KÝ ỨC CHÓI LỌI 50/e
(ĐC sưu tầm trên NET)
Dịp kỷ niệm 55 năm ngày mở đường Hồ Chí Minh trên biển tổ chức ở Hà
Nội tuần qua, chúng tôi gặp lại cựu binh Lê Xuân Khảm (SN 1940; ngụ tại
quận Hải An, TP Hải Phòng). Nhắc lại trận chiến hơn 3 giờ với tàu địch
trên vùng biển Cà Mau vào năm 1966, trong chuyến đi chở hơn 60 tấn vũ
khí chi viện cho miền Nam, ánh mắt người thợ máy tàu 69 năm nào lại bừng
sáng.
9 tháng nằm bờ
Vốn là giáo viên Trường ĐH Hàng hải, ông Khảm là một trong 200 trí thức, sinh viên của Hải Phòng tình nguyện đi chiến đấu và được tăng cường cho miền Nam. Sau đó, ông được biên chế về đoàn tàu không số. Tàu 69 lúc ấy có 16 người do ông Nguyễn Hữu Phước (quê Cà Mau) làm thuyền trưởng, ông Tăng Văn Huyển (Bến Tre) là chính trị viên. Trong 14 người còn lại, ông Khảm phụ trách máy 2.
Năm 1966, tàu 69 được lệnh chở 61 tấn vũ khí từ Bến K15 (Hải Phòng) vào Bến Vàm Lũng (Cà Mau). Tàu 69 được ngụy trang thành tàu nghiên cứu khoa học của nước ngoài. Nhân gió mùa Đông Bắc, biển động rất mạnh nên tàu khu trục, tuần duyên của hải quân địch nằm bờ không tuần tra, tàu 69 ra khơi thẳng tiến vào Nam. Thế nhưng, khi đến khu vực ngang với vùng biển Đà Nẵng, tàu 69 bị tàu Mỹ phát hiện và đeo bám. Dù vậy, các thành viên trên tàu vẫn quyết tâm phải vào được Vàm Lũng vì quân dân miền Nam đang rất thiếu vũ khí.
“Tối 22-3-1966, sau khi cắt đuôi tàu địch, tàu 69 chuyển hướng chạy
hết tốc lực vào gần Côn Đảo. Tuy nhiên, do đoán trước được nên địch đã
cho tắt 2 ngọn hải đăng ở Côn Đảo và Hòn Khoai khiến tàu 69 không thể
xác định đường đi. Rạng sáng hôm sau, khi tiếp cận bờ thì anh em mới
biết tàu đã lạc bến đến vài chục km. Phía ngoài, tàu địch bao vây, truy
tìm; trong bờ, dân quân, du kích địa phương ngỡ tàu 69 là của địch nên
nổ súng tấn công. Sau khi biết chính xác tàu 69 là bên mình, dân quân,
du kích đã ra dẫn vào, lo ngụy trang. Máy bay địch liên tục quần thảo
nhưng không phát hiện được” - ông Khảm nhớ lại.
Sau khi bắt liên lạc, tàu 69 liền quay lại Bến Vàm Lũng. Giao vũ khí xong, tàu 69 không quay về được vì tàu địch canh phòng rất cẩn mật, phải nằm lại bến đến 9 tháng.
Chống chọi hàng chục tàu địch
Đến tối 1-1-1967, xác định địch nghỉ Tết Dương lịch, tàu 69 lên đường quay ra Bắc. “Khi gần đến vùng biển quốc tế thì anh em phát hiện bị nhiều tàu địch bao vây. Cuộc họp khẩn kéo dài chưa đến 2 phút, thuyền trưởng và chính trị viên tàu 69 quyết định nổ súng tấn công tàu địch trước. Hai khẩu 12 ly 7 trên tàu ta đồng loạt nhả đạn khiến 1 tàu địch bị bất ngờ thiệt hại nặng, không tấn công được nữa” - ông Khảm kể.
Tuy nhiên, gần chục tàu địch khác đã triển khai đội hình tấn công khiến tàu 69 cũng bị thiệt hại nặng nề, 1 người hy sinh, 3 người bị thương nặng. Sau đó, tàu 69 vừa rút vào bờ vừa tấn công đáp trả. Các thuyền viên đã hủy tài liệu, hải đồ, chuẩn bị phương án cho nổ tàu. Tàu lại cháy trong khi hệ thống cứu hỏa đã bị bắn hỏng, thuyền viên phải chia nhau vừa tấn công vừa dập lửa.
“Sau mấy giờ quần thảo, nhiều người trên tàu bị thương nhưng anh em đều cố gắng bám trụ chiến đấu. Trong đó, chiến sĩ báo vụ Phan Hải Hồ - 25 tuổi, quê Nam Định - bị thương ngay loạt đạn đầu. Cổ chân dính đạn, bàn chân gần như đứt lìa nhưng anh vẫn ôm súng chiến đấu không lùi bước. Hồ còn đề nghị anh em cắt đứt bàn chân để anh chiến đấu cho thuận tiện nhưng không ai nỡ. Sau này, về đến bến, bàn chân anh bị cắt bỏ. Gương chiến đấu anh dũng của Hồ được truyền đi khắp đoàn tàu không số” - ông Khảm khâm phục.
Suốt 3 giờ vừa đánh vừa rút, pháo tạo khói được các thuyền viên tàu 69 liên tục ném xuống biển, mù mịt cả một vùng làm hạn chế tầm nhìn của địch. Nhân đó, tàu 69 tìm cách tiếp cận bờ và về được đúng Bến Vàm Lũng. Dù địch đã cử 2 tàu chặn trước ở khu vực này nhưng ta cũng bố trí lực lượng trên bờ đánh trả làm chúng phải bỏ chạy. Tàu 69 quay về bến trú ẩn an toàn. Trong khi đó, tàu địch tưởng tàu 69 chạy sang vùng biển mũi Cà Mau, đuổi theo không thấy, quay về thì đã bị mất mục tiêu.
Sau sự kiện này, do địch huy động lực lượng canh phòng cẩn mật, tàu 69 không thể quay ra Bắc nên tạm thời trú ẩn ở một con lạch nhỏ gần Bến Vàm Lũng. Những thuyền viên còn lại trên tàu đã trực tiếp tham gia chiến đấu cùng với lực lượng địa phương ở vùng cửa sông...
“Đây có lẽ là một trận đánh hy hữu trong lịch sử Hải quân Việt Nam. Tàu địch lên đến hàng chục chiếc bao vây nhưng tàu 69 vẫn chiến đấu anh dũng và chạy thoát an toàn” - ông Khảm nhận xét.
Gia đình người anh hùng
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chúng ta đã có một con đường xẻ dọc Trường Sơn mà hễ nhắc đến là lại liên tưởng tới những sự tích thần kỳ. Song ngoài con đường ấy, còn có một con đường khác nữa, đó là con đường vận chuyển vũ khí từ Bắc vào Nam trên biển Đông với một nét độc đáo, sáng tạo như thần thoại, với biết bao kỳ tích cảm động về lòng dũng cảm, sự hy sinh quên mình của những người chiến sĩ “Đoàn tàu không số” và tình cảm gắn bó keo sơn với quân dân các bến đỗ ở miền Nam. Đó là con đường huyền thoại: Đường Hồ Chí Minh trên biển và tên tuổi Phan Vinh liền với tên đường.
Phan Vinh, người con ưu tú của mảnh đất Điện Nam, Điện Bàn, Quảng Nam (cũ) sinh ra trong một gia đình cách mạng. Tháng 3/1968, anh hy sinh ở Hòn Hèo thì cuối năm ấy, cha của anh, người du kích tên là Nguyễn Đức Mẫn cũng hy sinh trong một trận chống càn tại quê nhà. Mẹ anh mất trước đó 5 năm, (năm 1963) vì bị địch bắt, đánh đập, tra khảo dã man.
Năm bà ra đi cũng là năm người con trai thứ hai, Nguyễn Đức Lân ngã xuống trên chiến trường Quảng Nam. Người duy nhất còn lại trong gia đình là anh Nguyễn Đức Xử. Một người bạn của tôi trong đợt đi làm phim về “Tàu không số” kể chuyện đã được nghe anh Xử nói về người em trai của mình: “Phan Vinh tuy là con út trong gia đình, nhưng ngay từ nhỏ đã là người cứng cỏi, quyết đoán, và đặc biệt là giàu lý tưởng”.
Có lẽ chính từ cái cứng cỏi, quyết đoán và giàu lý tưởng cách mạng đó đã làm nên một Phan Vinh với chiến công trên vùng biển Hòn Hèo.
Tàu 235 - Bản anh hùng ca bất tử trên vùng biển Hòn Hèo
Hòn Hèo là tên chung chỉ vùng biển và dãy núi chạy qua hai xã Ninh Phước, Ninh Vân thuộc tỉnh Khánh Hòa. Hòn Hèo cách Nha Trang khoảng hơn chục cây số đường biển. Nơi đây, thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh và đồng đội đã hy sinh cùng con tàu 235 vào năm 1968.
Thời kỳ đó, kẻ địch đã tìm mọi cách ngăn chặn con đường vận chuyển trên biển mà chúng gọi là con đường “cực kỳ nguy hiểm” này. Không quân, Hải quân Mỹ và quân đội Sài Gòn tung lực lượng khá mạnh để chăng lưới bủa vây trên mặt biển đón bắt những con tàu cảm tử chở vũ khí chi viện cho chiến trường miền Nam. Trên biển, chúng chia từng tổ bố trí tàu chiến ngăn chặn và lắp đặt rađa quét sóng đêm ngày. Trên trời và trong đất liền cả đêm lẫn ngày, chúng cho lính và máy bay trinh sát, tuần tra, canh phòng.
Anh Long An, một trong năm người sống sót đã kể lại chuyến đi của tàu 235.
- 11 giờ 30 phút ngày 27/2/1968, tàu 235 xuất phát chở hơn 14 tấn vũ khí vào bến Hòn Hèo. Đây là bến hết sức khó vào, luồng hẹp, nhiều đá ngầm. Một tài liệu của Pháp viết rằng, tàu muốn ra vào Hòn Hèo phải có những tay thuyền trưởng lão luyện, với trên dưới 20 năm tuổi nghề.
Trung úy Nguyễn Phan Vinh tuy chưa có tuổi nghề cao nhưng được tin cậy chỉ huy con tàu này. Tàu có 21 cán bộ, chiến sĩ: Chính trị viên Nguyễn Tương, thuyền phó 1: Đoàn Văn Nhi; thuyền phó 2: Võ Tá Tu; máy trưởng: Trương Văn Mùi; thợ máy: Ngô Văn Thứ, Nguyễn Minh Hải, Trần Lộc; thợ điện: Lê Duy Mai; báo vụ: Phạm Trường Nam, Doãn Quang Ruyện; rađa: Trần Thọ Thuyết; thủy thủ: Ngô Văn Dầu, Nguyễn Văn Phong, Hà Minh Thật, Đào Quang Ty; hàng hải: Mai Văn Khung, Lâm Quang Tuyến; y tá: Hoàng Văn Hòa; cơ yếu: Nguyễn Văn Dũng và tôi, thợ máy.
Trước giờ nhổ neo Ngô Văn Dầu bị viêm phổi phải vào viện
nên đội hình còn lại 20 người. Chúng tôi đi hai ngày đêm trên vùng biển
quốc tế. Tối 29/2, tàu đến ngang vùng biển Nha Trang và chuyển hướng vào
bờ. Phát hiện ra tàu ta, địch lập tức huy động 3 tàu chiến: Ngọc Hồi,
HQ12, HQ 617 và 4 tàu khác của duyên đoàn 25 đến vùng biển Nha Trang với
ý định bắt sống...
Biết đã bị lộ, Thuyền trưởng Phan Vinh khôn khéo điểu khiển tàu 235 luồn lách qua đội hình tàu địch và đến được bến Ninh Phước lúc 0 giờ 30 phút ngày 1/3. Anh quyết định thực hiện phương án hai, cho thả hàng xuống nước để quân dân ở bến mò vớt sau. Các kiện hàng được bao gói đặc biệt lần lượt lăn xuống biển. Lúc đó, chừng 1 giờ 30 phút, 3 tàu loại lớn và 4 tàu loại nhỏ của địch khép chặt vòng vây ở phía sau, phía trước là núi.
Phan Vinh cho tàu chạy ven bờ xuôi xuống bến Ninh Vân chừng độ mươi hải lý, nhằm mục đích giữ bí mật không để lộ vị trí thả vũ khí. Tàu địch lập tức đuổi theo, nã đạn dữ dội rồi bật đèn pha và gọi máy bay đến thả pháo sáng và bắn rốc-két. Trong lửa đạn, Nguyễn Phan Vinh bình tĩnh chỉ huy anh em chiến đấu, và điều khiển tàu chạy sát bờ. Các thủy thủ Thật, Phong liên tiếp dùng DKZ và 14 ly 5 bắn về phía tàu địch, một chiếc bốc cháy khiến chúng không dám vào gần.
Cuộc chiến đấu mỗi lúc một ác liệt. Hỏa lực của địch liên tục bắn vào tàu ta. 5 cán bộ, chiến sĩ trên tàu đã hy sinh, 2 người bị thương nặng, 7 người bị thương nhẹ. Thuyền trưởng Phan Vinh cũng bị mảnh đạn xượt qua đầu. Anh tự băng bó và vẫn đứng trong buồng lái động viên mọi người chiến đấu. Anh có ý định phá vòng vây bởi ngoài khơi dễ cơ động, nếu cần thì áp sát tàu địch và cho nổ tàu tiêu diệt bọn chúng. Nhưng rất không may, lúc đó máy tàu hỏng nặng. Ý định phá vòng vây không thành.
Anh chỉ huy cho tàu di chuyển vào sát bờ. Lúc đó chừng 2 giờ 20 phút, tàu cách bờ hơn 100 mét, anh tổ chức đưa người đã hy sinh và bị thương vào bờ, sau đó ra lệnh chuẩn bị điểm hỏa cho nổ tàu. Anh Vinh, Thứ và tôi cài kíp nổ ở khoang máy, các vị trí khác do Khung, Thật, Mai đảm nhiệm. Kiểm tra xong lần cuối, chúng tôi nhảy xuống nước bơi vào bờ. Tôi được giao nhiệm vụ nếu tàu không nổ phải quay lại kiểm tra các kíp nổ.
20 phút sau, lúc 2 giờ 40 phút, ngày 1/3, một cột lửa bùng lên, kế đó là tiếng nổ dữ dội, chấn động tới Nha Trang. Sức công phá của khối thuốc nổ khiến tàu 235 đứt đôi, một nửa chìm xuống biển, một nửa văng lên lưng chừng núi Bà Nam, xã Ninh Vân. Sau những phút giây bàng hoàng, địch gọi máy bay đến bắn phá ven biển, nhằm dọn đường cho bộ binh bao vây, bắt sống các thủy thủ tàu 235. Số thủy thủ rút lên bờ còn lại 9 người. Địch lập tức đổ quân lùng sục.
Thuyền trưởng Vinh và thợ máy Thứ chốt ở đó, kiên cường chống trả, đánh lui nhiều đợt tấn công của địch, và cuối cùng, lực kiệt, vết thương ngày một nặng, súng không còn đạn, các anh đã hy sinh. Số thủy thủ của tàu 235 còn lại 7 người, đó là thuyền phó Nhi và 6 thủy thủ: Mai, Thật, Phong, Khung, Tuyến và tôi. Tất cả đều thương tích đầy mình. Anh em cố gắng dìu nhau di chuyển khắp vùng núi đá Hòn Hèo.
Mười ngày phơi dưới nắng, không lương thực, không nước uống, chúng tôi kiệt sức. Ngày thứ 11, Khung đi tìm nước uống, rồi không trở về. Sau này mới hay Khung bị địch bắt. Ngày thứ 12, chúng tôi liên lạc được với du kích ở bến. Mọi người quay lại đón anh Nhi đang nằm trong rừng. Nhưng anh không còn ở đó nữa, chỉ thấy mảnh áo rách và cuốn băng cá nhân, máu đã khô...
Về sự kiện này, tạp chí “Lướt sóng” của Hải quân quân đội Sài Gòn viết: “Mười hai chiến hạm và hàng chục hải thuyền của Hoa Kỳ cùng quân lực Việt Nam cộng hòa có phi cơ yểm trợ, đụng độ ác liệt với một tiểu đoàn Việt Cộng (thực chất chỉ có 20 thủy thủ) gan góc và thiện chiến trên con tàu chở vũ khí từ Bắc Việt thâm nhập và tiếp tế cho mặt trận giải phóng. Họ đã nổ súng đến viên đạn cuối cùng, đến người cuối cùng và hy sinh với con tàu bằng khối lượng hàng tấn bộc phá do chính tay họ tự hủy, không để lại một dấu vết”...
Thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh cùng 14 đồng đội thân yêu đã anh dũng hy sinh trên vùng biển Hòn Hèo. Khi ấy Nguyễn Phan Vinh mới ở tuổi 35. Sự hy sinh của anh đã trở thành bất tử trong lòng những người lính biển và quân dân cả nước.
Kể đến đây, anh Long An lặng đi, đôi mắt đỏ hoe. Đưa tay gạt những giọt nước mắt, anh nói tiếp:
- Phan Vinh là một thuyền trưởng giỏi, anh đã có 11 chuyến vận chuyển vũ khí thành công, dũng cảm, quyết đoán, sống chân thành, được anh em quý mến. Tôi chỉ tiếc chẳng giữ được chút kỷ vật nào của người thuyền trưởng anh hùng ấy.--PageBreak--
Những dòng thư đầy ắp niềm tin và lý tưởng cách mạng
Điều mà anh Long An day dứt phần nào đã được giải tỏa bởi tại Cơ quan Bảo tàng Hải quân hiện còn lưu giữ những bức thư của Phan Vinh gửi người bạn thân là anh Trần Phong (đồng chí Trần Phong - nguyên quyền Đoàn trưởng Đoàn 125 Hải Quân). Trần Phong và Phan Vinh là đôi bạn thân. Họ cùng quê, cùng tập kết ra Bắc, cùng học ở Trung Quốc và cùng về Quân chủng Hải quân làm thuyền trưởng. Những lá thư anh viết khi đang ở tại căn cứ trên nước bạn, chuẩn bị cho những chuyến đi.
Lá thư anh Phong nhận ngày 26/10/1967 có đoạn:
“Chúng ta phải là những con lạc đà trên bãi sa mạc, mỗi bước đi, mỗi vết chân của chúng ta vì sự nghiệp của Đảng, chúng ta phải là những chiếc cầu chì, vui vẻ và lạc quan mà nhận lấy công tác ở những nơi nguy hiểm nhất. Và khi cần thiết ta hy sinh sinh mạng mình cho Đảng, cho nhân dân. Thời gian, thời gian sẽ ủng hộ chúng ta...".
Lý tưởng cách mạng cao đẹp của anh và của thế hệ thanh niên thời đó, sẵn sàng chấp nhận hiểm nguy, sẵn sàng hy sinh cho cách mạng. Các anh đã dấn thân vào chiến trận với một tâm hồn sôi nổi, giàu nhiệt huyết. Không phải một tấm gương mà hàng ngàn, hàng vạn tấm gương “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” trên mặt biển, vì sự nghiệp chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Lá thư gửi tháng 1/1968, trước khi anh hy sinh một tháng:
Phong thân!
Mình không ngờ đến nơi đây. Mùa hè đã qua mà nóng ghê, nhưng đâu có nóng bằng cõi lòng người chiến sĩ. Mọi việc ở đây diễn ra bình thường, rất mong ngày “thượng lộ”, ấy thế mà cứ ăn chực nằm chờ mãi, kể cũng ê. Còn những gì tiếp theo nữa thì để lịch sử trả lời. Hẹn gặp Phong vào một ngày vinh quang, điều đó khẳng định.
...Phong hãy giúp mình biên thư cho anh Xử. Khi nào có dịp mình sẽ biên thư sau, hoặc sẽ có dịp gặp. Mình không muốn biên thư vì mình nghĩ rằng mọi riêng tư lúc này sẽ làm con người ta khó bước tới. Tình cảm đó có lẽ để dành cho sau chiến tranh. Bây giờ thì mình chỉ có một tình cảm duy nhất là hãy bước tới và xông vào cuộc cách mạng vĩ đại, con người hoàn toàn không sợ ràng buộc bởi những mối dây nào khác.
Thằng Thạnh sắp cưới vợ, mình không có gì làm quà. Phong mở trong gói đồ mình để lại, lấy chiếc khăn tay, lọ nước hoa nói rằng mình gửi tặng mối tình đó. Phong chuyển lời hỏi thăm và chúc mừng đôi bạn xinh đẹp ấy...
Tạm gác lại những tình cảm riêng tư để dồn cho điều duy nhất đó là bước tới và xông vào cuộc cách mạng vĩ đại, với niềm tin vững chắc vào thắng lợi.
Cách đây 40 năm, Phan Vinh và thế hệ thanh niên của đất nước đã đi vào chiến trận với tinh thần lạc quan bởi họ luôn nung nấu một lý tưởng cao đẹp, một niềm tin chắc chắn rằng sự hy sinh vì nghĩa của mình sẽ được nối tiếp, và sẽ thành công. Trong số các anh, có anh không còn nữa nhưng niềm tin và lý tưởng mà các anh tâm nguyện còn sống mãi
Bùi Thị Hương (Bảo tàng Quân chủng Hải quân)
Huyền thoại TÀU KHÔNG SỐ - Tập 9+10
Những trận chiến anh hùng của thủy thủ tàu không số
Thứ tư, 19/10/2011 | 17:22 GMT+7
Bắt đầu hành trình, mỗi tàu không số đều được gắn thuốc nổ, khi
chiến đấu với địch và nhận thấy không thể vượt qua, thuyền trưởng sẽ cho
phá hủy tàu, đảm bảo bí mật và không để vũ khí rơi vào tay kẻ thù.
Nguyên
là trưởng tiểu ban tác chiến, huấn luyện, người làm kế hoạch tác chiến
cho tàu không số đi vào 19 bến thuộc các tỉnh Nam Bộ, ông Nguyễn Hữu
Tuần cho hay, để giữ bí mật tuyệt đối, tất cả các khâu đều được bảo mật.
Những vùng xây dựng cầu cảng, bến bãi phải di dân, khoanh vùng nhưng cả
chính quyền và người dân đều không biết bên trong dùng làm gì. Riêng
đội đóng tàu được tuyển chọn kỹ, đóng tàu hai đáy và cũng không biết tàu
đó được giao cho ai, chở gì.
“Thuyền trưởng và
thủy thủ tàu không số không được tiết lộ nhiệm vụ với gia đình. Trước
mỗi hành trình, họ phải gửi lại giấy tờ, ghi địa chỉ quê quán, người
thân, chụp ảnh để lưu lại trong hồ sơ. Chúng tôi ngầm hiểu với nhau đó
là những lần truy điệu sống để không may hy sinh còn có thông tin gửi về
địa phương. Thế nhưng ai cũng quyết tâm chiến đấu vì đất nước, có thủy
thủ không được đi đã bật khóc”, ông Tuần kể.
Vị chỉ
huy kế hoạch tác chiến cho hay, mỗi chiếc tàu rời bến đều được gắn
thuốc nổ xung quanh. Khi chiến đấu với kẻ thù và cảm thấy không thể vượt
qua, thuyền sẽ được phá huỷ để đảm bảo bí mật và không để vũ khí rơi
vào tay địch. Mọi giấy tờ, căn cước chiến sĩ mang theo cũng được làm
giả, tàu đi đến địa phận nào tùy tình hình mà thay biển số cho hợp lý,
đề phòng địch kiểm tra, phát hiện.
Trung tá Hồ Đắc Thạnh, nguyên thuyền trưởng tàu 41. Ảnh: Trọng Thiết. |
Giọng
bùi ngùi, trung tá Hồ Đắc Thạnh, nguyên thuyền trưởng tàu 41 cho hay,
ông và đồng đội nhiều lần đối mặt với kẻ thù, chiến đấu anh dũng, nhưng
cuối cùng phải cho nổ tàu vì không đủ sức đánh lại địch với lực lượng
hùng mạnh. Ông kể, tàu 41 là tàu vỏ sắt đầu tiên được lựa chọn vận
chuyển vũ khí vào bến khu 5. Tàu do ông làm thuyền trưởng, ông Trần
Hoàng Chiều làm chính trị viên cùng 19 thủy thủ và 3 người là quân giải
phóng được tỉnh ủy Phú Yên cử ra miền Bắc xin vũ khí.
Đêm
14/11/1964, tàu rời bến Bãi Cháy, 12 ngày sau thì vượt qua giới tuyến
tạm thời trên biển. Sáng 27/11, đột ngột có máy bay địch từ đất liền bay
đến lượn trên tàu nhiều lần. Sau khi hội ý, ông lệnh cho thuỷ thủ mang
cờ của chính quyền Việt Nam cộng hòa kéo lên đỉnh cột buồm, đồng thời
mang cá, mực đã chuẩn bị sẵn giả vờ tụ tập ngồi nhậu.
Chiếc
máy bay tiếp tục bay lượn kiểm tra, hai tàu khác của địch từ đất liền
tiến ra áp mạn song song với tàu 41. Một chiếc sau đó tách đội hình, các
khẩu pháo trên tàu địch đều được mở bạt che, hướng nòng súng về phía
tàu ta sẵn sàng nhả đạn. “Chúng tôi vẫn giả vờ ngồi nhậu, mặt khác bí
mật chuẩn bị các loại súng B40, B41, lựu đạn chống tăng, bộc phá… sẵn
sàng chiến đấu. Trong trường hợp cần thiết sẽ lao về phía tàu địch và
cho nổ tung”, thuyền trưởng Thạnh kể.
Tuy nhiên,
sau hai giờ theo dõi không phát hiện nghi vấn, địch cho tàu tăng tốc
chạy vào bờ. Tàu 41 thẳng tiến đến đích và khi cách khoảng một hải lý,
tàu thả trôi chờ tín hiệu của bến. “Khi phía bờ có ánh đèn pin chớp lên
rồi vụt tắt, chúng tôi sung sướng vì từ đó chúng ta đã có thêm một bến
mới, bến Vũng Rô”, trung tá Thạnh hồ hởi nói.
Ông
cho hay, tàu 41 dường như có duyên với những cái mới. Năm 1966, khi Mỹ
tổ chức lực lượng đặc nhiệm ken dày chốt các cửa sông, tàu được giao
nhiệm vụ vận chuyển vũ khí vào chiến trường khu 5, vào bãi ngang Đức
Phổ, Quảng Ngãi. Đây là lần đầu tiên sử dụng phương pháp thả hàng xuống
biển, đánh dấu để bến vớt lên dần.
Con tàu mang số hiệu 41 (nay được đổi là HQ 671) là tàu không số duy nhất còn lại hiện nay. Ảnh: Trọng Thiết. |
Trước chuyến đi, để làm quen với địa hình nơi
tàu đến, thủy thủ tàu 41 có gần nửa tháng luyện tập với đặc công nước ở
bãi biển Đa Lạt (Thái Bình). Đêm 19/11/1966 tàu rời bến. 8 ngày sau thì
đến đúng địa điểm nhưng không nhận được tín hiệu hiệp đồng. Hai thủy thủ
thông thạo nghề biển, bơi giỏi, mang áo phao và vũ khí cá nhân nhận
nhiệm vụ bơi vào bờ bắt liên lạc với bến, lực lượng còn lại tập trung
thả hàng.
“Lúc đó, có hai tàu địch đang theo dõi
chúng tôi, thi thoảng lại dùng đèn tín hiệu liên lạc với nhau. Thả được
1/3 lượng hàng thì nhận được tín hiệu trong bờ, không khí làm việc khẩn
trương hơn nhưng do sóng thuỷ triều lớn đã làm chân vịt bị cong không
thể cơ động xa được”, ông Thạnh kể.
Trước tình thế
nguy cấp, ông Thạch quyết định đưa người vào bờ, còn thuyền trưởng, máy
trưởng ở lại chuẩn bị điểm hoả bộc phá hủy tàu rồi bơi vào bờ sau. Con
tàu nổ tung cũng là lúc các cỡ pháo trên tàu địch bắn tới tấp vào bờ
chặn đường rút lui của thủy thủ ta. Hai người đã hy sinh, số còn lại
vượt đường Trường Sơn, ba tháng sau mới về đến miền Bắc.
Trong
ký ức của nguyên thuyền trưởng tàu 41, có những người đồng đội đã hy
sinh mà đến giờ ông vẫn còn đau xót. Đó là những thủy thủ tàu 165 chở
hàng vào bến Vàm Lũng (Cà Mau) năm 1968 do Nguyễn Chánh Tâm làm thuyền
trưởng, Nguyễn Ngọc Lương là chính trị viên cùng 18 thủy thủ. Tàu chở 64
tấn vũ khí, xuất phát ngày 25/2. Đến 18h ngày 29/2, sau bức điện cuối
cùng, tàu mất hoàn toàn liên lạc. Biết tàu gặp địch nên mấy ngày sau đó
anh em ở bến cử người đi dọc bờ biển tìm dấu vết. “Cả người và thuyền
đều không thấy, đồng đội chỉ tìm được nhiều mảnh gỗ có vết đạn nham nhở
trôi dạt vào bờ”, ông Thạnh kể.
Cũng trong năm
1968, tàu 235 chở vũ khí vào bến Hòn Hèo (Khánh Hòa) do Nguyễn Phan Vinh
làm thuyền trưởng và Nguyễn Tương làm chính trị viên cùng 20 cán bộ,
thủy thủ. Ngày 6/2/1968 tàu xuất phát. Ngày 29/2, khi qua vùng biển Nha
Trang thì máy bay địch phát hiện. 20h cùng ngày, thuyền trưởng quyết
định chuyển hướng vào bờ. Lúc này, hải quân vùng 2 duyên hải của địch đã
điều động nhiều tàu chiến đến bao vây với ý định bắt sống tàu ta.
Một
khó khăn cho tàu 235 là khi quay vào bờ không gặp bến đón. Trong lúc
nguy cấp, thuyền trưởng chỉ đạo thủy thủ thả hàng xuống biển, sau này
bến vớt lên. Khi thả được 2/3 số hàng thì thuyền trưởng cho ngưng và đưa
tàu chạy ven bờ xa nơi thả hàng. Tàu chiến địch lập tức đuổi theo và
một cuộc chiến không cân sức đã diễn ra khiến thuyền trưởng và máy
trưởng bị thương, máy tàu hỏng nặng không thể cơ động xa.
“Lúc
này anh Vinh đã cho tàu vào gần bờ để những người bị thương sơ tán lên,
còn anh và thợ máy ở lại chuẩn bị điểm hỏa bộc phá tàu rồi bơi vào bờ
sau. Tiếng nổ của con tàu khiến địch điên cuồng bắn phá ven biển nhằm
dọn đường cho bộ binh vây bắt thủy thủ. Anh Vinh và thợ máy Ngô Văn Thứ
đã chiến đấu đến viên đạn cuối cùng và hy sinh”, thuyền trưởng Thạnh
ngậm ngùi.
Mái tóc đã bạc nhưng giọng nói còn sang
sảng, đại tá Trần Phong, nguyên quyền đoàn trưởng đoàn 125 Hải quân tâm
sự, thời đại của thế hệ ông với tinh thần quyết tử cho tổ quốc quyết
sinh đã làm nên huyền thoại đường không dấu, tàu không số, trí - hiếu -
trung - dũng - anh hùng. "Ngày nay, ta có trời, có biển thì phải biết
giữ gìn. Nếu tổ quốc cần chúng tôi, các anh cứ gọi. Chúng tôi luôn sẵn
sàng”, ông dặn dò thế hệ lãnh đạo hải quân tiếp nối.
Hoàng Thùy
Nguồn : VnExpress“Đường vàng” trên biển: Trận chiến oanh liệt
23/10/2016 23:43
Trong lịch sử Hải quân Việt Nam, trận đánh của 16 “cảm tử quân” tàu 69 thuộc đoàn tàu không số với lực lượng hùng hậu của Hạm đội 7 Hải quân Mỹ sẽ mãi được nhắc đến
9 tháng nằm bờ
Vốn là giáo viên Trường ĐH Hàng hải, ông Khảm là một trong 200 trí thức, sinh viên của Hải Phòng tình nguyện đi chiến đấu và được tăng cường cho miền Nam. Sau đó, ông được biên chế về đoàn tàu không số. Tàu 69 lúc ấy có 16 người do ông Nguyễn Hữu Phước (quê Cà Mau) làm thuyền trưởng, ông Tăng Văn Huyển (Bến Tre) là chính trị viên. Trong 14 người còn lại, ông Khảm phụ trách máy 2.
Năm 1966, tàu 69 được lệnh chở 61 tấn vũ khí từ Bến K15 (Hải Phòng) vào Bến Vàm Lũng (Cà Mau). Tàu 69 được ngụy trang thành tàu nghiên cứu khoa học của nước ngoài. Nhân gió mùa Đông Bắc, biển động rất mạnh nên tàu khu trục, tuần duyên của hải quân địch nằm bờ không tuần tra, tàu 69 ra khơi thẳng tiến vào Nam. Thế nhưng, khi đến khu vực ngang với vùng biển Đà Nẵng, tàu 69 bị tàu Mỹ phát hiện và đeo bám. Dù vậy, các thành viên trên tàu vẫn quyết tâm phải vào được Vàm Lũng vì quân dân miền Nam đang rất thiếu vũ khí.
Cựu binh Lê Xuân Khảm kể lại trận đánh oanh liệt của tàu 69 với tàu địch Ảnh: TRỌNG ĐỨC
Sau khi bắt liên lạc, tàu 69 liền quay lại Bến Vàm Lũng. Giao vũ khí xong, tàu 69 không quay về được vì tàu địch canh phòng rất cẩn mật, phải nằm lại bến đến 9 tháng.
Chống chọi hàng chục tàu địch
Đến tối 1-1-1967, xác định địch nghỉ Tết Dương lịch, tàu 69 lên đường quay ra Bắc. “Khi gần đến vùng biển quốc tế thì anh em phát hiện bị nhiều tàu địch bao vây. Cuộc họp khẩn kéo dài chưa đến 2 phút, thuyền trưởng và chính trị viên tàu 69 quyết định nổ súng tấn công tàu địch trước. Hai khẩu 12 ly 7 trên tàu ta đồng loạt nhả đạn khiến 1 tàu địch bị bất ngờ thiệt hại nặng, không tấn công được nữa” - ông Khảm kể.
Tuy nhiên, gần chục tàu địch khác đã triển khai đội hình tấn công khiến tàu 69 cũng bị thiệt hại nặng nề, 1 người hy sinh, 3 người bị thương nặng. Sau đó, tàu 69 vừa rút vào bờ vừa tấn công đáp trả. Các thuyền viên đã hủy tài liệu, hải đồ, chuẩn bị phương án cho nổ tàu. Tàu lại cháy trong khi hệ thống cứu hỏa đã bị bắn hỏng, thuyền viên phải chia nhau vừa tấn công vừa dập lửa.
“Sau mấy giờ quần thảo, nhiều người trên tàu bị thương nhưng anh em đều cố gắng bám trụ chiến đấu. Trong đó, chiến sĩ báo vụ Phan Hải Hồ - 25 tuổi, quê Nam Định - bị thương ngay loạt đạn đầu. Cổ chân dính đạn, bàn chân gần như đứt lìa nhưng anh vẫn ôm súng chiến đấu không lùi bước. Hồ còn đề nghị anh em cắt đứt bàn chân để anh chiến đấu cho thuận tiện nhưng không ai nỡ. Sau này, về đến bến, bàn chân anh bị cắt bỏ. Gương chiến đấu anh dũng của Hồ được truyền đi khắp đoàn tàu không số” - ông Khảm khâm phục.
Suốt 3 giờ vừa đánh vừa rút, pháo tạo khói được các thuyền viên tàu 69 liên tục ném xuống biển, mù mịt cả một vùng làm hạn chế tầm nhìn của địch. Nhân đó, tàu 69 tìm cách tiếp cận bờ và về được đúng Bến Vàm Lũng. Dù địch đã cử 2 tàu chặn trước ở khu vực này nhưng ta cũng bố trí lực lượng trên bờ đánh trả làm chúng phải bỏ chạy. Tàu 69 quay về bến trú ẩn an toàn. Trong khi đó, tàu địch tưởng tàu 69 chạy sang vùng biển mũi Cà Mau, đuổi theo không thấy, quay về thì đã bị mất mục tiêu.
Sau sự kiện này, do địch huy động lực lượng canh phòng cẩn mật, tàu 69 không thể quay ra Bắc nên tạm thời trú ẩn ở một con lạch nhỏ gần Bến Vàm Lũng. Những thuyền viên còn lại trên tàu đã trực tiếp tham gia chiến đấu cùng với lực lượng địa phương ở vùng cửa sông...
“Đây có lẽ là một trận đánh hy hữu trong lịch sử Hải quân Việt Nam. Tàu địch lên đến hàng chục chiếc bao vây nhưng tàu 69 vẫn chiến đấu anh dũng và chạy thoát an toàn” - ông Khảm nhận xét.
“Đường Hồ Chí Minh trên biển là biểu tượng của quyết tâm đánh Mỹ và
thắng Mỹ; của ý chí và tình cảm thống nhất đất nước; của sức mạnh tinh
thần và trí tuệ dân tộc Việt Nam đã đánh thắng sức mạnh vật chất hiện
đại của đế quốc Mỹ” - lời Đại tướng Võ Nguyên Giáp khắc trên phiến đá
nhìn xuống Bến Vũng Rô.
Sự kiện Vũng Rô
Ngày 1-2-1965, tàu 43 chở 63 tấn vũ khí, hàng hóa xuất Bến K15 vào Bình Định. Do tình hình bến bãi ở Bình Định bị động nên tàu 43 được lệnh vào Bến Vũng Rô (Phú Yên). Ngày 15-2-1965, tàu 43 cập Bến Vũng Rô. Ngay trong đêm, lực lượng trên bến tập trung bốc dỡ hàng, đến 3 giờ hôm sau mới xong. Thế nhưng, tời neo bị hỏng phải sửa chữa nên tàu không thể rời bến ngay, phải ngụy trang ở lại. Trưa cùng ngày, một máy bay địch bay ngang Vũng Rô đã phát hiện “mỏm đá lạ” và tàu 43 bị lộ. Địch đã tổ chức nhiều đợt tấn công để cướp tàu.
“Chỉ huy bến quyết định cử lực lượng của Trung đội K60 mang một khối thuốc nổ hơn 600 kg xuống đánh cho chìm tàu. Đó là một quyết định táo bạo để địch không lấy được những tài liệu còn lại trên tàu” - đại tá Đặng Phi Thưởng - Trưởng Ban Liên lạc Bến Vũng Rô, nguyên tổ trưởng của Trung đội K60 - nhớ lại. Theo đại tá Thưởng, từ ngày 17 đến 20-2, địch liên tục tấn công bằng bộ binh, không quân, hải quân vào Bến Vũng Rô và các vùng lân cận nhằm cướp các kho vũ khí ta chưa kịp chuyển đi. “Địa hình hiểm trở ở Vũng Rô đã tạo điều kiện để ta vừa đánh địch vừa tranh thủ vận chuyển vũ khí về hậu cứ, lại có thể rút lui” - đại tá Thưởng nhìn nhận.
(*) Xem Báo Người Lao Động từ số ra ngày 20-10Ngày 1-2-1965, tàu 43 chở 63 tấn vũ khí, hàng hóa xuất Bến K15 vào Bình Định. Do tình hình bến bãi ở Bình Định bị động nên tàu 43 được lệnh vào Bến Vũng Rô (Phú Yên). Ngày 15-2-1965, tàu 43 cập Bến Vũng Rô. Ngay trong đêm, lực lượng trên bến tập trung bốc dỡ hàng, đến 3 giờ hôm sau mới xong. Thế nhưng, tời neo bị hỏng phải sửa chữa nên tàu không thể rời bến ngay, phải ngụy trang ở lại. Trưa cùng ngày, một máy bay địch bay ngang Vũng Rô đã phát hiện “mỏm đá lạ” và tàu 43 bị lộ. Địch đã tổ chức nhiều đợt tấn công để cướp tàu.
“Chỉ huy bến quyết định cử lực lượng của Trung đội K60 mang một khối thuốc nổ hơn 600 kg xuống đánh cho chìm tàu. Đó là một quyết định táo bạo để địch không lấy được những tài liệu còn lại trên tàu” - đại tá Đặng Phi Thưởng - Trưởng Ban Liên lạc Bến Vũng Rô, nguyên tổ trưởng của Trung đội K60 - nhớ lại. Theo đại tá Thưởng, từ ngày 17 đến 20-2, địch liên tục tấn công bằng bộ binh, không quân, hải quân vào Bến Vũng Rô và các vùng lân cận nhằm cướp các kho vũ khí ta chưa kịp chuyển đi. “Địa hình hiểm trở ở Vũng Rô đã tạo điều kiện để ta vừa đánh địch vừa tranh thủ vận chuyển vũ khí về hậu cứ, lại có thể rút lui” - đại tá Thưởng nhìn nhận.
TRỌNG ĐỨC - HỒNG ÁNH
Những con tàu “Không số” được phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND
1. Tàu 41
Tàu 41 được biên chế về Đoàn 125 năm 1962. Từ tháng 11 – 1962 đến tháng 4 – 1970 Tàu 41 đi được 15 chuyến, chở 530 tấn hàng an toàn. Tàu nhiều lần vượt qua khó khăn, nguy hiểm, đúc rút được nhiều kinh nghiệm để phổ biến chung trong toàn Đoàn.
Tàu 41 được biên chế về Đoàn 125 năm 1962. Từ tháng 11 – 1962 đến tháng 4 – 1970 Tàu 41 đi được 15 chuyến, chở 530 tấn hàng an toàn. Tàu nhiều lần vượt qua khó khăn, nguy hiểm, đúc rút được nhiều kinh nghiệm để phổ biến chung trong toàn Đoàn.
Tiêu biểu như chuyến đi đầu tiên ngày 11-10-1962, Tàu 41 dùng thuyền gỗ
có buồm, gắn máy để vận chuyển hơn 28 tấn vũ khí vào Cà Mau. Gặp gió
mùa Đông Bắc, dù phải vật lộn với sóng to, gió lớn, nhiều lần gặp địch
nhưng anh em vẫn bình tĩnh đánh lừa địch, đưa hàng đến bến an toàn.
Chuyến đi đầu tiên thành công đã cổ vũ cán bộ, chiến sĩ toàn Đoàn hoàn
thành tốt nhiệm vụ được giao.
Với những thành tích đặc biệt xuất sắc, ngày 11-1-1973, Tàu 41 được Nhà nước tuyên dương danh hiệu Anh hùng LLVTND (lần thứ nhất).
Sau khi giải phóng miền Nam thống nhất đất nước năm 1975, Tàu 41 được
bổ sung cho Vùng 4 Hải quân với tên mới là HQ 671. Trong chiến dịch CQ
88, Tàu HQ 671 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Ngày 6-1-1989,
Tàu HQ 671 được Nhà nước tuyên dương danh hiệu Anh hùng LLVTND (lần thứ
hai).
2. Tàu 42
Tàu 42 được biên chế về Đoàn 125 năm 1962. Từ năm 1963 đến 1970, Tàu 42
đã chở được 11 chuyến với hơn 500 tấn vũ khí tới bến an toàn.
Mặc dù tàu nhỏ, máy móc thô sơ, nhiều chuyến đi tàu gặp sóng to, gió
lớn, bị địch ngăn chặn, săn lùng 5 đến 6 chặng, nhưng cán bộ, chiến sĩ
trên tàu vẫn dũng cảm, mưu trí, vượt mọi nguy hiểm để hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao.
Tiêu biểu là chuyến đi ngày 15-10-1965, Tàu 42 được cải dạng giống tàu
cá của một số nước trong khu vực Đông Nam Á và chở hơn 61 tấn vũ khí vào
Cà Mau. Tàu vượt qua Hải Khẩu (Trung Quốc), chuyển hướng theo đường
hàng hải quốc tế xuống phía Đông quần đảo Hoàng Sa và phía Tây quần đảo
Trường Sa, hòa vào dòng tàu buôn đi xuống Đông Nam Cà Mau. Trên đường
đi, Tàu 42 vượt qua sự kiềm tỏa của 1 tàu Khu trục Mỹ, sau 6 ngày hành
trình trên biển tàu đã cập bến ở rạch Kiến Vàng – Cà Mau an toàn. Chuyến
vận chuyển mở đường theo phương thức mới của Tàu 42 đã thành công giúp
nối thông con đường vận chuyển chiến lược trên biển sau 8 tháng tạm
ngưng vận chuyển.
Với thành tích đó, ngày 25-8-1970, Tàu 42 được Nhà nước tuyên dương danh hiệu Anh hùng LLVTND.
3. Tàu C154
Tàu C154 được biên chế về Đoàn 125 năm 1965. Từ 1965 đến 1975 tàu thực
hiện nhiệm vụ vận tải cho chiến trường miền Nam. Mỗi chuyến đi của tàu
thường kéo dài hàng tháng, vượt hàng ngàn hải lý, thời tiết mưa bão thất
thường, sóng to, gió lớn, địch kiểm soát gắt gao. Nhiều lần địch cho
máy bay, tàu chiến khiêu khích ở hải phận quốc tế, do đó có chuyến Tàu
C154 phải vòng qua vùng biển Philippin, Inđônêxia để đánh lừa và tìm
cách tránh địch.
Trong chiến dịch giải phóng miền Nam vào mùa Xuân năm 1975, tàu đã phục
vụ đắc lực cho việc vận chuyển bộ binh, đặc công tiến đánh giải phóng
các đảo ở vùng biển phía Nam và chở hàng ngàn người bị địch giam giữ ở
các đảo về đất liền an toàn.
Với những thành tích đó, ngày 12-9-1975, Tàu C154 được Nhà nước tuyên dương danh hiệu Anh hùng LLVTND.
4. Tàu C165
Tàu C165 được biên chế về Đoàn 125 năm 1964. Từ 1964 đến 1968, Tàu C165
đã đi được 9 chuyến, vận chuyển hơn 600 tấn vũ khí, hàng hòa chi viện
cho chiến trường miền Nam.
Do yêu cầu kịp thời chi viện cho chiến dịch Mậu Thân năm 1968, Tàu C165
được lệnh chở 65 tấn vũ khí vào bến Vàm Lũng – Cà Mau. Ngày 1-3-1968,
Tàu C165 gặp 8 tàu địch bao vây, chúng gọi loa yêu cầu ta đầu hàng. Cán
bộ, chiến sĩ Tàu C165 đã bình tĩnh xử lý, không thuyết phục được ta, tàu
địch liền nổ súng kết hợp với máy bay oanh tạc từ trên không. Trong
tình thế hiểm nguy, cán bộ, chiến sĩ vẫn bình tĩnh điều khiển tàu luồn
lách tránh đạn và đánh trả địch quyết liệt. Nhưng do lực lượng 2 bên
không cân sức, Tàu C165 bị trúng đạn không cơ động được. Trước tình hình
đó anh em đã tranh thủ bốc hàng thả xuống biển và điểm hỏa mìn phá hủy
tàu, không để tàu và hàng rơi vào tay quân thù. 18 cán bộ, chiến sĩ đã
anh dũng hi sinh cùng Tàu C165 tại vùng biển Cà Mau.
Với thành tích dũng cảm đó, ngày 10-4-2001, Tàu C165 được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND.
5. Tàu C43
Tàu C43 được biên chế về Đoàn 125 năm 1961. Từ 1961 đến 1968 Tàu C43 đi
được 6 chuyến; chở được hơn 287 tấn vũ khí và phương tiện khác vào bến
Cà Mau an toàn. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, tập thể Tàu C43 đã 2
lần chiến đấu anh dũng nhiều giờ liền với máy bay và tàu chiến địch
trong tình thế không cân sức, nhưng cả 2 lần đã thắng lớn. Tại trận
chiến đấu lần thứ nhất (tháng 3-1967) tàu đã diệt gọn 3 hải thuyền ngụy,
bắn bị thương 1 tàu Mỹ. Lần 2 (3-1968), đã tiêu bắn rơi 3 máy bay HVIA;
bắn chìm 1 tàu cao tốc, bắn bị thương 2 chiếc khác; tàu được phá hủy để
bảo đảm bí mật con đường Hồ Chí Minh trên biển.
Với thành tích đó, Tàu C43 được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND ngày 20-9-2011.
6. Tàu C54
Tàu C54 được biên chế về Đoàn 125 năm 1963. Từ 1963 đến 1972, Tàu C54
đi được 16 chuyến, chở được 800 tấn vũ khí, hàng hóa vào 3 bến (Trà
Vinh, Cà Mau, Bến Tre) và vận tải chiến trường Cửa Việt an toàn.
Tiêu biểu là chuyến đi ngày 17-3-1963, tàu
chở 44 tấn vũ khí vào bến mới-Trà Vinh. Là loại tàu vỏ sắt, lần đầu thử
nghiệm để khắc phục hạn chế trước đây của tàu gỗ và chống phát hiện của
địch. Bằng sự khéo léo, tinh thần quyết tâm cao độ của tập thể tàu đã xử
lý linh hoạt các tình huống và vượt chặng đường dài trên biển, cập bến
Trà Vinh an toàn. Chuyến đi đã chở được một lượng vũ khí lớn cung cấp
cho chiến trường Khu 9 sau cuộc chống càn “Sóng tình thương” của địch,
đồng thời là dấu hiệu mở màn cho giai đoạn phát triển nhảy vọt của công
tác vận tải quân sự trên biển và mở được nhiều bến mới ra khắp các chiến
trường Nam Bộ, Khu 6, Khu 5.
Với những thành tích đó, ngày 20-9-2011, Tàu C54 được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND.
7. Tàu C55
Tàu C55 được biên chế về Đoàn 125 năm 1963. Từ 1963 đến 1975, Tàu C55
đi được 11 chuyến, chở được 747 tấn vũ khí và 2 tấn gạo, đưa 27 lượt cán
bộ cao cấp của Trung ương vào tăng cường cho chiến trường miền Nam.
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, tàu đã thực hiện hiệu quả việc quay
vòng, nhanh chuyến, có thời điểm trong vòng 43 ngày tàu đã đi được 3
chuyến vào sâu trong chiến trường miền Nam.
Tiêu biểu là chuyến xuất phát ngày 11-10-1963 chở 61 tấn vũ khí vào bến
Cà Mau. Nhiều ngày lênh đênh trên biển, khi vào bến Rạch Gốc, tàu bị
mắc cạn ngay giữa cửa bến, xung quanh có tàu và máy bay địch ngày đêm
tuần tra, kiểm soát. Trong một tình thế nguy hiểm, với một lượng hàng
lớn, nhiều lần máy bay và tàu địch “thăm hỏi” nhưng tàu đã bình tĩnh,
khéo léo dấu mình, che được mắt địch. Khi nước lên, tàu đã thoát cạn vào
bến, xuống hàng và ra Bắc an toàn.
Với những thành tích đó, Tàu C55 được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND ngày 20-9-2011.
8. Tàu C56
Tàu C56, được biên chế về Đoàn 125 năm 1961. Từ 1961 đến 1975, Tàu C56
đi được 9 chuyến, vào các bến (Bà Rịa- Vũng Tàu, Bạc Liêu, Bình Định,
Phan Thiết) và 1 chuyến đi Cô Công- Cam phu chia. Tàu đã chở được hơn
349 tấn vũ khí và gần 100 cán bộ vào Nam chiến đấu.
Tiêu biểu là chuyến đi vào Đông Xuân 1964 – 1965 để cung cấp vũ khí cho
chiến dịch Bình Giã. 22 giờ ngày 22-12-1964, tàu vào cửa Lộc An (sông
Ray), nhưng chờ mãi không có tín hiệu của bến, tàu định trở ra, vừa lúc
phía bờ có ánh đèn pin báo hiệu, một trung đoàn bộ binh đã chờ sẵn để
nhận vũ khí. Nhờ sự cung cấp vũ khí kịp thời của Tàu C56 mà ngày quân ta
đã đánh chiến dịch Bình Giã thắng lợi. Đây là một đòn góp phần quyết
định làm phá sản hoàn toàn chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ -
ngụy.
Với thành tích đó, Tàu C56 được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND ngày 20-9-2011.
9. Tàu C69
Tàu C69, được biên chế về Đoàn 125 năm 1963. Từ 1963 đến 1966 Tàu C69
đi được 9 chuyến, vào 2 bến (Trà Vinh, Cà Mau), chở được 654 tấn hàng
cho chiến trường miền Nam. Sau trận chiến đấu năm 1966, Tàu 69 nằm lại ở
bến Cà Mau cho Quân khu 9 quản lý, sử dụng. Nay con tàu là di tích lịch
sử của địa phương để làm biểu tượng chiến thắng.
Tiêu biểu là chuyến đi ngày 15-4-1966, tàu
chở 61 tấn vũ khí vào bến Vàm Lũng- Cà Mau. Chuyến đi bị địch theo dõi,
tàu phải áp dụng nhiều chiến thuật ngụy trang nghi binh, luồn lách qua
các hệ thống phòng thủ của địch để cập bến. Sau khi thả hàng xong, do
Tàu C100 bị lộ, buộc Tàu C69 phải ngụy trang ém tại đây chờ thời cơ ra
Bắc. Khi tàu vừa ra khỏi Vàm Lũng thẳng hướng giữa Hòn Khoai và Côn Đảo
thì phát hiện tàu địch bám theo, chúng nổ súng vào tàu ta. Tình huống
buộc phải chiến đấu, thuyền trưởng ra lệnh nổ súng đánh trả. Theo lệnh
thuyền trưởng tất cả DKZ trên tàu đồng loạt nhả đạn khiến tàu địch không
dám vào gần tàu. Máy bay C130 lượn vòng, hỗ trợ cho biên đội tàu chiến,
xả đạn về phía tàu ta. Tàu bị bốc cháy, một số thiết bị trên tàu hỏng.
Đứng trên khối bộc phá để chiến đấu với kẻ thù khi tàu đang bị cháy, cán
bộ, chiến sĩ Tàu C69 đã bình tĩnh và dũng cảm, vừa cứu tàu vừa chiến
đấu. Đến 0 giờ ngày 1-1-1967, Tàu C69 đã vào đến bến an toàn. Trong trận
chiến đấu này, Tàu C69 đã đánh trả quyết liệt làm cho 5 tàu và 2 máy
bay của địch bỏ chạy.
Với những thành tích đó, tàu Tàu C69 được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND ngày 20-9-2011.
10. Tàu C121
Tàu C121 được biên chế về Đoàn 125 năm 1963. Từ 1963 đến 1975, tàu đi
được 9 chuyến vào 3 bến (Trà Vinh, Cà Mau, Bến Tre) và vận tải cho chiến
trường Cửa Việt. Tàu đã chở được 427 tấn hàng cho chiến trường miền
Nam.
Tiêu biểu là chuyến đi ngày 29-9-1970, tàu
chở 40 tấn vũ khí vào Cồn Lợi-Bến Tre. Bằng chiến thuật và kinh nghiệm,
chỉ huy tàu xử lý khéo léo linh hoạt các tình huống và đưa con tàu cập
bến Cồn Lợi-Bến Tre an toàn rồi trở ra Bắc. Đây là con tàu đầu tiên đã
vào được Bến Tre và về Hải Phòng an toàn sau 3 năm bị địch kiểm soát
chặt chẽ. Điểm đặc biệt của chuyến đi này là cán bộ, chiến sĩ đã dùng
xuồng cao su bọc nẹp nhôm chuyển tải hàng từ tàu vào bến đạt hiệu quả
cao. Qua chuyến đi của Tàu C121 vào bến Cồn Lợi thành công và trở lại
căn cứ an toàn, Bộ Tư lệnh Hải quân và Bộ Quốc phòng cho nhân rộng
phương thức dùng xuồng cao xu bọc nhôm chuyển tải hàng từ tàu vào bến.
Với những thành tích đó Tàu C121 được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND ngày 20-9-2011.
11. Tàu C235
Tàu C235, được biên chế về Đoàn 125 năm 1968. Trong chuyến đi ngày
6-2-1968, tàu chở 16 tấn vũ khí vào Hòn Hèo (Khánh Hòa). Phát hiện ra
tàu ta, quân ngụy điều 3 tàu chiến đến bao vây với ý định bắt sống tàu
ta. Trước tình hình đó, thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh khôn khéo điều
khiển tàu C235 luồn lách qua đội hình tàu địch và đã đến được bến. Tàu
không gặp bến đón. Thuyền trưởng lệnh toàn tàu khẩn trương cho hàng
xuống nước rồi sẽ vớt sau. Lúc này, các tàu địch đang khép chặt vòng
vây. Thuyền trưởng cho ngừng việc thả hàng và đưa tàu chạy ven bờ với ý
định nghi binh để không lộ vị trí thả hàng.
Tàu địch được lệnh bắn vào Tàu C235, đồng thời chúng gọi máy bay đến
thả pháo sáng. Thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh bình tĩnh vừa chỉ huy anh
em chiến đấu, vừa điều khiển tàu chạy sát vào bờ. Dưới sự chiến đấu
ngoan cường của tàu ta, tàu địch không thể tiếp cận được. Lúc này, bên
ta đã có 5 thủy thủ hy sinh, 2 đồng chí bị thương nặng, 7 đồng chí bị
thương nhẹ. Thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh ra lệnh cho thợ máy Ngô Văn
Thứ đặt kíp nổ phá khoang máy, còn lại anh em khác rời tàu bơi vào bờ.
Thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh và thợ máy Ngô Văn Thứ ở lại kiểm tra lần
cuối và bơi vào bờ sau cùng. Hơn 10 phút sau, một cột lửa bùng lên cùng
với một tiếng nổ dữ dội chấn động đến tận Nha Trang. Sức công phá mạnh
của thuốc nổ, kiến Tàu C235 đứt làm đôi, một nửa chìm xuống biển, một
nửa văng lên lưng chừng núi Bà Nam, lúc đó là 2 giờ 40 phút ngày
1-3-1968.
Những ngày sau đó, lực lượng ta lên bờ tiếp tục chiến đấu. Do đêm tối,
lực lượng lên trước không bắt liên lạc được với đồng chí lên sau. Thuyền
trưởng Nguyễn Phan Vinh và thợ máy Ngô Văn Thứ đã chống trả quyết liệt,
buộc địch phải rút lui. Những ngày sau, đồng đội tìm thấy thuyền trưởng
Nguyễn Phan Vinh và thợ máy Ngô Văn Thứ đã hy sinh với tư thế vươn lên
phía trước như còn đang chống trả quyết liệt và đã bắn đến viên đạn cuối
cùng. Tàu C235 gồm 20 cán bộ, chiến sĩ qua trận chiến đấu ác liệt đã
làm 14 cán bộ, chiến sĩ hy sinh anh dũng.
Với thành tích đặc biệt xuất sắc, Tàu C235 được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND ngày 20-9-2011.
Thanh Tùng (Tổng hợp)
Nguyễn Phan Vinh và tàu 235 - Bản hùng ca bất tử
15:00 26/10/200621 tuổi nhập ngũ, 35 tuổi hy sinh, đó là hai dấu ấn trong quân ngũ của Trung úy, thuyền trưởng tàu Hải quân Nguyễn Phan Vinh (1933 - 1968). Năm 1970, anh đã được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Một hòn đảo thuộc quần đảo Trường Sa đã được mang tên anh, đảo Phan Vinh.
Anh hùng Nguyễn Phan Vinh (1933-1968) |
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chúng ta đã có một con đường xẻ dọc Trường Sơn mà hễ nhắc đến là lại liên tưởng tới những sự tích thần kỳ. Song ngoài con đường ấy, còn có một con đường khác nữa, đó là con đường vận chuyển vũ khí từ Bắc vào Nam trên biển Đông với một nét độc đáo, sáng tạo như thần thoại, với biết bao kỳ tích cảm động về lòng dũng cảm, sự hy sinh quên mình của những người chiến sĩ “Đoàn tàu không số” và tình cảm gắn bó keo sơn với quân dân các bến đỗ ở miền Nam. Đó là con đường huyền thoại: Đường Hồ Chí Minh trên biển và tên tuổi Phan Vinh liền với tên đường.
Phan Vinh, người con ưu tú của mảnh đất Điện Nam, Điện Bàn, Quảng Nam (cũ) sinh ra trong một gia đình cách mạng. Tháng 3/1968, anh hy sinh ở Hòn Hèo thì cuối năm ấy, cha của anh, người du kích tên là Nguyễn Đức Mẫn cũng hy sinh trong một trận chống càn tại quê nhà. Mẹ anh mất trước đó 5 năm, (năm 1963) vì bị địch bắt, đánh đập, tra khảo dã man.
Năm bà ra đi cũng là năm người con trai thứ hai, Nguyễn Đức Lân ngã xuống trên chiến trường Quảng Nam. Người duy nhất còn lại trong gia đình là anh Nguyễn Đức Xử. Một người bạn của tôi trong đợt đi làm phim về “Tàu không số” kể chuyện đã được nghe anh Xử nói về người em trai của mình: “Phan Vinh tuy là con út trong gia đình, nhưng ngay từ nhỏ đã là người cứng cỏi, quyết đoán, và đặc biệt là giàu lý tưởng”.
Có lẽ chính từ cái cứng cỏi, quyết đoán và giàu lý tưởng cách mạng đó đã làm nên một Phan Vinh với chiến công trên vùng biển Hòn Hèo.
Tàu 235 - Bản anh hùng ca bất tử trên vùng biển Hòn Hèo
Hòn Hèo là tên chung chỉ vùng biển và dãy núi chạy qua hai xã Ninh Phước, Ninh Vân thuộc tỉnh Khánh Hòa. Hòn Hèo cách Nha Trang khoảng hơn chục cây số đường biển. Nơi đây, thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh và đồng đội đã hy sinh cùng con tàu 235 vào năm 1968.
Thời kỳ đó, kẻ địch đã tìm mọi cách ngăn chặn con đường vận chuyển trên biển mà chúng gọi là con đường “cực kỳ nguy hiểm” này. Không quân, Hải quân Mỹ và quân đội Sài Gòn tung lực lượng khá mạnh để chăng lưới bủa vây trên mặt biển đón bắt những con tàu cảm tử chở vũ khí chi viện cho chiến trường miền Nam. Trên biển, chúng chia từng tổ bố trí tàu chiến ngăn chặn và lắp đặt rađa quét sóng đêm ngày. Trên trời và trong đất liền cả đêm lẫn ngày, chúng cho lính và máy bay trinh sát, tuần tra, canh phòng.
Anh Long An, một trong năm người sống sót đã kể lại chuyến đi của tàu 235.
- 11 giờ 30 phút ngày 27/2/1968, tàu 235 xuất phát chở hơn 14 tấn vũ khí vào bến Hòn Hèo. Đây là bến hết sức khó vào, luồng hẹp, nhiều đá ngầm. Một tài liệu của Pháp viết rằng, tàu muốn ra vào Hòn Hèo phải có những tay thuyền trưởng lão luyện, với trên dưới 20 năm tuổi nghề.
Trung úy Nguyễn Phan Vinh tuy chưa có tuổi nghề cao nhưng được tin cậy chỉ huy con tàu này. Tàu có 21 cán bộ, chiến sĩ: Chính trị viên Nguyễn Tương, thuyền phó 1: Đoàn Văn Nhi; thuyền phó 2: Võ Tá Tu; máy trưởng: Trương Văn Mùi; thợ máy: Ngô Văn Thứ, Nguyễn Minh Hải, Trần Lộc; thợ điện: Lê Duy Mai; báo vụ: Phạm Trường Nam, Doãn Quang Ruyện; rađa: Trần Thọ Thuyết; thủy thủ: Ngô Văn Dầu, Nguyễn Văn Phong, Hà Minh Thật, Đào Quang Ty; hàng hải: Mai Văn Khung, Lâm Quang Tuyến; y tá: Hoàng Văn Hòa; cơ yếu: Nguyễn Văn Dũng và tôi, thợ máy.
Tàu "không số" lữ đoàn 125 Hải quân vận chuyển vũ khí chi viện cho chiến trường Miền Nam (Tư liệu do Hải quân Mỹ chụp). |
Biết đã bị lộ, Thuyền trưởng Phan Vinh khôn khéo điểu khiển tàu 235 luồn lách qua đội hình tàu địch và đến được bến Ninh Phước lúc 0 giờ 30 phút ngày 1/3. Anh quyết định thực hiện phương án hai, cho thả hàng xuống nước để quân dân ở bến mò vớt sau. Các kiện hàng được bao gói đặc biệt lần lượt lăn xuống biển. Lúc đó, chừng 1 giờ 30 phút, 3 tàu loại lớn và 4 tàu loại nhỏ của địch khép chặt vòng vây ở phía sau, phía trước là núi.
Phan Vinh cho tàu chạy ven bờ xuôi xuống bến Ninh Vân chừng độ mươi hải lý, nhằm mục đích giữ bí mật không để lộ vị trí thả vũ khí. Tàu địch lập tức đuổi theo, nã đạn dữ dội rồi bật đèn pha và gọi máy bay đến thả pháo sáng và bắn rốc-két. Trong lửa đạn, Nguyễn Phan Vinh bình tĩnh chỉ huy anh em chiến đấu, và điều khiển tàu chạy sát bờ. Các thủy thủ Thật, Phong liên tiếp dùng DKZ và 14 ly 5 bắn về phía tàu địch, một chiếc bốc cháy khiến chúng không dám vào gần.
Cuộc chiến đấu mỗi lúc một ác liệt. Hỏa lực của địch liên tục bắn vào tàu ta. 5 cán bộ, chiến sĩ trên tàu đã hy sinh, 2 người bị thương nặng, 7 người bị thương nhẹ. Thuyền trưởng Phan Vinh cũng bị mảnh đạn xượt qua đầu. Anh tự băng bó và vẫn đứng trong buồng lái động viên mọi người chiến đấu. Anh có ý định phá vòng vây bởi ngoài khơi dễ cơ động, nếu cần thì áp sát tàu địch và cho nổ tàu tiêu diệt bọn chúng. Nhưng rất không may, lúc đó máy tàu hỏng nặng. Ý định phá vòng vây không thành.
Anh chỉ huy cho tàu di chuyển vào sát bờ. Lúc đó chừng 2 giờ 20 phút, tàu cách bờ hơn 100 mét, anh tổ chức đưa người đã hy sinh và bị thương vào bờ, sau đó ra lệnh chuẩn bị điểm hỏa cho nổ tàu. Anh Vinh, Thứ và tôi cài kíp nổ ở khoang máy, các vị trí khác do Khung, Thật, Mai đảm nhiệm. Kiểm tra xong lần cuối, chúng tôi nhảy xuống nước bơi vào bờ. Tôi được giao nhiệm vụ nếu tàu không nổ phải quay lại kiểm tra các kíp nổ.
20 phút sau, lúc 2 giờ 40 phút, ngày 1/3, một cột lửa bùng lên, kế đó là tiếng nổ dữ dội, chấn động tới Nha Trang. Sức công phá của khối thuốc nổ khiến tàu 235 đứt đôi, một nửa chìm xuống biển, một nửa văng lên lưng chừng núi Bà Nam, xã Ninh Vân. Sau những phút giây bàng hoàng, địch gọi máy bay đến bắn phá ven biển, nhằm dọn đường cho bộ binh bao vây, bắt sống các thủy thủ tàu 235. Số thủy thủ rút lên bờ còn lại 9 người. Địch lập tức đổ quân lùng sục.
Thuyền trưởng Vinh và thợ máy Thứ chốt ở đó, kiên cường chống trả, đánh lui nhiều đợt tấn công của địch, và cuối cùng, lực kiệt, vết thương ngày một nặng, súng không còn đạn, các anh đã hy sinh. Số thủy thủ của tàu 235 còn lại 7 người, đó là thuyền phó Nhi và 6 thủy thủ: Mai, Thật, Phong, Khung, Tuyến và tôi. Tất cả đều thương tích đầy mình. Anh em cố gắng dìu nhau di chuyển khắp vùng núi đá Hòn Hèo.
Mười ngày phơi dưới nắng, không lương thực, không nước uống, chúng tôi kiệt sức. Ngày thứ 11, Khung đi tìm nước uống, rồi không trở về. Sau này mới hay Khung bị địch bắt. Ngày thứ 12, chúng tôi liên lạc được với du kích ở bến. Mọi người quay lại đón anh Nhi đang nằm trong rừng. Nhưng anh không còn ở đó nữa, chỉ thấy mảnh áo rách và cuốn băng cá nhân, máu đã khô...
Về sự kiện này, tạp chí “Lướt sóng” của Hải quân quân đội Sài Gòn viết: “Mười hai chiến hạm và hàng chục hải thuyền của Hoa Kỳ cùng quân lực Việt Nam cộng hòa có phi cơ yểm trợ, đụng độ ác liệt với một tiểu đoàn Việt Cộng (thực chất chỉ có 20 thủy thủ) gan góc và thiện chiến trên con tàu chở vũ khí từ Bắc Việt thâm nhập và tiếp tế cho mặt trận giải phóng. Họ đã nổ súng đến viên đạn cuối cùng, đến người cuối cùng và hy sinh với con tàu bằng khối lượng hàng tấn bộc phá do chính tay họ tự hủy, không để lại một dấu vết”...
Thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh cùng 14 đồng đội thân yêu đã anh dũng hy sinh trên vùng biển Hòn Hèo. Khi ấy Nguyễn Phan Vinh mới ở tuổi 35. Sự hy sinh của anh đã trở thành bất tử trong lòng những người lính biển và quân dân cả nước.
Kể đến đây, anh Long An lặng đi, đôi mắt đỏ hoe. Đưa tay gạt những giọt nước mắt, anh nói tiếp:
- Phan Vinh là một thuyền trưởng giỏi, anh đã có 11 chuyến vận chuyển vũ khí thành công, dũng cảm, quyết đoán, sống chân thành, được anh em quý mến. Tôi chỉ tiếc chẳng giữ được chút kỷ vật nào của người thuyền trưởng anh hùng ấy.--PageBreak--
Những dòng thư đầy ắp niềm tin và lý tưởng cách mạng
Điều mà anh Long An day dứt phần nào đã được giải tỏa bởi tại Cơ quan Bảo tàng Hải quân hiện còn lưu giữ những bức thư của Phan Vinh gửi người bạn thân là anh Trần Phong (đồng chí Trần Phong - nguyên quyền Đoàn trưởng Đoàn 125 Hải Quân). Trần Phong và Phan Vinh là đôi bạn thân. Họ cùng quê, cùng tập kết ra Bắc, cùng học ở Trung Quốc và cùng về Quân chủng Hải quân làm thuyền trưởng. Những lá thư anh viết khi đang ở tại căn cứ trên nước bạn, chuẩn bị cho những chuyến đi.
Lá thư anh Phong nhận ngày 26/10/1967 có đoạn:
“Chúng ta phải là những con lạc đà trên bãi sa mạc, mỗi bước đi, mỗi vết chân của chúng ta vì sự nghiệp của Đảng, chúng ta phải là những chiếc cầu chì, vui vẻ và lạc quan mà nhận lấy công tác ở những nơi nguy hiểm nhất. Và khi cần thiết ta hy sinh sinh mạng mình cho Đảng, cho nhân dân. Thời gian, thời gian sẽ ủng hộ chúng ta...".
Lý tưởng cách mạng cao đẹp của anh và của thế hệ thanh niên thời đó, sẵn sàng chấp nhận hiểm nguy, sẵn sàng hy sinh cho cách mạng. Các anh đã dấn thân vào chiến trận với một tâm hồn sôi nổi, giàu nhiệt huyết. Không phải một tấm gương mà hàng ngàn, hàng vạn tấm gương “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” trên mặt biển, vì sự nghiệp chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Lá thư gửi tháng 1/1968, trước khi anh hy sinh một tháng:
Phong thân!
Mình không ngờ đến nơi đây. Mùa hè đã qua mà nóng ghê, nhưng đâu có nóng bằng cõi lòng người chiến sĩ. Mọi việc ở đây diễn ra bình thường, rất mong ngày “thượng lộ”, ấy thế mà cứ ăn chực nằm chờ mãi, kể cũng ê. Còn những gì tiếp theo nữa thì để lịch sử trả lời. Hẹn gặp Phong vào một ngày vinh quang, điều đó khẳng định.
...Phong hãy giúp mình biên thư cho anh Xử. Khi nào có dịp mình sẽ biên thư sau, hoặc sẽ có dịp gặp. Mình không muốn biên thư vì mình nghĩ rằng mọi riêng tư lúc này sẽ làm con người ta khó bước tới. Tình cảm đó có lẽ để dành cho sau chiến tranh. Bây giờ thì mình chỉ có một tình cảm duy nhất là hãy bước tới và xông vào cuộc cách mạng vĩ đại, con người hoàn toàn không sợ ràng buộc bởi những mối dây nào khác.
Thằng Thạnh sắp cưới vợ, mình không có gì làm quà. Phong mở trong gói đồ mình để lại, lấy chiếc khăn tay, lọ nước hoa nói rằng mình gửi tặng mối tình đó. Phong chuyển lời hỏi thăm và chúc mừng đôi bạn xinh đẹp ấy...
Tạm gác lại những tình cảm riêng tư để dồn cho điều duy nhất đó là bước tới và xông vào cuộc cách mạng vĩ đại, với niềm tin vững chắc vào thắng lợi.
Cách đây 40 năm, Phan Vinh và thế hệ thanh niên của đất nước đã đi vào chiến trận với tinh thần lạc quan bởi họ luôn nung nấu một lý tưởng cao đẹp, một niềm tin chắc chắn rằng sự hy sinh vì nghĩa của mình sẽ được nối tiếp, và sẽ thành công. Trong số các anh, có anh không còn nữa nhưng niềm tin và lý tưởng mà các anh tâm nguyện còn sống mãi
Bùi Thị Hương (Bảo tàng Quân chủng Hải quân)
Nhận xét
Đăng nhận xét