kiều dân Đức.
    Một loạt hoạt động quân sự, chủ yếu là tổng động viên và tập trung quân ở biên giới hai nước Đức – Tiệp diễn ra trong năm đó và đầu năm sau, phía quân đội Tiệp là đêm ngày 20, rạng sáng ngày 21 tháng Năm năm 1938. Người ta đặt câu hỏi phải chăng điều này là do lời khuyên của phía Liên Xô, lúc đó cũng rất muốn giúp đỡ nước Tiệp để chống lại nước Đức phát-xít đang muốn bành trướng?
    Chính phủ Anh cũng đã có những can thiệp mạnh mẽ do đó Hítle đã không hành động dù hắn ta rất bực bội. Còn Chính phủ Pháp của Daladier (ngoại trưởng Pháp giai đoạn này là Georges – Bonnet) thì có xu hướng ôn hòa.
    Việc thôn tính vùng Xuyđét, đối với Đức quốc xã, chỉ còn là ngày một ngày hai.
    Thông tin quan trọng trong phần này, là thái độ của Liên Xô như thế nào? Ngày 12 tháng Năm năm 1938, ngoại trưởng Pháp Bonnet xin gặp Bộ trưởng dân ủy ngoại giao Liên Xô Lítvinốp ở Giơnevơ (Genève). Chính phủ Liên Xô tuyên bố sẵn sàng giúp đỡ nước Tiệp Khắc nếu như Balan và Rumani đồng ý để cho Hồng quân Liên Xô đi qua lãnh thổ của mình. Nhưng Balan đang thi hành một chính sách ngoại giao hết sức liều mạng và nguy hiểm, là chọn phương án đối đầu cả Liên Xô và Đức, trong khi vẫn đang hy vọng vào sự bảo trợ của nước Pháp, là nước mà dần dần người ta sẽ thấy, bảo vệ chính mình còn chưa xong. Quan trọng hơn cả là họ đang bất hòa với Tiệp Khắc. Còn Rumani, vẫn đang lo lắng về vùng Bétxarabi (năm 1940 bị cắt về lãnh thổ Mônđavi xô-viết). Trên thực tế, nước Rumani có thể cho quân Liên Xô đi qua nhưng họ chỉ có duy nhất một con đường sắt rất tồi, và họ cho phép máy bay Liên Xô bay qua vùng trời của mình sang Tiệp. Trên thực tế, Liên Xô biết rõ tình thế đó và rõ ràng đây là nước cờ “tuyên bố nhưng không hành động” khá rõ nét. Tuy nhiên trên thực tế, trong thời gian diễn ra Hội nghị Munich đã có 200 máy bay chiến đấu Liên Xô có mặt trên đất Tiệp Khắc, cũng không thể phủ nhận hoàn toàn những hành động cụ thể của Chính phủ Liên Xô trong tình thế ai cũng phải đi trên dây trong giai đoạn này.
    Ngày 23 tháng Chín năm 1938, Phó Ủy viên nhân dân ngoại giao Liên Xô Pôtemkin thông báo cho phía Balan rằng, Liên Xô sẽ hủy bỏ Hiệp ước không xâm lược với Balan đã được ký ngày 25 tháng Bảy năm 1932, nếu như Balan xâm lược Tiệp Khắc (Ý đồ này đã trở nên hết sức rõ rệt). Cũng trong thời gian này lại diễn ra thỏa hiệp giữa một bên là Đức, bên kia là Anh – Pháp theo đó, bất cứ một lãnh thổ nào có trên 50% dân cư nói tiếng Đức sẽ được sáp nhập vào Đức! Ngày 21 tháng Chín năm 1938, Anh và Pháp thông báo với Tiệp là nếu có ý định kháng cự, họ sẽ không được ai ủng hộ cả. Đây là một sự bội ước ghê gớm của Chính phủ hai nước, nhất là Pháp, với thành viên liên minh của mình.

    Hội nghị Munich
    Và thế là với những diễn biến như trên, ngày 29 tháng Chín năm 1938, đã diễn ra Hội nghị Muních, với sự tham gia của Đức, Pháp, Anh, Italia. Tệ hại nhất là sự toàn vẹn lãnh thổ của nước Tiệp Khắc đã bị hy sinh vì “hòa bình”. Đồng thời, chính Hội nghị này đã cho thấy manh nha âm mưu “xử lý” Hunggari và nhất là Balan – đối tượng nghiên cứu chính của chúng ta ở đây. Trong quyết định của mình, hội nghị còn có một phụ lục nữa liên quan đến những kiều dân Balan và Hung ở Tiệp, sẽ liên quan sâu hơn đến những hành động của Balan sau này: “Vấn đề dân tộc thiểu số Balan và Hung ở Tiệp Khắc, nếu không được giải quyết bằng hiệp định giữa các Chính phủ hữu quan trong vòng 3 tháng, thì sẽ là mục tiêu cho một cuộc họp khác của Chính phủ 4 cường quốc đang họp cuộc họp hôm nay”.
    6 – Những cố gắng ngăn chặn cuộc chiến tranh đã ở ngay ngưỡng cửa

    Bản đồ vùng Silésie
    Ngày 7 tháng Mười một năm 1938, bí thư thứ ba sứ quán Đức tại Paris Ernst Von Rath bị Herschel Grynspan một người Đức Do thái gốc Balan ám sát chết. Sự kiện này chính là cái cớ cho làn sóng bài Do thái và sau đó là thái độ thù địch với Balan ở nước Đức.
    Sau hội nghị Munich, Liên Xô hết sức chống đối Pháp (có tin đồn rằng chính Liên Xô đã ủy quyền cho Daladier đại diện tại Hội nghị, nhưng tờ Pravda đã đưa ra cải chính tin đồn này). Liên Xô cho rằng Pháp đã quá tệ bạc và bội ước. Liên Xô đang làm cho người ta tin rằng, chính họ chứ không có ai cả, tin vào các biện pháp an ninh tập thể đã được vạch ra trước đó mấy năm bởi một người Pháp (Thủ tướng thứ 78 của nền Cộng hòa, Louis Barthou).
    Sau Hội nghị Muních, là thời gian tan rã của nước Tiệp Khắc. Xuyđét bị sáp nhập vào Đức. Nhiều vùng lãnh thổ phải tổ chức trưng cầu dân ý về việc ở lại với Tiệp hay bị sáp nhập. Nhân cơ hội này, Đại tá Beck muốn sáp nhập vùng Silésie de Teschen vào Balan. Từ năm 1937, họ đã bãi bỏ hiệp ước không xâm lược ký với Tiệp năm 1924, và sau 6 tháng từ khi bãi bỏ, Hiệp ước cho phép họ tự do hành động. Họ cho rằng Tiệp Khắc đã “bạc đãi” dân Balan ở vùng này.
    Ngày 19 tháng Chín năm 1938, Beck trình bày ý định của Balan đối với vùng Teschen.
    Hai ngày sau, ngày 21, Chính phủ Balan chính thức bãi bỏ hiệp định Balan – Tiệp về người thiểu số năm 1925 và chính thức đòi lại vùng Teschen. Quân đoàn Silésie được thành lập ở Vácxava vì mục đích chiếm vùng đất này.
    Liên Xô lên tiếng, dọa sẽ xóa bỏ Hiệp ước không xâm lược năm 1932 đối với Balan. Pháp cũng dậm dọa Balan. Nhưng thế đã quyết, Balan kiên quyết đứng về phía Đức. Sau hội nghị Munich mà Beck không được mời dự, cho là mình bị xỉ nhục và đã gửi cho Chính phủ các nước tham gia hội nghị một tối hậu thư rất thô lỗ vào ngày 30 tháng Chín, các yêu sách về lãnh thổ của Balan “phải” được phía Tiệp Khắc chấp thuận trước ngày 1 tháng Mười, và nước Tiệp Khắc cô độc, đã phải chấp nhận. Từ 1 giờ sáng ngày hôm đó, quân Balan vượt sông Olza tràn vào lãnh thổ Teschen của nước Tiệp, chiếm được 1000 ki-lô-mét vuông với số dân 230.000 người.
    Ghê gớm hơn, Balan tiếp tục muốn chiếm lãnh thổ Ucraina vùng nam Cácpát, vì cho rằng vùng này có những ổ hoạt động có ảnh hưởng đến phong trào chống chính quyền của cộng đồng người Ucraina ở Balan. Hítle đã không đồng ý với mưu đồ này nên Beck tạm dừng lại.
    Như vậy, sau hội nghị Munich, đại tá Beck đã tưởng rằng Balan “đã là một cường quốc” có thể tham gia vào thôn tính nước Tiệp Khắc, và thi hành chính sách thân, gần như là chư hầu với quốc xã, đẩy mình vào thế thù địch với Pháp và nhất là với Liên Xô.
    Trong cuộc gặp giữa ngoại trưởng Von Ribbentrop với đại sứ Balan tại Đức Lipsky, phía Đức vẫn nhấn mạnh tính bền vững của hiệp ước không xâm lược lẫn nhau giữa hai nước Đức – Balan.
    Nhưng cũng chính thời gian này mà âm mưu của nước Đức quốc xã đối với Balan đã thể hiện khá rõ nét.
    Trong tháng Mười một, hàng loạt người Balan nói tiếng Đức di cư về Đức. Cũng trong tháng này, Đức trục xuất 15.000 người Balan gốc Do thái về Balan.
    Từ tháng Mười, Đức đã “nhẹ nhàng” nói về vấn đề thành phố Đăngdích (Dantzig). Ngày 24 tháng Mười, Von Ribbentrop nói với đại sứ Balan tại Đức Lipsky rằng thành phố Đăngdích tự do cần phải được sáp nhập về Đức. Đức còn muốn xây dựng một tuyến đường sắt cao tốc xuyên qua đất Balan đến đó và tuyến đường sắt này phải được hưởng quy chế tài phán lãnh sự của Đức. Ngược lại Balan sẽ có một cảng miễn thuế tại Đăngdích và được xây dựng một tuyến đường sắt tương tự của mình đến thành phố này. Bù lại, hai bên sẽ kéo dài hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau ký năm 1934 không phải là 10 năm nữa mà là 25 năm. Đạt được như vậy, quan hệ Đức – Balan sẽ tốt đẹp y như quan hệ Đức – Italia!
    Lipsky vội vàng về nước báo cáo với Beck, ông ta hứa sẽ xem xét nhưng kiên quyết chống lại đề nghị sáp nhập Đăngdích vào Đức. Chính quyền Đức như đã nói, hết sức “nhẹ nhàng” và không đặt lại vấn đề nữa. Có lẽ với Đức, mọi chuyện của đất nước Balan gần như đã an bài.
    Nhưng Beck hình như cũng đã nhận ra lờ mờ tình thế của đất nước, và tìm cách xích lại gần Liên Xô. Tháng Mười năm 1938, đại sứ Balan tại Mátxcơva ông Grzybowsky đề nghị ký kết một hiệp ước hữu nghị mới trên cơ sở hiệp ước không xâm lược được ký năm 1932. Ngày 24 tháng Mười một hiệp ước được ký kết, công bố hai ngày sau đó. Hai bên tuyên bố tán thành việc trao đổi thương mại. Các hiệp định thương mại được đàm phán và ký kết vào ngày 10 tháng Hai năm 1939.
    Ngày 5 tháng Giêng năm 1939, đại tá Beck được Hítle mời đến Berchtesgaden. Trong cuộc hội đàm, hai bên đã nhấn mạnh sự thù địch chung chống Liên Xô. Nhưng đồng thời Hítle lại nêu vấn đề Đăngdích và đường sắt hành lang, đồng hời hứa hẹn là sẽ không bao giờ giải quyết vấn đề theo hướng “việc đã rồi”. Khi về, Beck thỏa mãn được việc liên minh với Đức để chống Liên Xô, nhưng lại bị đẩy vào thế phải “quyết” về thành phố Đăngdích. Ông ta không thổ lộ gì với Pháp dù giữa họ còn tồn tại một liên minh.
    Sau chuyện này, Léon Noël (1888 – 1987, Đại sứ Pháp tại Balan từ 1935 đến 1940, sau này tham gia Chính phủ kháng chiến của Thống chế Charles De Gaulle) đã nói: “Không có gì mù quáng hơn điều mà Beck đã làm!”.
    Cuối tháng Giêng, ngoại trưởng Đức Von Ribbentrop thăm Balan, là chuyến thăm chính thức đầu tiên (và cũng là cuối cùng) của một chính khách cao cấp quốc xã tới Balan. Hắn ta khẳng định tình hữu nghị giữa hai nước và tính bền vững của những gì hai bên đã ký kết. Đồng thời hắn cũng thăm dò Beck xem khả năng cùng đánh Liên Xô, với mục tiêu rõ rệt là chiếm Ucraina, có được không? Vì đang ở trong tình thế “Đăngdích”, nên Beck đã lịch sự từ chối cả hai vấn đề trên. Ông ta vẫn chưa hiểu tất cả chỉ là đòn gió của phía Đức mà thôi.
    Ngày 15 tháng Ba, nước Tiệp Khắc hoàn toàn tan rã, vùng Rutheni nam Cácpát bị sáp nhập vào Hunggari, vùng Memel bị sáp nhập tiếp vào Đức, làm cho tình thế nước Balan trở nên nguy hiểm hơn bao giờ hết. Nguy hiểm xuất hiện rõ nhất là trong cuộc hội đàm diễn ra vào các ngày 26 và 27 tháng Ba năm 1939 giữa Lipsky và Von Ribbentrop, Balan “bị buộc” phải gia nhập vào liên minh chống Liên Xô, đồng thời những yêu sách về Đăngdích được đặt lại lên bàn với áp lực ngày càng tăng. Ngày 29 tháng Ba, một cuộc biểu dương lực lượng của Hải quân quốc xã được tiến hành tại biển Bantích. Ngày 28 tháng Ba, Beck tuyên bố sẵn sàng dùng chiến tranh chứ không nhượng bộ về Đăngdích, nhưng ngược lại ông ta lại đánh tiếng với Đức rằng, chính ông ta chứ không phải ai khác, mới có thể duy trì tình thân hữu của Balan với nước Đức quốc xã bất chấp dư luận nhân dân Balan trong nước.
    Đại tá Beck chỉ đạo vội vã tìm kiếm sự ủng hộ từ Anh và Pháp, và đã đạt được những tuyên bố từ phía hai “ông kẹ” này. Nhưng chính điều đó lại tạo cớ cho Đức. Quốc vụ khanh Đức Von Weizsacker đã tuyên bố những thỏa thuận Anh – Balan ngày 6 tháng Tư là trái với những gì Balan đã ký kết với Đức!
    Trong giai đoạn này, phải nói đến một người có những cố gắng rất lớn cho hòa bình. Người đó không phài là I. Xtalin, mà lại là cố Tổng thống Hoa Kỳ Roosevelt. Ngày 14 tháng Tư, Ông đã đọc một bài diễn văn ở Ủy ban thống nhất liên Mỹ, nói rõ: “Vấn đề đặt ra là trên thực tế cần phải biết liệu nền văn minh của chúng ta có bị lôi kéo vào một cơn lốc bi thảm của chủ nghĩa quân phiệt vô hạn độ được đánh dấu bằng các cuộc chiến tranh định kỳ, hay chúng ta biết duy trì lý tưởng hòa bình, tự do cá nhân và văn minh vốn là nền tảng của cuộc sống chúng ta”. Hai ngày sau ông gửi cho Hítle và Mútxôlini hai bức thư cá nhân, đề nghị họ khẳng định trong 10 năm tới sẽ không xâm lược 29 quốc gia mà ông liệt kê trong thư. Nếu họ đồng ý, ông sẽ có đề nghị tương tự tới 29 quốc gia đó và Hoa Kỳ sẽ tham gia vào việc giải trừ quân bị và việc phân chia nguồn lợi nguyên liệu giữa các quốc gia.
    Những động thái này, không được Hítle hoan nghênh. Chính Roosevelt cũng không hy vọng nhiều vào những hành động của mình, mà chỉ nhằm làm cho những nước trong cuộc, ở châu Âu, nhất là Anh và Pháp, nhận rõ âm mưu và thái độ hiếu chiến của Hítle.
    Ngày 28 tháng Tư, Hítle đọc trước Quốc hội Đức một bài diễn văn dài, lấy cớ là đã có những cuộc hội đàm Anh – Balan, và sau đó thì nước Đức đã chuẩn bị cho kế hoạch Weiss (được Keitel ký ra lệnh cho quân đội Đức ngày 3 tháng Tư) – kế hoạch đánh chiếm Balan vào ngày 1 tháng Chín năm đó.
    Ngày 22 tháng Năm, Đức và Italia ký Hiệp ước – được gọi là “Hiệp ước Thép”, làm cơ sở hình thành phe Trục sau này.
    Từ đây, những diễn biến của tình hình chỉ là việc ngăn không cho một cuộc Đại chiến thế giới mới không xảy ra quá nhanh mà thôi, dù trên thực tế bên nào cũng hình dung rõ nét về nó lắm rồi.
    Cuộc chiến tranh đang đến quá gần làm cho các nước phương Tây cũng như Hítle muốn lôi kéo Liên Xô đứng về phía mình. Cho đến tháng Tám năm 1939 Liên Xô vẫn chưa có được một sự lựa chọn nào cả. Về phần mình, Liên Xô được ngăn cách với nước Đức ở Balan và Rumani, do đó việc tham gia bất cứ một liên minh chống Đức nào, Liên Xô cho là nguy hiểm và chưa cần thiết. Trong khi đó về ý thức hệ, Liên Xô cũng khó có thể gần gũi hơn được với Anh, Pháp… và thấy gần gũi hơn, muốn bảo vệ các nước dân chủ châu Âu như Tiệp Khắc. Ngày 11 tháng Ba năm 1939, trong diễn văn được đọc tại Đại hội Đảng cộng sản Liên Xô – Mátxcơva, Manuilxki đã tuyên bố: “Kế hoạch của giai cấp tài sản phản động Anh là hy sinh các quốc gia nhỏ bé ở đông nam châu Âu cho phát-xít Đức, hướng Đức sang phía Đông để đánh bại Liên Xô, nhắm lấy chiến tranh phản cách mạng để ngăn chặn sự tiến bộ của chủ nghĩa xã hội và thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản ở Liên Xô”. Cho đến nay, cái vế đầu “Kế hoạch của giai cấp tài sản phản động Anh là hy sinh các quốc gia nhỏ bé ở đông nam châu Âu cho phát-xít Đức, hướng Đức sang phía Đông để đánh bại Liên Xô…” đã chứng minh với lịch sử là hoàn toàn đúng đắn. Nhưng nếu Đức thắng Liên Xô, thì điều đó cũng đồng nghĩa với việc Đức chiếm nốt cả nước Anh không mấy khó khăn!
    Chính vì hướng về các nước dân chủ, nên ngày 19 tháng Ba, Liên Xô phản đối việc chia cắt làm tan rã nước Tiệp Khắc. Đồng thời Liên Xô bắt đầu đã có các cuộc hội đàm với nước Anh. Liên Xô đề nghị một cuộc hội đàm giữa những nước có liên quan nhất đến tình hình: Liên Xô, Anh, Pháp, Balan, Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng vì nhiều lý do mà đề nghị này không thành công, những lý do này không cần viết ra chúng ta đều đã biết là mỗi nước đều có những vấn đề và cách giải quyết riêng của mình.
    Nhìn chung trong lúc dầu sôi lửa bỏng này, nhưng những cố gắng của các bên vẫn rất kỳ lạ và đi theo những chiều hướng khác nhau, như những con kiến cùng kéo một miếng thức ăn, mỗi con đi về một hướng, nhưng lại làm cho tình hình chung đi về cái hướng tàn bạo và khốc liệt: chiến tranh!
    Người Anh phản ứng hết sức chậm chạp, ngược lại để trả lời “không!” thì người Xô-viết bao giờ cũng phản ứng hết sức nhanh chóng. Cả hai đều không có những dấu hiệu của thiện chí. Chỉ có người Pháp là vội, vì họ ở sát nách nước Đức. Nếu Đức đánh Balan, có nghĩa là chiến tranh. Mà chiến tranh, có nghĩa là Đức sẽ đánh nước Pháp. Pháp hoàn toàn chấp thuận một liên minh đầy đủ với Liên Xô, nghĩa là một trong hai nước bị đánh thì nước kia sẽ tham chiến. Còn Anh thì chỉ muốn Liên Xô đảm bảo cho trường hợp Balan và Rumani bị xâm lược, chứ không sẵn lòng tham chiến trong trường hợp Liên Xô bị tần công. Liên Xô thì muốn cả Anh và Pháp đều “được như Pháp”. Về phần mình, thật kỳ lạ, nước Balan của đại tá Beck thì phản đối mọi thỏa thuận có Liên Xô tham gia, và hơn nữa không ủng hộ bất cứ thỏa thuận nào bảo đảm cho Rumani. Đến tình thế này rồi, mà ông ta vẫn còn có những suy nghĩ kỳ lạ đến thế!
    Ngày 18 tháng Tư, Ủy viên nhân dân ngoại giao Liên Xô Lítvinốp đề nghị một hiệp ước an ninh tập thể, gồm có 3 định ước: 1- Hiệp định tương trợ và giúp đỡ lẫn nhau giữa 3 nước; 2 – Một thỏa ước quân sự và 3 – Hiệp ước đảm bảo cho các quốc gia nằm giữa biển Bantích và biển Đen. Trong Hiệp ước an ninh này có sự đảm bảo không có sự ký kết các hiệp ước riêng rẽ khác của các nước thành viên. Nhưng đây mới chỉ là đề nghị vì ngay sau đó, Môlôtốp thay Lítvinốp (người luôn hướng về an ninh tập thể) làm Ủy viên nhân dân ngoại giao Liên Xô. Đây là sự kiện làm đình chỉ việc đàm phán ký kết Hiệp ước nói trên và đánh dấu sự thay đổi chính sách của Liên Xô.
    Đến đây đã có được những nhượng bộ bước đầu của Anh, nhưng cũng không đi đến đâu vì một số những bất đồng, mà có thể do cố tình tạo ra. Ngày 27 tháng Năm, Anh và Pháp chấp thuận một dự án hiệp ước an ninh tập thể, Anh và Pháp sẽ tham chiến nếu Liên Xô bị xâm lược. Việc đảm bảo sẽ áp dụng với Balan, Rumani, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ và Bỉ. Với các nước vùng Bantích như Estonia, Latvia, Anh muốn ký kết một nghị định thư riêng, nhưng Liên Xô lại khăng khăng đòi đưa những nước đó vào diện được đảm bảo trong cùng Hiệp ước. Đây chính là cái cớ để Liên Xô bác bỏ đề nghị này của nước Anh.
    Ngày 1 tháng Bảy, Anh và Pháp lại đưa đề nghị mới, chấp nhận đề nghị của Liên Xô là đưa các nước Bantích vào diện được bảo đảm, có thêm Phần Lan trong số này – nhưng lại đưa thêm vào danh sách Thụy Sỹ và Hà Lan, vốn là hai nước không được Liên Xô chấp thuận ngay từ đầu. Và thế là các cuộc đàm phán lại quay về vạch xuất phát. Ngày 18 tháng Bảy, Anh và Pháp đồng ý bỏ hai nước trên ra khỏi danh sách, nhưng họ lại vấp phải những bất đồng khác, nhất là trong định nghĩa về một cuộc “xâm lược trực tiếp”, là cái cớ để hành động tham chiến sau này cho các quốc gia thành viên hiệp ước. Thế là câu chuyện lại chẳng đâu vào đâu.
    Không thành công về Hiệp định chính trị, họ quay ra đàm phán về Hiệp định quân sự. Nhưng vấn đề lớn nhất là Liên Xô cứ khăng khăng trong việc, liệu Balan có cho phép Hồng quân đi qua lãnh thổ của mình hay không? Pháp và Anh lại sa lầy vào việc thuyết phục Balan, mà chúng ta và cả những lãnh đạo Liên Xô đều thừa biết chẳng đời nào Beck đồng ý điều đó. Ngày 21 tháng Tám, Daladier (Thủ tướng Pháp) chỉ thị cho Doumenc (Đại sứ Pháp) phải ký bằng được Hiệp ước với Liên Xô, về việc đi qua lãnh thổ Balan cũng được, bất chấp Balan có đồng ý hay không. Nhưng đã quá muộn, vì Liên Xô yêu cầu có được sự đồng ý chính thức của Balan. Ngày 28 tháng 8, Vôrôsilốp cho triệu Doumenc đến để thông báo rằng những điều kiện từ phía Pháp chuẩn bị là không đủ, và Liên Xô cần có câu trả lời chính thức từ phía Balan và Rumani. Thái độ của Balan thì hết sức rõ ràng: nguyên soái Balan Smigly-Rydz nói: “Với người Đức chúng tôi có nguy cơ sẽ mất tự do, nhưng với người Nga chúng tôi sẽ mất cả linh hồn!”.
    Xin nhớ rằng, Hiệp ước Xô – Đức được ký ngày 23 tháng Tám năm 1939!
    Quay lại với Đại hội Đảng cộng sản Liên Xô ngày 10 tháng Ba năm 1939, Xtalin không hề đả kích mạnh mẽ Hítle và tập đoàn cầm quyền của y. Ông chỉ nói rằng sự yếu kém của các nước phương Tây chính là nguyên nhân chính của những hành động bạo lực của Đức. Ông ta cũng chi ra rằng, không có căn cứ để xác định chính sách thù địch với nước Đức của Liên Xô.
    Ngày 3 tháng Năm, Môlôtốp được cử giữ chức Ủy viên nhân dân ngoại giao. Ngày 17 tháng Tư năm đó, đại sứ Liên Xô tại Đức Mêrêkalốp đã gặp Quốc vụ khanh Đức Von Weizsacker vừa đề ra mắt, trình quốc thư và đồng thời xúc tiến thực hiện những Hợp đồng đã ký kết, được thực hiện tại những xí nghiệp quốc phòng của tổ hợp Skoda (Tiệp) bây giờ đã thuộc về Đức. Trong cuộc hội kiến, ông ta đã nói khá rõ ràng là Liên Xô đã đang và sẽ không lợi dụng mối bất hòa Đức – phương Tây, và không có lý do gì để cho quan hệ Đức – Xô xấu đi cả! Ngoài ra sau đó Liên Xô còn có một số những động thái mới, trong khi chính Đức quốc xã lại e dè, sợ rơi vào một âm mưu gì đó của Liên Xô!
    Nhưng dần dần thì họ cũng nắm được cơ hội. Họ đang chứng minh cho Liên Xô thấy rằng, về ý thức hệ, Đức và Italia gần gũi hơn với Liên Xô trong việc chống lại “bọn tư bản phương Tây”! Và trong mối quan hệ hỗ tương đó, Đức sẽ đem lại cho Liên Xô nhiều hơn là những gì mà nước Anh sẽ mang lại cho Liên Xô!
    Ở đây còn một kẻ vội vã nữa: chính là bọn Đức quốc xã. Chúng đã quyết định tấn công Balan vào ngày 1 tháng Chín, nên phải quyết định nhanh. Ngày 23 tháng Tám năm 1939, Von Ribbentrop đến Mátxcơva – y được ủy quyền toàn quyền ký với Môlôtốp một Hiệp ước có hiệu lực ngay. Ngay đêm đó Hiệp ước được ký kết, cam kết không xâm lược lẫn nhau, không tham gia vào một liên minh nào chống lại nước kia, không ủng hộ bất cứ một nước thứ ba nào chống lại nước kia và giải quyết những bất đồng qua trọng tài. Nhưng Hiệp ước không quan trọng bằng nghị định thư bí mật đi kèm. Theo A. Rossi (“Hai năm liên minh Đức – Xô”) thì nghị định thư này gồm 3 chương chính:
    Chương 1: các nước nằm trong vùng ảnh hưởng của Liên Xô gồm Phần Lan, Estonia, Látvia. Những nước nằm trong vùng ảnh hưởng của Đức có Lítva. Hai nước Đức – Xô công nhận quyền lợi của Lítva ở Vilna.
    Chương 2: quy định ranh giới vùng ảnh hưởng của hai nước trên đất Balan, được vạch ra trên tuyến ba con sông Narép – Vixtuyn – Xan (Narew – Vistule – San) “Vấn đề liệu có nên, vì lợi ích của cả hai bên, duy trì một nước Balan độc lập và quy định các biên giới của nước này như thế nào, chỉ có thể được giải quyết trong diễn biến chính trị trong tương lai. Trong mọi trường hợp hai Chính phủ sẽ giải quyết bằng con đường thỏa thuận hữu nghị”.
    Chương 3: ghi nhận sự quan tâm của Liên Xô đối với vùng Bétxarabi, và phía Đức quốc xã tuyên bố không có lợi ích chính trị nào ở khu vực này.
    Xtalin đã nâng cốc chúc sức khỏe của Hítle: “Tôi biết là dân tộc Đức yêu mến vị Quốc trưởng của mình như thế nào; và tôi muốn được nâng cốc chúc mừng sức khỏe của ông ta”. Xtalin theo đuổi chính sách một nước Balan thu hẹp chỉ còn một dải đất mỏng dính kẹp giữa ông ta và Hítle, đủ để làm vùng đệm phòng thủ sau này.
    Như vậy với Hiệp ước này, chính là thời khắc đánh dấu việc cuộc chiến tranh bùng nổ là không thể tránh khỏi.
    7 – Thôn tính Balan – Bùng nổ cuộc Chiến tranh Thế giới lần thứ 2

    Arthur Neville Chamberlain (1869 – 1940) Thủ tướng Anh
    Từ đó trở đi, là thời gian của những sự kiện biên giới Đức – Balan, hầu hết do phía Đức gây ra. Đại tá Beck bình tĩnh một cách kỳ lạ. Ông ta ra tuyên bố lấy làm tiếc về việc Hiệp ước Đức – Balan bị phía Đức phá bỏ, và vẫn kiên quyết trong việc bảo vệ Đăngdích nhưng có vẻ không mấy cương quyết trong việc chuẩn bị chiến tranh. Trên thực tế, người dân Balan không hào hứng lắm với việc kháng chiến chống Đức. Theo nhiều tài liệu, Quân đội của Beck chỉ tuyển được có 700.000 quân trong số 3 triệu người trong tuổi động viên. Ngoài ra cho đến phút cuối cùng, Beck vẫn tin ở việc Đức không thể tấn công được trước cuối tháng Chín.
    Ngày 30 tháng Tám, Đức lần cuối cùng đưa yêu sách 16 điểm, trong đó có việc thành phố tự do Đăngdích phải được sáp nhập vào Đức, Gdynia vẫn là của Balan nhưng bị phi quân sự hóa, và lập lại trật tự bảo vệ kiều dân Đức “đang bị vi phạm quyền lợi từ sau năm 1918”. Người Balan đã không nhận thức được những điều kiện đó, vì bây giờ tất cả phụ thuộc vào ý chí của Hítle: hoặc là Balan đầu hàng, hoặc chiến tranh!
    Ngày 31 tháng Tám, Balan mới ra lệnh tổng động viên, thì đến 0 giờ ngày 1 tháng Chín, đất nước đã bị tấn công. Cùng lúc đó chính quyền thành phố Đăngdích tuyên bố tự sáp nhập vào nước Đức quốc xã.
    Về quân sự, Balan không thể kháng cự được Đức. Đây là lần đầu tiên chiến thuật “Chiến tranh chớp nhoáng” (Blitzkrieg) được thử nghiệm thành công. Nhưng quân đội Balan cũng đã gây cho Đức những thiệt hại đáng kể.
    Liên Xô bắt đầu động viên từng phần. Ngày 9 tháng Chín, Môlôtốp đánh tiếng với Đức là Liên Xô chuẩn bị can thiệp vào tình hình. Ngày 12 tháng Chín, ở Liên Xô có một chiến dịch báo chí rầm rộ về việc người Bạch Nga và Ucraina bị đối xử tồi tệ ở Balan.
    Xin nhắc lại, từ tháng Năm năm 1939, Liên Xô đã tiến hành các cuộc giao tranh ở Khankhin Gôn, nhằm “dằn mặt” Nhật Bản. Và rõ ràng là Liên Xô đã hoàn toàn yên tâm về mặt này.
    Ngày 17 tháng Chín năm 1939, viện cớ nội bộ nước Balan đã tan rã, các hiệp ước giữa Liên Xô và Balan đã không còn giá trị, nên quân đội Liên Xô tiến vào Balan để bảo vệ người Bạch Nga và Ucraina. Von Ribbentrop đã nói sự can thiệp của Liên Xô là hoàn toàn phù hợp với kế hoạch. Ngày 18 tháng Chín hai bên ra một tuyên bố chung Xô – Đức là việc hai nước liên minh quản lý nước Balan đã tan vỡ và cứu giúp nhân dân Balan. Nhưng đã xuất hiện những mầm mống đầu tiên của sự tan vỡ liên minh. Đức quốc xã không thiện cảm với chiến dịch của Liên Xô, tiến vào đất Balan mà chẳng vấp phải trở ngại nào, trong khi người Balan lại kháng cự kịch liệt ở phía Tây.
    Ngày 22 tháng Chín, sau vài ngày thương lượng, ranh giới giữa hai nước được xác định nằm trên tuyến sông Pixa – Narép – Búc – Vixtuyn (tên Balan là Vixla) – Xan (Pissa – Narew – Bug – Vistule – San). Chính quyền Vácxava cố chống cự đến ngày 29 tháng Chín rồi thua hẳn. Thủ đô Balan nằm trong vòng kiểm soát của phát-xít Đức, từ bờ phải sông Vixtuyn (Vixla) thuộc về Liên Xô.
    Như vậy cùng với sự tan rã của chính quyền Balan, Xtalin là từ bỏ ý định “nhân đạo” duy trì một những Balan “mỏng dính”. Ngày 27 tháng Chín, Von Ribbentrop đến Mátxcơva và ngày 28 ký một hiệp ước Xô – Đức mới, với một nghị định thư bí mật mới, trong đó quan trọng nhất là việc quy định lại ranh giới vùng chiếm đóng giữa hai nước, có lợi hơn cho Đức so với ranh giới ngày 22 tháng Chín vì không theo sông Vixla nữa mà theo sông Búc, đổi lại, Lítva sẽ chuyển sang vùng ảnh hưởng của Liên Xô. Ranh giới này có lợi hơn cho Liên Xô so với nước Nga của thời kỳ năm 1795, vì như vậy Liên Xô sẽ có thêm vùng Galicie và cũng có lợi hơn so với tuyến biên giới Curzon năm 1920.
    Tiếp đó là những sự kiện khác của cuộc Đại chiến, trong đó có các âm mưu chống lại Liên Xô của phát-xít Đức. Một trong những sự kiện tôi cảm thấy cần nhắc đến là yêu sách của Đức đối với Liên Xô về đường biên giới Đức – Xô, được phía Đức đưa ra vào thời gian mùa xuân năm 1941, và Liên Xô đã chấp thuận vào ngày 25 tháng Tư năm 1941, rút quân về phía biên giới cũ của mình, chính tuyến biên giới mà ngày 22 tháng Sáu năm 1941, Hítle cho quân tràn qua bắt đầu bước vào cuộc phiêu lưu quân sự lớn nhất trong lịch sử.
    KẾT LUẬN
    Như vậy chúng ta có thể rút ra một số kết luận về những sự kiện lịch sử này. Về lịch sử mà nói, thì sự kiện Katyn là một tội ác của Bêria, nhưng chắc chắn có sự chỉ đạo của Xtalin. Trước Cách mạng tháng Mười, nước Balan nằm trong đế chế của Nga hoàng, như vậy có thể nói, nước Balan chưa bao giờ nguôi ý thức phản kháng với người Nga. Ngược lại, chắc hẳn người Nga cũng chưa thể quen ngay với việc nước Nga mất đi những khoảng đất lớn, như Balan và sau này, Tiểu Nga, Bạch Nga, các nước vùng Bantích và nhiều nữa… Hơn nữa như ở những phần đầu tôi đã trình bày, chính tại nước Balan cũng đã từng tồn tại những mưu đồ chống lại người Nga, thể hiện rõ nhất là những hoạt động của Bạch vệ Balan (gây rất nhiều tội ác) trong các vùng đất Ucraina và Bêlaruxia xô-viết thời nội chiến.
    Sai lầm của chính giới Balan là ở chỗ họ đã có một thái độ thù địch quá rõ rệt với người Nga – khi mà không phải ai khác, chính chính quyền Xô-viết sau Cách mạng đã trả lại độc lập cho Balan, cũng như Phần Lan vậy. Cùng với tâm lý trên đây, sự thù địch quá rõ ấy đã đẩy họ vào thế hết sức bất lợi. Tiếp nữa, chính họ cũng là những người “yếu còn ra gió”, chưa lo được thân mình còn định đi chiếm đất của nước khác!
    Lịch sử trong cùng một lúc xuất hiện đến ba “thằng đểu”. Người thứ nhất, chính là Thủ tướng Arthur Neville Chamberlain của Anh. Chính ông ta chứ không phải ai khác, muốn hướng cuộc chiến tranh của Đức sang phía Liên Xô.
    Người thứ hai, là Xtalin. Đây là một người phức tạp và khó đánh giá. Ông ta rõ ràng là đúng khi tính toán chiến lược, vì nếu không chiếm được đất Balan làm vùng đệm thì Đức cũng chiếm, và thế thì còn nguy hiểm hơn. Cũng khó mà đoán được rằng liệu ông ta có tính toán cho việc sau này, Hồng quân Liên Xô sẽ tràn sang chiếm nước Đức, lập nên cả một hệ thống các nước XHCN ở Đông Âu hay không, vì thế vụ thảm sát Katyn như tác giả của loạt 8 bài đưa ra là nhằm làm sạch hậu phương của Hồng quân sau này, có vẻ như là xa vời quá. Theo tôi, đó là hành động “làm sạch” hậu phương của Hồng quân vào chính thời điểm đó thì đúng hơn. Nhưng Xtalin phải chăng đã quá ngây thơ khi tin vào hứa hẹn của Hítle? Tôi đoán thời gian đầu thì có, nhưng càng về sau thì ông ta càng không tin nữa và gấp rút chuẩn bị chiến tranh. Ông ta đã không đoán được ngay từ đầu rằng, việc đánh Liên Xô là tất yếu, chứ không phải nước Anh trước! Thực ra, Xtalin còn tàn ác cả với chính những người Xô-viết bị cho là chống đối, thì đúng là việc “xử lý” những sỹ quan Balan đó, cũng không quá khó hiểu. Có thể nói những sỹ quan bị thủ tiêu đó là nạn nhân của chế độ độc đoán Xtalin. Chính trị đồng hành với tội ác.
    Người thứ ba, một thằng đểu chính hiệu là Hítle. Hắn đã rất logic khi tính toán là cuộc chiến chống nước Anh sẽ “cù cưa”, còn nước Pháp thì không được tính! Vì thế để đảm bảo nguồn lực cho cuộc chiến đó, sẽ phải là lúa mì Ucraina, là quặng Ural, là dầu Bacu! Vì thế mà hắn tính toán kỹ đến từng nước cờ và rõ ràng trên bàn cờ chính trị giai đoạn trước Đại chiến, hắn là người thắng cuộc. Hắn chỉ tính sai một điều, đó là hắn không biết người Nga là ai!
    Ngày hôm nay, người Nga đã chính thức xin lỗi người Balan vì sự kiện Katyn bi thảm trên. Nhưng gần đây, nhất là trên các phương tiện thông tin đại chúng Việt Nam, cụ thể là trên mạng internet xuất hiện những bài báo còn chưa đầy đủ, phiến diện. Tôi muốn nghiên cứu những nguyên nhân dẫn đến nó như là một trong tổng thể những sự kiện nằm giữa hai cuộc chiến tranh thế giới, và nhất là nằm trong những sự kiện trực tiếp dẫn đến cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ 2. Những nguyên nhân của Katyn phải được xem xét dưới góc độ lịch sử khách quan và trong mối quan hệ biện chứng với những sự kiện khác là nguyên nhân của cuộc Đại chiến. Tôi muốn cố gắng để đưa ra một nghiên cứu đầy đủ và khách quan nhất về sự kiện trên, là như thế. Xin giành lời cuối để tưởng niệm những nạn nhân của tội ác, và mong tội ác sẽ không còn diễn ra trên thế giới trong tương lai gần.

    Lý giải sự tàn bạo của Stalin

    Print Friendly
    stalin
    Tác giả: Anne Applebaum | Biên dịch: Lương Khánh Ninh
    Kho lưu trữ hồ sơ của Nga hé lộ rằng Stalin không phải là một kẻ điên rồ mà là một nhà lý luận tài tình và duy lý đến mức không gì lay chuyển được.
    Làm sao mà Stalin đã trở thành Stalin? Hay nói một cách chính xác hơn: làm thế nào mà Iosif Vissarionovich Djugashvili – cháu của hai người nông nô, con của một người phụ nữ làm nghề giặt quần áo và một thợ sửa giầy – đã trở thành Nguyên soái Stalin, người chịu trách nhiệm cho những vụ giết người hàng loạt dã man nhất mà thế giới từng biết đến? Làm sao mà một cậu bé sinh ra tại một thị trấn vùng núi heo hút ở Gruzia đã trở thành một nhà độc tài nắm quyền kiểm soát một nửa châu Âu? Làm sao mà một chàng thanh niên mộ đạo, người đã chọn theo học để trở thành một linh mục, lại trở thành một người nhiệt thành với chủ nghĩa vô thần và một người theo chủ nghĩa Marx?
    Chịu ảnh hưởng của Freud, nhiều nhà viết tiểu sử tham vọng – chưa kể đến những nhà tâm lý học, triết gia hay sử gia – đã tìm kiếm câu trả lời cho các câu hỏi này dựa trên thời thơ ấu của Stalin. Giống như sự cuồng tín của Hitler được “giải thích” dựa trên nền tảng giáo dục, đời sống tình dục hay tinh hoàn được cho là chỉ có một bên của ông ta, sự tàn bạo mang hơi hướng tâm thần của Stalin được quy cho người cha của ông, người được chính Stalin miêu tả là “đã đánh đập ông ta không thương tiếc,” hay cho người mẹ vốn có thể đã ngoại tình với một vị linh mục địa phương. Những kiến giải khác đề cập đến một tai nạn khiến cho tay phải Stalin bị teo lại, việc ông bị bệnh đậu mùa làm cho khuôn mặt ông trở nên đầy sẹo, hay khiếm khuyết từ khi sinh ra khiến hai ngón chân của bàn chân trái dính vào nhau – dấu hiệu của quỷ dữ.
    Chính trị cũng có tác động đến những người viết tiểu sử Stalin. Trong cuộc đời Stalin, những người ủng hộ đã biến ông ta thành một siêu anh hùng nhưng những người phản đối cũng áp đặt thành kiến của họ với ông. Leon Trotsky, đối thủ nguy hiểm nhất của Stalin, là một người đưa ra kiến giải về Stalin có tầm ảnh hưởng nhất cho đến giờ, qua đó định hình quan điểm của một thế hệ sử gia từ Isaac Deutscher trở đi. Stalin trong con mắt của Trotsky là một người trí tuệ hạn chế và tâm hồn u ám, là một anh tỉnh lẻ không có giáo dục đã thâu tóm quyền lực nhờ thao túng chính trị và bạo lực đẫm máu. Trên hết, theo Trotsky, Stalin là kẻ ban đầu đã phản bội Lenin và sau đó là sự nghiệp của chủ nghĩa Marx. Đây là những phác họa về Stalin nhằm truyền cảm hứng cho những người theo chủ nghĩa Trotsky tiếp tục trung thành với một dạng thức cách mạng Xô-viết mà “đã có thể xảy ra” nếu như người lên nắm quyền là Trotsky chứ không phải là một Stalin ảm đạm, thận trọng và luôn nghi ngờ.
    Kể từ khi kho lưu trữ Liên Xô mở cửa từ những năm 1990, những bản mô tả mang màu sắc chính trị và tâm lý học kể trên về cuộc đời Stalin bắt đầu bị phủ nhận. Chính trị vẫn có ảnh hưởng đến việc ông được công chúng nhớ đến như thế nào: những năm gần đây, các nhà lãnh đạo Nga đã làm nhẹ đi những tội ác của Stalin đối với chính người dân của ông ta và tổ chức lễ kỷ niệm cuộc chinh phạt châu Âu do ông tiến hành. Tuy nhiên, sự sẵn có của hàng ngàn tài liệu mật một thời và nhiều thư từ cũng như hồi ký trước đây được giấu kín đã cho phép các sử gia nghiêm túc viết về những sự thật đáng chú ý hơn.
    Clip tiểu sử tóm tắt của Stalin. Nguồn: History.com
    Chẳng hạn, sau khi khai thác những nguồn tin ở Tbilisi và Moscow cho cuốn sách Stalin thời trẻ (Young Stalin), nhà sử học và nhà báo Simon Sebag Montefiore đã khắc họa nhà độc tài Stalin như một người năng nổ trong hoạt động khuấy động quần chúng, một tay mê hoặc phụ nữ kiểu Lothario, một nhà thơ và một nhà viết luận phê bình chính trị – khác hẳn với hình ảnh một tay viên chức thô lỗ ngu xuẩn như trong trí tưởng tượng của Trotsky.
    Đào sâu tìm hiểu bộ sưu tập hồ sơ được ít người biết đến này, học giả người Nga Oleg Khlevniuk đã đưa ra câu chuyện vô cùng chi tiết về sự phát triển của Đảng Cộng sản Liên Xô từ sự hỗn loạn của cách mạng cho đến cái mà cuối cùng trở thành chủ nghĩa Stalin. Những cuốn sách của Khlevniuk – cùng với những bức thư đã được biên tập của Stalin gửi đến hai trong số những trợ thủ của ông, Vyacheslav Molotov và Lazar Kaganovich, cùng với rất nhiều tài liệu khác về lịch sử của Gulag (trại cải tạo lao động của Liên Xô- NBT), về quá trình tập thể hóa, về nạn đói ở Ukraine, về KGB – cho thấy Stalin không gây dựng nền độc tài Liên Xô chỉ nhờ mánh khóe, thủ đoạn, hay ông đã không làm điều này một mình. Stalin đã được trợ giúp bởi những người có cùng sự tận tâm cũng như từ hàng ngàn cảnh sát mật hết sức trung thành với lý tưởng.
    Trong một cuốn tiểu sử hết sức tham vọng – tập đầu tiên của bộ ba cuốn với độ dày gần 1.000 trang viết về Stalin kể từ khi sinh (năm 1878) cho đến năm 1928 – Stephen Kotkin, giáo sư sử học tại Princeton, bắt đầu tổng hợp các công trình của những học giả trên cũng như của hàng trăm học giả khác. Mục tiêu của ông trong cuốn Stalin là quét sạch vĩnh viễn mọi lớp “mạng nhện” cũng như những câu chuyện thần bí khỏi việc chép sử Liên Xô.
    Ông bác bỏ những người theo lối tư duy của Freud, lập luận rằng không có điều gì đặc biệt bất thường trong thời niên thiếu của Stalin so với một người có cùng độ tuổi và xuất thân giống ông ta. Sergei Kirov, một thành viên trong nhóm nội bộ của Stalin, lớn lên trong một trại trẻ mồ côi sau khi người cha nghiện rượu rời bỏ gia đình và người mẹ của ông chết bởi bệnh lao. Grigory Ordzhonikidze, một đồng chí khác của Stalin, mất cả cha lẫn mẹ khi ông ta 10 tuổi. Ngược lại, chàng trai Stalin có một người mẹ mà, bất chấp xuất thân của bà, là một người tham vọng và năng nổ, người đã huy động cả đại gia đình hỗ trợ cho cậu con trai tài năng của bà.
    Quan trọng hơn, Kotkin lưu ý, Stalin thời trai trẻ trở nên nổi bật tại Tiflis hồi cuối thế kỷ 19 không phải bởi ông có tính du côn mà bởi ông là một học sinh xuất sắc. Mười sáu tuổi, Stalin được nhận học ở trường dòng Tiflis, “nấc thang cao nhất của hệ thống giáo dục ở vùng Cáp-ca-dơ… bước đệm để theo học tại một trường đại học nào đó của đế chế.” Dù sau này bỏ học ở trường, bị cuốn vào thế giới chính trị cực tả bí mật nhưng Stalin vẫn giữ được phong cách lôi cuốn của mình. Ông đến Baku năm 1907 để kích động các công nhân khai thác dầu, tham gia “bắt con tin đòi tiền chuộc, tống tiền và cướp biển” và cả một vụ ám sát chính trị kỳ lạ. Stalin hết ra tù lại vào tù, thể hiện khả năng trốn thoát đặc biệt tài tình và khả năng sử dụng một loạt bí danh và cải trang để tránh bị nhận dạng.
    Dần dần, Kotkin xây dựng nên một cách lý giải khác về con người Stalin cũng như một vài thứ khác nữa. Thành tựu đặc trưng của quyển sách, và cũng là sai lầm chủ yếu của nó, là phạm vi đề tài vô cùng rộng lớn: Kotkin đã bắt đầu viết về không chỉ toàn bộ cuộc đời của Stalin mà còn toàn bộ lịch sử sự sụp đổ của đế chế Nga và quá trình hình thành đế chế Liên Xô thế chân đế chế cũ. Cuốn sách của ông viết về những chi tiết từ cuộc sống của Bismarck và Mussolini cũng như những chính trị gia dưới thời Sa hoàng như Sergei Witte, Pyotor Stolypin, và Pyotor Durnovo cho tới Sa hoàng và Nữ hoàng Nga; và tất nhiên là cả Lenin, Trotsky, Nadezhda Krupskaya, Nikolai Bukharin, and Felix Dzerzhinsky. Và danh sách chưa dừng lại ở đó.
    Tuy nhiên, những năm tháng và những cuộc khủng hoảng trôi qua, một bức tranh rõ nét về sự phát triển nhận thức của Stalin dần xuất hiện. Người ta có thể dễ bỏ qua điều này, nhưng tại thời điểm Cách mạng Nga xảy ra Stalin đang ở độ tuổi cuối 30 và bản thân không có bất kỳ thứ gì để có thể mang ra khoe khoang được. Ông ta “không có tiền, không có nơi ở cố định, và không có chuyên môn gì ngoài việc bình luận,” tức là ông viết cho những tờ báo ngoài luồng. Stalin chắc chắn không được huấn luyện gì về thuật trị nước cũng như không có bất kỳ kinh nghiệm quản trị nào. Cuộc đảo chính của những người Bolshevik năm 1917 lần đầu tiên mang đến cho Stalin và những đồng chí của ông ta hương vị vinh quang chiến thắng. Cuộc cách mạng gần như bất khả của những con người này – kết quả ván cược mạo hiểm của Lenin – đã giúp xác thực ý thức hệ cuồng tín và mơ hồ của họ. Hơn nữa, chiến thắng này mang đến cho họ sự an toàn cá nhân, danh tiếng và quyền lực mà trước đó họ chưa từng biết tới.
    Kết quả là, hầu hết những nhà lãnh đạo Bolshevik tiếp tục tìm kiếm sự dẫn đường chỉ lối từ ý thức hệ này và Stalin không phải là ngoại lệ. Những năm sau đó, người ngoài lắng nghe một cách hoài nghi những tuyên bố của giới lãnh đạo Liên Xô và không biết liệu những lời này liệu có thành thật. Câu trả lời của Kotkin là “có”. Không giống như một kẻ đa nghi vô giáo dục như trong tưởng tượng của Trotsky, Stalin ngoài đời dùng ngôn ngữ ý thức hệ để biện minh cho bất kỳ quyết định nào, kể cả trước đám đông hay trong các cuộc gặp riêng. Thật là một sai lầm nếu như ta không đánh giá nghiêm túc tầm quan trọng của thứ ngôn ngữ này bởi nó cung cấp một chỉ dẫn hoàn hảo để tìm hiểu suy nghĩ của Stalin. Stalin thường xuyên làm đúng như những gì ông ta đã nói.
    Điều này chắc chắn đúng trong lĩnh vực kinh tế. Như Kotkin đã chỉ ra một cách chính xác, những người Bolshevik được thôi thúc bởi “những ý tưởng hoặc thói quen tư duy, đặc biệt là ác cảm sâu sắc đối với thị trường và tất cả những gì liên quan đến tầng lớp tư sản cũng như các phương pháp tiến hành cách mạng bằng mọi cách thức.” Ngay sau khi cuộc cách mạng kết thúc, những niềm tin mãnh liệt này đã khiến họ cấm buôn bán tư nhân, quốc hữu hóa công nghiệp, tịch thu tài sản và ngũ cốc đồng thời tái phân phối chúng tại các thành phố – tất cả những chính sách này đều phải nhờ đến bạo lực quần chúng để tiến hành. Năm 1918, đích thân Lenin đề xuất rằng nên ép nông dân chuyển ngũ cốc cho nhà nước và những ai từ chối nên bị xử bắn tại chỗ.
    Mặc dù một vài trong số những chính sách kể trên bao gồm cả tịch thu ngũ cốc tạm thời bị bãi bỏ trong những năm 1920, Stalin đã mang chúng trở lại vào thời điểm cuối thập niên này và sau cùng còn áp dụng chúng rộng rãi hơn. Không có gì ngạc nhiên, những chính sách được Stalin phục hồi là kết quả logic của mọi cuốn sách ông ta đã đọc và của tất cả những lập luận chính trị mà ông đã từng đưa ra. Stalin, theo như Kotkin hé lộ, không phải là một tay viên chức rỗng tuếch hay một kẻ ngoài vòng pháp luật mà là một người đàn ông tuân thủ một cách cứng nhắc một thứ học thuyết khắt khe. Tính bạo lực của ông ta không phải là sản phẩm của tiềm thức mà là sản phẩm của sự kết hợp giữa một người Bolshevik và ý thức hệ Marx-Lenin.
    Ý thức hệ Marx-Lenin đã cung cấp cho niềm tin của Stalin một điểm tựa vững chắc bất chấp những thất bại về kinh tế. Nếu những chính sách với mục đích đem lại sự thịnh vượng đã thất bại và thay vào đó đã dẫn đến đói nghèo, ông ta hoàn toàn có thể tìm ra một cách lý giải cho những thất bại này: hoặc lý thuyết bị diễn giải sai hoặc các lực lượng không liên kết với nhau một cách hợp lý hay các quan chức đã mắc sai lầm trong khâu thực hiện. Nếu những chính sách của Liên Xô không được lòng dân, trong đó có giới công nhân, điều này cũng có thể được giải thích rằng sự chống đối đang ngày càng gia tăng bởi xung đột giai cấp đang ngày càng trở nên căng thẳng.
    Bất cứ điều gì có vấn đề, thì trách nhiệm luôn có thể được quy cho từ sự chống phá cách mạng, các lực lượng bảo thủ, cho đến tầm ảnh hưởng bí mật của tầng lớp tư sản. Niềm tin này được củng cố hơn nữa bởi các trận chiến khốc liệt giữa hai phe Hồng quân và Bạch vệ giai đoạn 1918-1920. Sau hết lần này đến lần khác, Stalin học được rằng bạo lực là chìa khóa dẫn đến thành công. Kotkin viết, “nội chiến không phải là thứ tiêu diệt những người Bolsheviks; nó tạo ra họ… [nó cung cấp] cho họ cơ hội phát triển và chứng thực (sự cần thiết của) cuộc chiến chống lại “những giai cấp bóc lột” và “những kẻ thù” (trong nước và quốc tế), nhờ đó đem lại một sự ngộ nhận về tính chính danh, tính khẩn cấp và động cơ đạo đức nhiệt thành để tiến hành những biện pháp dã man.”
    Đối với Stalin, cuộc nội chiến mang tính chất định hình tư duy đặc biệt quan trọng bởi nó cho ông ta trải nghiệm đầu tiên về quyền lực điều hành. Năm 1918, ông được điều đến thành phố Tsaritsyn nằm ở vị trí chiến lược dọc theo sông Volga và là một đầu mối đường ray xe lửa. Nhiệm vụ của Stalin là đảm bảo nguồn lương thực cho những người công nhân đang đói khát ở Moscow và Petrograd bằng cách tịch thu ngũ cốc ở Tsaritsyn, hay nói cách khác đóng vai trò như một “thủ lĩnh băng đảng Bolshevik” trên thực tế.
    Để làm được điều này, Stalin tự trang bị cho bản thân sức mạnh quân sự bằng việc chiếm quyền điều hành chi nhánh cảnh sát mật tại địa phương và trộm 10 triệu rúp từ một nhóm Bolshevik khác. Khi đường ray xe lửa không hoạt động được đúng như ông ta mong muốn, Stalin hành quyết những chuyên gia kỹ thuật địa phương, gọi họ là “những kẻ phản giai cấp.” Ông ta giết hại những người bị nghi là phản cách mạng, mà theo lập luận của Kotkin là Stalin làm những điều này “không phải bắt nguồn từ tính tàn bạo hay hoảng loạn mà từ chiến lược chính trị nhằm kích động quần chúng,” Stalin cũng cảnh báo những thuộc cấp rằng những kẻ thù của cách mạng ở trong nước đang sắp sửa tiến hành một cuộc nổi dậy, tái chiếm thành phố và chuyển giao thành phố cho phe Bạch vệ: “Đây là kịch bản phôi thai của vô số những phiên tòa được thêu dệt nên trong thập niên 1920 và 1930 sau này.”
    Những biện pháp kể trên suýt chút nữa đã dẫn đến sự sụp đổ quân sự của Tsaritsyn và Lenin cuối cùng cũng phải gọi Stalin quay trở lại Moscow. Dù vậy họ cũng đã có được ngũ cốc. Sau khi cuộc nội chiến chấm dứt, những thất bại quân sự của Stalin chìm vào quên lãng. Tsaritsyn thậm chí còn đổi tên thành Stalingrad. Mẫu hình này sẽ còn lặp lại nhiều lần trong suốt cuộc đời của Stalin. Hết lần này đến lần khác, mỗi khi phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng quy mô lớn, Stalin sẽ sử dụng những biện pháp ngoài vòng pháp luật “mang tính cách mạng” để giải quyết. Đôi khi kết quả chỉ kéo dài và làm sâu sắc thêm cuộc khủng khoảng. Nhưng nếu ông ta đủ tàn bạo và nhẫn tâm, tất cả mọi sự chống đối sẽ dần biến mất. Tập đầu tiên trong bộ ba cuốn của Kotkin kết thúc với tuyên bố của Stalin về quyết định tập thể hóa nền nông nghiệp Liên Xô. Việc ban hành chính sách này sẽ đòi hỏi sự di tản, cầm tù người dân, và sau cùng là việc hàng triệu người bị chết đói. Tuy nhiên điều đó dẫn tới chiến thắng chính trị tuyệt đối của Stalin.
    Trong xã hội phương Tây đương thời, chúng ta thường cho rằng những kẻ thực hiện bạo lực quần chúng phải có vấn đề về tâm thần hay thuộc dạng phi lý trí, nhưng theo câu chuyện của Kotkin thì Stalin không phải loại người như vậy. Theo đó, việc diễn giải Stalin như một con người duy lý và cực kỳ thông minh, được thôi thúc mạnh mẽ bởi một ý thức hệ đủ để biện minh cho cái chết của nhiều triệu người, thậm chí còn đáng ghê sợ hơn.
    Điều đó có nghĩa rằng chúng ta có thể cần nhìn nhận nghiêm túc hơn những tuyên bố của các chính trị gia Nga, những người gần đây đã lập luận ủng hộ việc sử dụng vũ khí hạt nhân chống lại các quốc gia vùng Baltic hay những tuyên bố của lãnh đạo Nhà nước Hồi giáo kêu gọi tiêu diệt tất cả những người theo đạo Cơ đốc và người Do Thái. Chỉ vì thứ ngôn ngữ diễn đạt lý tưởng của họ xa lạ với chúng ta không có nghĩa là họ và những người theo họ không thấy được sức hút của nó hay họ sẽ không dùng logic của mình để đạt được mục đích cuối cùng của những lý tưởng này.
    Biên tập: Lê Hồng Hiệp | Bản gốc tiếng Anh: The Atlantic Magazine
    - See more at: http://nghiencuuquocte.net/2014/11/03/ly-giai-su-tan-bao-cua-stalin/#sthash.b0HsVwX4.dpuf

    Không có nhận xét nào:

    Đăng nhận xét