Thứ Hai, 26 tháng 10, 2015

CÂU CHUYỆN TÌNH BÁO 64

(ĐC sưu tầm trên NET)

Giải mật cuộc chiến điệp viên trong thế chiến thứ hai

Tháng 6/1941, cơ quan Tình báo Quân sự Trung ương của Liên Xô đã tuyển dụng được 914 người ở nước ngoài, 316 trong số đó làm cộng tác viên với các mạng lưới điệp viên hợp pháp, còn 598 người là hoạt động bất hợp pháp.
Chiến sĩ Hồng quân Liên Xô báo cáo kết quả trinh sát tại mặt trận năm 1941. Ảnh: Corbis. Chiến sĩ Hồng quân Liên Xô báo cáo kết quả trinh sát tại mặt trận năm 1941. Ảnh: Corbis.
Kể từ khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, đã có nhiều tài liệu về cuộc chiến khốc liệt này được giải mật và công bố. Một trong số đó là bộ phim tài liệu Bão táp Xô-viết (Soviet Storm), được công chiếu trên truyền hình Nga năm 2011. Không chỉ mô tả chân thực chặng đường dài của quân và dân Liên Xô trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát-xít, bộ phim còn có một tập mô tả kỹ lưỡng một thế hệ điệp viên Xô-viết dũng cảm và mưu trí -những người đã góp công không nhỏ vào chiến thắng của “Cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại”.
Kỳ 1: Vạn sự khởi đầu nan
Khi An-đóp Hít-le (Adolf Hitler) xua quân xâm lược Liên Xô vào tháng 6/1941, mạng lưới điệp viên Xô-viết ít nhiều bị xáo trộn. Thực tế cho thấy, phát-xít Đức đã có bước khởi đầu lấn lướt hơn trên mặt trận tình báo. Tuy nhiên, lực lượng tình báo Liên Xô đã nhanh chóng phản công.
Chiếc va-li của Tùy viên hải quân Liên Xô
Ngày 21/6/1941, một đoàn tàu tốc hành từ Béc-lin cập ga Belorussia ở Mát-xcơ-va. Trên tàu có Mi-khai-in Vô-rôn-xốp (Mikhail Vorontsov), Tùy viên hải quân của Đại sứ quán Liên Xô ở Béc-lin, với một chiếc va-li cột chặt vào tay. Hai ngày trước đó, M.Vô-rôn-xốp nhận được điện tín khẩn lệnh cho anh phải trở về Mát-xcơ-va ngay lập tức. Một toán hộ tống đón anh trên sân ga, gồm một cán bộ của Bộ Dân ủy nội vụ đi cùng hai sĩ quan an ninh.
Bên ngoài sân ga, một chiếc ô tô đang đợi sẵn. M. Vô-rôn-xốp nhanh chóng được đưa vào ghế sau ngồi giữa hai sĩ quan an ninh. Đó cũng là lần đầu tiên M. Vô-rôn-xốp được thư giãn kể từ khi rời Béc-lin. Chiếc va-li của anh giờ cũng đã thuộc trách nhiệm quản lý của người khác.
Sau khi tốt nghiệp Học viện Hải quân, M. Vô-rôn-xốp được điều động về vùng Viễn Đông và tại đó anh phát triển lên làm Phó tham mưu trưởng Hạm đội Thái Bình Dương. Năm 1939, anh được điều chuyển tới Béc-lin làm Tùy viên hải quân Liên Xô.
Chiếc xe dừng lại bên ngoài lối vào Điện Crem-li. 10 phút sau, M.Vô-rôn-xốp bước vào văn phòng của nhà lãnh đạo Xta-lin (Stalin). Trong số các tài liệu anh đem về từ Béc-lin, có bản sao một điện tín mà anh được Tùy viên hải quân Thụy Điển tại Béc-lin đưa cho. Điện tín có nội dung: “Đề nghị chính thức của Béc-lin đề cập tới tuyến di chuyển của tàu chiến và máy bay Thụy Điển ở biển Ban-tích sau ngày 22/61941, để tránh va chạm trong trường hợp có chiến tranh với Liên Xô”.
Thời đó, công tác tình báo nước ngoài của Liên Xô được thực hiện bởi mạng lưới các điệp viên nằm vùng. Hoạt động tình báo Xô-viết được tiến hành cả kênh hợp pháp thông qua các điệp viên có hộ chiếu Xô-viết, làm nhiệm vụ "kép" tại các cơ quan đại diện của Liên Xô ở nước ngoài với vỏ bọc là một quan chức ngoại giao, lái xe hay chuyên viên kỹ thuật, lẫn bất hợp pháp qua các điệp viên dùng giấy tờ giả.
Mỗi thành viên của một mạng lưới điệp viên nằm vùng đều có nhiệm vụ riêng biệt. Một điệp viên chuyên tuyển dụng và điều hành các điệp viên địa phương, một điệp viên khác chịu trách nhiệm về điện đài, một người nữa làm liên lạc viên chuyển tài liệu và một người điều phối toàn bộ các hoạt động của nhóm.
Sau khi  Hít-le lên nắm quyền ở Đức, Liên bang Xô-viết đã thấy rõ quốc gia nào là mối đe dọa lớn nhất với mình. Do đó, nhiều điệp viên Xô-viết được đưa vào Đức để thu thập thông tin về tiềm năng quân sự và mưu đồ của phát-xít Đức. Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra năm 1939, số mạng lưới điệp viên nằm vùng của Liên Xô ở Đức tăng tới 50%. Những mạng lưới tương tự cũng hoạt động ở Bỉ, Anh, Hà Lan, Thụy Sĩ, Pháp, Nhật, Bun-ga-ri và Nam Tư.
Tháng 6/1941, cơ quan Tình báo Quân sự Trung ương của Liên Xô đã tuyển dụng được 914 người ở nước ngoài, 316 trong số đó làm cộng tác viên với các mạng lưới điệp viên hợp pháp, còn 598 người là hoạt động bất hợp pháp. Thậm chí, ngay cả nhà lãnh đạo Xta-lin cũng chỉ biết phần lớn những người này qua mật danh. Bản thân ông cũng có quá đủ kinh nghiệm về hoạt động bí mật để hiểu rằng, tên của một điệp viên bị đề cập càng nhiều lần thì anh ta càng gặp nhiều nguy hiểm.
Mất liên lạc
Kể từ mùa thu năm 1940, ngày càng có nhiều báo cáo cảnh báo về việc phát-xít Đức tập trung quân dọc biên giới với Liên Xô. Tình báo quân sự Xô-viết nỗ lực tìm câu trả lời cho câu hỏi: Liệu Hít-le có tấn công và nếu có thì khi nào? Các báo cáo tới tấp cung cấp những thời điểm khác nhau về cuộc xâm lược Liên Xô của phát-xít Đức. Ban đầu họ cho rằng, nó sẽ diễn ra vào tháng 3 hay tháng 4/1941. Sau đó có báo cáo nói rằng, cuộc tấn công được hoãn đến mùa hè và tùy thuộc vào việc nước Anh có đầu hàng hay không. Rồi lại có tin mới toanh rằng sẽ hoãn đến năm 1942. Tình hình còn phức tạp thêm bởi trên thực tế, người duy nhất biết chính xác dự tính của Hít-le chỉ có… chính Hít-le. Ông ta chỉ ký lệnh thông qua chiến dịch Barbarossa xâm lược Liên Xô ngày 10/6/1941, 12 ngày trước giờ thực hiện. Đến ngày 18/6, Mát-xcơ-va mới bắt đầu nhận được báo cáo từ điệp viên K: “Các đơn vị lục quân Đức đang chuẩn bị chuyện gì đó rất lớn. Rõ ràng không phải chuyện vài tháng hay vài tuần mà là vài ngày nữa thôi”.
Nhưng dù có cảnh báo, tình báo Xô-viết vẫn không thể khẳng định chính xác điều gì, kể cả bức điện tín mà M.Vô-rôn-xốp mang về Mát-xcơ-va. Chiến dịch Barbarossa đã bắt đầu, nhưng Liên Xô vẫn chưa thực sự chuẩn bị sẵn sàng.
Trong những ngày đầu của chiến tranh, mọi mạng lưới điệp viên hợp pháp của Liên Xô tại Đức, các đồng minh của Đức và tại những nước bị phe Trục chiếm đóng đều bị chấm dứt hoạt động và tất cả nhân viên đại sứ quán đều bị trục xuất về Liên Xô. Tình báo quân sự Xô-viết mất liên lạc với các điệp viên ở 11 nước châu Âu. Số điệp viên còn lại không ít, nhưng nếu không thể liên hệ được với Mát-xcơ-va, xem ra họ chẳng còn hữu ích là mấy.
Các điệp viên Liên Xô hoạt động ở nước ngoài không có đủ điện đài hay điện đài viên giỏi. Máy điện đài của họ cũng rất cồng kềnh và thiếu tin cậy, thậm chí thiếu cả ắc quy. Tầm hoạt động của các điện đài này là không quá 1000km, tức là tín hiệu chỉ truyền đến được miền Tây Liên Xô và không đủ mạnh để truyền tới Mát-xcơ-va, chứ đừng nói tới Cui-bi-sép (Kuibyshev), nơi Tổng hành dinh của Cơ quan tình báo quân sự trung ương được sơ tán tới.
Hơn nữa, mật mã và bảng mã khóa tình báo Xô-viết sử dụng hồi đầu chiến tranh rất phức tạp và khó dùng. Ngay cả những tin nhắn đơn giản nhất cũng phải mất khá nhiều thời gian để mã hóa và giải mã. Tín hiệu chuyển đi cũng dễ bị đối phương bắt được. Phản gián Đức tuần tiễu khắp thành phố với thiết bị dò hướng để định vị điện đài. Ngay khi xác định được nơi đặt điện đài, lực lượng mật vụ sẽ bao vây và xông vào bắt điện đài viên.
Và thế là phản gián Đức đã khiến các điệp viên Xô-viết gần như không thể liên lạc trực tiếp với Mát-xcơ-va. Nhưng tình thế đã dần thay đổi nhờ sự đáp trả kịp thời của tình báo Xô-viết.
(Còn tiếp)
Theo Quân Đội Nhân Dân

Những điệp viên huyền thoại của thế chiến

Việc liên lạc trực tiếp với phần lớn số điệp viên Xô-viết trước chiến tranh chỉ được nối lại vào năm 1945 khi Hồng quân tiến vào Đông Âu. Một trong những cách liên lạc mang tính đối phó tạm thời là thông qua những người đưa tin để chuyển đi các thông tin tối quan trọng.
Điệp viên huyền thoại Ri-chác Xo-gây. Ảnh: historynet.com Điệp viên huyền thoại Ri-chác Xo-gây. Ảnh: historynet.com
Bẻ mã
Nếu như ở thời bình, người đưa tin có thể đi lại khắp châu Âu, thì trong thời chiến mọi chuyện lại khác hẳn. Họ không chỉ đối mặt với nguy cơ bị Gestapo (Cơ quan Mật vụ của Đức Quốc xã) bắt giữ, mà còn có thể bị thiệt mạng bởi "tên bay đạn lạc".
Trong khi đó, tại Trung Quốc và Nhật Bản, các điệp viên Xô-viết vẫn hoạt động tích cực. Một vài điệp viên nằm vùng bất hợp pháp tiếp tục hoạt động trong vùng tạm chiến ở Pháp, Bỉ và Hà Lan. Tình báo Xô-viết cũng vẫn khá hiệu quả ở Mỹ, Anh và các quốc gia trung lập như Thụy Điển và Thụy Sĩ.
Tháng 7/1941, tức là ba tuần sau khi phát-xít Đức tấn công Liên Xô, nhìn bên ngoài, kho trữ cá gần bến cảng ở thủ đô Xtốc-khôm (Thụy Điển) vẫn trông bình thường như những tòa nhà xung quanh. Nhưng bên trong đó lại chứa đựng một bí mật. Đây là trụ sở của Ban Mã hóa và Giải mã của Bộ Tổng tham mưu Lực lượng vũ trang Thụy Điển. A-lanh Ni-blát (Allan Nyblad), một người đưa tin của Bộ Chiến tranh Thụy Điển đang cân nhắc phải làm gì.
Ông được Bộ Tổng tham mưu tin tưởng giao cho nhiệm vụ chuyển đi các giấy tờ khẩn cấp và quan trọng nhất. A-lanh Ni-blát là người tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc và chỉ trao "gói hàng" của mình tận tay người nhận theo lệnh, điều đó đã gây được ấn tượng mạnh với Bộ trưởng Chiến tranh Thụy Điển. Tuy nhiên, chính quyền Thụy Điển không biết rằng, A-lanh Ni-blát làm việc cho tình báo Liên Xô.
Khi ấy, để thuận tiện cho việc đi lại, xe đạp của người đưa tin được gắn biển số đặc biệt, tức là sẽ không bị cảnh sát địa phương chặn lại. Một hôm, sau khi nhận được "gói hàng" phải gửi đến Bộ Tổng tham mưu, A-lanh Ni-blát đạp xe qua một khu nhà kho yên tĩnh rồi đột ngột ngoặt vào một ngõ vắng vẻ.
Sau khi chắc chắn không bị ai theo dõi, ông tháo biển số xe đặc biệt ra và thay bằng biển xe thường. Ông đến một ngôi nhà hai tầng rồi bước vào gặp Xê-mi-ôn Xta-rô-xtin (Semyon Starostin), điệp viên Xô-viết mật danh “Kent". Vỏ bọc của X.Xta-rô-xtin bao gồm chức danh giám đốc một công ty tổ chức du lịch tại Thụy Điển, Na Uy và Đan Mạch và trưởng đại diện hãng hàng không quốc gia Liên Xô Aeroflot. Tháng 11/1941, ông quay về Liên Xô khi một "chân rết" của ông bị bắt.
Khi tất cả các tài liệu do A-lanh Ni-blát mang đến đã được chụp xong, X. Xta-rô-xtin bỏ hết giấy tờ vào một phong bì mới. Ông có trong tay rất nhiều con dấu của các cơ quan Thụy Điển để gửi phong bì đi trót lọt. Nhờ mạng lưới của điệp viên “Kent”, Mát-xcơ-va nhận được báo cáo hằng ngày về hoạt động của địch dọc khắp tuyến mặt trận phía Đông do người Thụy Điển vẫn theo dõi phía phát-xít Đức và đã “bẻ mã” được họ.
Năm 1940, Thụy Điển nghi ngờ phát-xít Đức có kế hoạch xâm lược nước mình. Xtốc-khôm tìm cách phát hiện trước ý đồ của Hít-le. Chỉ trong vòng 2 tuần cặm cụi với độc bút chì và giấy, Giáo sư toán học người Thụy Điển A-nơ Bơ-linh (Arne Beurling) đã bẻ được mật mã quân sự và ngoại giao của phát-xít Đức. Điều này cho phép Thụy Điển giải được các liên lạc đã mã hóa của phát-xít Đức và với điệp viên "Kent", tất cả những gì người Thụy Điển biết thì Mát-xcơ-va cũng biết.
Tháng 1/1942, A-lanh Ni-blát bị phía Thụy Điển bắt và bị kết án 12 năm tù khổ sai. Nhưng đến lúc đó, Mát-xcơ-va đã có được thông tin làm cách nào Thụy Điển bẻ được mật mã của Đức. Đến tháng 6 năm đó, khi Đức phát hiện ra Thụy Điển đã bẻ được mật mã, phía Liên Xô cũng đã có thể tự bẻ khóa được hệ mã mới của Đức.
Nguồn tin vô giá về toan tính của Nhật Bản
Ngày 18/10/1941, quan hệ Nhật Bản và Liên Xô đang trong trạng thái "hòa hoãn đầy căng thẳng". Rạng sáng hôm đó, cơ quan phản gián Nhật Bản mở một chiến dịch vây bắt mạng lưới điệp viên Liên Xô. Một trong những người bị bắt là Ri-hác Gioóc-gơ (Richard Sorge). Trong khi Ri-hác Gioóc-gơ bị đưa đi, căn hộ của ông bị lục soát kỹ lưỡng. Tại đây, mật vụ Nhật tìm thấy những tài liệu buộc tội ông như máy ảnh và một xấp ảnh chụp tài liệu.
Ri-hác Gioóc-gơ sinh ra tại Đông Nam nước Nga, nhưng ngay từ bé ông đã cùng gia đình chuyển tới sống ở Đức. Sau khi chiến đấu trong quân đội Đức trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, Ri-hác Gioóc-gơ trở thành một người Cộng sản nhiệt thành và đến Mát-xcơ-va. Tại đây, ông được tình báo quân sự Xô-viết tuyển dụng rồi gửi trở lại Đức dưới vỏ bọc nhà báo và cảm tình viên Quốc xã. Điều này đã đem lại nhiều thuận lợi cho ông cho đến tận tháng 10/1941, khi ông bị người Nhật bắt. 3 năm sau đó, Ri-hác Gioóc-gơ bị treo cổ. Đến năm 1964, ông được truy tặng phần thưởng Nhà nước cao quý nhất là danh hiệu Anh hùng Liên Xô.
Mạng lưới của Ri-hác Gioóc-gơ bao gồm 32 điệp viên người Nhật Bản, 4 người Đức, 2 người Nam Tư và 1 người Anh, trong đó đáng chú ý có điện đài viên người Đức Bru-nô Oen-tơ (Bruno Wendt), nhà báo người Nam Tư Bran-cô Vu-kê-lích (Branko Vukelic) và nhà báo người Nhật Bản Hát-xu-mi Ô-da-ki (Hatsumi Ozaki), một cố vấn của Thủ tướng Nhật Bản Cô-nô-ê (Konoe). Một nguồn tin đáng giá khác của mạng lưới là Ơ-gơn Ốt (Eugen Ott), Đại sứ Đức tại Nhật Bản và là một trong những người “đặt trọn niềm tin” vào Ri-hác Gioóc-gơ.
Việc Ri-hác Gioóc-gơ bị bắt và nhóm của ông bị phát hiện là tổn thất nặng đối với tình báo Liên Xô. Ông là một nguồn tin vô giá về các toan tính của Nhật Bản và Đức tại Viễn Đông. Chiến công lớn nhất của Ri-hác Gioóc-gơ là xác minh được việc Nhật Bản không có kế hoạch tấn công Liên Xô trong năm 1941 như ban lãnh đạo Liên Xô lo ngại. Tháng 9/1941, từ Tô-ki-ô, ông gửi về một điện tín với nội dung: “Theo lời Ô-da-ki (Ozaki), Bí thư Nội các, Chính phủ Nhật Bản đã quyết định sẽ không có hành động chống Liên Xô trong năm nay nhưng quân đội vẫn đóng ở Mãn Châu để có thể tấn công vào mùa Xuân tới nếu Liên Xô bị Đức đánh bại. Sau ngày 15/9, vùng Viễn Đông của Liên Xô có thể được xem là an toàn, không bị Nhật tấn công”.
Thông tin vô cùng quan trọng này đến vào lúc quân Đức vừa tung đòn tấn công tổng lực vào Mát-xcơ-va. Nó cho phép Bộ Tổng tham mưu quân đội Xô-viết rút nhanh 32 sư đoàn từ Xi-bê-ri (Sibiri) và Viễn Đông về cứu nguy cho thủ đô Liên Xô. Ngày 5/12/1941, các sư đoàn này dẫn đầu cuộc tổng phản công đẩy quân Đức lùi xa khỏi cửa ngõ Mát-xcơ-va. Đó là một chiến thắng quan trọng mang công lớn của Ri-hác Gioóc-gơ. 
Theo Quân Đội Nhân Dân

Cuộc chiến ngầm trong Chiến tranh thế giới thứ hai-Kỳ 3

Chuyện ít biết về mạng lưới điệp viên 'Dàn nhạc Đỏ'

Ngày 13/9/1943, một xe ô tô chở hai người khách dừng trước một hiệu thuốc tại Pa-ri. Lần lượt, hai người rời xe bước vào. Chợt có tiếng hô lớn: “Hắn chạy thoát qua cửa sau. Phải phong tỏa ngay khu vực này”…
Du kích Liên Xô chiến đấu trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Ảnh: corbisimages.com. Du kích Liên Xô chiến đấu trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Ảnh: corbisimages.com.
Trong nhà chưa tỏ, ngoài ngõ đã tường
Người chạy trốn là Lê-ô-pôn Chép-pơ (Leopold Trepper), điệp viên Xô-viết đã đồng ý về làm việc cho phát-xít Đức trước đó vài tuần. Đám người Đức tức tối lùng sục khắp thành phố…
Ngay từ năm 1938, Lê-ô-pôn Chép-pơ đã lập ra một mạng lưới tình báo Xô-viết rất mạnh ở  Bỉ, Hà Lan, Pháp và I-ta-li-a. Danh sách khoảng 300 thành viên của mạng lưới này luôn được ông cất giữ trong đầu. Thông qua nhóm của Lê-ô-pôn Chép-pơ, Liên Xô cũng nhận được tin tình báo từ Ru-đôn-phơ Rô-xlơ (Rudolf Rossler), mật danh "Lucy".
Là người Đức định cư tại Thụy Sĩ, Ru-đôn-phơ Rô-xlơ làm việc cho tình báo Xô-viết vì lý tưởng. Ông được coi là một trong những điệp viên giá trị nhất trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Ru-đôn-phơ Rô-xlơ từng cung cấp cho Liên Xô tin tức quan trọng về chiến dịch ở vòng cung Cuốc-xcơ của phát-xít Đức năm 1943. Nguồn tin riêng của Ru-đôn-phơ Rô-xlơ cho đến thời điểm hiện tại vẫn là một ẩn số. Tại phiên tòa quốc tế Nu-rem-be sau chiến tranh, Tham mưu trưởng chiến dịch của Bộ Tổng tham mưu Quân lực Đức Quốc xã (OKW) An-phrết Giô-đơ (Alfred Jodl) nói rằng thông tin về Chiến dịch Cuốc-xcơ đến tay Mát-xcơ-va trước cả khi nằm trên bàn của ông ta. Sau chiến tranh, Ru-đôn-phơ Rô-xlơ tiếp tục cung cấp cho Liên Xô thông tin thu thập được về Tây Đức, khiến ông bị bắt và chịu án 1 năm tại Thụy Sĩ. Ông qua đời chẳng bao lâu sau khi được thả vào năm 1958.
Trở lại với câu chuyện về Lê-ô-pôn Chép-pơ, sau khi bị bắt, mạng lưới của ông đã bị phản gián Đức đánh sập gần như hoàn toàn. Ở Béc-lin, các điện báo viên Liên Xô được gọi là những "nghệ sĩ dương cầm". Mạng lưới của Lê-ô-pôn Chép-pơ liên quan đến ít nhất 10 "nghệ sĩ dương cầm", bởi vậy còn có mật danh là “Dàn nhạc Đỏ”. Phản gián Đức đã ép được một số điện báo viên của “Dàn nhạc Đỏ”, bao gồm cả Lê-ô-pôn Chép-pơ, gửi tin giả về cho Mát-xcơ-va. Phía Liên Xô không chỉ tin vào tin giả mà còn đề nghị cung cấp thêm. Sau khi trốn thoát, Lê-ô-pôn Chép-pơ, với sự giúp đỡ của những người Cộng sản Pháp, đã tìm cách báo về Mát-xcơ-va rằng mạng lưới của mình đã bị khống chế. Thông tin nhận được từ các điện báo viên đó cuối cùng đã được hiểu theo đúng bản chất.
Tháng 11/1944, hai điệp viên Xô-viết tiến hành theo dõi 24/24 giờ đoạn bờ biển Na Uy: “Phía chân trời thấy có khói. Một thiết giáp hạm. Thêm mấy khu trục hạm. Tốt. Ghi lại. Ta cần gửi điện tín về”. 12 tiếng sau, một sĩ quan tham mưu bước vào phòng của Trưởng ban Tình báo Hải quân Mi-khai-in Vô-rôn-xốp, báo cáo. “Máy bay trinh sát xác nhận có tàu trong khu vực đó”, viên sĩ quan nói. “Các anh có thấy chiếc Tirpitz không? Người Anh đang tìm cách diệt nó suốt 3 năm nay. Hãy cho đồng minh của chúng ta thêm một cơ hội. Báo ngay cho người Anh tọa độ của chiếc thiết giáp hạm”, Mi-khai-in Vô-rôn-xốp ra lệnh.
Tirpitz là một trong vài phương tiện chiến tranh uy lực của Hải quân Đức. Mặc dù khi đó (tháng 11/1944), vai trò của Tirpitz đã khá mờ nhạt trong cuộc chiến, nhưng sự có mặt của chiến hạm này ở bờ biển Na Uy vẫn đe dọa các đoàn vận tải từ Biển Bắc đến Liên Xô và ghìm chân một số lượng đáng kể tàu chiến Anh. Ngày 12/11/1944, các máy bay ném bom Lancaster của Anh bay đến vịnh Tromso ở Na Uy. Người Đức không hay biết gì về cuộc không kích sắp diễn ra. Hai quả bom khổng lồ Tallboy đã rơi trúng mạn trái của Tirpitz, tạo một lỗ lớn trên vỏ tàu. Khi nước tràn vào, chiếc Tirpitz nặng nề nghiêng dần rồi lật úp. Tirpitz bị đánh chìm khiến 1000 trong số 1.700 thủy thủ đoàn thiệt mạng. Đó là chiếc đinh cuối cùng đóng lên cỗ quan tài của Hải quân Hít-le.
Kể từ mùa hè năm 1941, Liên Xô đã có điệp viên cài cắm tại Na Uy, bao gồm các đơn vị thu thập tin tức tình báo cho Hạm đội Bắc Hải. Họ cũng tuyển dụng "chân rết" từ cộng đồng người bản địa và cộng tác với quân kháng chiến Na Uy. Một số điệp viên Na Uy được gửi tới trại huấn luyện Xô-viết. Tại đó, họ được hướng dẫn cơ bản về liên lạc điện đài và thu thập tin tình báo. Điệp viên sau đó được đưa về Na Uy bằng tàu ngầm. Khi màn đêm buông xuống, họ sẽ đổ bộ xuống một bờ biển hẻo lánh. Nhiệm vụ của các điệp viên là theo dõi các đồn, bốt, hoạt động chuyển quân và tiếp vận của Đức. Họ cũng được lệnh tìm kiếm các tàu chiến Đức neo trong các vịnh biển Na Uy và chuyển tin tức ấy về Mu-man-xcơ (Murmansk). Không quân Liên Xô và Anh có thể dùng tin tình báo này để không kích các mục tiêu có giá trị của Đức ở Na Uy và Phần Lan.
Lầm tưởng của Mỹ - Anh
Sau khi nước Đức đầu hàng tháng 5/1945, nhiều người đã có thể ăn mừng nhẹ nhõm nhưng cơ quan tình báo vẫn không thể xả hơi. Việc thiếu niềm tin với nhau bắt đầu nổi lên khi kẻ thù chung đã bị đánh bại.
Tháng 4/1945, Thủ tướng Anh Uyn-xtơn Sớc-sin (Winston Churchill) ra lệnh cho Bộ Tham mưu của mình nghiên cứu khả năng tấn công Liên Xô bằng chiến dịch mang mật danh “Unthinkable”. Cuộc nghiên cứu được tiến hành bởi Ban Tham mưu hỗn hợp các quân chủng Anh. Một kịch bản được vạch ra, theo đó 47 sư đoàn Anh và Mỹ chiến đấu cùng quân đội Ba Lan và 12 sư đoàn Đức được tái vũ trang sẽ tiến hành cuộc tấn công bất ngờ vào lực lượng Hồng quân ở Tây Bắc châu Âu. Bộ Tham mưu của Uyn-xtơn Sớc-sin kết luận rằng, nước Anh sẽ phải tiến hành một cuộc chiến kéo dài và nhiều tổn thất, trong khi khả năng chiến thắng vẫn còn là điều đáng nghi ngờ. Nhận xét về kế hoạch này, Thủ tướng Uyn-xtơn Sớc-sin nói rằng đây là một biện pháp phòng ngừa cho một tình huống mang tính giả thuyết cao.
Ngày 18/5/1945, Tùy viên quân sự Liên Xô ở Luân Đôn, Thiếu tướng I-van Xcơ-li-a-rốp (Ivan Skliarov), đã chuyển thông tin về Chiến dịch tối mật  “Unthinkable” về cho Mát-xcơ-va. Nguồn tin của Thiếu tướng I-van Xcơ-li-a-rốp là điệp viên X mà danh tính cho đến nay vẫn còn là một bí mật. Trong vài tuần sau đó, cũng chính điệp viên này đã chuyển cho Thiếu tướng I-van Xcơ-li-a-rốp nhiều thông tin có giá trị về Chiến dịch “Unthinkble”, bao gồm cả quy mô lực lượng Anh và Mỹ tham gia.
Tháng 6/1945, Nguyên soái G.Giu-cốp (G. Zhukov) nhận được chi tiết về kế hoạch này và lập tức bố trí lại lực lượng Xô-viết ở Đông Đức. Ông ra lệnh cho Hồng quân củng cố phòng thủ và theo dõi sát sao lực lượng của đồng minh phương Tây. Uyn-xtơn Sớc-sin biết rõ khả năng của Hồng quân vượt trội so với Anh-Mỹ và quan trọng là dư luận không đồng tình cho một cuộc chiến như vậy vào năm 1945. Bản thân người Mỹ lại đang quan tâm hơn đến việc nhờ Liên Xô giúp đánh phát-xít Nhật Bản. Thế là Chiến dịch “Unthinkable” chỉ dừng lại ở đó.
Tháng 7/1945, trong Hội nghị Postdam, Tổng thống Mỹ Ha-ri Tru-man (Harry Truman) đã bóng gió đề cập với Xta-lin rằng Mỹ đã phát triển được một thứ vũ khí mới có sức hủy diệt phi thường. Nhưng phản ứng của nhà lãnh đạo Xô-viết đã khiến Tổng thống Mỹ sững người. “Ông ta còn không thèm hỏi lại”, Ha-ri Tru-man sau này thuật lại với vẻ ngạc nhiên. Lúc ấy, các nguyên thủ Anh và Mỹ cho rằng, Xta-lin tỏ ra thờ ơ đơn giản là vì ông không hiểu về tầm quan trọng của điều ông được thông báo.
Nhưng họ đã lầm!
Kể từ năm 1942, tình báo Xô-viết đã thu thập tin tức về chương trình bom nguyên tử của Đồng Minh. Có hơn 10 điệp viên cung cấp tin cho Liên Xô. Nhờ nỗ lực của họ, Liên Xô đã thử quả bom nguyên tử đầu tiên của mình ngay từ năm 1949.

Chân dung người tiết lộ tài liệu mật về chiến tranh Việt Nam

Nhờ sự hỗ trợ của đồng nghiệp, Daniel Ellsberg đã bí mật sao chép lại nhiều tài liệu tối mật về chiến tranh Việt Nam và chuyển chúng cho báo chí. Sau đó, những tài liệu này được giới truyền thông Mỹ đặt tên là Hồ sơ Lầu Năm Góc (Pentagon Papers).
Chân dung người tiết lộ tài liệu mật về chiến tranh Việt Nam - ảnh 1 Daniel Ellsberg (Ảnh: Newyorker).
Ngày 12/5/2011, Cơ quan lưu trữ quốc gia thuộc Bộ Quốc phòng Mỹ bất ngờ ra tuyên bố rằng tập tài liệu nổi tiếng "Hồ sơ Lầu Năm Góc" (The Pentagon Papers) không còn là tuyệt mật nữa và công chúng có thể tiếp cận trực tiếp chúng tại một số thư viện. Quyết định này đồng nghĩa với việc hàng ngàn trang hồ sơ về Chiến tranh Việt Nam trong tài liệu "Quan hệ Mỹ-Việt giai đoạn 1945-1967: Nghiên cứu do Bộ Quốc phòng thực hiện" dài 7.000 cũng được tiết lộ.
"Quan hệ Mỹ-Việt giai đoạn 1945-1967: Nghiên cứu do Bộ Quốc phòng thực hiện" do Bộ trưởng quốc phòng lúc khi đó là Robert McNamara đặt làm vào tháng 6/1967 nhằm ghi lại thấu đáo lịch sử cuộc chiến tranh Việt Nam.
Có lẽ khi tuyên bố trên được đưa ra, nhiều người sẽ đặt ra các câu hỏi như: Tại sao Bộ quốc phòng Mỹ không tiết lộ những bí mật này sớm hơn? Liệu họ có thực tâm tiết lộ những bí mật với các đồng minh? Bí mật lịch sử đã vén màn, liệu các đồng minh của Mỹ có còn tin tưởng vào Mỹ như trước đây?
Thật ra, Mỹ đã ở trong tình thế không thể giữ bí mật lâu dài được nữa vì các tài liệu đó trước đây đã bị rò rỉ gần hết và gây ra những cuộc tranh cãi lớn gây chấn động công chúng Mỹ. Nếu cứ tiếp tục giấu giếm những điều mà mọi người đã đoán biết thì hệ quả của nó còn tai hại hơn cả việc tiết lộ.
Do đó, việc Cơ quan lưu trữ quốc gia cho công bố các tài liệu này được xem chỉ là sự xác nhận một cách chính thức rằng những tài liệu mà Daniel Ellsberg, sĩ quan Lầu Năm Góc từng tham chiến ở Việt Nam, tung ra trước đó là chính xác và nhằm để chấm dứt những đồn đoán không căn cứ.
Chân dung người tiết lộ tài liệu mật về chiến tranh Việt Nam - ảnh 2 Tài liệu về Việt Nam được công bố.
Chân dung người rò rỉ tài liệu mật của Mỹ
Phần lớn Hồ sơ Lầu Năm Góc đã được cựu quan chức Bộ Quốc phòng Mỹ Daniel Ellsberg rò rỉ cho những tờ báo hàng đầu của Mỹ như The New York Times, The Washington Post và The Times vào đầu năm 1971. Ellsberg được người bạn Anthony Russo hỗ trợ sao chép các tài liệu này.
Ellsberg là người gốc Do Thái, sinh trưởng tại Chicago (sinh ngày 7/4/1931), là một người phân tích tình báo chiến thuật chiến lược của quân đội. Ông từng là nhân viên của RAND Corporation - một công ty chuyên phân tích tình hình cho quân đội Mỹ - và Doughlas Air Company - một công ty chế tạo các vũ khí cho Bộ quốc phòng Mỹ. Rand có 1.600 nhân viên và trong số đó có những người làm cho tình báo Mỹ.
Năm 1954, sau khi tốt nghiệp ở Harvard với thành tích xuất sắc, Daniel Ellsberg gia nhập Hải quân Mỹ. Sau 2 năm phục vụ cho Hải quân, ông được trở về công việc dân sự, ông tiếp tục học ở Harvard và tham gia giúp RAND chuyên phân tích tình hình quân sự.
Năm 1964, ông chính thức làm cho Bộ quốc phòng và tham gia biến cố hạm đội USS Maddox xảy ra ở Vịnh Bắc Bộ năm 1964. Năm 1965, ông được chuyển sang làm Bộ ngoại giao đặc trách phân tích tình hình Việt Nam. Năm 1967, ông trở về làm cho RAND và cho Bộ quốc phòng.
Năm 1969, do không còn thiện cảm với sách lược của Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam và sau khi nghe Randy Kehler (sinh năm 1944), một trong những người phản chiến thuyết trình cách hùng hồn, ông Daniel Ellsberg trở thành một trong những người chống chiến tranh.
Sau khi đã có thiện cảm với nhóm phản chiến và ở cương vị là một người có thể tiếp xúc được những tài liệu tối mật của quốc gia, gồm tài liệu mật trên, trong Ellsberg không còn chút ảo tưởng nào về cuộc chiến tranh ở Việt Nam hay niềm tin vào những tuyên bố của chính quyền Mỹ.
Trong suốt năm 1970, Daniel Ellsberg cố gắng tìm cách gây ảnh hưởng đối với các nghị sĩ bằng cách thuyết phục các trợ lý văn phòng của họ về những mặt trái của Chiến tranh Việt Nam, nhưng nỗ lực này thất bại.
Sau đó, nhờ sự hỗ trợ của đồng nghiệp Anthony Russo (1934-2008) làm ở RAND, Daniel Ellsberg đã bí mật sao chép lại nhiều tài liệu tối mật và chuyển chúng cho báo chí. Sau đó, chúng được giới truyền thông Mỹ đặt tên là Hồ sơ Lầu Năm Góc (Pentagon Papers).
Ellsberg nhận thức rất rõ ràng rằng việc ông sao chép hồ sơ mật trên có thể khiến ông phải ngồi tù đến hết đời. Sau khi các tài liệu mật được báo chí Mỹ, Daniel Ellsberg phải sống chui lủi.
Ngày 28/6/1971, Daniel Ellsberg và đồng nghiệp Anthony Russo ra đầu hàng FBI ở Boston, bang Massachussett. Chính phủ Liên bang Mỹ sau đó dã truy tố họ về tội danh vi phạm Đạo luật tình báo Năm 1917 (Espionage Act 1917). Sau 2 năm điều tra và nhiều biến chuyển, vào tháng 5/1973, chánh án William M. Byrne, Jr. ra lệnh bãi nại vụ án này.
Sau vụ án này, Daniel Ellsberg đi thuyết trình nhiều nơi về các đề tài chính trị cũng như những bí mật lịch sử liên quan đến Việt Nam và Đài Loan, về sự thật của một cuộc chiến tranh mà Mỹ lừa dối hơn 40 năm trước.
Theo Dân trí

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét