KÝ ỨC CHÓI LỌI 50/c
(ĐC sưu tầm trên NET)
Trong hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt, bà Minh chỉ cố gắng làm được như
vậy rồi lại vội vàng lên đơn vị. Biết bao vất vả trên vai, song mỗi lần
bà tranh thủ về thăm nhà, bà vẫn dành thời gian chăm sóc phần mộ của
chiến sỹ vô danh và không quên báo cáo chính quyền xã quan tâm tìm kiếm
thân nhân người đã hy sinh.
Sáng 21/10, tại TP Hải Phòng, trong lễ kỷ niệm 50 năm ngày mở
đường Hồ Chí Minh trên biển, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã trao danh
hiệu anh hùng lực lượng vũ trang cho 7 tập thể và 6 cá nhân đoàn tàu
không số.
Nguồn : VnExpress
Gần đến bến đỗ thì bị địch bao vây, tàu 42 chở 60 tấn vũ khí và 4
quả thủy lôi đã nhanh trí bật đèn giống tàu địch, hòa vào vòng vây, sau
đó tăng tốc lao vào bãi đổ hàng.
Nguồn : VnExpress
Chín lần lênh đênh trên biển với hai lần phải phá hủy tàu, nguyên
Chính trị viên tàu không số 43 Trần Ngọc Tuấn đã được bác sĩ Đặng Thùy
Trâm tận tình cứu chữa tại bệnh xá Đức Phổ, Quảng Ngãi.
Nguồn : VnExpress
Nghe tin Tư Thắng hy sinh, Sáu Thùy không tin bèn tìm cách vượt
Trường Sơn ra Bắc để tìm tung tích người yêu. Suốt 8 năm chia cách, họ
vẫn tin tưởng, đợi chờ ngày hội ngộ.
Nguồn : VnExpress
Huyền thoại TÀU KHÔNG SỐ - Tập5+6
Nữ công an 40 năm bảo vệ hài cốt thủy thủ tàu không số
Thứ năm, 26/07/2012 | 22:31 GMT+7
Kể lại việc làm âm thầm lặng lẽ của mình suốt 4 thập kỷ qua, người phụ nữ tuổi đã ngót 70 nghẹn ngào: "Thương lắm, ngày đó (16/4/1972) chú ấy còn trẻ, mặc quần áo hải quân, nằm sấp dưới bãi cói…"
Tròn 40 năm,
đúng vào dịp kỷ niệm 65 năm Ngày Thương binh - Liệt sĩ, Binh nhất Dương
Thành Hiến, chiến sĩ đoàn tàu "không số" hy sinh ngày 16/4/1972 đã được
trở về nghĩa trang quê nhà, bên những người thân. Tại buổi lễ truy điệu
anh, bát hương bỗng cháy bùng lên như một sự "ứng nghiệm" thiêng liêng
của người đã khuất. Cảm ơn một nữ cán bộ Công an TP Cảng Hải Phòng đã
mấy chục năm ròng gìn giữ phần mộ của liệt sỹ.
Chúng tôi gặp
bà Đào Thị Minh tại lễ truy điệu liệt sỹ Dương Thành Hiến, chiến sĩ đoàn
tàu không số hy sinh cách đây 40 năm, được bà giữ gìn hài cốt cho đến
tận ngày nay.
Xuất thân từ
gia đình nghèo ở huyện Ninh Giang, Hải Dương. Năm 1967, vừa mới kết hôn,
bà Minh đã phải tiễn chồng là ông Trần Văn Uông (tức Min), sĩ quan của
một Cục Nghiệp vụ thuộc Bộ Công an lên đường chi viện An ninh miền Nam
và tình nguyện tham gia lực lượng dân quân Cam Lộ, phường Hùng Vương,
quận Hồng Bàng, Hải Phòng "chia lửa" với chồng ở chiến trường.
Trong một lần
vác đạn phục vụ trận địa pháo, không may bà bị sẩy thai. Nhưng ba ngày
sau, người ta lại thấy bà xông xáo tiếp đạn trận địa pháo trong khói bom
mịt mùng. Thế rồi bà Minh được tuyển vào làm nhân viên khối Văn phòng
Bộ Công an cùng với mẹ chồng là cụ Lê Thị Cuông (tức Côn), chuyên phục
vụ tại nơi làm việc và tiếp khách cho cố Bộ trưởng Bộ Công an Trần Quốc
Hoàn.
Tới năm 1982,
bà Đào Thị Minh được chuyển về Phòng PX15 - Công an TP Hải Phòng. Cư trú
cùng chồng, con tại số nhà 507, đường 5-2, phường Hùng Vương (quận Hồng
Bàng, Hải Phòng) cho tới ngày hưu trí.
Kể lại việc
làm âm thầm lặng lẽ của mình suốt 4 thập kỷ qua, người phụ nữ tuổi đã
ngót 70 nghẹn ngào: "Thương lắm, ngày đó (16/4/1972) chú ấy còn trẻ, mặc
quần áo hải quân, nằm sấp dưới bãi cói…". Rồi bà kể, khi ấy đang công
tác tại Văn phòng Bộ Công an, nghe tin B52 rải thảm ở thôn Cam Lộ, ruột
nóng như lửa không biết tin tức người thân, bà xin phép cơ quan về thăm
nhà 5 ngày. Khoảng 10h sáng 16/4/1972, trong lúc tranh thủ đi bắt cáy ở
bãi gần bến Lâm, sông Cấm, bất ngờ bà thấy một thanh niên mặc quần áo
đại cán hải quân nằm sấp giữa bãi cói mọc cao vượt đầu người. Bà Minh
vội chạy về gọi bà con ra cùng giúp. Xem kỹ, trên ngực áo ngoài của nạn
nhân còn rõ hàng chữ: "Bộ đội Củ Chi - Đoàn tàu không số vận tải hàng
Bắc Nam".
Bỏ hết việc
nhà, bà Minh tất tả chạy đi mua áo quan, kiếm vải sô, áo mưa, thùng múc
nước… cùng với 2 người trong thôn đưa chiến sỹ tầu không số lên một
chiếc áo mưa, tắm rửa sạch sẽ, làm các thủ tục an táng cẩn thận cho anh
ngay sát khu mộ họ tộc chồng bà phía sau nhà.
Bà Đào Thị Minh trong lễ tiễn đưa hài cốt liệt sỹ về nghĩa trang. |
Chiến tranh
qua đi, từ ngày được chuyển công tác về Hải Phòng, bà Minh mới có điều
kiện thăm nom, hương khói rất chu đáo, cẩn thận phần mộ người chiến sĩ,
nhất là những ngày lễ, Tết, mùng "Một", hôm "Rằm". Trong bà luôn đau đáu
một nỗi niềm, phải bảo vệ cẩn thận hài cốt và sớm tìm được thân nhân
người đã hy sinh.
Trong rất
nhiều năm, bà liên tục gặp chính quyền phường để đề nghị, song tất cả
vẫn vô vọng. Đầu năm 2011, sau nhiều đêm trăn trở, bà gặp ông Vũ Xuân
Hiếu, Chủ tịch mới của UBND phường bàn kỹ phương án. Bằng nhiều kênh
thông tin, cho tới đầu năm 2012, Cục Chính sách thuộc Bộ Tư lệnh Hải
quân đã đến tận Cam Lộ, khẩn trương lập hồ sơ.
Kết quả giám
định mẫu ADN tại Viện Pháp y, Bộ Quốc phòng cho thấy, người được bà Minh
tìm thấy và giữ gìn hài cốt chính là liệt sỹ Dương Thành Hiến, SN 1950,
quê gốc tại tổ 3, phường Cao Xanh, TP Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Liệt sỹ
Hiến là một trong 8 sĩ quan, chiến sỹ của con tàu không số có trọng tải
200 tấn, thuộc Đoàn 125, Bộ Tư lệnh Hải quân. Con tàu này đã xuống đủ
hàng, chuẩn bị nổ máy vào miền Nam đã bị trúng bom Mỹ. Đến nay, duy nhất
mới tìm được hài cốt của liệt sỹ Dương Thành Hiến...
Suốt 40 năm
qua, bà Đào Thị Minh hết lòng chăm lo, bảo vệ phần mộ và giữ gìn cẩn
thận hài cốt của liệt sỹ, ở phường Cao Xanh, TP Hạ Long, có một người mẹ
hàng chục nghìn ngày đêm khắc khoải mong chờ tin của đứa con trai. Ông
Dương Thanh Hiên- một sĩ quan quân đội đã nghỉ hưu và là anh cả trong số
7 anh em của gia đình kể lại: hè năm 1970, Dương Thành Hiến lên đường
nhập ngũ và được bổ sung vào Trung đoàn 125, Bộ Tư lệnh Hải quân, đóng ở
xã Tân Dương, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng.
2 năm sau,
cũng vào một ngày hè năm 1972, mưa tầm tã, cụ bà Đỗ Thị Gái gọi ông Hiên
nói "Không hiểu em Hiến thế nào mà mẹ nóng cháy cả ruột gan". Quả
nhiên, gia đình ông ngay đó nhận được giấy báo tử từ Bộ Tư lệnh Hải quân
gửi về ghi rõ: "Không còn thi hài và di vật". Người mẹ chỉ nhận được
duy nhất tấm ảnh 4x6 của con trai mặc quân phục. Trong nỗi đau, cụ Gái
đã âm thầm nhờ người lập một ngôi mộ giả theo cách "xương dâu, đầu gáo"
(xương làm bằng thân cây dâu, còn đầu làm bằng gáo dừa già) để có nơi
thắp hương tưởng nhớ con.
Cũng theo ông
Hiên, những người còn lại trong gia đình hầu như tuyệt vọng, không nghĩ
rằng sẽ tìm được hài cốt của người thân. Cho đến khi nhận được thông
báo, cả nhà xúc động không thể tin được đó là sự thật, không thể nói hết
sự cảm động, biết ơn tấm lòng của "bác Minh Công an". Gia đình ông đã
quyết định nhận bà là chị cả trong nhà.
Còn ông Dương
Quý Lợi, em ruột liệt sĩ - nguyên sĩ quan Công an tỉnh Quảng Ninh tâm
niệm: "Chuyện bác Minh đáng được coi như một... huyền thoại giữa đời
thường. Gia đình tôi không biết làm gì để xứng đáng với công lao của
bác. Mẹ tôi nơi suối vàng hẳn vợi đi nỗi khắc khoải chờ con".
Theo Công an Nhân dân
Nguồn : Zing
6 thủy thủ tàu không số nhận danh hiệu anh hùng
Thứ sáu, 21/10/2011 | 18:45 GMT+7
Chủ tịch nước trao Huân chương Hồ Chí Minh cho cán bộ, chiến sĩ đoàn tàu không số. Ảnh: Trọng Thiết. |
Đánh giá cao công lao của các thế hệ cán bộ chiến sĩ
đoàn tàu không số năm xưa, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang cũng khẳng
định, quân và dân các tỉnh, thành phố nơi có bến bãi, sự giúp đỡ của các
nước bạn là một phần làm nên con đường huyền thoại Hồ Chí Minh trên
biển.
"Cùng với đường Hồ Chí Minh trên dãy Trường Sơn, đường
Hồ Chí Minh trên biển đã trở thành biểu tượng sáng ngời của truyền
thống yêu nước, hiện thân của ý chí, khát vọng độc lập, tự do, thống
nhất tổ quốc, thực sự trở thành một huyền thoại lịch sử...", Chủ tịch
nước nhấn mạnh.
Nguyên thuyền trưởng đoàn tàu không số, anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Hồ Đắc Thạnh
tâm sự, ông rất tự hào khi được tham gia chiến đấu, tạo nên những trang
sử có giá trị tinh thần về chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam.
Lãnh đạo Đảng, Nhà nước dâng hương tại bia di tích đường Hồ Chí Minh trên biển. Ảnh: Trọng Thiết. |
Nhân dịp này, Đảng và Nhà nước đã trao tặng Huân
chương Hồ Chí Minh và phong tặng, truy tặng danh hiệu anh hùng lực lượng
vũ trang nhân dân cho 7 tập thể và 6 cá nhân đoàn tàu không số vì đã có
công lao to lớn, thành tích xuất sắc, góp phần quan trọng vào sự nghiệp
cách mạng của Đảng và của dân tộc.
Trước đó, các đại biểu đã dâng hương tưởng niệm các anh hùng, liệt sĩ đoàn tàu không số tại bến K15 (Đồ Sơn, Hải Phòng).
<>Danh sách 7 tập thể và 6 cá nhân nhận danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân:
<>- Tập thể: Tàu 55, 54, 43, 121, 56, 235, 69.
<>- Cá nhân:
1. Hồ Đắc Thạnh, sinh 1934 tại thị xã Tuy Hòa, Phú Yên.
2. Đỗ Văn Sạn, sinh 1936 tại Thiệu Tân, Thiệu Hóa, Thanh Hóa. 3. Liệt sĩ Đinh Đạt, sinh 1915 tại Bình Hải, Thăng Bình, Quảng Ngãi. 4. Liệt sĩ Lê Văn Một, sinh năm 1921 tại xã Điều Hòa, Châu Thành, Tiền Giang. 5. Liệt sĩ Dương Văn Lộc, sinh 1915 tại xã Tam Quan, Tam Kỳ, Quảng Nam. 6. Liệt sĩ Huỳnh Văn Sao, sinh 1912 tại thị xã Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh. |
<>Trọng Thiết
Những trận đấu anh hùng của thủy thủ tàu không số
Thứ tư, 19/10/2011 | 16:03 GMT+7
Bắt đầu hành trình, mỗi tàu không số đều được gắn thuốc nổ, khi
chiến đấu với địch và nhận thấy không thể vượt qua, thuyền trưởng sẽ cho
mở kíp nổ phá hủy tàu, đảm bảo bí mật và không để vũ khí rơi vào tay kẻ
thù.
Nguyên là trưởng tiểu ban
tác chiến, huấn luyện, người làm kế hoạch tác chiến cho tàu không số đi
vào 19 bến thuộc các tỉnh Nam Bộ, ông Nguyễn Hữu Tuần cho hay, để giữ bí
mật tuyệt đối, tất cả các khâu đều được bảo mật. Những vùng xây dựng
cầu cảng, bến bãi phải di dân, khoanh vùng nhưng cả chính quyền và người
dân đều không biết bên trong dùng làm gì. Riêng đội đóng tàu được tuyển
chọn kỹ, đóng tàu hai đáy và cũng không biết tàu đó được giao cho ai,
chở gì.
“Thuyền trưởng và thủy thủ tàu không số
không được tiết lộ nhiệm vụ với gia đình. Trước mỗi hành trình, họ phải
gửi lại giấy tờ, ghi địa chỉ quê quán, người thân, chụp ảnh để lưu lại
trong hồ sơ. Chúng tôi ngầm hiểu với nhau đó là những lần truy điệu sống
để không may hy sinh còn có thông tin gửi về địa phương. Thế nhưng ai
cũng quyết tâm chiến đấu vì đất nước, có thủy thủ không được đi đã bật
khóc”, ông Tuần kể.
Vị chỉ huy kế hoạch tác chiến
cho hay, mỗi chiếc tàu rời bến đều được gắn thuốc nổ xung quanh. Khi
chiến đấu với kẻ thù và cảm thấy không thể vượt qua, thuyền sẽ được phá
huỷ để đảm bảo bí mật và không để vũ khí rơi vào tay địch. Mọi giấy tờ,
căn cước chiến sĩ mang theo cũng được làm giả, tàu đi đến địa phận nào
tùy tình hình mà thay biển số cho hợp lý, đề phòng địch kiểm tra, phát
hiện.
Trung tá Hồ Đắc Thạnh, nguyên thuyền trưởng tàu 41. Ảnh: Trọng Thiết. |
Giọng
bùi ngùi, trung tá Hồ Đắc Thạnh, nguyên thuyền trưởng tàu 41 cho hay,
ông và đồng đội nhiều lần đối mặt với kẻ thù, chiến đấu anh dũng, nhưng
cuối cùng phải cho nổ tàu vì không đủ sức đánh lại địch với lực lượng
hùng mạnh. Ông kể, tàu 41 là tàu vỏ sắt đầu tiên được lựa chọn vận
chuyển vũ khí vào bến khu 5. Tàu do ông làm thuyền trưởng, ông Trần
Hoàng Chiều làm chính trị viên cùng 19 thủy thủ và 3 người là quân giải
phóng được tỉnh ủy Phú Yên cử ra miền Bắc xin vũ khí.
Đêm
14/11/1964, tàu rời bến Bãi Cháy, 12 ngày sau thì vượt qua giới tuyến
tạm thời trên biển. Sáng 27/11, đột ngột có máy bay địch từ đất liền bay
đến lượn trên tàu nhiều lần. Sau khi hội ý, ông lệnh cho thuỷ thủ mang
cờ của chính quyền Việt Nam cộng hòa kéo lên đỉnh cột buồm, đồng thời
mang cá, mực đã chuẩn bị sẵn giả vờ tụ tập ngồi nhậu.
Chiếc
máy bay tiếp tục bay lượn kiểm tra, hai tàu khác của địch từ đất liền
tiến ra áp mạn song song với tàu 41. Một chiếc sau đó tách đội hình, các
khẩu pháo trên tàu địch đều được mở bạt che, hướng nòng súng về phía
tàu ta sẵn sàng nhả đạn. “Chúng tôi vẫn giả vờ ngồi nhậu, mặt khác bí
mật chuẩn bị các loại súng B40, B41, lựu đạn chống tăng, bộc phá… sẵn
sàng chiến đấu. Trong trường hợp cần thiết sẽ lao về phía tàu địch và
cho nổ tung”, thuyền trưởng Thạnh kể.
Tuy nhiên,
sau hai giờ theo dõi không phát hiện nghi vấn, địch cho tàu tăng tốc
chạy vào bờ. Tàu 41 thẳng tiến đến đích và khi cách khoảng một hải lý,
tàu thả trôi chờ tín hiệu của bến. “Khi phía bờ có ánh đèn pin chớp lên
rồi vụt tắt, chúng tôi sung sướng vì từ đó chúng ta đã có thêm một bến
mới, bến Vũng Rô”, trung tá Thạnh hồ hởi nói.
Ông
cho hay, tàu 41 dường như có duyên với những cái mới. Năm 1966, khi Mỹ
tổ chức lực lượng đặc nhiệm ken dày chốt các cửa sông, tàu được giao
nhiệm vụ vận chuyển vũ khí vào chiến trường khu 5, vào bãi ngang Đức
Phổ, Quảng Ngãi. Đây là lần đầu tiên sử dụng phương pháp thả hàng xuống
biển, đánh dấu để bến vớt lên dần.
Con tàu mang số hiệu 41 (nay được đổi là HQ 671) là tàu không số duy nhất còn lại hiện nay. Ảnh: Trọng Thiết. |
Trước chuyến đi, để làm quen với địa hình nơi
tàu đến, thủy thủ tàu 41 có gần nửa tháng luyện tập với đặc công nước ở
bãi biển Đa Lạt (Thái Bình). Đêm 19/11/1966 tàu rời bến. 8 ngày sau thì
đến đúng địa điểm nhưng không nhận được tín hiệu hiệp đồng. Hai thủy thủ
thông thạo nghề biển, bơi giỏi, mang áo phao và vũ khí cá nhân nhận
nhiệm vụ bơi vào bờ bắt liên lạc với bến, lực lượng còn lại tập trung
thả hàng.
“Lúc đó, có hai tàu địch đang theo dõi
chúng tôi, thi thoảng lại dùng đèn tín hiệu liên lạc với nhau. Thả được
1/3 lượng hàng thì nhận được tín hiệu trong bờ, không khí làm việc khẩn
trương hơn nhưng do sóng thuỷ triều lớn đã làm chân vịt bị cong không
thể cơ động xa được”, ông Thạnh kể.
Trước tình thế
nguy cấp, ông Thạch quyết định đưa người vào bờ, còn thuyền trưởng, máy
trưởng ở lại chuẩn bị điểm hoả bộc phá hủy tàu rồi bơi vào bờ sau. Con
tàu nổ tung cũng là lúc các cỡ pháo trên tàu địch bắn tới tấp vào bờ
chặn đường rút lui của thủy thủ ta. Hai người đã hy sinh, số còn lại
vượt đường Trường Sơn, ba tháng sau mới về đến miền Bắc.
Trong
ký ức của nguyên thuyền trưởng tàu 41, có những người đồng đội đã hy
sinh mà đến giờ ông vẫn còn đau xót. Đó là những thủy thủ tàu 165 chở
hàng vào bến Vàm Lũng (Cà Mau) năm 1968 do Nguyễn Chánh Tâm làm thuyền
trưởng, Nguyễn Ngọc Lương là chính trị viên cùng 18 thủy thủ. Tàu chở 64
tấn vũ khí, xuất phát ngày 25/2. Đến 18h ngày 29/2, sau bức điện cuối
cùng, tàu mất hoàn toàn liên lạc. Biết tàu gặp địch nên mấy ngày sau đó
anh em ở bến cử người đi dọc bờ biển tìm dấu vết. “Cả người và thuyền
đều không thấy, đồng đội chỉ tìm được nhiều mảnh gỗ có vết đạn nham nhở
trôi dạt vào bờ”, ông Thạnh kể.
Cũng trong năm
1968, tàu 235 chở vũ khí vào bến Hòn Hèo (Khánh Hòa) do Nguyễn Phan Vinh
làm thuyền trưởng và Nguyễn Tương làm chính trị viên cùng 20 cán bộ,
thủy thủ. Ngày 6/2/1968 tàu xuất phát. Ngày 29/2, khi qua vùng biển Nha
Trang thì máy bay địch phát hiện. 20h cùng ngày, thuyền trưởng quyết
định chuyển hướng vào bờ. Lúc này, hải quân vùng 2 duyên hải của địch đã
điều động nhiều tàu chiến đến bao vây với ý định bắt sống tàu ta.
Một
khó khăn cho tàu 235 là khi quay vào bờ không gặp bến đón. Trong lúc
nguy cấp, thuyền trưởng chỉ đạo thủy thủ thả hàng xuống biển, sau này
bến vớt lên. Khi thả được 2/3 số hàng thì thuyền trưởng cho ngưng và đưa
tàu chạy ven bờ xa nơi thả hàng. Tàu chiến địch lập tức đuổi theo và
một cuộc chiến không cân sức đã diễn ra khiến thuyền trưởng và máy
trưởng bị thương, máy tàu hỏng nặng không thể cơ động xa.
“Lúc
này anh Vinh đã cho tàu vào gần bờ để những người bị thương sơ tán lên,
còn anh và thợ máy ở lại chuẩn bị điểm hỏa bộc phá tàu rồi bơi vào bờ
sau. Tiếng nổ của con tàu khiến địch điên cuồng bắn phá ven biển nhằm
dọn đường cho bộ binh vây bắt thủy thủ. Anh Vinh và thợ máy Ngô Văn Thứ
đã chiến đấu đến viên đạn cuối cùng và hy sinh”, thuyền trưởng Thạnh
ngậm ngùi.
Mái tóc đã bạc nhưng giọng nói còn sang
sảng, đại tá Trần Phong, nguyên quyền đoàn trưởng đoàn 125 Hải quân tâm
sự, thời đại của thế hệ ông với tinh thần quyết tử cho tổ quốc quyết
sinh đã làm nên huyền thoại đường không dấu, tàu không số, trí - hiếu -
trung - dũng - anh hùng. "Ngày nay, ta có trời, có biển thì phải biết
giữ gìn. Nếu tổ quốc cần chúng tôi, các anh cứ gọi. Chúng tôi luôn sẵn
sàng”, ông dặn dò thế hệ lãnh đạo hải quân tiếp nối.
Hoàng Thùy
Nguồn : VnExpressChuyến tàu không số duy nhất chở thủy lôi
Thứ năm, 20/10/2011 | 15:37 GMT+7
Ông Lưu Đình Lừng, cựu thủy thủ tàu không số năm xưa
nay đã về hưu, an hưởng tuổi già tại phường Ngọc Hải, thị xã Đồ Sơn, Hải
Phòng. Khuôn mặt rám nắng, dáng người rắn rỏi, ông cho biết, từ khi
bước chân xuống tàu năm 1964, ông đã có 10 chuyến ra Bắc vào Nam, lênh
đênh trên biển để chi viện vũ khí cho chiến trường miền Nam.
Trong những lần ấy, ông cảm thấy tự hào và nhớ như in
chuyến đi đầu tiên sau khi đường Hồ Chí Minh trên biển bị địch phát
hiện. Đó là chuyến tàu chở 4 quả thủy lôi duy nhất trong hàng nghìn tấn
vũ khí được vận chuyển vào Nam. Ông Lừng nhớ lại, để đưa thủy lôi xuống
tàu, những người lính phải dùng băng xích để kéo xuống xuồng, sau đó lại
vất vả đưa xuống hầm hàng của tàu.
Ông Lưu Đình Lừng nhớ nhất là chuyến vận chuyển vũ khí vào Cà Mau có 4 quả thủy lôi năm 1965. Ảnh: Hoàng Thùy. |
Trước khi tàu rời bến, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã vác
một hòm đạn AK xuống tàu, động viên các thuỷ thủ. Đêm hôm đó, tất cả mọi
tư trang, giấy tờ tùy thân các ông đều gửi lại, cán bộ lãnh đạo thì ân
cần bắt tay, dặn dò từng người.
"Nhiệm vụ của tàu 42 khi ấy là đưa vũ khí vào bến Vàm
Lũng (Cà Mau) và nghiên cứu tuyến đường vận chuyển mới sau một thời gian
tạm ngưng do địch phát hiện. Hành trình nếu suôn sẻ dự kiến mất khoảng
nửa tháng với 7 ngày vào, 7 ngày ra và 1-2 ngày bốc hàng", ông Lừng nói.
Khẽ nhăn vầng trán, người cựu binh nhớ lại, đêm ngày
15/10/1965, tàu 42 được cải trang thành tàu đánh cá Philippines lặng lẽ
rời bến K15 (Đồ Sơn, Hải Phòng). 16 thủy thủ tham gia chuyến đi dưới sự
chỉ huy của thuyền trưởng Nguyễn Văn Cứng và chính trị viên Trần Ngọc
Ẩn.
Không giống như những chuyến hàng trước, lần này ngoài
60 tấn vũ khí, tàu 42 còn phải chở thêm 4 quả thủy lôi, mỗi quả nặng
hơn một tấn. Đây là loại vũ khí đặc biệt dùng để phá hủy những chiến hạm
lớn của địch nên có ý nghĩa vô cùng quan trọng với chiến trường miền
Nam lúc bấy giờ.
Không thể đi dọc đường bờ biển bởi sau sự kiện Vũng
Rô, con đường Hồ Chí Minh trên biển bị lộ, địch tăng cường tuần tiễu và
thả bom mìn, thủy lôi phong tỏa. Tàu 42 với nhiệm vụ mở đường mới phải
nhằm hướng hải phận quốc tế để đi. Sau khi rời bến K15, tàu vượt qua
Long Châu, đảo Hải Nam, sau đó nhập vào dòng tàu buôn đi về phía quần
đảo Trường Sa.
"Lênh đênh trên biển, ngoài việc quan sát kẻ
địch chúng tôi còn phải đối phó với sóng, gió, bão. Chỉ sóng thôi cũng
đã làm sơn ở ngoài tàu tróc hết, bào mòn mạn tàu, nấu cơm thì phải đứng
giữ nồi ở yên vị trí, có khi đến 3 tiếng cơm mới chín. Và sau mỗi chuyến
đi, một người sút khoảng 4 cân", ông Lừng kể và cho biết, khi tàu 42
của ông tới gần quần đảo Trường Sa thì bị máy bay Mỹ phát hiện.
Trước tình huống nguy cấp, thuyển trưởng đã hạ lệnh
thay biển số của tàu phù hợp với hải phận đi qua, mang lưới ra gỡ để
địch tin là dân đánh cá. Sau khi tiếp cận mà không phát hiện điều bất
thường, máy bay địch bỏ đi, tàu 42 tiếp tục xuôi về phía đảo của
Philippines và chuyển hướng vào Cà Mau.
"Khi gần bến đỗ, anh em trên tàu đang mừng thầm vì
chuyến đi khá thuận lợi thì lại phát hiện những vệt sáng ở phía trước.
Biết là có tàu địch, chúng tôi được lệnh vào vị trí sẵn sàng chiến đấu",
ông Lừng kể.
Tàu không số vận chuyển vũ khí vào chiến trường miền Nam. Ảnh do máy bay trinh sát Mỹ chụp, |
Những vệt sáng cứ xuất hiện nhiều lên, cả phía trước,
bên phải, bên trái và sau đó tạo thành một vòng tròn bao quanh thuyền
42. Biết đã bị bao vây, thuyền trưởng Cứng lập tức ra lệnh bật đèn giống
địch và cho tàu chạy dần ra ngoài, nhập vào vòng tròn của nhóm tàu
địch. Cứ như thế, tàu chạy vòng quanh một lúc, khi vào gần bờ, thuyền
trưởng hạ lệnh tắt đèn, tăng tốc lao vào bến, nơi có đội ngũ tiếp ứng
đang đợi sẵn.
"Có những lúc căng thẳng đến mức như sắp phải nhả súng
chiến đấu với địch, nhưng với tài phán đoán và xử lý của thuyền trưởng
Cứng, mọi vòng vây đều được phá, chúng tôi vào bến an toàn", ông Lừng kể
lại.
Ông cho biết, đội tiếp nhận hàng ở bến đã phải rất vất
vả mới di chuyển được bốn quả thủy lôi đến nơi an toàn. Họ phải chọn
những chiếc thuyền to, chèo ra đến gần tàu hàng thì dìm xuống nước. Hàng
chục người sau đó sẽ dùng đòn khênh thủy lôi lên và đẩy chiếc thuyền
chìm lên, tát cạn nước. Thuyền dần dần nổi và bốn quả thủy lôi lần lượt
được vận chuyển vào bờ.
Giọng hào hứng, ông Lừng chia sẻ, với 4 quả thủy lôi
vận chuyển vào đã có tác dụng rất to lớn, trong đó có việc đánh chìm
chiếm hạm "khủng long" Balon Ronge Victory có trọng tải 20.000 tấn của
Mỹ do tổ đặc công Rừng Sác thực hiện. Chiến thắng này đã tạo nên cục
diện mới ở chiến trường miền Nam, khiến quân địch phải lo sợ.
Sau chuyến đi khảo sát thành công ấy, tuyến đường vận
tải trên biển đi qua hải phận quốc tế vào Nam được hình thành. Ban chỉ
huy tàu cũng vinh dự được báo cáo kết quả với Quân ủy Trung ương và được
nhận Huân chương Quân công hạng ba. Đặc biệt, cả đoàn còn được Chủ tịch
Hồ Chí Minh tặng một cây thuốc lá có ghi dòng chữ “Bác Hồ tặng”.
"Trước khi đi tàu được găm hàng tấn thuốc nổ để nếu
không chiến đấu nổi với địch sẽ phá hủy tàu. Cánh thủy thủ chúng tôi đều
biết mỗi lần ra đi là một lần không hẹn ngày trở lại, thế nhưng với
nhiệt tình cách mạng của lớp thanh niên lúc bấy giờ, chúng tôi không sợ
chết, thậm chí không được đi đã khóc nức nở. Bây giờ nếu hải quân cần,
chúng tôi vẫn sẵn sàng", ông Lừng nói.
<>Hoàng Thùy
Chiến công thầm lặng của chính trị viên tàu không số
Thứ sáu, 21/10/2011 | 16:19 GMT+7
Không ngớt lời khen khi nhắc đến đồng đội là thủy thủ
tàu không số năm xưa, nguyên trưởng tiểu ban tác chiến, huấn luyện
Nguyễn Hữu Tuần dành những lời cảm phục nhất cho ông Trần Ngọc Tuấn,
nguyên Chính trị viên tàu 43. Theo ông Tuần, đó là người chỉ huy xuất
sắc, dũng cảm của đoàn tàu không số, nhưng về sau lại phải mưu sinh vất
vả và chiến công thì không mấy người biết tới.
Không một lời than thở, người chính trị viên được ông
Tuần nhắc tới chỉ cười hiền: "Còn được sống đến hôm nay tôi đã may mắn
hơn rất nhiều đồng đội hy sinh ngoài chiến trường. Ngày ấy chúng tôi
không bằng cấp, mới học lớp 1, lớp 2 thậm chí mù chữ nhưng vẫn quyết tử
ra đi, là vì chúng tôi muốn đánh đuổi quân thù, thống nhất đất nước".
Gói gọn cuộc đời trong câu thơ mượn của thi sĩ Hồ Xuân
Hương "hai chìm, bảy nổi, chín lênh đênh", ông Tuấn cho biết, trong 9
chuyến tham gia vận chuyển vũ khí vào Nam, ông làm chính trị viên trên
các tàu 56, 55, 43. Sau lần chở 44 tấn vũ khí vào miền Nam đánh trận
Bình Giã, ông được điều về tàu 43 xây dựng đơn vị này vững mạnh toàn
diện.
Khi nhiệm vụ hoàn thành, tháng 3/1965, để góp phần chi
viện cho chiến trường khu 5 đánh lớn thắng lớn, tàu 43 được cử lên
đường do ông làm chính trị viên, Nguyễn Đắc Thắng là thuyền trưởng đi
vào Quảng Ngãi.
Ông Tuấn kể, sau khi đi ra hải phận quốc tế, tàu bị
địch phát hiện nhưng qua theo dõi một thời gian không thấy biểu hiện lạ,
chúng bỏ đi. Tàu 43 chuyển hướng tiến về bến, khi cách Sa Kỳ khoảng 25
hải lý, lại phát hiện 3 tàu chiến Mỹ đuổi theo, rọi đèn pha vào, kêu gọi
đầu hàng.
Nguyên chính trị viên Trần Ngọc Tuấn với hai lần chỉ huy bộc phá hủy tàu. Ảnh: Trọng Thiết. |
"Chúng tôi xác định phá vòng vây địch để đưa tàu vào
bến, nếu còn thời gian thì đổ hàng. Nhưng lúc đó 3 tàu chiến Mỹ thi nhau
tấn công buộc chúng tôi phải đánh trả", ông Tuấn kể và cho hay, với nỗ
lực của các thủy thủ, một tàu địch đã bị trúng đạn khiến hai tàu còn lại
chỉ dám ở xa bắn mà không lại gần.
Cuộc chiến giằng co suốt từ tối hôm trước cho tới 5h
sáng hôm sau thì tàu 43 mới lao được vào bờ, tuy nhiên tứ phía đều bị
bao vây. Chỉ huy quyết định phá hủy tàu, không để rơi vào tay địch. "Lúc
ấy rất căng thẳng, tàu không thể cơ động, bao nhiêu đạn pháo của địch
lại tập trung xung quanh đòi hỏi người đánh bộc phá phải dũng cảm, nhanh
chóng, chính xác. Tôi và vài thủy thủ nhận nhiệm vụ ở lại phá hủy tàu,
còn anh em rời tàu trước", ông Tuấn kể.
Theo ông Tuấn, có 3-4 vị trí trên tàu đặt bộc phá, mỗi
vị trí có 3 loại kíp: hóa học, dây cháy chậm và kíp điện. Để chắc chắn
phá được tàu, các thủy thủ đã lắp thêm thiết bị để có thể điều khiển phá
tàu từ trong bờ thông qua một sợi dây dài khoảng 1.000 m. Để kéo dây
vào bờ, hai thủy thủ cứ bơi được một đoạn lại bị dây quấn vào người
không thể di chuyển. Họ phải lặn xuống, gỡ dây rồi tiếp tục bơi.
Khi kéo tới bờ, lắp dây vào bình điện, quay một vòng
thì tàu chập điện nổ. Dù tiếc vũ khí, nhưng cả đoàn vui mừng khi đánh
nhau suốt 3 giờ với 3 tàu chiến Mỹ và một trực thăng nhưng không thủy
thủ nào bị thương, bí mật được đảm bảo.
Vẫn nụ cười nhưng pha phần chua xót, chính trị viên
Trần Ngọc Tuấn cho biết, sau khi bộc phá tàu, cả đội đổ lên bờ hành quân
vượt Trường Sơn ra Bắc. Đây là chuyến đi cam go, khổ sở vì không bắt
được liên lạc với đơn vị, không có giấy tờ tùy thân, không chế độ ăn
uống. Đi đến đâu các ông xin ăn đến đó, đói thì ăn rau rừng.
"Đau lòng nhất là không có giấy tờ nên qua các trạm
gác chúng tôi bị cho là quân đào ngũ. Đến trạm 400 ở Hà Tĩnh, họ tập
trung chúng tôi lại, cho học chính trị để bắt trở lại chiến trường. Tôi
kiên quyết nói 'Không được, giờ các đồng chí bắt chúng tôi lại, ở chiến
trường mà có chiến sự gì các đồng chí chịu trách nhiệm. Tôi yêu cầu được
gặp Tổng cục Chính trị, vòng vo mãi mới được đi tiếp", ông Tuấn kể.
Ngày 14/3/1967 bắt đầu hành quân, nhưng người cuối
cùng về đơn vị là tháng 10. Ai cũng bị sưng lá lách, ốm đau, quặt quẹo.
Khi chưa kịp hồi sức, cả đội lại được động viên tham gia chuyển vũ khí
cho chiến dịch Mậu Thân năm 1968.
Vì khát khao độc lập, tự do nên dù sức yếu thủy thủ
tàu 43 vẫn sẵn sàng nhận nhiệm vụ ra đi. Trận này tiếp tục vào Quảng
Ngãi, nơi mà cách đây vài tháng quân ta có một tàu bị địch bắt, đem xác
về trưng bày để thị uy. Tại bến này, chúng cũng tập trung lực lượng
phòng thủ rất mạnh.
Ông Tuấn cho hay, dù chuyến đi này lành ít dữ nhiều,
có thể không về nhưng anh em sẵn sàng ra đi. Thậm chí có người vừa cưới
vợ được 20 ngày là lái chính Vũ Xuân Rệ và y tá kiêm pháo thủ Võ Nho
Tòng chuẩn bị cưới cũng xung phong lên thuyền.
"Lúc đó tôi quán triệt anh em, đi chuyến này
nếu gặp địch vây thì kiên quyết đánh trả, nếu bị bắt không được khai
báo, noi gương Nguyễn Văn Trỗi, học tập Nguyễn Đức Thuận", ông Tuấn nói
và cho hay, thời điểm này địch dùng máy bay tầm cao quan sát, nếu phát
hiện tàu ta thì báo cho rađa, chờ khi mình vào hải phận chúng mới đánh.
Điều này khiến quân ta rất bị động.
Khi tàu 43 vào cách bờ khoảng 20 hải lý thì có 4 tàu
địch ở phía sau đuổi theo. 0h50 phút ngày 1/3/1968, chúng đồng loạt bắn
pháo sáng. Lập tức chỉ huy tàu lệnh thủy thủ tiêu hủy tài liệu và chuẩn
bị chiến đấu. Thuyền trưởng Thắng đứng trên đài chỉ huy quan sát, tính
toán thời điểm lệnh nổ súng.
Còn ông Tuấn đi xuống từng vị trí kiểm tra. Khi vào
buồng lái, thấy Vũ Xuân Rệ một tay giữ tay lái, một tay cầm thủ pháo hứa
với ông: "Tôi Vũ Xuân Rệ, sẵn sàng nhận nhiệm vụ tiêu diệu địch" (nếu
địch vào bắt sống thì cầm thủ pháo nhảy qua tàu địch rồi giật kíp nổ".
Khi pháo sáng bắn được 30 phút thì từ 4 tàu địch bắt
đầu dập đạn vào, dù tròng trành nhưng tàu 43 vẫn nhằm hướng bến lao vào.
Địch mỗi đợt cử 2 tàu lao vào tấn công. Thuyền trưởng Thắng ra lệnh
bắn. Khi đánh hết tàu của địch, máy bay lại xuất hiện bắn đạn cực nhanh
vào tàu ta. Lúc này thuyền trưởng lệnh cho súng 12D7 bắn rơi một chiếc.
Cứ như thế, hết tàu đến máy bay địch thay nhau đánh tàu 43, còn thủy thủ
ta liên tiếp phản công.
Ông Tuấn và các đồng đội năm xưa. Ảnh: Trọng Thiết. |
Đến lần thứ ba pháo bắn vào thì tàu 43 lảo đảo. Chính
trị viên Trần Ngọc Tuấn lao vào buồng lái thấy lái tàu Rệ bị thương
nặng, ngã xuống sàn nhưng một tay vẫn giữ vòng lái, thực hiện đúng lời
dặn "giữ vững vị trí chiến đấu". Ông Tuấn điều chỉnh tay lái đưa tàu về
hướng theo chỉ huy của thuyền trưởng, điều lái hai Lưu Công Hào vào
thay.
"Khi đang băng bó cho Rệ, cậu ấy chỉ kịp nói 'Chính
trị viên ở lại chiến đấu trả thù cho em' rồi tắt thở. Thường khi sắp ra
đi, người ta nhắn nhủ với vợ, người thân nhưng Rệ thì không, chỉ gửi lại
tinh thần chiến đấu. Tôi đau là đau ở chỗ đó", ông Tuấn ngậm ngùi.
Khi xuống boong tàu, ông Tuấn lại phát hiện y tá kiêm
pháo thủ số 2 Võ Nho Tòng cũng đã trúng đạn hy sinh. Toàn thân ngã xuống
nhưng tay vẫn ôm chặt pháo. Lúc này mạn phải lại có 2 tàu địch tấn
công.
4h30 ngày 1/3/1968 tàu 43 lao vào được đến bờ. Thuyền
trưởng hạ lệnh phá hủy tàu vì sau thời gian dài chiến đấu tàu bị mất mát
quá lớn về người và vũ khí. Hơn nữa trời đã sáng, nếu kéo dài thời gian
địch sẽ vào cướp tàu.
Thương binh, liệt sĩ được đưa vào bờ trước, một nhóm
chiến sĩ ở lại chiến đấu yểm hộ bộ phận đánh bộc phá. Khi điểm hỏa xong,
định giờ 30 phút, thấy đồng hồ chạy 5 phút thì ông Tuấn và các chiến sĩ
còn lại bơi vào bờ. Đang bơi thì thủy thủ tên Kiểm bị trúng đạn địch,
sóng cuốn anh đi khiến cả đội tìm miết không thấy xác.
"Thời gian nổ tàu đã đến mà vẫn không thấy Kiểm, chúng
tôi dìu nhau vào bờ. Vừa đến nơi thì thấy phía tàu phát ra một ánh chớp
sáng lòe, một cột nước bốc lên và sau đó là tiếng nổ. Bộc phá thành
công", ông Tuấn nói.
Tập trung đội để hành quân ra Bắc, thủy thủ tàu 43 lại
gặp phải lính thủy đánh bộ của Mỹ xuống càn quét. May mắn bắt liên lạc
được với du kích địa phương, cả đội được đưa xuống hầm ẩn nấp. Chiều
7/3, họ đưa các chiến sĩ đến bệnh xá dân y của huyện Đức Phổ.
Ông Tuấn nhớ, lúc đó trạm có 8 người, 2 nam, 6 nữ
trong đó có cô da trắng trẻo, xinh đẹp ân cần hỏi thăm, kiểm tra vết
thương cho cả nhóm. Sau này ông mới biết đó là bác sĩ Đặng Thùy Trâm từ
Hà Nội vào tháng 3/1967.
"Được các bác sĩ tận tình cứu chữa, ngày 10/4 chúng
tôi đỡ hơn nên lên đường hành quân. Tôi nói với nữ bác sĩ: "Chúc Thùy
Trâm ở lại mạnh giỏi, hẹn gặp lại trong ngày hội Bắc Nam thống nhất". Cô
ấy đã khóc và trả lời "Các anh cứ đi, hẹn gặp lại trên miền Bắc thân
yêu", vị chính trị viên nghẹn ngào kể lại. Ông cũng không ngờ rằng đó là
lần gặp mặt duy nhất, cuối cùng với nữ bác sĩ Đặng Thùy Trâm.
Sau chuyến đi từ Hải Phòng vào sông Gianh năm 1969,
chính trị viên Trần Ngọc Tuấn bị ốm nặng, phải đi an dưỡng ở bệnh viện.
Điều trị mãi không khỏi nên bộ chỉ huy động viên ông chuyển sang làm
công tác tổ chức. Ông nói "tổ chức phân công đi đâu tôi đi đó". Vậy là
ông về làm công tác tuyển sinh ở trường Thủy sản.
Sau giải phóng trường chuyển vào Nha Trang, Khánh Hòa.
Khi về hưu, ông đi bán thuốc lá để kiếm tiền nuôi con ăn học. Bị thanh
niên lừa hết tiền thuốc, vị lính già lại đi gác cổng cho một trường
trung học với đồng lương ít ỏi. Trường Thủy sản mở trung tâm 3, ông được
mời về đó làm bảo vệ.
"Tôi tưởng mình đã bị lãng quên, nhưng đến năm 2001
nhà văn Đình Kính tìm được tôi khi đang lụ khụ ngồi gác cổng. Giờ tôi
con cái trưởng thành, có gia đình riêng, chỉ còn hai ông bà già chăm sóc
cho nhau. Cuộc sống như vậy đã hạnh phúc lắm rồi", vị chỉ huy già nhăn
nheo vầng trán nói.
<>Hoàng Thùy
Chuyện tình cổ tích của thuyền trưởng tàu không số
Thứ bảy, 22/10/2011 | 12:05 GMT+7
"Mối tình xuyên biển Đông", "mối tình vượt thời gian"
hay "chuyện tình cổ tích" là nhận xét của cựu thuỷ thủ tàu không số về
tình yêu của nguyên thuyền trưởng tàu 43 Nguyễn Đắc Thắng và nữ y tá
Huỳnh Biên Thùy. Gặp rồi yêu nhau trong chiến tranh, liên hệ thưa thớt
qua vài cánh thư và suốt nhiều năm không tin tức, nhưng họ một lòng
hướng về nhau với tình cảm chân thành nhất.
Dường như mối duyên Thắng - Thùy được ông trời xe sẵn.
Lần đầu gặp mặt, Đắc Thắng (còn gọi là Tư Thắng) chừng 24 tuổi, còn
Biên Thùy (hay Sáu Thùy) mới 19. Khi ấy Tư Thắng là thuyền phó phụ trách
hàng hải tàu 56 cùng đồng đội chở vũ khí từ Hải Phòng vào bãi Kiến Vàng
(Cà Mau). Trong lúc chờ vận chuyển vũ khí xuống, thủy thủ lên nhà khách
nghỉ ngơi và giao lưu văn nghệ.
"Tôi đặc biệt chú ý đến cô gái có tên Sáu Thùy vì da
trắng, người nhỏ nhắn, xinh xắn. Khi hỏi hoàn cảnh gia đình, tôi càng
cảm thấy cô có nhiều điểm trùng hợp với mình", ông Thắng nhăn vầng trán
rộng, kể lại.
Hai vợ chồng ông bà Đắc Thắng - Biên Thùy đã xấp xỉ 80, sống hạnh phúc bên nhau tại căn nhà nhỏ ở Cần Thơ. |
Với giọng Cần Thơ ngọt lùi, ông cho hay, từ khi còn bé
đã đi làm liên lạc, 19 tuổi thì tập kết ra Bắc. Sau khi đi học, tháng
5/1963 ông được chuyển về đoàn tàu không số, hai tháng sau đi chuyến đầu
tiên. Còn cô Sáu Thùy cũng sớm làm giao liên, rồi bị bắt, tù đày 3 năm.
Tháng 2/1964, cô nhập ngũ vào đoàn 962 phục vụ hậu cần ở nhà khách và
sau này nhận thêm nhiệm vụ y tá quân y.
Tàu neo lại bến vài ngày, ông Thắng có cơ hội xuống
bếp giúp bộ phận hậu cần làm cơm. Trong lúc nhặt rau, làm cá, ông lân la
hỏi chuyện Sáu Thùy. Biết cô sinh ra trong gia đình cách mạng, có anh
đã hy sinh, ông càng cảm phục người con gái có ý chí kiên cường này.
"Khi tàu sắp phải rời bến trở về Bắc, tôi đặt vấn đề
với Sáu Thùy chuyện tình yêu, cưới xin bởi trong hoàn cảnh chiến tranh,
tôi đến đâu cũng chỉ được vào vài ngày, điều kiện ở trong bến cũng chặt
chẽ, nam nữ không được tự do tìm hiểu", ông Thắng cho hay.
Đón nhận tình cảm của Tư Thắng, nhưng Sáu Thùy trả lời
chưa thể quyết định được vì còn mẹ già và anh em ở quê. Chàng thuyền
phó khi ấy phải dùng tình cảm và lý do làm nhiệm vụ nay đây mai đó, cơ
hội gặp lại rất hiếm hoi để thuyết phục. Cuối cùng cô cũng đồng ý báo
cáo chuyện hai người với cấp trên.
"Lúc đầu bến chưa chịu vì họ cũng có ý đồ rút chị em
địa phương vào để gây dựng gia đình cho anh em ở bến. Nhưng rồi nhận
thấy vấn đề của hai người là chính đáng nên họ đồng ý cho gặp mặt, trao
đổi và để cô Thùy làm lý lịch đưa cho tôi mang ra báo cáo với cấp trên
ngoài Bắc", ông Thắng kể lại và cho hay, đoàn tàu không số là đơn vị bí
mật nên việc cưới hỏi phải điều tra bên vợ cẩn thận về hoàn cảnh gia
đình, xu hướng chính trị... đề phòng sau này có biến cố.
Làm xong lý lịch, hai bên đại diện cho Tư Thắng và Sáu
Thùy tổ chức một buổi gặp nhau để trao đổi. Sáu Thùy tặng cho ông một
nhẫn vàng, một khăn tay làm tin. Còn Tư Thắng chỉ có mỗi tấm hình để
lại. Tưởng mọi việc sẽ êm xuôi, nhưng do đơn vị Sáu Thùy không mặn mà
nên khi tàu Tư Thắng ra Bắc thì họ tổ chức kiểm điểm cô. Cấp trên Tư
Thắng thì dễ dàng hơn, chấp nhận mối tình sau khi đã kiểm tra lý lịch.
Về phần Tư Thắng, dù đã hứa hẹn nhưng ông không thể
trở lại bến Cà Mau do sau khi trở về được điều qua tàu khác vào Bến Tre.
Đi hai chuyến ông lại về tàu 56 nhưng chuyển hàng vào bến Bà Rịa. Để
liên lạc với người yêu, thi thoảng ông lén viết thư nhờ bạn tàu khác
chuyển vào, và ngập tràn hạnh phúc khi nhận được hồi âm cùng quà của Sáu
Thùy.
"Trong 4 năm từ 1964 đến 1968 chúng tôi gửi
cho nhau khoảng 10 bức thư. Nhiệm vụ bí mật nên ngay cả chúng tôi cũng
không biết lịch trình của các tàu bạn. Thi thoảng anh Nguyễn Chánh Tâm
(thuyền trưởng tàu 165) chở hàng vào Cà Mau tự mua quà và nói của tôi
gửi để Sáu Thùy đỡ tủi thân", ông Thắng nói.
Mặc dù vậy, cô Sáu rất trân trọng và mong được gặp
người yêu. Năm 1968, chuẩn bị cho tổng tấn công, cô xin đi theo cùng
tiểu đoàn của đơn vị 962 ra chiến trường chiến đấu. Nhưng ý định của cô
là đi để có điều kiện vượt Trường Sơn ra ngoài Bắc tìm Tư Thắng.
Ông bà Thắng - Thùy vui với đứa cháu ngoại duy nhất. |
Sau nhiều lần cố gắng nhưng không thể ra Bắc vì đồn
bốt địch, Sáu Thùy ở lại trung đoàn 1 của quân khu 9 tham gia chiến đấu.
Lúc này cô lại nhận được tin Tư Thắng hy sinh. Cô đau khổ xin cấp trên
được về làm lễ truy điệu. "Vậy là tôi đã được làm truy điệu sống một lần
từ dạo ấy", Tư Thắng cười.
Trong các năm 1968-1972, hai người không liên lạc gì
với nhau. Suốt thời gian này, tàu sắt vào Nam cũng bị hạn chế vì địch
truy tìm gắt gao. Tư Thắng được rút về đoàn 950 làm nhiệm vụ mới, hoạt
động hợp pháp, đi tàu gỗ 2 đáy cải dạng tàu cá ra miền Bắc chở vũ khí.
Tháng 7/1972, ông Thắng lúc này đã là thuyền trưởng, đi chuyến đầu tiên
bằng đường hợp pháp, vào bến Đầm Cùng (Cà Mau).
Hai tháng sau, thông cảm với tình cảnh của Sáu Thùy và
Tư Thắng, cấp trên tổ chức cho 2 người gặp nhau nhưng không báo trước.
Thùy được giao liên dẫn đi, họ nói cho về phép thăm mẹ. Còn Tư Thắng khi
ấy đang giăng câu ngoài đồng, râu ria để rậm vì phải cải dạng để đi hợp
pháp.
"Cuộc hội ngộ ấy như Lục Vân Tiên gặp Kiều Nguyệt Nga.
Cuối cùng thì sau 8 năm chờ đợi, chúng tôi mới gặp lại. Ai cũng tưởng
rằng người kia đã hy sinh nhưng vẫn một lòng chờ đợi", Tư Thắng nghẹn
ngào. Ông Thắng thận trọng hỏi "Ngày xưa anh còn trẻ, hai người hứa hôn.
Giờ vì điều kiện chiến tranh, hành quân vượt Trường Sơn nên già, ốm thì
có nên tổ chức cưới hay không". Sáu Thùy trả lời "Trước sau như một, dù
hoàn cảnh nào vẫn yêu thương nhau".
Niềm vui như vỡ òa khi nghe người yêu nói, sáng hôm
sau Tư Thắng trình bày với hai bên đơn vị về đám cưới. Ngày vui của hai
người được tổ chức theo đời sống mới chỉ có anh em trong đơn vị. Đoàn
962 và 950 cho đôi vợ chồng trẻ 3 nghìn làm vốn. Bánh trái trong lễ cưới
được các chị em tự làm như bánh bò, bánh thịt, bánh kẹp, bánh quai
chèo... Thức ăn thì vào rừng bắt rắn, kỳ đà...
Trong ký ức của Đắc Thắng, địa điểm cho "tuần trăng
mật" của hai vợ chồng cũng rất đáng nhớ. Đó là một cái chòi trong vườn
chuối, phía dưới có hầm nấp pháo, bom. Đêm người nằm ở trên thì rắn ở
dưới thở phò phè. Ở đó khoảng 2 tuần thì đơn vị cho đôi vợ chồng đi theo
giao liên về thăm quê ngoại. Hết phép, ông đưa vợ về đơn vị, còn mình
thì xuống tàu ra Bắc nhận vũ khí.
Dù hai đơn vị đóng gần nhau nhưng mỗi lần đi thăm
chồng Sáu Thùy phải chèo xuồng cả ngày, có khi đi từ sáng mà nửa đêm mới
tới, nhiều lúc phải tránh biệt kích địch. Thăm chồng 1-2 ngày cô lại
phải chèo xuồng về đơn vị để chồng tiếp tục với những chuyến tàu Bắc -
Nam.
"Về sau đơn vị thông cảm, điều vợ tôi về đoàn 950 để
hai người có điều kiện ở gần nhau. Năm 1973 chúng tôi có đứa con trai
đầu lòng, năm 1976 có đứa con gái thứ hai và năm 1979 thì có con trai
út. Cả ba con đều mang hai họ Nguyễn - Huỳnh thể hiện sự gắn bó keo sơn
của bố mẹ", người cựu thủy thủ cho hay.
Giờ đã gần 80 với ngót 60 năm gắn bó với hải quân, cựu
thuyền trưởng tàu không số Nguyễn Đắc Thắng đã được phong danh hiệu anh
hùng lực lượng vũ trang nhân dân. "Bị ảnh hưởng chất độc da cam từ bố
mẹ nên cả hai con trai tôi đều vô sinh, may đứa con gái có một cháu
trai. Giờ vợ chồng tôi sống khá ổn định nhờ đồng lương hưu, chăm sóc
nhau lúc tuổi già", thủy thủ anh hùng tàu không số tâm sự.
<>Hoàng Thùy
Nhận xét
Đăng nhận xét