Thứ Sáu, 23 tháng 10, 2015

TỔ QUỐC MẾN YÊU



(ĐC sưu tầm trên NET)


Quần đảo Trường Sa

-https://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%E1%BA%A7n_%C4%91%E1%BA%A3o_Tr%C6%B0%E1%BB%9Dng_Sa 

Quần đảo Hoàng Sa

-https://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%E1%BA%A7n_%C4%91%E1%BA%A3o_Ho%C3%A0ng_Sa 

Khẳng định chủ quyền Việt Nam ở Hoàng Sa - Trường Sa

Thêm một tài liệu do Trung Quốc biên soạn vào đời Thanh tìm thấy trong tủ sách của gia đình họ Trần do Thượng thư Trần Đình Bá (1867 - 1933) để lại, đã góp phần khẳng định chủ quyền của Việt Nam ở hai quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa, đó là tập Địa dư đồ khảo.

Ngày 9.8, nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn - chủ sở hữu tủ sách của gia đình họ Trần dành cho chúng tôi cuộc trao đổi về tài liệu nói trên trước khi chính thức công bố. 
Khẳng định chủ quyền Việt Nam ở Hoàng Sa - Trường Sa 1 Nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn với tập sách Địa dư đồ khảo tại buổi gặp gỡ - Ảnh: Giao Hưởng 
Thưa ông, vui lòng cho biết xuất xứ của cuốn sách bản đồ này?
Tập này nguyên nằm trong tủ sách Phước Trang của ông cố tôi là cụ phó bảng Trần Đình Bá. Do cụ có giữ chức Thượng thư bộ Hình triều vua Khải Định nên trong tủ sách có một số sách về luật lệ từ đầu thời Nguyễn đến giai đoạn Pháp sang. Theo chúng tôi nghĩ, sau cách mạng Tân Hợi năm 1911, chế độ Trung Hoa dân quốc thành lập đã có những thay đổi về bang giao quốc tế, đặc biệt là đường biên giới đối với các nước láng giềng khu vực, trong đó có Việt Nam được thể hiện trên một số bản đồ khác với thời quân chủ. Chế độ quân chủ ở Trung Quốc chấm dứt từ 1912, nhưng ở nước ta mãi đến năm 1945 triều Nguyễn mới cáo chung. Vì thế cụ Trần Đình Bá do giữ trách nhiệm về luật lệ thời ấy ở triều đình chắc chắn phải quan tâm đến vấn đề biên giới và hải phận của đất nước, nên cụ cùng các quan cộng sự của mình tham khảo sách Địa dư đồ khảo của Trung Quốc liên quan đến chủ quyền Việt Nam để chép tay lưu giữ làm bằng chứng về sau.
Khẳng định chủ quyền Việt Nam ở Hoàng Sa - Trường Sa 2  Bản đồ tỉnh Quảng Đông trong Địa dư đồ khảo cho thấy đảo Hải Nam là vùng đất cuối cùng ở phía nam của Trung Quốc - Ảnh: Giao Hưởng
Đúng theo nghĩa của nhan đề Địa dư đồ khảo, đây là cuốn sách “khảo cứu về địa dư kèm theo bản đồ” gồm những mục chính như thế nào?
Gồm 24 mục. Từ mục 1 đến mục 7 khảo cứu bảy tỉnh của Trung Quốc: Xiểm Tây (quen đọc là Thiểm Tây - PV), Cam Túc, Tứ Xuyên, Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Quý Xuyên. Từ mục 8 đến mục 15 khảo cứu về các nước xung quanh có chung biên giới với Trung Quốc: Mãn Châu toàn đồ, Mông Cổ toàn đồ, Thanh Hải Tây Tạng đẳng hợp đồ, Triều Tiên toàn đồ, Tân Cương thống đồ, Việt Nam - Tiêm La - Miến Điện hợp đồ, Phụ đính An Nam Đông Kinh toàn đồ, Nhật Bản toàn đồ. Khảo về Các khu vực lớn gần Trung Quốc gồm: Á Châu Nga thuộc đồ, Tây vực Hồi bộ đẳng thống đồ, Ấn Độ toàn đồ, Ba Tư A Lạc Bá hợp đồ, Đông Thổ Nhĩ Kỳ đồ, Tây Lý Á đồ. Hình vẽ các bản đồ cho thấy rõ ràng biên giới của các nước khác trong khu vực như Miến Điện, Tiêm La (Thái Lan), Triều Tiên... Đây  là cơ sở để nghiên cứu vùng cương giới của các nước láng giềng của Trung Quốc đã được triều Thanh xác nhận, trong đó có Việt Nam với bản đồ thể hiện vùng cực nam của Trung Quốc chỉ đến đảo Hải Nam mà thôi!
Vậy riêng với Việt Nam, sách Địa dư đồ khảo có những nội dung cũng như bản đồ liên quan đến chủ quyền nước ta ở Hoàng Sa - Trường Sa cụ thể hơn ra sao?
Địa dư đồ khảo có phần bản đồ chi tiết về các tỉnh phía nam Trung Quốc, đặc biệt là các tỉnh Vân Nam - Quảng Tây - Quảng Đông có chung đường biên giới với Việt Nam. Đảo Hải Nam thuộc tỉnh Quảng Đông được thể hiện trên bản đồ là vùng đất cực nam, địa điểm cuối cùng ở phía nam của Trung Quốc. Còn đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thì sách Địa dư đồ khảo hoàn toàn không thể hiện một chi tiết nào cả. Điều đó có nghĩa là triều đình nhà Thanh đầu thời Quang Tự đã không kể đến các quần đảo trên thuộc về lãnh thổ của mình. Trong lúc đó việc quản lý của triều đình nhà Nguyễn hồi ấy đối với Hoàng Sa và Trường Sa được ghi lại rõ ràng qua sử liệu. Cần nói rõ, sách Địa dư đồ khảo được triều đình nhà Thanh biên soạn vào đời vua Quang Tự - ở ngôi từ năm 1875 đến 1908. Đọc trong sách thấy ghi các sự kiện từ năm Quang Tự thứ hai trở về trước, nên tập sách có thể đã ra đời trước năm 1876. Lâu nay chúng ta đã công bố được rất nhiều bản đồ do các giáo sĩ phương Tây, các nhà hàng hải vẽ, có ghi chú quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa của đất nước Việt Nam. Sử sách Việt Nam trải qua các thời kỳ đều có ghi chép việc quản lý, khai thác Hoàng Sa - Trường Sa rồi. Đến nay, người Việt Nam trong và ngoài nước vẫn đang tiếp tục nỗ lực tìm kiếm thêm bản đồ, tư liệu để chứng minh chủ quyền của nước ta ở đấy. Đó chính là động lực để gia đình chúng tôi đem tập Địa dư đồ khảo trong tủ sách gia bảo ra công bố và theo nhận định của chúng tôi, tập Địa dư đồ khảo là nền tảng ban đầu để vẽ ra các bản đồ từ đầu thế kỷ 20 về sau. Những phân tích chi tiết và cụ thể hơn sẽ được chúng tôi trình bày tại buổi họp mặt để công bố chính thức tài liệu này trong những ngày sắp tới...
Cụ Trần Đình Bá sinh năm Đinh Mão 1867 tại làng Hiền Lương, H.Phong Điền, Thừa Thiên - đỗ phó bảng năm Mậu Tuất 1898, giữ chức Án sát tỉnh Thanh Hóa (1910), được cử vào Hội đồng Bác vật (1915), làm Tổng đốc An Tĩnh tức Nghệ An và Hà Tĩnh (1919), Thượng thư bộ Hình (1923). Cụ phản đối việc chính phủ Pháp để viên Khâm sứ Pháp chủ tọa Hội đồng cơ mật của triều đình Huế nên quyết định từ chức, về ẩn cư tại căn nhà cổ ở kinh thành Huế (nay là nhà số 114 Mai Thúc Loan) trong 8 năm từ 1925-1933 cho đến ngày qua đời. Cụ Trần Đình Bá được nhắc đến trân trọng qua nhiều công trình nghiên cứu và sách báo ở hai miền Nam - Bắc như: Thành ngữ điển tích - Danh nhân từ điển (GS Trịnh Vân Thanh, Sài Gòn 1967), Việt Nam danh nhân từ điển (Nguyễn Huyền Anh - NXB Khai Trí, Sài Gòn 1970), Hiền Lương chí lược (Huỳnh Hữu Hiến - Huế 1962), Đặng Thai Mai hồi ký (NXB Tác phẩm mới, Hà Nội 1965), Các nhà khoa bảng Việt Nam (Ngô Đức Thọ - NXB Văn Học Hà Nội, 1993)...
Giao Hưởng

Hoàng Sa, Trường Sa: Thực trạng đóng quân của các nước

Nhiều người vẫn băn khoăn về thực trạng tranh chấp chủ quyền lãnh thổ và vị trí chiếm đóng của các bên tranh chấp đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam, hiện nay như thế nào?

TS Trần Công Trục trả lời:
1. Đối với quần đảo Hoàng Sa: Trung Quốc đã nhảy vào tranh chấp chủ quyền lãnh thổ với Việt Nam vào đầu thế kỷ thứ XX (năm 1909), mở đầu là sự kiện Đô đốc Lý Chuẩn chỉ huy 3 pháo thuyền ra khu vực quần đảo Hoàng Sa, đổ bộ chớp nhoáng lên đảo Phú Lâm, sau đó phải rút lui vì sự hiện diện của quân đội viễn chinh Pháp với tư cách là lực lượng được Chính quyền Pháp, đại diện cho nhà nước Việt Nam, giao nhiệm vụ bảo vệ, quản lý quần đảo này.
Năm 1946, lợi dụng việc giải giáp quân đội Nhật Bản thua trận, chính quyền Trung Hoa Dân quốc đưa lực lượng ra chiếm đóng nhóm phía Đông Hoàng Sa. Khi Trung Hoa Dân quốc bị đuổi khỏi Hoa lục, họ phải rút luôn số quân đang chiêm đóng ở quần đảo Hoàng Sa.
Năm 1956, lợi dụng tình hình quân đội Pháp phải rút khỏi Đông Dương theo quy định của Hiệp định Giơ ne vơ và trong khi chính quyền Nam Việt Nam chưa kịp tiếp quản quần đảo Hoàng Sa, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã đưa quân ra chiếm đóng nhóm phía Đông Hoàng Sa.
Năm 1974, lợi dụng quân đội Việt Nam Cộng hòa đang trên đà sụp đổ, quân đội viễn chinh Mỹ buộc phải rút khỏi miền Nam Việt Nam, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa lại huy động lực lượng quân đội ra xâm chiếm nhóm phía Tây Hoàng Sa đang do quân đội Việt Nam Cộng hòa đóng giữ.
Mọi hành động xâm lược bằng vũ lực nói trên của CHND Trung Hoa đều gặp phải sự chống trả quyết liệt của quân đội Việt Nam Cộng hòa và đều bị Chính phủ Việt Nam Cộng hòa, với tư cách là chủ thể trong quan hệ quốc tế, đại diện cho Nhà nước Việt Nam quản lý phần lãnh thổ niềm Nam Việt Nam theo quy định của Hiệp định Geneve năm 1954, lên tiếng phản đối mạnh mẽ trên mặt trận đấu tranh ngoại giao và dư luận.
  Hoàng Sa, Trường Sa: Thực trạng đóng quân của các nước? - Ảnh 1

Quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam đang bị Trung Quốc chiếm đóng bất hợp pháp.

2. Đối với quần đảo Trường Sa:
Quần đảo Trường Sa bao gồm hơn 134 đảo, bãi đá, bãi ngầm có diện tích từ 160 đến 180 nghìn km2. Nằm ở phía Đông Đông Nam bờ biển Nam Trung Bộ trong giới hạn từ 60 30’ vĩ Bắc đến 120 0’ vĩ Bắc và từ 1110 30’ đến 1170 30’ kinh độ Đông thuộc lãnh thổ nước CHXHCN Việt Nam. Phía Bắc là quần đảo Hoàng Sa, phía Đông giáp biển Philippines, phía Nam giáp biển Malaysia, Brunei và Indonesia. Phía Tây là vùng lãnh hải tiếp giáp lãnh hải và tuyến đảo ven bờ của vùng biển Nam Trung Bộ và Nam Bộ.
Trong hơn 100 đảo, bãi san hô có 23 đảo và bãi san hô nhô lên khỏi mặt nước. Các đảo, bãi đá, bãi ngầm ở đây có dạng hình vành khăn hay elip. Do tác động của điều kiện khí tượng thủy văn nên hình dạng của đảo nổi và các bãi đá ngầm ở đây thường xuyên bị biến dạng. Đảo lớn nhất trong quần đảo là đảo Ba Bình có diện tích 0,6 km2 tiếp theo là các đảo Trường Sa hay Nam Yết diện tích mỗi đảo từ 0,1 đến 0,2 km2.
Trên một số đảo có nước ngầm. Cơ chế hình thành các túi nước ngầm ở đây giống như các đảo ven biển khác, nằm ở độ sâu từ 1,7 đến 2,5m dưới mặt đảo ứng với tầng trên cùng của lớp san hô. Một số đảo lớn như đảo Ba Bình, Trường Sa, Song Tử, Thị Tứ, Đảo Dừa có nước lợ tương đối nhiều thuận tiện cho sinh hoạt.
Khí hậu vùng biển quần đảo Trường Sa khác biệt so với các vùng biển ven bờ, mùa hè mát hơn, mùa đông ấm hơn và có thể chia làm mùa mưa và mùa khô. Lượng mưa lớn nhất với khoảng 2.575mm, có ngày mưa tới 198 mm, số ngày nắng là 270 ngày.
  Hoàng Sa, Trường Sa: Thực trạng đóng quân của các nước? - Ảnh 2

Trường Sa Lớn, đảo thủ phủ huyện đảo Trường Sa, nơi Việt Nam ngày đêm bảo vệ chủ quyền.

Việt Nam đang thực thi chủ quyền hợp pháp tại 21 điểm đảo. Có thể chia thành thành 2 nhóm đảo, tuyến Bắc Trường Sa và Nam Trường Sa. Các đảo Bắc Trường Sa mà Việt Nam đang canh giữ, thực thi chủ quyền gồm 10 đảo, đá lực lượng sau: Song Tử Tây, Đá Nam, Đá Thị, Sơn Ca, Nam Yết, Len Đao, Cô Lin, Sinh Tồn, Sinh Tồn Đông, Đá Lớn. Các đảo Phía Nam Trường Sa mà Việt Nam đang bảo vệ gồm 11 đảo, đá sau: Trường Sa,Trường Sa Đông, An Bang, Phan Vinh , Thuyền Chài, Tiên Nữ, Núi Le, Tốc Tan, Đá Tây, Đá Đông, Đá Lát.
Ngoài ra, còn một số đảo bị các bên chiếm đóng bất hợp pháp gồm:
a. Phía Trung Quốc đã nhảy vào tranh chấp chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa từ những năm 30 của thế kỷ trước, mở đầu bằng một công hàm của Công sứ Trung Quốc ở Paris gửi cho Bộ Ngoại giao Pháp khẳng định “các đảo Nam Sa là bộ phận lãnh thổ Trung Quốc”.
Năm 1946, quân đội Trung Hoa Dân quốc xâm chiếm đảo Ba Bình. Năm 1956, quân đội Đài Loan lại tái chiếm đảo Ba Bình.
Năm 1988, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa huy động lực lượng đánh chiếm 6 vị trí, là những bãi cạn nằm về phía tây bắc Trường Sa, ra sức xây dựng, nâng cấp, biến các bãi cạn này thành các điểm đóng quân kiên cố, như những pháo đài trên biển.
Năm 1995, CHND Trung Hoa lại huy động quân đội đánh chiếm đá Vành Khăn, nằm về phía Đông Nam Trường Sa. Hiện nay họ đang sử dụng sức mạnh để bao vây, chiếm đóng bãi cạn Cỏ Mây, nằm về phía đông, gần với đá Vành Khăn, thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam.
Như vậy, tổng số đảo, đá, bãi cạn mà phía Trung Quốc (kể cả Đài Loan) đã dùng sức mạnh để đánh chiếm ở quần đảo Trường Sa cho đến nay là 9 vị trí. Đài Loan chiếm đóng đảo Ba Bình là đảo lớn nhất của quần đảo Trường Sa và mở rộng thêm 1 bãi cạn rạn san hô.
b. Philippines: bắt đầu nhảy vào tranh chấp chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa bằng sự kiện Tổng thống Quirino tuyên bố rằng quần đảo Trường Sa phải thuộc về Philippines vì nó ở gần Philippines.
Từ năm 1971 đến năm 1973, Philippines đưa quân chiếm đóng 5 đảo; năm 1977-1978, chiếm thêm 2 đảo; năm 1979, công bố Sắc lệnh của Tổng thống Marcos ký ngày 11 tháng 6 năm 1979 gộp toàn bộ quần đảo Trường Sa, trừ đảo Trường Sa, vào trong một đơn vị hành chính, gọi là Kalayaan, thuộc lãnh thổ Philippines. Năm 1980, Philippines chiếm đóng thêm 1 đảo nữa nằm về phía Nam Trường Sa, đó là đảo Công Đo… Đến nay, Philippines đã chiếm đóng 10 vị trí trong quần đảo này, gồm 7 đảo, đá san hô và 3 bãi cạn, rạn san hô.
c. Malaysia: mở đầu bằng sự việc Sứ quán Malaysia ở Sài Gòn, ngày 03 tháng 02 năm 1971, gửi Công hàm cho Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa hỏi rằng quần đảo Trường Sa hiện thời thuộc nước Cộng hòa Morac Songhrati Mead có thuộc lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa hay Việt Nam Công hòa có yêu sách đối với quần đảo đó không? Ngày 20 tháng 4 năm 1971, Chính quyền Việt Nam Công hòa trả lời rằng quần đảo Trường Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam, mọi xâm phạm chủ quyền Việt Nam ở quần đảo này đều bị coi là vi phạm pháp luật quốc tế.
Tháng 12 năm 1979, Chính phủ Malaysia xuất bản bản đồ gộp vào lãnh thổ Malaysia khu vực phía Nam Trường Sa, bao gồm đảo An Bang và Thuyền Chài đã từng do quân đội Việt Nam Cộng hòa đóng giữ.
Năm 1983-1984 Malaysia cho quân chiếm đóng 3 bãi ngầm ở phía Nam Trường Sa là Hoa Lau, Kiệu Ngựa, Kỳ Vân. Đến nay, số điểm đóng quân của Malaysia lên đến 7 điểm nằm ở phía Nam Trường Sa, tất cả đều là những rạn san hô.
d. Brunei : Tuy được coi là một bên tranh chấp liên quan đến khu vực quần đảo Trường Sa, nhưng trong thực tế Brunei chưa chiếm đóng một vị trí cụ thể nào. Yêu sách của họ là ranh giới vùng biển và thềm lục địa được thể hiện trên bản đồ có phần chồng lấn lên khu vực phía Nam Trường Sa.
Hồng Chuyên (Infonet)

Học đi em

Học đi mà nhớ mãi
Quê hương ta một dải
Từ mũi Cà mau
đến địa đầu Móng Cái
Quê hương ta
Đồng ruộng phì nhiêu
Đủ bốn mùa hoa trái
Núi Trường Sơn vĩ đại
Bờ biển rộng bao la
Có Việt Bắc mồ ma giặc pháp
Nối liền Đồng Tháp Nam bộ thành đồng
Học đi em
Học đi mà nhớ mãi
Đất ta liền một dải
Như máu chảy trong người
Kẻ nào định chia đôi
Chia lòng ta sao được
Em học đi cho thuộc
Rằng: Lòng ta chung một Cụ Hồ
Lòng ta chung một Thủ Đô
Lòng ta chung một cơ đồ Việt Nam!

Tố Hữu.
Hơn 1000 thầy trò tại Hà Nội xếp hình bản đồ Việt Nam                                      

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét