Chủ Nhật, 26 tháng 10, 2014

HIỆN THỰC KỲ ẢO 53 (Nước)

(ĐC sưu tầm trên NET)


Nước

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Một giọt nước rơi xuống hồ
Mô hình phân tử nước
Nước là một hợp chất hóa học của oxyhidro, có công thức hóa học là H2O. Với các tính chất lí hóa đặc biệt (ví dụ như tính lưỡng cực, liên kết hiđrô và tính bất thường của khối lượng riêng) nước là một chất rất quan trọng trong nhiều ngành khoa học và trong đời sống. 70% diện tích của Trái Đất được nước che phủ nhưng chỉ 0,3% tổng lượng nước trên Trái Đất nằm trong các nguồn có thể khai thác dùng làm nước uống.
Bên cạnh nước "thông thường" còn có nước nặngnước siêu nặng. Ở các loại nước này, các nguyên tử hiđrô bình thường được thay thế bởi các đồng vị đơteritriti. Nước nặng có tính chất vật lý (điểm nóng chảy cao hơn, nhiệt độ sôi cao hơn, khối lượng riêng cao hơn) và hóa học khác với nước thường.

Cấu tạo và tính chất của phân tử nước

Hình học của phân tử nước

Phân tử nước bao gồm hai nguyên tử hiđrô và một nguyên tử ôxy. Về mặt hình học thì phân tử nước có góc liên kết là 104,45°. Do các cặp điện tử tự do chiếm nhiều chỗ nên góc này sai lệch đi so với góc lý tưởng của hình tứ diện. Chiều dài của liên kết O-H là 96,84 picômét.

Tính lưỡng cực

Tính lưỡng cực
Ôxyđộ âm điện cao hơn hiđrô. Việc cấu tạo thành hình ba góc và việc tích điện từng phần khác nhau của các nguyên tử đã dẫn đến cực tính dương ở các nguyên tử hiđrô và cực tính âm ở nguyên tử ôxy, gây ra sự lưỡng cực. Dựa trên hai cặp điện tử đơn độc của nguyên tử ôxy, lý thuyết VSEPR đã giải thích sự sắp xếp thành góc của hai nguyên tử hiđrô, việc tạo thành moment lưỡng cực và vì vậy mà nước có các tính chất đặc biệt. Vì phân tử nước có tích điện từng phần khác nhau nên một số sóng điện từ nhất định như sóng cực ngắn có khả năng làm cho các phân tử nước dao động, dẫn đến việc nước được đun nóng. Hiện tượng này được áp dụng để chế tạo lò vi sóng.

Liên kết hiđrô

Các phân tử nước tương tác lẫn nhau thông qua liên kết hiđrô và nhờ vậy có lực hút phân tử lớn. Đây không phải là một liên kết bền vững. Liên kết của các phân tử nước thông qua liên kết hiđrô chỉ tồn tại trong một phần nhỏ của một giây, sau đó các phân tử nước tách ra khỏi liên kết này và liên kết với các phân tử nước khác.
Phân tử nước
Đường kính nhỏ của nguyên tử hiđrô đóng vai trò quan trọng cho việc tạo thành các liên kết hiđrô, bởi vì chỉ có như vậy nguyên tử hiđrô mới có thể đến gần nguyên tử ôxy một chừng mực đầy đủ. Các chất tương đương của nước, thí dụ như đihiđrô sulfua (H2S), không tạo thành các liên kết tương tự vì hiệu số điện tích quá nhỏ giữa các phần liên kết. Việc tạo chuỗi của các phân tử nước thông qua liên kết cầu nối hiđrô là nguyên nhân cho nhiều tính chất đặc biệt của nước, thí dụ như nước mặc dù có khối lượng mol nhỏ vào khoảng 18 g/mol vẫn ở thể lỏng trong điều kiện tiêu chuẩn. Ngược lại, H2S tồn tại ở dạng khí cùng ở trong những điều kiện này. Nước có khối lượng riêng lớn nhất ở 4 độ Celcius và nhờ vào đó mà băng đá có thể nổi lên trên mặt nước; hiện tượng này được giải thích nhờ vào liên kết cầu nối hiđrô.
Liên kết hiđrô

Các tính chất hóa lý của nước

Cấu tạo của phân tử nước tạo nên các liên kết hiđrô giữa các phân tử là cơ sở cho nhiều tính chất của nước. Cho đến nay một số tính chất của nước vẫn còn là câu đố cho các nhà nghiên cứu mặc dù nước đã được nghiên cứu từ lâu.
Nhiệt độ nóng chảynhiệt độ sôi của nước đã được Anders Celsius dùng làm hai điểm mốc cho độ bách phân Celcius. Cụ thể, nhiệt độ nóng chảy của nước là 0 độ Celcius, còn nhiệt độ sôi (760 mm Hg) bằng 100 độ Celcius. Nước đóng băng được gọi là nước đá. Nước đã hóa hơi được gọi là hơi nước. Nước có nhiệt độ sôi tương đối cao nhờ liên kết hiđrô
Dưới áp suất bình thường nước có khối lượng riêng (tỷ trọng) cao nhất là ở 4 °C: 1 g/cm³ đó là vì nước vẫn tiếp tục giãn nở khi nhiệt độ giảm xuống dưới 4 °C. Điều này không được quan sát ở bất kỳ một chất nào khác. Điều này có nghĩa là: Với nhiệt độ trên 4 °C, nước có đặc tính giống mọi vật khác là nóng nở, lạnh co; nhưng với nhiệt độ dưới 4 °C, nước lại lạnh nở, nóng co. Do hình thể đặc biệt của phân tử nước (với góc liên kết 104,45°), khi bị làm lạnh các phân tử phải dời xa ra để tạo liên kết tinh thể lục giác mở. Vì vậy mà tỉ trọng của nước đá nhẹ hơn nước thể lỏng.
Khi đông lạnh dưới 4 °C, các phân tử nước phải dời xa ra để tạo liên kết tinh thể lục giác mở.
Nước là một dung môi tốt nhờ vào tính lưỡng cực. Các hợp chất phân cực hoặc có tính ion như axít, rượumuối đều dễ tan trong nước. Tính hòa tan của nước đóng vai trò rất quan trọng trong sinh học vì nhiều phản ứng hóa sinh chỉ xảy ra trong dung dịch nước.
Nước tinh khiết không dẫn điện. Mặc dù vậy, do có tính hòa tan tốt, nước hay có tạp chất pha lẫn, thường là các muối, tạo ra các ion tự do trong dung dịch nước cho phép dòng điện chạy qua.
Về mặt hóa học, nước là một chất lưỡng tính, có thể phản ứng như một axit hay bazơ. Ở 7 pH (trung tính) hàm lượng các ion hydroxyt (OH-) cân bằng với hàm lượng của hydronium (H3O+). Khi phản ứng với một axit mạnh hơn thí dụ như HCl, nước phản ứng như một chất kiềm:
HCl + H2O ↔ H3O+ + Cl-
Với ammoniac nước lại phản ứng như một axit:
NH3 + H2O ↔ NH4+ + OH-

Nước trong đời sống

Cuộc sống trên Trái Đất bắt nguồn từ trong nước. Tất cả các sự sống trên Trái Đất đều phụ thuộc vào nước và vòng tuần hoàn nước.
Nước có ảnh hưởng quyết định đến khí hậu và là nguyên nhân tạo ra thời tiết. Năng lượng mặt trời sưởi ấm không đồng đều các đại dương đã tạo nên các dòng hải lưu trên toàn cầu. Dòng hải lưu Gulf Stream vận chuyển nước ấm từ vùng Vịnh Mexico đến Bắc Đại Tây Dương làm ảnh hưởng đến khí hậu của vài vùng châu Âu.
Nước là thành phần quan trọng của các tế bào sinh học và là môi trường của các quá trình sinh hóa cơ bản như quang hợp.
Hơn 70% diện tích của Trái Đất được bao phủ bởi nước. Lượng nước trên Trái Đất có vào khoảng 1,38 tỉ km³. Trong đó 97,4% là nước mặn trong các đại dương trên thế giới, phần còn lại, 2,6%, là nước ngọt, tồn tại chủ yếu dưới dạng băng tuyết đóng ở hai cực và trên các ngọn núi, chỉ có 0,3% nước trên toàn thế giới (hay 3,6 triệu km³) là có thể sử dụng làm nước uống. Việc cung cấp nước uống sẽ là một trong những thử thách lớn nhất của loài người trong vài thập niên tới đây. Nguồn nước cũng đã là nguyên nhân gây ra một trong những cuộc chiến tranh ở Trung Cận Đông.
Nước được sử dụng trong công nghiệp từ lâu như là nguồn nhiên liệu (cối xay nước, máy hơi nước, nhà máy thủy điện), Như là chất trao đổi nhiệt.
Nhà triết học người Hi Lạp Empedocles đã coi nước là một trong bốn nguồn gốc tạo ra vật chất (bên cạnh lửa, đấtkhông khí). Nước cũng nằm trong Ngũ Hành của triết học cổ Trung Hoa.
Với tình trạng ô nhiễm ngày một nặng và dân số ngày càng tăng, nước sạch dự báo sẽ sớm trở thành một thứ tài nguyên quý giá không kém dầu mỏ trong thế kỷ trước. Nhưng không như dầu mỏ có thể thay thế bằng các loại nhiên liệu khác như điện, nhiên liệu sinh học, khí đốt..., nước không thể thay thế và trên thế giới tất cả các dân tộc đều cần đến nó để bảo đảm cuộc sống của mình, cho nên vấn đề nước trở thành chủ đề quan trọng trên các hội đàm quốc tế và những mâu thuẫn về nguồn nước đã được dự báo trong tương lai.
Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 16:55, ngày 18 tháng 8 năm 2014.
 

Chiến tranh nước

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nước sạch là một vấn nạn trong tương lai của nhân loại
Với tình trạng ô nhiễm ngày một nặng và dân số ngày càng tăng, nước sạch được dự báo sẽ sớm trở thành một thứ tài nguyên quý giá không kém dầu mỏ trong thế kỷ 20. Nhưng như dầu mỏ có thể thay thế bằng các loại nhiên liệu khác như điện, nhiên liệu sinh học, khí đốt..., còn nước thì không thể thay thế và trên thế giới tất cả các dân tộc đều cần đến nó để bảo đảm cuộc sống của mình, cho nên vấn đề nước trở thành chủ đề quan trọng trên các hội đàm quốc tế.

Nước trên thế giới

Lượng nước bên trong của thế giới có thể sẵn sàng sử dụng lên đến 1212 km³ tức tương tương với 3.326 m² cho mỗi đầu người mỗi năm. Lượng nước bên ngoài cũng có tầm quan trọng không kém, chiếm đến hơn 40% nước sẵn sàng sử dụng (ở Bồ Đào Nha, Luxembourg và Đức).

Sự phân bổ tuỳ theo lĩnh vực hoạt động

Sự phân bố lượng nước tiêu thụ giữa các khu vực kinh tế cũng có độ biến thiên rất lớn từ vùng này sang vùng khác. Chuyển biến theo các điều kiện tự nhiên và theo cơ cấu kinh tếdân số chẳng hạn, ta có: Pháp (64%), tại Đức (64%), tại Hà Lan (55%) số nước sử dụng cho việc sản xuất điện năng. Còn nước được sử dụng để tưới tiêu là chính thì ta có: Hy Lạp (88%), Tây Ban Nha (72%), Bồ Đào Nha (59%). Ở các nước Bắc Âu như Phần LanThụy Điển thì người ta ít dùng nước cho tưới tiêu thụ rất nhiều nước chủ yếu là cho công nghệ, chiếm tỉ lệ 66% và là 28% tổng lượng nước lấy lên.

Diện tích được tưới nước

Các con số thống kê từ các ấn phẩm của FAO cho thấy diện tích này có khuynh hướng gia tăng một cách rõ rệt mặc dầu nhiều năm trước có khuynh hướng giảm dần. Những con số liên quan đến Châu Âu: Sự gia tăng diện tích tưới đã từ + 152.000 mẫu/năm vào thời gian giữ 1961-1980. và + 146.000 mẫu/năm vào thời gian giữa 1980-1996 và + 123.000 mẫu/năm trong những năm 90. Cũng như vậy, các diện tích tưới của UE đã từ mức 6,5 triệu mãu vào năm 1961 này lên đến 11,6 triệu mẫu vào năm 1996, tức tăng gấp đôi. Sự gia tăng diện tích tưới ở Pháp còn lớn hơn: + 25.000 mẫu/năm vào giữa 1961 và 1980 đã lên đến + 48.000 mẫu/năm vào giữa năm 1980, 1986 trong đó đỉnh điểm là + 59.000 mẫu vào năm 1990.

Giá trị của nguồn nước

Một bài báo của tờ The Economist hồi tháng 5 cho rằng dù nhiều nơi nước hầu như không mất tiền mua, nhưng đó là thứ giá trị nhất hành tinh. Người ta giết nhau vì "kim cương máu". Các nước phát động chiến tranh vì giành giật tài nguyên dầu mỏ. Nhưng tất cả những hàng hóa giá trị nhất trên thế giới sẽ chẳng còn ý nghĩa gì nếu thiếu nước.
Điều kiện tiếp cận nguồn nước sạch ở các nước Châu Phi rất kém

Quyền con người về việc tiếp cận nước sạch

Sau hơn 15 năm tranh luận, cuối tháng 7-2010, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã bỏ phiếu công nhận tiếp cận nước sạch và điều kiện sống hợp vệ sinh là một trong những quyền căn bản của con người, với 122 phiếu ủng hộ, 44 phiếu trắng và 0 phiếu chống. Đó là một sự công nhận khá muộn màng, vì nhiều quyền cơ bản của con người được công nhận trước đó không thể tồn tại nếu không có nước. Chẳng hạn quyền được sống. Có người được xác nhận nhịn ăn suốt 2 tháng trời mà không chết, nhưng không ai có thể sống mà không uống nước trong vòng 3-4 ngày. Không chỉ tối quan trọng đối với con người, nước còn là cội nguồn của tất cả các dạng sống. Khi truy tìm sự sống ở các hành tinh khác, điều người ta quan tâm trước hết là xem hành tinh đó có nước hay không. Hoặc quyền được ăn - khoảng 1/3 hoạt động sản xuất lương thực trên thế giới cần đến việc tưới tiêu... Cho đến nay, việc thiếu tiếp cận nước sạch là vi phạm nhân quyền lớn nhất trên thế giới. Theo bà Maude Barlow - cố vấn cao cấp về nước cho Chủ tịch Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, gần 2 tỷ người sống trong các khu vực căng thẳng về nước và 3 tỷ người không có nước dùng trong vòng 1 km từ nơi ở của họ. Cứ 3,5 giây có 1 trẻ em chết do uống nước bẩn.
Vấn nạn ô nhiễm nguồn nước ngày càng nghiêm trọng ở các nước đang phát triển

Vấn nạn nước ô nhiễm

Nghiên cứu của Viện Nước quốc tế Stockholm (SIWI), nước bẩn giết chết nhiều người hơn so với động đấtchiến tranh. Ước tính mỗi ngày trên thế giới có tới 5.000 trẻ em bị chết do các bệnh liên quan đến nước bẩn. Trong khi đó, theo một phúc trình của Liên Hiệp Quốc năm 2006, có tới 1,1 tỷ người không tiếp cận được nước sạch và hơn 2,6 tỷ người không có điều kiện vệ sinh cơ bản. 1,5 triệu trẻ em dưới 5 tuổi và 4,43 triệu em ở độ tuổi đến trường bị chết mỗi năm do các bệnh liên quan đến nước và vệ sinh môi trường. Một nghịch lý là người dân ở các nước nghèo phải tốn nhiều tiền cho nước sạch hơn so với các nước phát triển từ 5-10 lần. Nhiều cư dân vùng Hạ SaharaChâu Phi có ít hơn 20 lit nước mỗi ngày, và 2/3 không có nhà vệ sinh đạt chuẩn. Ngược lại, bình quân 1 người Anh dùng 150 lít nước/ngày trong khi người Mỹ dùng 600 lít/ngày. Cá biệt có cư dân Phoenix, Arizona (Hoa Kỳ) dùng tới 1.000 lít/ngày – gấp 100 lần so với người Mozambique. "Nước là cuộc khủng hoảng chính của hàng triệu người dễ tổn thương nhất trên thế giới", nhà môi trường Kevin Watkins nói. Phúc trình của Liên Hiệp Quốc cho biết đa số các các nước đang phát triển chi ít hơn 1% GDP cho hệ thống cung cấp nước sạch cho người dân, và hầu hết hệ thống đó phục vụ cho người giàu ở đô thị. Chính vì điều này, người nghèo mất nhiều thời gian hơn để có được nước dùng. Người dân Hạ Sahara bỏ ra 40 tỷ giờ mỗi năm để đi lấy nước, tương đương 1 năm trời làm việc của tất cả người lao động ở Pháp.

Cạn kiệt nguồn cung

Thiếu nước sạch đang là một vấn đề nhức nhối, nhưng tình hình sẽ trở nên tồi tệ hơn khi thế giới hết nước sạch, và điều đó rất có thể xảy ra vì dân số ngày càng tăng trong khi nước sạch ngày càng ít đi do ô nhiễm môi trườngbiến đổi khí hậu. Cách nay 2.000 năm, chỉ có khoảng 250 triệu người trên Trái Đất, nhưng ước tính đến năm 2020, chỉ riêng Bắc PhiTrung Đông đã có 400 triệu người. Trong khi đó, những sa mạc như Sa mạc Sahara đang ngày càng mở rộng, và các nguồn nước ngày càng cạn kiệt. Mực nước Biển Chết đã giảm xuống hơn 10m trong thế kỷ 20. Hồ Tchad giảm gần 100 m nước mỗi năm. Mực nước ngầm tại hàng triệu hecta miền bắc Trung Quốc giảm 1 m/năm, khiến việc đào giếng ngày càng tốn kém. Liên Hiệp Quốc ước tính các giếng ở khu vực này phải khoan sâu 1 km hoặc hơn mới có nước sạch. Những khối băng trên dãy Himalaya, từng được mệnh danh là "tháp nước của châu Á", đang tan biến với một tốc độ báo động. Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến lưu lượng nước của các con sông chính như sông Mekong (Bán đảo Đông Dương), sông Dương Tử (Trung Quốc), sông Hằng (Ấn Độ), sông Ấn (Pakistan). Ngoài ra, ô nhiễm môi trường là một hệ quả đáng sợ nhất của quá trình phát triển công nghiệp, và làm tổn hại nghiêm trọng đến nguồn cung nước sạch trên thế giới. Trung Quốc hiện là nơi bị cáo buộc gây ô nhiễm nguồn nước nhiều nhất. Sông Dương Tử ở nước này là một trong những con sông bị ô nhiễm nặng nhất thế giới. Hơn 40% trong 662 thành phố lớn của Trung Quốc không có hệ thống xử lý rác và chất thải. Ước tính của chính quyền Bắc Kinh cho biết 9/10 thành phố trong nước có hệ thống nước ngầm bị ô nhiễm, và khoảng 300 triệu người phải uống nước không an toàn. Một báo cáo mới đây của Ngân hàng Thế giới (WB) nói rằng, đến năm 2030, nhu cầu toàn cầu đối với nước sẽ vượt quá mức cung cấp đến 40%. Hiện 2 tỷ người sống ở các nước đang căng thẳng về nước và đến năm 2025, 2/3 dân số thế giới sẽ phải sống trong những nước hoặc khu vực chịu căng thẳng về nước, trừ khi xu hướng hiện tại thay đổi. Hơn nữa, sẽ có thêm các cuộc xung đột về nước vì nguồn tài nguyên này càng ngày càng khan hiếm. Goldman Sachs ước tính tiêu thụ nước trên toàn cầu sẽ tăng gấp đôi mỗi 20 năm.
Phân bố nước trên Trái đất

Nước trong thế kỷ 21

Cách nay 10 năm, tạp chí Fortune đã có một bài viết nổi tiếng khắp thế giới khi cho biết những công ty như Suez của Pháp (một trong 3 đại gia nước toàn cầu) đang chạy đua để giành quyền tư hữu hóa các nguồn nước ngọt lớn trên thế giới, vì những công ty này tin rằng nước đối với thế kỷ 21 thực sự là một loại "vàng xanh".

Nước ngành công nghiệp 400 tỷ USD

Vào thời điểm đó (năm 2000), Fortune cho biết việc cung cấp loại chất lỏng "mọi người đều cần" và "ngày càng cần hơn" đang được tư hữu hóa trên khắp thế giới, từ Buenos Aires đến Atlanta hay Jakarta và tạo ra những cơ hội kinh doanh cực kỳ béo bở cho các đại gia công nghiệp. Cung cấp nước cho người dân và doanh nghiệp là một ngành công nghiệp mang về 400 tỷ USD mỗi năm. Số tiền đó tương đương 40% so với ngành dầu mỏ, và lớn hơn ngành dược phẩm toàn cầu 1/3. Chỉ tính riêng ở Hoa Kỳ, nước là một ngành công nghiệp trị giá 100 tỷ USD. Ngành công nghiệp nước đã chuyển mình mạnh mẽ từ ngành ít lợi nhuận thành một ngành được ví von là "vàng xanh". Peter Spillett, một nhà điều hành cao cấp của Thames Water, cho biết: "Ngành này rất có tiềm năng phát triển. Sẽ có chiến tranh thế giới vì nước trong tương lai, vì đó là một loại tài nguyên quý giá và có giới hạn".
Hiện ngành công nghiệp nước trên thế giới đang tập trung vào tay 3 đại gia, gồm VivendiSuez của Pháp, và Thames Water của Anh, nhưng thuộc sở hữu của tập đoàn Đức RWE. Năm 1993, 3 đại gia này chỉ hoạt động tại 12 nước, nhưng tính đến năm 2003, họ là nhà cung cấp nước sạch cho 56 nước. Trong đó, đại gia nổi trội nhất là Suez. Trong 30 thành phố lớn nhất mời thầu dịch vụ cung cấp nước trong giai đoạn từ 1995-2000, 20 thành phố chọn Suez. Chỉ trong năm 1999, công ty này có doanh thu 32 tỷ USD và đạt lợi nhuận 1,5 tỷ USD.
Bên cạnh việc cung cấp nước uống qua hệ thống ống nước như các đại gia Suez, Vivendi và Thames Water, các công ty tư nhân cũng thu lợi lớn từ hoạt động bán nước uống đóng chai, với doanh thu ước tính hơn 50 tỷ USD/năm. Người Hoa Kỳ ước tính chi mỗi năm 11 tỷ USD cho nước uống đóng chai, và con số này mỗi năm một tăng vì nhu cầu đối với nước uống đóng chai cũng tăng nhanh theo dân số và theo sự nóng lên của trái đất.
Năm 2006, người Hoa Kỳ tiêu thụ 37.505.242.500 lít nước uống đóng chai, tăng 9,5% so với năm 2005, trong khi lượng tiêu thụ bình quân đầu người tăng từ 115 lít lên 125 lít. Doanh số năm 2006 cũng tăng 8,5% so với năm 2005. Trong vòng 5 năm tính đến năm 2007, tăng trưởng bình quân của ngành nước đóng chai là 10%, cao hơn so với mức 6% của ngành nước ngọt. Cho đến nay, nước đóng chai là ngành tăng trưởng nhanh nhất trong các ngành công nghiệp ẩm thực trên thế giới.
Tại Bulgaria, thị trường nước đóng chai tăng trưởng tới 22% trong năm 2007. Ở Châu Mỹ Latin, ngành này đạt tăng trưởng bình quân 14%/năm trong 5 năm trước khi xảy ra khủng hoảng tài chính, trong khi thị trường Châu Á tăng trưởng bình quân 13% trong cùng kỳ. Hiện các đại gia nước uống đóng chai trên thế giới là các tên tuổi như Nestle, Pepsi Co. (với nước Aquafina), và Coca Cola. Cả 3 đại gia này đều có doanh thu trên 1 tỷ USD/năm từ nước đóng chai.

Một tổ chức OPEC về nước trong tương lai

Tờ Christian Science Monitor cho rằng đã đến lúc không cần nhắc đến OPEC dầu mỏ, vì sắp tới sẽ là sự ra đời của tổ chức các nước xuất khẩu nước. Hiện có nhiều dấu hiệu cho thấy hoạt động mua bán nước đang nở rộ, và chính Ngân hàng Thế giới (WB) cũng cổ súy cho việc tư nhân hóa việc cung cấp nước, dù nhiều người chỉ trích nước là tài sản công và không nên tư nhân hóa.
Cuối những năm 1990s, Aquarius Water Transportation là công ty đầu tiên đem nước sạch từ nước này sang bán ở nước khác khi chở 2.273m3 nước ngọt sang các đảo của Hy Lạp. Năm 2000, công ty Nordic Water Supply còn chơi trội hơn khi chở tới 22.730m3 nước ngọt từ Thổ Nhĩ Kỳ sang bán cho Cyprus. Năm 2004, ScotlandAnh ký thỏa thuận xây dựng hệ thống dẫn nước từ Scotland sang. Những dự án tương tự cũng được triển khai để dẫn nước từ Thổ Nhĩ Kỳ sang Trung Âu và các thị trường ở Cyprus, Hy Lạp, Ai CậpMalta.
Các công ty ở California (Hoa Kỳ) được cho đã tạo sức ép để Nhà Trắng thêm vào điều khoản sẽ để các công ty của Hoa Kỳ cung cấp nước sạch cho người PalestineIsrael một khi đạt được thỏa thuận hòa bình. Những công ty như Global H2O ResourcesVancouver, British Columbia (Canada) đã đầu tư rất lớn để sở hữu những nguồn nước công cộng trên thế giới. Mới đây nhất, công ty này đạt được giấy phép khai thác 21.821.232 m3 nước sạch mỗi năm trong vòng 30 năm trên hồ SitkaAlaska (Hoa Kỳ), một trong những hồ nước ngọt lớn nhất thế giới. A. Fred Paley, Chủ tịch Global H2O Resources, không che giấu tham vọng liên kết và mua lại những công ty nước toàn cầu khác để kiểm soát nguồn tài nguyên nước nhiều hơn, và đó là điều nhiều nhà quan sát lo ngại.

Chiến tranh vì nước

Vì là thứ giá trị nhất hành tinh, nước là đối tượng tranh giành của nhiều nước, nhiều nhóm người và nhiều cá nhân, tạo ra những xung đột cả ở cấp quốc giaquốc tế. Từ "cạnh tranh" (rivalry) trong tiếng Anh bắt nguồn từ từ "rivalis" của tiếng Latin, nghĩa là "người dùng chung một dòng sông với người khác".

Những mâu thuẫn và xung đột vì nguồn nước

Trong thực tế, nước của nhiều con sông lớn trên thế giới như sông Mekong, sông Ấn, sông Nile, sông Amazon... được chia sẻ giữa 2 hoặc nhiều quốc gia. Lưu vực những con "sông chung" (sông chảy qua từ 2 nước trở lên) chiếm tới 45% bề mặt đất liền của trái đất, và cung cấp nước cho 40% dân số toàn cầu, đồng thời chiếm 60% lượng nước sông toàn cầu. Chính những con "sông chung" như vậy có thể tạo ra mâu thuẫn giữa các nước cùng chia sẻ chúng. Chẳng hạn, trước đây Iraq thường phàn nàn lên Liên Hiệp Quốc rằng Thổ Nhĩ Kỳ đã xây đập chặn mất nguồn nước của những con sông chảy vào Iraq như sông TigrisEuphrates. Hay ở lưu vực sông Mekong - con "sông chung" của các nước Việt Nam, Lào, Thái Lan, Campuchia, MyanmaTrung Quốc – các nước này vẫn chưa đạt được một giải pháp ổn thỏa về sử dụng dòng sông chung. Nhiều nước lên án Trung Quốc xây nhiều đập thủy điện trên thượng lưu con sông làm mực nước sông ngày càng cạn kiệt.
Khi những bất đồng về chia sẻ nguồn nước giữa các quốc gia không thể giải quyết bằng biện pháp hòa bình, rất có thể sẽ xảy ra chiến tranh. Trong lịch sử, cuộc chiến dai dẳng giữa người Israelngười Palestine được cho là một phần do tranh giành nguồn nước. Bờ Tây nằm trên một khu vực ngậm nước lớn. Thêm vào đó, Cao nguyên GolanIsrael lấy đi từ Syria trong cuộc chiến 6 ngày năm 1967 là nơi bắt nguồn của sống Jordan và các nguồn nước đổ vào Biển Galilee. Ở một khu vực khô hạn như Trung Đông, kiểm soát nguồn nước mang tính sống còn đối với cả một dân tộc. Trận đánh Beersheba nổi tiếng trong chiến tranh thế giới thứ nhất giữa liên quân Anh- Australia-New Zealand với liên minh giữa 2 Đế chế OttomanĐức là trận đánh tranh giành quyền kiểm soát các nguồn nước ở Thổ Nhĩ KỳBirussebi.
Trong tranh chấp các dòng sông chung, nếu các nước ở thượng lưu mạnh hơn, họ sẽ gia tăng việc kiểm soát nguồn nước bằng cách xây đập thủy điện hoặc thủy lợi, và các nước ở dưới hạ lưu chỉ biết ngậm bồ hòn làm ngọt. Nhưng nếu các nước ở hạ lưu mạnh hơn, các nước các nước trên thượng lưu có thể bị chiến tranh nếu quản lý nguồn nước không tốt. Ai Cập, một nước vùng hạ lưu hùng mạnh, đã nhiều lần dọa sẽ tiến hành chiến tranh để giải quyết mâu thuẫn xung quanh dòng sông Nile. Chỉ nhờ cả 2 nước vùng thượng lưu là Sudan và Ethiopia đều bị nhấn chìn trong nội chiến và quá nghèo để có thể xây đập tích trữ nguồn nước nên chiến tranh mới chưa xảy ra. Ở lưu vực sống Euphrates, Thổ Nhĩ Kỳquân đội hùng mạnh hơn Syria, nhưng điều đó cũng không ngăn được người Syria nhiều lần đe dọa bạo lực.
Đập Tam Hiệp, đập thuỷ điện lớn nhất thế giới
Tuy nhiên, lịch sử cũng chứng minh rằng tranh chấp nguồn nước giữa các quốc gia hiếm khi dẫn đến chiến tranh. "Nước suy cho cùng là một nguyên nhân của hợp tác hơn là chiến tranh. Vì nó quá thiết yếu đến nổi bạn không thể chiếm đoạt nó bằng chiến tranh", Daniel Zimmer – giám đốc của Hội đồng Nước thế giới (WWC) – nói. Ông Zimmer đơn cử thỏa thuận ký kết hồi tháng 3-2008 giữa Thổ Nhĩ Kỳ, Iraq và Syria về việc cùng thiết lập một Viện Nước để nghiên cứu và theo dõi các nguồn nước chung. Hay như các nước dọc theo sông Mê Công đã thành lập Ủy ban sông Mê Công (MRC) với mục đích tương tự.

Vấn đề nảy sinh khi tư hữu hoá nguồn nước

Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) và nhiều định chế quốc tế khác từng cổ súy việc tư hữu hóa hệ thống nước ở các nước nghèo, bằng việc thúc ép hoặc trợ giá cho các công ty nước toàn cầu, với hy vọng sẽ làm tăng tính hiệu quả của các dịch vụ nước. Tuy nhiên, việc tư hữu hóa hệ thống nước đã vấp phải nhiều chỉ trích và cũng nhận được nhiều bài học cay đắng. Nổi bật trong số đó là trường hợp tư nhân hóa hệ thống nước ở Bolivia. Năm 1999, một consortium dẫn đầu bởi công ty Hoa Kỳ Bechtel ký 1 hợp đồng 40 năm để tăng nguồn cung và dịch vụ nước cho Cochabamba, Bolivia. Nhưng 6 tháng sau, những người biểu tình đã đánh đuổi công ty ra khỏi đất nước vì liên minh trên đã liên tục tăng giá nước khiến người dân không thể chịu nổi. Sau vụ việc này, giới chuyên môn cho rằng không nên để tài nguyên nước lọt vào tay các công ty tư nhân, vì suy cho cùng nước là một tài sản công cộng. Việc sản xuất nước uống đóng chai cũng bị phê phán mạnh mẽ. Diễn biến tương tự cũng xảy ra ở Atlanta, Georgia (Hoa Kỳ). Năm 1999, thành phố này quyết định tư nhân hóa dịch vụ nước vì thấy hệ thống nước do nhà nước quản lý xuống cấp nghiêm trọng. Tuy nhiên, đến năm 2003, chính quyền thành phố buộc phải phá vỡ hợp đồng 500 triệu USD với đại gia Suez của Pháp vì gặp tình trạng tương tự người Bolivia.
Trong thực tế, xung đột về nước trong phạm vi một nước dễ biến thành bạo lực hơn ở tầm xuyên quốc gia. Tại Darfur, quyền tiếp cận nước sạch và đất trồng là một nhân tố chính trong xung đột giữa những người nông dân da đen và dân di cư Arab. Hạn hán và hoang mạc hóa ở Bắc Darfur đã khiến những người Arab chuyển đến Nam Darfur, nơi họ xung đột với nông dân da đên. Tháng 12-2009, hàng trăm người dân ở Mumbai đã nổi dậy để phản đối việc cúp nước. Những cuộc đụng độ nảy lửa giữa họ và cảnh sát đã làm ít nhất 1 người bị giết và hàng chục người bị thương.
Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 16:37, ngày 18 tháng 8 năm 2014
 

Còng lưng đi chợ mua nước sạch ở Hà Nội

Ở Chàng Sơn chỉ có vài hộ gia đình may mắn giếng có nước. Nhưng nhu cầu càng cao, nước dần cạn, người dân lại tìm đến với những xe téc nước bán lưu động. Hôm nước ngon, hôm thì mùi tanh, bẩn...

Cách trung tâm thủ đô Hà Nội chưa tới 40 km nhưng gần 10 năm nay hơn 2.000 hộ dân xã Chàng Sơn (Thạch Thất, Hà Nội) lâm vào tình trạng thiếu nước sinh hoạt. Ông Nguyễn Kim Toàn - Phó chủ tịch UBND xã Chàng Sơn cho biết: "Tình trạng thiếu nước tại Chàng Sơn đã diễn ra ngày càng trầm trọng. Nguyên nhân chủ yếu là do dân số tăng, ô nhiễm nguồn nước, thổ nhưỡng khô cạn".
Chính vì thế mà vào mỗi buổi chiều, người dân lại dùng xe kéo, còng lưng đi mua nước về để sinh hoạt. Giá được bán từ 100.000đ - 120.000đ/m3. Nhiều gia đình đào giếng sâu đến 30 - 40m mà vẫn trơ đáy, hộ có tiền khoan giếng 70m vẫn không có giọt nước nào. Chàng Sơn có đến 3/4 hộ dân thiếu nước.
Cuộc sống vốn khó khăn nay đội thêm tiền nước, tiền điện (dùng cho máy bơm) khiến cuộc sống nhiều gia đình trở nên ngột ngạt.
Còng lưng đi chợ mua nước sạch ở Hà Nội - Ảnh 1
Ngay giữa Thủ đô Hà Nội, hàng nghìn người dân phải kéo xe mua nước mỗi ngày.
Còng lưng đi chợ mua nước sạch ở Hà Nội - Ảnh 2

Người dân Chàng Sơn bận rộn với công việc kéo xe thùng đi mua nước.
Còng lưng đi chợ mua nước sạch ở Hà Nội - Ảnh 3

Những thùng phi đựng nước chất đầy một góc nhà.
Còng lưng đi chợ mua nước sạch ở Hà Nội - Ảnh 4
Cô Hồng cho biết: “Cứ hai ngày cô lại kéo xe đi mua nước một lần. Mỗi một xe mua được hai thùng là 120 lít nước với giá 120.000đ/m3. Một tháng mất 500.000đ tiền nước".
Còng lưng đi chợ mua nước sạch ở Hà Nội - Ảnh 5

Vào những năm 90, giếng nước ở đây chỉ cần đào sâu 6 - 7m là có thể dùng thoải mái. Tuy nhiên đến thời điểm hiện tại, các giếng trong làng đều cạn kiệt. Có những hộ dân đào 30 - 40m vẫn không có nước.
Còng lưng đi chợ mua nước sạch ở Hà Nội - Ảnh 6

Chỉ khi mùa mưa đến, cái giếng khoan ngày trước mới hy vọng có được chút nước, không thì vẫn đẩy xe để lấy nước.
Còng lưng đi chợ mua nước sạch ở Hà Nội - Ảnh 7

Có lẽ không có làng quê nào lại nhiều thứ thùng trữ nước màu xanh như thế này.
Còng lưng đi chợ mua nước sạch ở Hà Nội - Ảnh 8

Một không gian thường thấy tại Chàng Sơn.
Còng lưng đi chợ mua nước sạch ở Hà Nội - Ảnh 9

Giếng khoan ở đây có độ sâu trung bình khoảng 70m, ngay cả ở độ sâu này, việc thấy được nước cũng dựa vào ông Trời.
Còng lưng đi chợ mua nước sạch ở Hà Nội - Ảnh 10
Giờ "tài sản" được coi trọng nhất trong mỗi gia đình ở Chàng Sơn là phi nước
Còng lưng đi chợ mua nước sạch ở Hà Nội - Ảnh 11
Ở Chàng Sơn chỉ có vài hộ gia đình may mắn giếng có nước. Nhưng nhu cầu càng cao, nước dần cạn, người dân lại tìm đến với những xe téc nước bán lưu động. Hôm nước ngon, hôm thì mùi tanh, bẩn...
Còng lưng đi chợ mua nước sạch ở Hà Nội - Ảnh 12

Hiện nguồn nước ngầm đang khan hiếm dần, môi trường làng nghề gây ô nhiễm, quá trình kiên cố hóa các công trình dân sinh khiến nước thẩm thấu kém cũng là những nguyên nhân tác động đến việc thiếu nước.
Theo Bưu điện Việt Nam.
 
 
 
(TP.HCM) Người dân CẦN GIỜ có nước sạch
Công trình xây dựng hệ thống cấp nước sạch Cần Giờ đã hoàn thành sau 15 tháng thi công. Nguồn nước sạch sẽ được dẫn trực tiếp từ nhà máy nước BOO Thủ Đức vượt hơn 42 km đường ống về đến Nhà Bè đấu nối vào hệ thống Cần Giờ. Trong đó hai tuyến ống qua sông Soài Rạp và tắc sông Chà dài hơn 2km được đặt sâu hơn 30m dưới đáy sông.
Công trình xây dựng hệ thống cấp nước sạch Cần Giờ đã hoàn thành sau 15 tháng thi công. Nguồn nước sạch sẽ được dẫn trực tiếp từ nhà máy nước BOO Thủ Đức vượt hơn 42 km đường ống về đến Nhà Bè đấu nối vào hệ thống Cần Giờ. Trong đó hai tuyến ống qua sông Soài Rạp và tắc sông Chà dài hơn 2km được đặt sâu hơn 30m dưới đáy sông.
Công suất phát nước dự kiến sẽ đạt gần 40.000 m3/ngày.
Các trạm bơm tăng áp lớn và lần đầu được sử dụng cho công trình cung cấp nước sạch với hệ thống bể chứa đặt nổi lắp ghép bằng vật liệu thép thủy tinh đặc biệt.
Cùng với tuyến ống đưa nước Sông Đà về thủ đô Hà Nội,đây là một trong hai tuyến ống cấp nước dài nhất Việt Nam hiện nay.Tổng mức kinh phí đầu tư dự án là 822 tỷ đồng.
Tại buổi lễ, ông Hoàng Trung Hải - Phó thủ tướng nói:"Huyện Cần Giờ có xuất phát điểm rất thấp so với các quận, huyện khác ở TP HCM. Nhưng đây là vùng đất có ý nghĩa chiến lược quan trọng về chính trị quốc phòng, việc đưa vào sử dụng tuyến ống cấp nước sạch sẽ góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội TP HCM".
Cũng theo ông Hải, du lịch sinh thái là thế mạnh củavùng đất Cần Giờ, việc đưa nước sạch về là dấu mốc quan trọng trong việc thu hút khách du lịch đến tham quan nghỉ dưỡng dài ngày.
"Đơn vị thi công công trình đã thực hiện đúng tiến độ, Tổng công ty cấp nước Sài Gòn (Sawaco) cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống cấp nước để đảm bảo mọi người dân Cần Giờ đều có nước sạch sử dụng", Phó thủ tướng chỉ đạo.
"Mấy chục năm nay người dân Cần Giờ đều phải mua nước sạch với giá cao, từ nay nước sạch về đến tận nhà sinh hoạt trong gia đình sẽ đỡ vất vả hơn", mẹ Việt Nam anh hùng Đoàn Thị Thê, (huyện Cần Giờ) hồ hởi nói.
Huyện Cần Giờ từ lâu nay rất khan hiếm nước sạch đúng tiêu chuẩn để cung cấp cho các nhu cầu sử dụng hằng ngày của người dân và phục vụ cho sản xuất - dịch vụ. Đồng thời nguồn nước nhiễm mặn do nước biển thâm nhập, để xử lý thành nước ngọt cần chi phí rất cao.
Lâu nay, nhu cầu sinh hoạt với tiêu chuẩn bình quân khoảng 60 lít một người mỗi ngày, tức chỉ bằng 50% so với tiêu chuẩn sử dụng nước bình quân của thành phố. Nhu cầu nước cung cấp cho các lĩnhvực sản xuất công nghiệp, thủy sản, du lịch của huyện còn gặp nhiều khó khăn.
Dự án “Xây dựng hệ thống cấp nước sạch cho huyện CầnGiờ” được Sawaco triển khai 2 giai đoạn: giai đoạn 1 nhằm mục tiêu đáp ứng nhu cầu sử dụng nước cho toàn huyện đến năm 2015 dân số khoảng 150.000 người. Giai đoạn 2 nâng cấp mở rộng công trình vào khoảng năm2020, nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng nước năm 2025 của 300.000 người dân,định mức nước sử dụng bình quân 120 lít một người mỗi ngày.
Nguồn: http://vnexpress.net/gl/xa-hoi/2011/04/dan-can-gio-co-nuoc-sach/
 

Nước sạch và sự sinh tồn của người Việt

Nước giữ một vai trò đặc biệt trong đời sống sinh tồn và phát triển của con người. Nước sạch là sự sống, con người, động, thực vật sẽ không tồn tại nếu thiếu nước. Nước uống an toàn và vệ sinh là những yếu tố quyết định để giảm nghèo, để phát triển bền vững.
Nước quan trọng là vậy, nhưng hiện nay, thế giới vẫn phải đang phải đối mặt với nguy cơ thiếu nước sạch và nguồn nước bị ô nhiễm trầm trọng. Tình trạng ô nhiễm nguồn nước, thiếu nước sạch sinh hoạt làm tăng nguy cơ mắc các bệnh đường ruột, bệnh ngoài da và một số căn bệnh khác.Trung bình có khoảng 1,5 triệu trẻ em bị chết do bệnh tiêu chảy mỗi năm. Theo ước tính của WHO, cho tới nay có khoảng 130 triệu người đang phải đối mặt với việc dùng nước bi nhiễm arsenic với nồng độ cao hơn nồng độ cho phép là 10 mg/lít. Vì vậy, vai trò của nước sạch với đời sống quan trọng và cần thiết hơn bao giờ hết.
Nhu cầu sử dụng nước cho sinh hoạt, sản xuất công nông nghiệp đang gia tăng mạnh mẽ cùng với sự phát triển kinh tế xã hội và sự bùng nổ dân số. Theo kết quả đánh giá năm 1999, 8,8% tổng lượng dòng chảy năm tương ứng với tần suất 75% là tổng lượng nước cần dùng của cả nước. Con số này tăng lên tới 12,5% vào năm 2000 và 16,5% vào năm 2010. 41 km3 (chiếm 89,8%) năm 1985, tăng lên 46,9 km3 (năm 1990) và 60 km3 năm 2000 (chiếm 85%) là tổng lượng nước dùng để tưới cho cây trồng, con số này chiếm tỉ lệ khá cao. Lượng nước dùng cho nông nghiệp vào mùa cạn là rất lớn. Tổng lượng nước cần sử dụng trong mùa cạn năm 2000 đạt tới 70,7 km3, chiếm khoảng 42,4% tổng lượng nước có khả năng cung cấp trong mùa cạn hay 51% tổng lượng dòng chảy mùa cạn tương ứng với tần suất 75%.
Ở rất nhiều vùng và lưu vực sông, lượng nước cần dùng có thể gấp vài lần tổng lượng nước có thể cung cấp, nghĩa là chẳng những vượt quá xa ngưỡng lượng nước cần có để duy trì sinh thái mà còn không có nguồn nước tại chỗ để cung cấp cho sinh hoạt và sản xuất.
Như trên đã nêu, sự gia tăng dân số và các hoạt động của con người sẽ ngày càng tác động mạnh mẽ đến môi trường tự nhiên nói chung và môi trường nước nói riêng.
Những rừng xanh bạt ngàn ở Trường Sơn, Tây Nguyên, vùng núi phía Bắc đang bị chặt phá để lại những núi đồi trơ trọi, xám ngắt, canh tác nông lâm nghiệp không hợp lý và thải chất thải bừa bãi vào các thuỷ vực… đã và sẽ gây nên những hậu quả rất nghiêm trọng, làm cho nguồn nước bị cạn kiệt, bị ô nhiễm, hạn hán có khả năng càng khốc liệt. Nguy cơ thiếu nước sạch càng trầm trọng, nhất là vào mùa cạn ở các vùng mưa ít.
Nước ngọt là nguồn tài nguyên có tái tạo, nhưng việc sử dụng nguồn tài nguyên này phải cân bằng giữa nguồn dự trữ và tái tạo. Đó cũng là cách mà con người cần quan tâm, thực hiện để tồn tại và phát triển sự sống ổn định, lâu bền.
Chúng ta còn cứu được rừng xanh và nguồn nước của chúng ta không? Chúng ta còn khả năng nếu mỗi chúng ta biết giật mình, dừng lại, bắt đầu lại. Ngay bây giờ cần chấm dứt mọi hoạt động khai thác tràn lan, phá hủy các cánh rừng còn sót lại. Trồng cây gây rừng, khôi phục lại màu xanh cho những cánh rừng. Để đến trăm năm sau, con cháu chúng ta mới có thể bụm vào lòng bàn tay một ngụm nước trong veo mát lạnh, ngửa cổ uống ngon lành trên mỗi dòng sông, con suối. Để sự sống được cứu sống, sinh sôi, phát triển và trường tồn.
Theo THỂ THAO & VĂN HÓA

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét