Thứ Năm, 22 tháng 10, 2015

CÂU CHUYÊN TÌNH BÁO 64

(ĐC sưu tầm tên NET)

Siêu điệp viên Israel và những bí mật hoạt động (Kỳ 1)

Thứ Tư, ngày 19/11/2014 05:29 AM (GMT+7)
 
Cặp vợ chồng trẻ lái chiếc xe cũ kỹ vào đại sứ quán cầu cứu. Ít ai ngờ người đàn ông là một siêu gián điệp.
Người đàn ông dáng vẻ mập mạp lái chiếc xe Mustang mày xanh cũ kĩ, tim anh ta đập nhanh vì quá lo lắng. Vợ anh ta ngồi ghế bên cạnh, mái tóc đỏ cuốn hút, trên tay ôm con mèo Dusty. Mọi thứ vừa trải qua khiến cô cảm thấy sợ hãi. Người phụ nữ này mang theo nhiều giấy tờ quan trọng để có thể bắt đầu cuộc sống mới.
Hai người lái xe đến Đại sứ quán Israel tại Washington, DC, họ tin rằng nơi đây sẽ là nơi ẩn náu an toàn nhất nước Mỹ cho họ.
Khi chiếc xe tiến gần tòa nhà, khoảng cách đủ để thấy lá cờ màu xanh trắng của đất nước Israel. Họ mới dám tin mình an toàn.
Người đàn ông đó là Jonathan Jay Polllar. Mọi người hay gọi anh là Jay. Vợ anh, Anne Henderson-Pollard. Cả hai đang rất sợ hãi bởi họ sẽ sớm bị bắt về tội làm gián điệp, trong đầu họ lúc này chỉ nghĩ đế nơi an toàn nhất là Đại sứ quan Israel.
Cánh cổng được mở, chiếc xe Mustag tiến nhanh vào bên trong. Jay và vợ thở phào nhìn nhau. Jay Pollard, 31 tuổi nói với một nhân viên an ninh của Đại sứ quán: “FBI đang tập trung vào tôi. Tôi cần sự giúp đỡ.”
Viên an ninh cho biết sẽ thông báo với cấp trên về việc này và sẽ quay lại trong vài phút nữa.
Lát sau, anh ta quay lại với thông tin không giống dự đoán của Jay. Anh ta thông báo cho cặp vợ chồng người Mỹ này rằng họ không thể ở lại tại Đại sứ quán. Họ phải rời khỏi đây ngay lập tức.
Sợ hãi và bối rối, Jay đã cố gắng giải thích. Chắc chắn đã có quyết định sai lầm ở đây. Jay nói to với người nhân viên: “Anh có biết những gì tôi đã làm cho đất nước Israel không? Anh có nhận ra tôi?".
Jay cho rằng mình có quyền được đối xử như những công dân Israel khi họ tìm đến đại sứ quán. Anh ta hét lên: “ Chúng tôi là người Do Thái, chúng tôi đang ở trên lãnh thổ Israel. Các anh không thể ném chúng tôi ra ngoài.”
Jay trở nên mất bình tĩnh. Anh ta bật khóc nói với người nhân viên: “Làm ơn, các anh không thể làm điều này.”
Jay và Anne đã cố gắng thuyết phục những không thành công.  Anh ta buồn bã lên chiếc xe của mình và lái ra khỏi đại sứ quán.
Xe của FBI đã bao vây đại sứ quán. Chiếc xe Mustang dừng lại. Jay bước ra ngoài. Anh ta bị bắt vì tội làm gián điệp. Những giấy tờ tren chiếc xe được tịch thu để làm bằng chứng.
Anne được phép quay trở về nhà cùng con mèo của mình. Tuy nhiên, ngay ngày hôm sau Anne cũng bị bắt.
Jonathan Jay Pollard sinh ngày 7/8/1954, là con út trong một gia đình trí thức gốc Do Thái ở Galveston, Texas. Khi Jay còn nhỏ, cả gia đình đã chuyển tới South Bend, Indiana để người cha anh, một nhà vi trùng học, có điều kiện phát triển sự nghiệp nghiên cứu của mình tại Đại học Notre Dame.
Cả ở hai nơi mà gia đình Jay sinh sống, Galveston và South Bend, đều không có cộng đồng Do Thái lớn nhưng vì cả cha mẹ Pollard đều mang trong mình dòng máu Do Thái nên gia đình cậu đã tích cực tham gia các nhóm Do Thái nhỏ trong vùng. Họ đã cố gắng rất nhiều để con cái hiể hơn về Do Thái.
Những đứa trẻ nhà Jay đã được học về nạn tàn sát người Do Thái dưới thời Hitler từ khi còn nhỏ và trưởng thành với mối thù những tên phát xít đã sát hại gần 70 người họ hàng của mình sống tại châu Âu.
Là một cậu bé thông minh, lại sinh ra trong một gia đình có truyền thống học thức nên lúc đi học Jay luôn thể hiện là một học trò xuất sắc. Tuy nhiên, bạn bè cùng lớp không ưa cậu. Ngày nào Jay cũng bị bạn học trêu chọc, chế nhạo và đánh đập.
Jay thự sự rất thông minh. Bạn bè cậu đã phải ghen tỵ về điều đó. Hơn nữa, lại cậu bé là người Do Thái trong khu vực có ít người Do Thái sinh sống nên Pollard coi đây là nguyên nhân chính của việc cậu trở thành mục tiêu chế giễu.
Theo Thúy Trần (Theo Crimelibrary) (Khám phá)

Siêu điệp viên Israel và những bí mật hoạt động (Kỳ 2)

Thứ Sáu, ngày 21/11/2014 05:05 AM (GMT+7)
 
Năm 1977, Jonathan Pollard nộp hồ sơ xin vào làm cho CIA, tuy nhiên, lá đơn đó đã không được chấp nhận bởi nhiều lý do.
Năm 1967, khi Jay 13 tuổi, một số quốc gia Ả Rập tấn công Israel. Có lần Jay khóc nức nở nói với mẹ rằng: “Họ sẽ giết chết Israel.”
13 tuổi, Jay tham dự buổi lễ truyền thống đánh dấu sự trưởng thành của một cậu bé Do Thái. Tại buổi lễ, cậu nói nhiều về chiến tranh tại Israel, những lời nói của Jay khiến các giáo sĩ Do Thái tại hội đường ngạc nhiên và thích thú. Họ khuyến khích cậu bé nghĩ nhiều hơn về đất nước và chiến tranh.
Năm 1968, gia đình Jay tới châu Âu, đó là trải nghiệm đầu tiên của Jay. Jay tới thăm Dachau và nhìn thấy những hình ảnh tiêu cực ở đây chống người Do Thái như hàng dào thép gai, những doanh trại kiên cố, những lò hỏa táng. Jay đã rất xúc động. Điều đó càng khiến cậu bé quết tâm làm điều gì đó cho những người dân mình.
Năm 1970, Jay đến Israel nhân chuyến tham quan dành cho những học sinh năng khiếu. Cậu bé thích thú với những gì mình nhìn thấy. Jay chia sẻ, “Đó là những trải nghiệm lớn nhất và ý nghĩa nhất trong cuộc đời tôi.”
Jay muốn được di cư đến Israel. Khi quay về nhà, Jay đã quyết tâm hơn bao giờ hết để biến giấc mơ đó trở thành hiện thực. Gia đình Jay không phản đối điều đó.
Năm 1972, Jay bắt đầu theo học tại đại học Stanford, trường đại học danh tiếng của Cafifornia. Ban đầu, Jay theo học ngành y  với ước mơ trở thành một bác sĩ, tuy nhiên, khóa học là một áp lực đối với Jay. Jay quyết định chuyển sang khoa chính trị.
 Siêu điệp viên Israel và những bí mật hoạt động (Kỳ 2) - 1
Điệp viên Jonathan Jay Pollard 
Jay nổi tiếng trong trường với những kiến thức về lịch sử quân sự, những bài thuyết trình về tình hình chiến sự hiện tại. Jay tha thiết mang sự thật về những cuộc chiến tranh đến cho mọi người. Những gì Jay làm đều liên quan đến Israel.
Jay có một khấu súng lục và luôn mang theo mình để tự vệ. Có lần, khi tham gia bảo vệ vùng đất định cư của người Do Thái, Jay đã nổ súng giết một người Ả Rập.
Năm 1976, Jay tốt nghiệp đại học Stanford và tiếp tục theo họ luật tại đại học Tufts ở Boston.
Năm 1977, Jay nộp hồ sơ xin vào làm việc cho CIA nhưng không hồ sơ của Jay không được chấp nhận do một vài lý do. Kết quả kiểm tra y tế cho thấy những nguy cơ bất ổn về hành động của Jay.
Hai năm sau, chàng thanh niên nhiều ước mơ 25 tuổi này được cơ quan tình báo Hải quân tuyển dụng làm chuyên viên nghiên cứu tình báo. Jay làm việc tại Văn phòng tình báo chiến dịch ở Suitland, Maryland, Mỹ. Hải quân không biết gì về những phát hiện của CIA liên quan đến nhân viên mới của mình.
Jay làm việc cho cơ quan tình báo Hải quân trong suốt 7 năm với công việc chủ yếu là phân tích dữ liệu và làm báo cáo. Thời gian này, Jay vẫn chịu những cái nhìn tiêu cục từ đồng nghiệp bởi mình là người Do Thái.
Năm 1981, Jay gặp Anne Henderson, lúc đó mới 21 tuổi, một cô thư ký xinh đẹp, mắt xanh, tóc nhuộm hồng, người sau này trở thành tình yêu đầu đời của cậu. Cô gái này cũng là người Do Thái nhưng không phải là một người theo chủ nghĩa phục quốc Do Thái như Jay. Hai người nhanh chóng sống chung và lên kế hoạch cho đám cưới.
Nhưng rồi Jay gặp rắc rối trong công việc khiến anh bị thu hồi giấy phép an ninh. Lúc đó, quan hệ giữa các cộng đồng tình báo tại Mỹ và Nam Phi rất căng thẳng và Mỹ cần thông tin về diễn biến tình hình tại Nam Đại Tây Dương. Jay đến gặp cấp trên và nói rằng anh là bạn cùng học tại trường Fletcher với trung tướng P. W. Van der Westhuize, người đứng đầu lực lượng tình báo quân đội của Nam Phi.
Tuy nhiên, các quan chức tình báo Hải quân bắt đầu cảm thấy Pollard có vấn đề khi anh kể cho họ những câu chuyện về việc anh đã từng sống tại Nam Phi và bố anh là tổ trưởng của CIA tại đó. Họ nhận ra rằng Pollard bịa chuyện và bảo anh yêu cầu anh gặp bác sỹ tâm lý.
Kết quả kiểm tra hoàn toàn bình thường, Jay không hề mắc bệnh tâm thần và giấy phép an ninh của Jay được cấp lại.
Theo Thúy Trần (Theo Crimelibrary) (Khám phá)

Siêu điệp viên Israel và những bí mật hoạt động (Kỳ 3)

Chủ Nhật, ngày 23/11/2014 04:45 AM (GMT+7)
 
Những dự định mới bắt đầu được vạch ra trong đầu Jay sau khi anh may mắn được gặp Đại tá không quân của Israel, Avia Sella.
Giấy phép an ninh được cấp lại cho Jay sau khi có kết luận Jay hoàn toàn bình thường, không có dấu hiệu của bệnh tâm thần.
Năm 1984, đúng như mong muốn công việc của mình, Jay được làm việc tai Trung tâm cảnh báo chống khủng bố của cơ quan tình báo Hải quân. Người trực tiếp chỉ đạo Jay trong công việc là Jerry Agee, một sĩ quan tình báo nhiều kinh nghiệm.
Nhiệm vụ chính của Jay là nghiên cứu, phân tích các dữ liệu tình báo được gửi về trung tâm.  Theo đánh giá của cấp trên, Jay làm việc rất chăm chỉ, đưa ra kết quả phân tích nhanh nhưng bên trong đó vẫn là những ý kiến chủ quan của Jay. Điều đó có thể gây nguy hiểm cho toàn trung tâm.
Năm 1982, do sơ xuất, Jay đã mang một số tài liệu của trung tâm cho người quen của mình xem.  Hình ảnh Jay trong mắt họ hoàn toàn thay đổi.
Cảm thấy bất mãn với những gì đang xảy ra tại nơi làm việc khi họ không quan tâm đến việc cho phép chuyển giao những tài liệu quan trọng cho Israel, Jay quyết tâm chính mình sẽ làm những điều đó.
Jay tình cờ gặp lại người bạn cũ của mình là Steven Stem và nghe cậu ta nói về bài thuyết trình của một giảng viên hiện đang là đại tá không quân của Israel, Avi Sella. Jay rất kính nể Avia Sella vì những gì ông làm cho Israel. Những kế hoạch mới bắt đầu được vạch ra trong đầu Jay.
Jay muốn bạn mình sắp  xếp một cuộc gặp với Đại tá Sella  và muốn nói với Đại tá những mong muốn của mình được cống hiến của Israel.
Jay và Đại tá Sella gặp nhau lần đầu tại quán cà phê trong khách sánh Hilton ở Washington. Jay đã mạnh dạnh trình bày ý kiến của mình và nhận được sự ủng hộ của Đại tá Sella.
Từ đó, Jay thường xuyên cung cấp những thông tin liên quan đến Israel và trở thành điệp viên mới của đất nước này. Jay từ chối nhận những khoản thù lao cho hành động của mình.  “Món quà” duy nhất Jay nhận cho những đóng góp của mình là chuyến du lịch tới Paris cùng với vợ vào tháng 11/1984.
Jay bắt đầu lơ là công việc chính của mình. Đầu năm 1985, cấp trên James Agee phát hiện Jay đã hai lần nói dối để tự nâng cao tên tuổi của mình và có những hành động lén lút. James bắt đầu nghi ngờ Jay.
James tình cờ nhìn thấy những tài liệu quan trọng không liên quan đến nhiệm vụ của Jay được người phụ tá tìm kiếm. Ngay lập tức, Tom Filkens, một chuyên viên phân tích tài liệu được điều động để tìm ra nguyên nhân.
Jay giải thích mình cần những tài liệu này để viết báo cáo về các mối đe dọa khủng bố tại vùng Caribe. Lời giải thích này tuy được chấp nhận những uy tín của Jay đã giảm sút nghiêm trọng.
Không lâu sau đó, James Agee nhận được thông báo Jay mang theo những tài liệu quan trọng rời khỏi văn phòng. Điều tra, Agee phát hiện đây không phải lần đầu tiên, cứ thứ 6 hàng tuần, Jay lại mang đi những tài liệu không liên quan đến nhiệm vụ của mình. James bắt đầu giám sát chặt chẽ hơn những hoạt động của Jay.
Sáng ngày 9/11/1985, sau nhiều nỗ lực tìm kiếm và điều tra, James đã phát hiện ra hoạt động gián điệp của Jay. Một cái bẫy được bí mật đặt ra.
Thứ 6 ngày 15/11, theo thông lệ, Jay tới trung tâm để nhận những tài liệu đã yêu cầu trước nhưng lần này Jay ngạc nhiên vì nhận thông báo tài liệu chưa được chuẩn bị. Tuy nhiên, Jay hoàn toàn không nghĩ đến việc hoạt động gián điệp của mình đã bị phát hiện.
Hai tuần tiếp theo, nhân viên trung tâm chuyển phát gọi điện của Jay thông báo số tài liệu Jay cần đã được gửi đến.
Hôm đó, Jay vội vã rời văn phòng. Ngay khi vừa bước lên xe, một chuyên viện đặc vụ của cơ quan tình báo Hải quân Mỹ đã tiến đến, yêu cầu  xuống xe. Jay cảm thấy bất an về điều đó và lo sợ hoạt động của mình bị bại lộ, tuy nhiên, Jay vẫn tỏ ra bình tĩnh.
Jay bị đưa đến phòng đặc biệt và bị thẩm vấn bởi một nhóm các đặc vụ, có cả những nhân viên của Cục điều tra Liên bang Mỹ. Tối muộn, anh gọi điện cho vợ mình. Bằng những kí hiệu đã thông nhất trược, Jay yêu cầu vợ mình xử lý số tài liệu mật đang cất giữ trong nhà.
Theo Thúy Trần ((Theo Crimelibrary) (Khám phá))

Siêu điệp viên Israel và những bí mật hoạt động (Kỳ cuối)

Thứ Ba, ngày 25/11/2014 04:56 AM (GMT+7)
 
Hoạt động gián điệp của mình bị bại lộ, Jay lái xe tới đại sứ quán Israel tại Washington yêu cầu sự giúp đỡ.
Biết mình có khả năng bị lộ, Jay gọi điện  cho vợ  mình xử lý những tài liệu mật đang cất giấu tại nhà.
Sau khi gửi một số giấy tờ quan trọng cho người thân, Anne đã cố gắn liên hệ với Đại tá Avi Sella yêu cầu sự giúp đỡ. Tuy nhiên, không có bất cứ kế hoạch nào được đưa ra đảm bảo an toàn cho Jay. Ngay ngày hôm đó, Đại tá Avi Sella lên chuyên bay sớm nhất rời khỏi Mỹ.
Trong khi Đại tá Sella an toàn ở Anh thì tại Mỹ, Jay liên tiếp trải qua những cuộc thẩm vấn liên quan đến hoạt động đánh cắp tài liệu mật của mình thời gian vừa qua. Jay có thừa nhận đánh cắp chúng nhưng lại khai giao nó cho người bạn. Jay muốn kéo dài thời gian với hi vọng phía Israel sẽ có động thái cứu mình. Tuy nhiên, mọi chuyện không như Jay nghĩ.
Ngay sau khi được thả về, Jay và Anne vội vã cầm một số giấy tờ quan trọng và lái xe tới đại sứ quán Israel tại Washington yêu cầu giúp đỡ. Anne đang giữ một số giấy tờ quan trọng, nó sẽ giúp cả hai người an toàn.  Tuy nhiên, Jay đã bị từ chối ngay tại đại sứ quán. Nhân viên đại sứ quán yêu cầu vợ chồng Jay rời khỏi đấy ngay lập tức.
Chiếc xe cũ kỹ của Jay vừa rời cánh cổng đại sứ quán thì đã bị bắt. Xe của FBI đã đợi sẵn bên ngoài.
Jay chính thức bị bắt với tội danh hoạt động gián điệp. Tất cả giấy tờ trên xe bị thu giữ làm bằng chứng. Anne được trả về, tuy nhiên cô cũng bị triệu tập ngay ngày hôm sau.
 Siêu điệp viên Israel và những bí mật hoạt động (Kỳ cuối) - 1
Jonathan Jay Pollard, ảnh năm 1998
Tại sao Jay không được Israel cứu? Lý do này không được công bố chính thức, tuy nhiên, có nhiều thông tin cho rằng quan hệ giữa Israel và Mỹ thời điểm đó không tốt. Israel không thể cho Jay tị nạn.
Phía Israel hoàn toàn phủ nhận việc liên quan đến hoạt động gián điệp của Jay. Theo họ, kế hoạch của Jay là kế hoạch đơn lẻ. Phía họ không hay biết.  Thậm chí, Israel còn giao lại cho Mỹ những tài liệu đã nhận được từ Jay.
Khi biết bị bỏ rơi, Jay quyết định khai mọi hoạt động của mình nhưng vẫn khẳng định mình không phản bội nước Mỹ.
Anne bị truy tố về tội danh bao che, cất giữ và sử dụng trái phép những thông tin quốc phòng. Bản án dành cho Anne ít nhất là 5 năm tù giam.
Phía luật sư của Jay muốn tòa đảm bảo không áp dụng án tử hình cho Jay nêu như Jay đồng khai nhận toàn bộ hành vi của mình và nhận tội.  Sau nhiều phiên xét xử, Jay đã bị tuyên án chung thân.
Bản án dành cho Jay gây nhiều tranh cãi bởi trước đây, nhiều trường hợp hoạt động gián điệp cho nước đồng minh đã bị bắt giữ, tuy nhiên, bản án dành cho họ không quá 14 năm tù giam.
Ngay sau khi phán quyết được công bố, Jay được chuyển đến bệnh viện của nhà tù liên bang tại Springfield, Missouri. Jay bị quản thúc ở đây hơn một năm để điều trị chứng bệnh tâm lý của mình của mình trước khi bị chuyển đến nhà tù tại Marion, Illinois. Nhà tù ở Marion được coi là an ninh và quản thúc tù nhân khắt khe. Mỗi tù nhân chỉ được phép ra khỏi buồng giam của mình một giờ mỗi ngày.
Tháng 3/1990, Anne được thả tự do sau 3 năm 4 tháng chịu án. Cuối năm đó, cô nhận được đơn ly dị của Jay.
Trong thời gian chịu án, Jay nhận được sự ủng hộ của một người phụ nữ Do Thái nhưng mang quốc tịch Canada tên là Esther Zeitz. Hai người thường xuyên trao đổi thư từ với nhau. Không lâu sau đó, hai người tự nhận nhau là vợ chồng. Esther bắt đầu sử dụng cái tên Esther Zeitz Pollard.
Sau rất nhiều năm, câu chuyện về hoạt động gián điệp của Jay vẫn luôn là câu chuyện được nhiều người quan tâm.
Năm 1988, phía Israel đã công khai thừa nhận Jay hoạt động cho mình và xác nhận quyền công dân cho Jay. Một số quan chức Israel đã tới thăm Jay khi ông chịu án tại Mỹ.
Những hoạt động biểu tình kêu gọi trả tự do cho Jay ngày càng được lan rộng, tuy nhiên, phía Mỹ vẫn không thay đổi quyết định với lý do những tài liệu Jay đã từng đánh cắp là những tài liệu rất quan trọng, ảnh hưởng đến an ninh nước Mỹ.
Hiện tại, điệp viên Jonathan Jay Pollard vẫn đang chịu án tại nhà giam ở Butner, Bắc Carolina. Jay vẫn mong đợi một ngày được tự do và sống tại đất nước Israel.
Theo Thúy Trần (Theo Crimelibrary) (Khám phá)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét