Nước sạch là một vấn nạn trong tương lai của nhân loại
Với tình trạng
ô nhiễm ngày một nặng và
dân số ngày càng tăng, nước sạch được dự báo sẽ sớm trở thành một thứ tài nguyên quý giá không kém
dầu mỏ trong thế kỷ 20. Nhưng như dầu mỏ có thể thay thế bằng các loại nhiên liệu khác như
điện,
nhiên liệu sinh học,
khí đốt..., còn
nước thì không thể thay thế và trên
thế giới tất cả các
dân tộc đều cần đến nó để bảo đảm cuộc sống của mình, cho nên vấn đề nước trở thành chủ đề quan trọng trên các hội đàm
quốc tế.
Nước trên thế giới
Lượng nước bên trong của thế giới có thể sẵn sàng sử dụng lên đến
1212 km³ tức tương tương với 3.326 m² cho mỗi đầu người mỗi năm. Lượng
nước bên ngoài cũng có tầm quan trọng không kém, chiếm đến hơn 40% nước
sẵn sàng sử dụng (ở Bồ Đào Nha, Luxembourg và Đức).
Sự phân bổ tuỳ theo lĩnh vực hoạt động
Sự phân bố lượng nước tiêu thụ giữa các khu vực kinh tế cũng có độ
biến thiên rất lớn từ vùng này sang vùng khác. Chuyển biến theo các điều
kiện tự nhiên và theo cơ cấu
kinh tế và
dân số chẳng hạn, ta có:
Pháp (64%), tại
Đức (64%), tại
Hà Lan (55%) số nước sử dụng cho việc sản xuất điện năng. Còn nước được sử dụng để tưới tiêu là chính thì ta có:
Hy Lạp (88%),
Tây Ban Nha (72%),
Bồ Đào Nha (59%). Ở các nước
Bắc Âu như
Phần Lan và
Thụy Điển thì người ta ít dùng nước cho tưới tiêu thụ rất nhiều nước chủ yếu là cho
công nghệ, chiếm tỉ lệ 66% và là 28% tổng lượng nước lấy lên.
Diện tích được tưới nước
Các con số thống kê từ các ấn phẩm của
FAO
cho thấy diện tích này có khuynh hướng gia tăng một cách rõ rệt mặc dầu
nhiều năm trước có khuynh hướng giảm dần. Những con số liên quan đến
Châu Âu: Sự gia tăng diện tích tưới đã từ + 152.000 mẫu/năm vào thời
gian giữ 1961-1980. và + 146.000 mẫu/năm vào thời gian giữa 1980-1996 và
+ 123.000 mẫu/năm trong những năm 90. Cũng như vậy, các diện tích tưới
của UE đã từ mức 6,5 triệu mãu vào năm 1961 này lên đến 11,6 triệu mẫu
vào năm 1996, tức tăng gấp đôi. Sự gia tăng diện tích tưới ở Pháp còn
lớn hơn: + 25.000 mẫu/năm vào giữa 1961 và 1980 đã lên đến + 48.000
mẫu/năm vào giữa năm 1980, 1986 trong đó đỉnh điểm là + 59.000 mẫu vào
năm 1990.
Giá trị của nguồn nước
Một bài báo của tờ
The Economist hồi
tháng 5 cho rằng dù nhiều nơi nước hầu như không mất
tiền mua, nhưng đó là thứ giá trị nhất hành tinh. Người ta giết nhau vì "kim cương máu". Các nước phát động
chiến tranh vì giành giật tài nguyên
dầu mỏ. Nhưng tất cả những hàng hóa giá trị nhất trên thế giới sẽ chẳng còn ý nghĩa gì nếu thiếu nước.
Điều kiện tiếp cận nguồn nước sạch ở các nước
Châu Phi rất kém
Quyền con người về việc tiếp cận nước sạch
Sau hơn 15 năm tranh luận, cuối tháng 7-2010,
Đại hội đồng Liên Hợp Quốc
đã bỏ phiếu công nhận tiếp cận nước sạch và điều kiện sống hợp vệ sinh
là một trong những quyền căn bản của con người, với 122 phiếu ủng hộ, 44
phiếu trắng và 0 phiếu chống. Đó là một sự công nhận khá muộn màng, vì
nhiều quyền cơ bản của con người được công nhận trước đó không thể tồn
tại nếu không có nước. Chẳng hạn quyền được sống. Có người được xác nhận
nhịn ăn suốt 2 tháng trời mà không chết, nhưng không ai có thể sống mà
không uống nước trong vòng 3-4 ngày. Không chỉ tối quan trọng đối với
con người,
nước còn là cội nguồn của tất cả các dạng sống. Khi truy tìm sự sống ở
các hành tinh khác, điều người ta quan tâm trước hết là xem
hành tinh đó có nước hay không. Hoặc quyền được ăn - khoảng 1/3 hoạt động sản xuất
lương thực trên thế giới cần đến việc tưới tiêu... Cho đến nay, việc thiếu tiếp cận
nước sạch là vi phạm
nhân quyền lớn nhất trên thế giới. Theo bà
Maude Barlow
- cố vấn cao cấp về nước cho Chủ tịch Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, gần 2
tỷ người sống trong các khu vực căng thẳng về nước và 3 tỷ người không
có nước dùng trong vòng 1 km từ nơi ở của họ. Cứ 3,5 giây có 1 trẻ em
chết do uống nước bẩn.
Vấn nạn nước ô nhiễm
Nghiên cứu của
Viện Nước quốc tế Stockholm (SIWI), nước bẩn giết chết nhiều người hơn so với
động đất và
chiến tranh. Ước tính mỗi ngày trên thế giới có tới 5.000
trẻ em bị
chết do các bệnh liên quan đến
nước bẩn. Trong khi đó, theo một phúc trình của
Liên Hiệp Quốc năm 2006, có tới 1,1 tỷ người không tiếp cận được nước sạch và hơn 2,6 tỷ người không có điều kiện
vệ sinh cơ bản. 1,5 triệu trẻ em dưới 5 tuổi và 4,43 triệu em ở độ tuổi đến trường bị chết mỗi năm do các bệnh liên quan đến nước và
vệ sinh môi trường. Một nghịch lý là người dân ở các
nước nghèo phải tốn nhiều tiền cho nước sạch hơn so với các
nước phát triển từ 5-10 lần. Nhiều cư dân
vùng Hạ Sahara ở
Châu Phi có ít hơn 20 lit nước mỗi ngày, và 2/3 không có nhà vệ sinh đạt chuẩn. Ngược lại, bình quân 1
người Anh dùng 150 lít nước/ngày trong khi
người Mỹ dùng 600 lít/ngày. Cá biệt có cư dân
Phoenix,
Arizona (Hoa Kỳ) dùng tới 1.000 lít/ngày – gấp 100 lần so với người
Mozambique. "Nước là cuộc khủng hoảng chính của hàng triệu người dễ tổn thương nhất trên thế giới", nhà môi trường
Kevin Watkins nói. Phúc trình của
Liên Hiệp Quốc cho biết đa số các
các nước đang phát triển chi ít hơn 1%
GDP cho hệ thống cung cấp nước sạch cho người dân, và hầu hết hệ thống đó phục vụ cho người giàu ở
đô thị.
Chính vì điều này, người nghèo mất nhiều thời gian hơn để có được nước
dùng. Người dân Hạ Sahara bỏ ra 40 tỷ giờ mỗi năm để đi lấy nước, tương
đương 1 năm trời làm việc của tất cả người lao động ở
Pháp.
Cạn kiệt nguồn cung
Thiếu nước sạch đang là một vấn đề nhức nhối, nhưng tình hình sẽ trở
nên tồi tệ hơn khi thế giới hết nước sạch, và điều đó rất có thể xảy ra
vì dân số ngày càng tăng trong khi nước sạch ngày càng ít đi do
ô nhiễm môi trường và
biến đổi khí hậu. Cách nay 2.000 năm, chỉ có khoảng 250 triệu người trên
Trái Đất, nhưng ước tính đến năm 2020, chỉ riêng
Bắc Phi và
Trung Đông đã có 400 triệu người. Trong khi đó, những
sa mạc như
Sa mạc Sahara đang ngày càng mở rộng, và các nguồn nước ngày càng cạn kiệt. Mực nước
Biển Chết đã giảm xuống hơn 10m trong
thế kỷ 20.
Hồ Tchad giảm gần 100 m nước mỗi năm. Mực
nước ngầm tại hàng triệu
hecta miền bắc
Trung Quốc giảm 1
m/năm, khiến việc đào giếng ngày càng tốn kém.
Liên Hiệp Quốc ước tính các giếng ở khu vực này phải khoan sâu 1 km hoặc hơn mới có nước sạch. Những khối
băng trên dãy
Himalaya, từng được mệnh danh là "tháp nước của châu Á", đang tan biến với một
tốc độ báo động. Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến
lưu lượng nước của các con sông chính như
sông Mekong (
Bán đảo Đông Dương),
sông Dương Tử (
Trung Quốc),
sông Hằng (
Ấn Độ),
sông Ấn (
Pakistan). Ngoài ra,
ô nhiễm môi trường là một hệ quả đáng sợ nhất của quá trình phát triển
công nghiệp, và làm tổn hại nghiêm trọng đến nguồn cung nước sạch trên thế giới.
Trung Quốc
hiện là nơi bị cáo buộc gây ô nhiễm nguồn nước nhiều nhất. Sông Dương
Tử ở nước này là một trong những con sông bị ô nhiễm nặng nhất thế giới.
Hơn 40% trong 662 thành phố lớn của Trung Quốc không có hệ thống xử lý
rác và
chất thải. Ước tính của chính quyền
Bắc Kinh cho biết 9/10 thành phố trong nước có hệ thống
nước ngầm bị ô nhiễm, và khoảng 300 triệu người phải uống nước không an toàn. Một báo cáo mới đây của
Ngân hàng Thế giới
(WB) nói rằng, đến năm 2030, nhu cầu toàn cầu đối với nước sẽ vượt quá
mức cung cấp đến 40%. Hiện 2 tỷ người sống ở các nước đang căng thẳng về
nước và đến năm 2025, 2/3 dân số thế giới sẽ phải sống trong những nước
hoặc khu vực chịu căng thẳng về nước, trừ khi xu hướng hiện tại thay
đổi. Hơn nữa, sẽ có thêm các cuộc xung đột về nước vì nguồn
tài nguyên này càng ngày càng khan hiếm.
Goldman Sachs ước tính tiêu thụ nước trên toàn cầu sẽ tăng gấp đôi mỗi 20 năm.
Nước trong thế kỷ 21
Cách nay 10 năm,
tạp chí Fortune đã có một bài viết nổi tiếng khắp thế giới khi cho biết những công ty như Suez của
Pháp
(một trong 3 đại gia nước toàn cầu) đang chạy đua để giành quyền tư hữu
hóa các nguồn nước ngọt lớn trên thế giới, vì những công ty này tin
rằng nước đối với thế kỷ 21 thực sự là một loại "vàng xanh".
Nước ngành công nghiệp 400 tỷ USD
Vào thời điểm đó (năm 2000), Fortune cho biết việc cung cấp loại chất
lỏng "mọi người đều cần" và "ngày càng cần hơn" đang được tư hữu hóa
trên khắp thế giới, từ
Buenos Aires đến
Atlanta hay
Jakarta và tạo ra những cơ hội
kinh doanh cực kỳ béo bở cho các đại gia
công nghiệp. Cung cấp nước cho người dân và
doanh nghiệp là một ngành công nghiệp mang về 400 tỷ USD mỗi năm. Số tiền đó tương đương 40% so với
ngành dầu mỏ, và lớn hơn ngành
dược phẩm toàn cầu 1/3. Chỉ tính riêng ở
Hoa Kỳ,
nước là một ngành công nghiệp trị giá 100 tỷ USD. Ngành công nghiệp
nước đã chuyển mình mạnh mẽ từ ngành ít lợi nhuận thành một ngành được
ví von là "vàng xanh".
Peter Spillett, một nhà điều hành cao cấp của
Thames Water, cho biết: "Ngành này rất có tiềm năng phát triển. Sẽ có
chiến tranh thế giới vì nước trong tương lai, vì đó là một loại tài nguyên quý giá và có giới hạn".
Hiện
ngành công nghiệp nước trên thế giới đang tập trung vào tay 3 đại gia, gồm
Vivendi và
Suez của
Pháp, và
Thames Water của
Anh, nhưng thuộc sở hữu của
tập đoàn
Đức RWE. Năm 1993, 3 đại gia này chỉ hoạt động tại 12 nước, nhưng tính
đến năm 2003, họ là nhà cung cấp nước sạch cho 56 nước. Trong đó, đại
gia nổi trội nhất là Suez. Trong 30 thành phố lớn nhất mời thầu dịch vụ
cung cấp nước trong giai đoạn từ 1995-2000, 20 thành phố chọn Suez. Chỉ
trong năm 1999, công ty này có doanh thu 32 tỷ USD và đạt lợi nhuận 1,5
tỷ USD.
Bên cạnh việc cung cấp nước uống qua hệ thống ống nước như các đại
gia Suez, Vivendi và Thames Water, các công ty tư nhân cũng thu lợi lớn
từ hoạt động bán
nước uống đóng chai,
với doanh thu ước tính hơn 50 tỷ USD/năm. Người Hoa Kỳ ước tính chi mỗi
năm 11 tỷ USD cho nước uống đóng chai, và con số này mỗi năm một tăng
vì nhu cầu đối với nước uống đóng chai cũng tăng nhanh theo dân số và
theo sự
nóng lên của trái đất.
Năm 2006, người Hoa Kỳ tiêu thụ 37.505.242.500 lít
nước uống đóng chai,
tăng 9,5% so với năm 2005, trong khi lượng tiêu thụ bình quân đầu người
tăng từ 115 lít lên 125 lít. Doanh số năm 2006 cũng tăng 8,5% so với
năm 2005. Trong vòng 5 năm tính đến năm 2007, tăng trưởng bình quân của
ngành nước đóng chai là 10%, cao hơn so với mức 6% của ngành nước ngọt.
Cho đến nay, nước đóng chai là ngành tăng trưởng nhanh nhất trong các
ngành công nghiệp ẩm thực trên thế giới.
Tại Bulgaria, thị trường nước đóng chai tăng trưởng tới 22% trong năm 2007. Ở
Châu Mỹ Latin, ngành này đạt tăng trưởng bình quân 14%/năm trong 5 năm trước khi xảy ra
khủng hoảng tài chính, trong khi thị trường
Châu Á tăng trưởng bình quân 13% trong cùng kỳ. Hiện các đại gia nước uống đóng chai trên thế giới là các tên tuổi như
Nestle,
Pepsi Co. (với nước
Aquafina), và
Coca Cola. Cả 3 đại gia này đều có doanh thu trên 1 tỷ USD/năm từ nước đóng chai.
Một tổ chức OPEC về nước trong tương lai
Tờ
Christian Science Monitor cho rằng đã đến lúc không cần nhắc đến
OPEC
dầu mỏ, vì sắp tới sẽ là sự ra đời của tổ chức các nước xuất khẩu nước.
Hiện có nhiều dấu hiệu cho thấy hoạt động mua bán nước đang nở rộ, và
chính
Ngân hàng Thế giới
(WB) cũng cổ súy cho việc tư nhân hóa việc cung cấp nước, dù nhiều
người chỉ trích nước là tài sản công và không nên tư nhân hóa.
Cuối những năm 1990s,
Aquarius Water Transportation là công ty đầu tiên đem nước sạch từ nước này sang bán ở nước khác khi chở 2.273m3 nước ngọt sang các đảo của
Hy Lạp. Năm 2000, công ty
Nordic Water Supply còn chơi trội hơn khi chở tới 22.730m3 nước ngọt từ
Thổ Nhĩ Kỳ sang bán cho
Cyprus. Năm 2004,
Scotland và
Anh ký thỏa thuận xây dựng hệ thống dẫn nước từ
Scotland sang. Những dự án tương tự cũng được triển khai để dẫn nước từ Thổ Nhĩ Kỳ sang
Trung Âu và các thị trường ở
Cyprus,
Hy Lạp,
Ai Cập và
Malta.
Các công ty ở
California (Hoa Kỳ) được cho đã tạo sức ép để
Nhà Trắng thêm vào điều khoản sẽ để các công ty của
Hoa Kỳ cung cấp nước sạch cho người
Palestine và
Israel một khi đạt được thỏa thuận
hòa bình. Những công ty như
Global H2O Resources ở
Vancouver,
British Columbia
(Canada) đã đầu tư rất lớn để sở hữu những nguồn nước công cộng trên
thế giới. Mới đây nhất, công ty này đạt được giấy phép khai thác
21.821.232 m3 nước sạch mỗi năm trong vòng 30 năm trên
hồ Sitka ở
Alaska (Hoa Kỳ), một trong những hồ nước ngọt lớn nhất thế giới.
A. Fred Paley, Chủ tịch
Global H2O Resources,
không che giấu tham vọng liên kết và mua lại những công ty nước toàn
cầu khác để kiểm soát nguồn tài nguyên nước nhiều hơn, và đó là điều
nhiều nhà quan sát lo ngại.
Chiến tranh vì nước
Vì là thứ giá trị nhất hành tinh, nước là đối tượng tranh giành của
nhiều nước, nhiều nhóm người và nhiều cá nhân, tạo ra những xung đột cả ở
cấp
quốc gia và
quốc tế. Từ "cạnh tranh" (rivalry) trong
tiếng Anh bắt nguồn từ từ "rivalis" của
tiếng Latin, nghĩa là "người dùng chung một dòng sông với người khác".
Những mâu thuẫn và xung đột vì nguồn nước
Trong thực tế, nước của nhiều con sông lớn trên thế giới như
sông Mekong,
sông Ấn,
sông Nile,
sông Amazon...
được chia sẻ giữa 2 hoặc nhiều quốc gia. Lưu vực những con "sông chung"
(sông chảy qua từ 2 nước trở lên) chiếm tới 45% bề mặt đất liền của
trái đất, và cung cấp nước cho 40% dân số toàn cầu, đồng thời chiếm 60%
lượng nước sông toàn cầu. Chính những con "sông chung" như vậy có thể
tạo ra mâu thuẫn giữa các nước cùng chia sẻ chúng. Chẳng hạn, trước đây
Iraq thường phàn nàn lên
Liên Hiệp Quốc rằng
Thổ Nhĩ Kỳ đã xây đập chặn mất nguồn nước của những con sông chảy vào Iraq như
sông Tigris và
Euphrates. Hay ở lưu vực
sông Mekong - con "sông chung" của các nước
Việt Nam,
Lào,
Thái Lan,
Campuchia,
Myanma và
Trung Quốc – các nước này vẫn chưa đạt được một giải pháp ổn thỏa về sử dụng dòng sông chung. Nhiều nước lên án Trung Quốc xây nhiều
đập thủy điện trên
thượng lưu con sông làm mực nước sông ngày càng cạn kiệt.
Khi những bất đồng về chia sẻ nguồn nước giữa các quốc gia không thể giải quyết bằng
biện pháp hòa bình, rất có thể sẽ xảy ra
chiến tranh. Trong lịch sử, cuộc chiến dai dẳng giữa
người Israel và
người Palestine được cho là một phần do tranh giành nguồn nước.
Bờ Tây nằm trên một khu vực ngậm nước lớn. Thêm vào đó,
Cao nguyên Golan mà
Israel lấy đi từ
Syria trong cuộc chiến 6 ngày năm 1967 là nơi bắt nguồn của
sống Jordan và các nguồn nước đổ vào
Biển Galilee. Ở một khu vực khô hạn như
Trung Đông, kiểm soát nguồn nước mang tính sống còn đối với cả một dân tộc.
Trận đánh Beersheba nổi tiếng trong
chiến tranh thế giới thứ nhất giữa
liên quân Anh- Australia-New Zealand với liên minh giữa 2
Đế chế Ottoman và
Đức là trận đánh tranh giành quyền kiểm soát các nguồn nước ở
Thổ Nhĩ Kỳ và
Birussebi.
Trong tranh chấp các dòng sông chung, nếu các nước ở thượng lưu mạnh
hơn, họ sẽ gia tăng việc kiểm soát nguồn nước bằng cách xây
đập thủy điện hoặc
thủy lợi,
và các nước ở dưới hạ lưu chỉ biết ngậm bồ hòn làm ngọt. Nhưng nếu các
nước ở hạ lưu mạnh hơn, các nước các nước trên thượng lưu có thể bị
chiến tranh nếu quản lý nguồn nước không tốt.
Ai Cập, một nước vùng hạ lưu hùng mạnh, đã nhiều lần dọa sẽ tiến hành chiến tranh để giải quyết mâu thuẫn xung quanh dòng
sông Nile.
Chỉ nhờ cả 2 nước vùng thượng lưu là Sudan và Ethiopia đều bị nhấn chìn
trong nội chiến và quá nghèo để có thể xây đập tích trữ nguồn nước nên
chiến tranh mới chưa xảy ra. Ở lưu vực
sống Euphrates,
Thổ Nhĩ Kỳ có
quân đội hùng mạnh hơn
Syria, nhưng điều đó cũng không ngăn được người Syria nhiều lần đe dọa bạo lực.
Tuy nhiên, lịch sử cũng chứng minh rằng tranh chấp nguồn nước giữa
các quốc gia hiếm khi dẫn đến chiến tranh. "Nước suy cho cùng là một
nguyên nhân của hợp tác hơn là chiến tranh. Vì nó quá thiết yếu đến nổi
bạn không thể chiếm đoạt nó bằng chiến tranh",
Daniel Zimmer – giám đốc của
Hội đồng Nước thế giới
(WWC) – nói. Ông Zimmer đơn cử thỏa thuận ký kết hồi tháng 3-2008 giữa
Thổ Nhĩ Kỳ, Iraq và Syria về việc cùng thiết lập một Viện Nước để nghiên
cứu và theo dõi các nguồn nước chung. Hay như các nước dọc theo sông Mê
Công đã thành lập Ủy ban sông Mê Công (MRC) với mục đích tương tự.
Vấn đề nảy sinh khi tư hữu hoá nguồn nước
Ngân hàng Thế giới (WB),
Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) và nhiều định chế quốc tế khác từng cổ súy việc tư hữu hóa hệ thống nước ở các
nước nghèo, bằng việc thúc ép hoặc trợ giá cho các
công ty nước toàn cầu,
với hy vọng sẽ làm tăng tính hiệu quả của các dịch vụ nước. Tuy nhiên,
việc tư hữu hóa hệ thống nước đã vấp phải nhiều chỉ trích và cũng nhận
được nhiều bài học cay đắng. Nổi bật trong số đó là trường hợp tư nhân
hóa hệ thống nước ở
Bolivia. Năm 1999, một consortium dẫn đầu bởi công ty Hoa Kỳ Bechtel ký 1 hợp đồng 40 năm để tăng nguồn cung và dịch vụ nước cho
Cochabamba,
Bolivia.
Nhưng 6 tháng sau, những người biểu tình đã đánh đuổi công ty ra khỏi
đất nước vì liên minh trên đã liên tục tăng giá nước khiến người dân
không thể chịu nổi. Sau vụ việc này, giới chuyên môn cho rằng không nên
để tài nguyên nước lọt vào tay các công ty tư nhân, vì suy cho cùng nước
là một tài sản công cộng. Việc sản xuất nước uống đóng chai cũng bị phê
phán mạnh mẽ. Diễn biến tương tự cũng xảy ra ở
Atlanta,
Georgia
(Hoa Kỳ). Năm 1999, thành phố này quyết định tư nhân hóa dịch vụ nước
vì thấy hệ thống nước do nhà nước quản lý xuống cấp nghiêm trọng. Tuy
nhiên, đến năm 2003, chính quyền thành phố buộc phải phá vỡ hợp đồng 500
triệu USD với đại gia Suez của
Pháp vì gặp tình trạng tương tự người
Bolivia.
Trong thực tế, xung đột về nước trong phạm vi một nước dễ biến thành bạo lực hơn ở tầm xuyên quốc gia. Tại
Darfur,
quyền tiếp cận nước sạch và đất trồng là một nhân tố chính trong xung
đột giữa những người nông dân da đen và dân di cư Arab. Hạn hán và hoang
mạc hóa ở Bắc Darfur đã khiến những người Arab chuyển đến Nam Darfur,
nơi họ xung đột với nông dân da đên. Tháng 12-2009, hàng trăm người dân ở
Mumbai đã nổi dậy để phản đối việc cúp nước. Những cuộc đụng độ nảy lửa giữa họ và
cảnh sát đã làm ít nhất 1 người bị giết và hàng chục người bị thương.
Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 16:37, ngày 18 tháng 8 năm 2014
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét