Thứ Hai, 13 tháng 10, 2014

CÂU CHUYỆN LỊCH SỬ 33/a (Vệ quốc vĩ đại ở Liên Xô-p1)

(ĐC sưu tầm trên NET)

Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại
Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại
Đài tưởng niệm Chiến sĩ vô danh tại Vườn Aleksandr - chân tường điện Kremli, Moskva.
Tên chính thức tiếng Nga: Великая Отечественная Война
Cử hành bởi Liên Xô (trước đây), SNG (hiện nay)
Kiểu Thuật ngữ về một giai đoạn lịch sử
Bắt đầu 22 tháng 6, 1941
Kết thúc 30 tháng 4, 1945
Ngày 9 tháng 5
Thuật ngữ Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại được phổ dụng tại Nga và một số quốc gia thuộc Liên Xô cũ để chỉ một phần cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai kể từ 22 tháng 6 năm 1941 đến 9 tháng 5 năm 1945 chống lại Đức Quốc Xã và các đồng minh của nó ở Mặt trận Phía đông. Thuật ngữ này thường không được dùng bên ngoài Liên Xô cũ (xem bài Mặt trận Phía đông). Đó là một thuật ngữ biểu trưng cho tình cảm ái quốc. Trong suốt thời kỳ này 8,6 triệu binh sĩ Xô Viết đã tử trận, trong đó hơn 3 triệu chết trong khi bị bắt làm tù binh. Liên Xô đã mất tổng số 26,6 triệu nam giới và phụ nữ.

Giải thích

Thuật ngữ này khác với các thuật ngữ Chiến tranh thế giới II hay Chiến tranh thế giới lần thứ hai ở chỗ thuật ngữ của người Nga chỉ nói tới cuộc chiến giữa Đức và các đồng minh châu Âu của nó với Liên Xô. Thuật ngữ này không đề cập tới Chiến tranh Thái Bình Dương với Nhật Bản (bao gồm Chiến dịch Mãn Châu (1945)) và cuộc chiến ở mặt trận phía Tây. Nó cũng không bao trùm các cuộc tấn công của Liên Xô vào năm 1939 vào Ba LanPhần Lan.
Thuật ngữ được nghĩ ra sau cuộc tấn công của quân Đức vào Liên Xô ngày 22 tháng 6 năm 1941 và được dùng với mục đích thúc giục toàn dân bảo vệ Tổ quốc Xô viết và đánh đuổi quân xâm lược. Trước đó, thuật ngữ Chiến tranh Vệ quốc chỉ cuộc xâm lược Nga của quân Pháp dưới thời Napoleon I, ngày nay cuộc chiến đó được biết đến với tên gọi Chiến tranh Ái quốc năm 1812.
Thuật ngữ Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại xuất hiện trên nhật báo Xô viết Pravda (Sự thật) ngay sau khi Đức Quốc Xã xâm nhập Liên Xô, trong một bài báo dài có tiêu đề "Cuộc chiến tranh Vệ quốc vĩ đại của nhân dân Xô viết" (Velikaya Otechestvennaya voyna sovetskogo naroda). Trong thời kỳ xung đột, Liên Xô đã tạo ra huân chương Chiến tranh Vệ quốc để trao tặng cho các hành động anh hùng.
Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 17:22, ngày 10 tháng 4 năm 2014.

Chiến dịch Barbarossa

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Chiến dịch Barbarossa
Một phần của Chiến tranh Xô-Đức trong
Chiến tranh thế giới thứ hai
Operation Barbarossa corrected border.png
Kế hoạch của Đức trong chiến dịch Barbarossa.
.
Tham chiến
Đức Quốc Xã Đức Quốc Xã
România Romania
Phần Lan Phần Lan
Ý Phát xít Ý
Hungary Hungary
Slovakia Slovakia
Croatia Croatia
Liên Xô Liên Xô
Chỉ huy
Đức Quốc Xã Adolf Hitler
Đức Quốc Xã Franz Halder
Đức Quốc Xã Wilhelm Ritter von Leeb
Đức Quốc Xã Fedor von Bock
Đức Quốc Xã Gerd von Rundstedt
România Ion Antonescu
Phần Lan Carl Gustaf Emil Mannerheim
Liên Xô Iosif Stalin
Liên Xô Georgiy Zhukov
Liên Xô Aleksandr Vasilyevskiy
Liên Xô Semeon Budyonny
Liên Xô Kliment Voroshilov
Liên Xô Semeon Timoshenko
Liên Xô Markian Popov
Liên Xô Fedor Kuznetsov
Liên Xô Dmitry Pavlov  
Liên Xô Ivan Tyulenev


Lực lượng
Theo Liên Xô: 190 sư đoàn, 5,5 triệu quân
3.712 xe tăng, 4.950 máy bay,
47.260 pháosúng cối
Theo Đức: 3,2 triệu quân (2,6 triệu tham chiến từ đầu) chưa kể các nước phụ thuộc Đức
3.350 xe tăng, 2.500 máy bay,
7.184 pháo (chưa kể súng cối)
Theo nguồn thứ ba: 3.767.000 quân Đức và các nước phe Trục117 sư đoàn bộ binh, 19 sư đoàn Tăng thiết giáp, 15 sư đoàn mô tô cơ giới
3.350 xe tăng
7.200 pháo (chưa kể súng cối)
2.770 máy bay
151 sư đoàn Bộ binh, 32 sư đoàn Kỵ binh, 38 lữ đoàn Công binh
3.359.000 quân
13.981 xe tăng(trong đó có 1861 xe hạng trung và hạng nặng, bao gồm 1475 xe tăng KV và T-34), 9.397 máy bay, trong đó có 7.758 máy bay chiến đấu
52.666 pháo và súng cối
Tổn thất
831.900 chết
500.000 bị thương
25.000 mất tích
2.093 máy bay bị bắn rơi
2.758 xe tăng bị phá huỷ.
1.614.244 chết và mất tích
1.310.897 bị thương
1.699.000 -3.400.000 bị bắt
10.600 máy bay
.
Barbarossa (tiếng Đức: Unternehmen Barbarossa) là mật danh của chiến dịch xâm lược Liên bang Xô viết do Quân đội Đức Quốc xã tiến hành trong chiến tranh thế giới thứ hai. Với tên ban đầu là kế hoạch Otto và được đích thân Hitler đổi thành "Barbarossa" theo biệt hiệu của vị Hoàng đế La Mã Thần thánh Friedrich I ở thế kỉ 12 vào ngày 18 tháng 12 năm 1940, chiến dịch có mục tiêu nhanh chóng chiếm đóng phần lãnh thổ phía Tây đường ranh giới nối liền giữa hai thành phố ArkhangelskAstrakhan (thường gọi là tuyến A-A) của Liên Xô, được mở màn vào sáng ngày 22 tháng 6 năm 1941 trên toàn bộ tuyến biên giới phía Tây của Liên Xô và thực tế kết thúc vào đầu tháng 2 năm 1942 trước cửa ngõ Moskva.
Trong toàn chiến dịch, mặc dù Quân đội Đức Quốc xã đã giành được một số chiến thắng vang dội ở cấp độ chiến thuật, chiếm được phân nửa lãnh thổ thuộc châu Âu của Liên Xô trong đó có một số vùng kinh tế quan trọng, nhưng không hoàn thành mục tiêu mà kế hoạch đề ra. Kể từ sau khi đợt tấn công Moskva bị bẻ gãy vào cuối tháng Giêng năm 1942, Quân đội Đức Quốc xã không còn đủ sức tổ chức một đợt tổng tấn công nào khác trên toàn bộ mặt trận, khiến chiến lược đánh nhanh thắng nhanh trước mùa đông 1941-1942 của Hitler hoàn toàn phá sản.
Thất bại về mặt chiến lược của chiến dịch Barbarossa là một bước ngoặt quan trọng, buộc Hitler phải tham gia vào một cuộc chiến tranh tổng lực mà nước Đức Quốc xã và đồng minh phe Trục kém thế tương quan về năng lực sản xuất công nghiệp và khả năng tổng động viên so với Liên Xô và phe Đồng minh, dẫn tới sự suy yếu rồi thất bại hoàn toàn trong Chiến tranh thế giới thứ hai.
Về mặt lịch sử, thì chiến dịch Barbarossa được ghi nhận là có quy mô lớn nhất về quân số tham chiến và cũng là chiến dịch đẫm máu nhất với con số thương vong chưa từng có.

Bối cảnh trước chiến dịch

Liên Bang Xô Viết

Từ năm 1933, sau khi Adolf Hitler lên cầm quyền và tái quân sự hóa nước Đức, chính sách nhất quán của Liên Xô là thiết lập một nền an ninh chung tại Châu Âu, duy trì vào bảo vệ những điều khoản của Hiệp ước Versailles năm 1919. Chính sách này đã được thể hiện qua việc Liên Xô kiên trì đàm phán với các nước Tây Âu về một hiệp ước an ninh chung nhưng lại gặp phải thái độ nghi ngờ từ phía các đồng minh trong tương lai. Theo nhà sử học Henry Peyner: "Bằng Hiệp ước Munich năm 1938, họ đã thừa nhận việc Đức thôn tính Áo, bỏ mặc Tiệp Khắc cho Đức xâm chiếm và mở cửa cho Đức tấn công sang phía Đông"..
Mặc dù đạt được những thành tựu quan trọng về kinh tế - quốc phòng nhưng trang bị vật chất dành cho chiến tranh của Liên Xô vào năm 1941 vẫn thua kém về số lượng so với nước Đức. Các biện pháp tổ chức lại quân đội và thực tập tác chiến theo chiến tranh hiện đại vẫn còn đang trong giai đoạn triển khai. Xét về từng khía cạnh thì mặc dù đã có ý thức và những hành động thiết thực để bảo vệ đất nước nhưng trên cách nhìn tổng thể, Liên Xô vẫn chưa hoàn toàn được chuẩn bị tốt để đón nhận một cuộc chiến tranh tổng lực. Cuộc tấn công bất ngờ ngày 22 tháng 6 năm 1941 của quân đội Đức đã làm bộc lộ toàn diện những điểm yếu của Liên Xô trong chiến lược phòng thủ quốc gia và nó chỉ được sửa chữa triệt để sau những ngày tháng thất bại trên các mặt trận.

Nước Đức Quốc xã

Năm 1939, với thuyết "Không gian sinh tồn" (Lebensraum) do Hitler khởi xướng, phe Trục (Đức, Ý, Nhật) đã có thỏa thuận chia nhau các phần lãnh thổ trên toàn cầu. Đến giữa năm 1941, nước Đức Quốc xã cùng với đồng minh là nước Ý dưới chế độ phát xít Mussolini đã thôn tính hầu hết phần phía Tây lục địa châu Âu (trừ Thụy Sĩ, Thụy Điển) và Tây Ban Nha dưới chế độ độc tài Francisco Franco là một đồng minh thân cận của Hitler.
Bắt đầu từ nước Áo năm 1937, Tiệp Khắc năm 1938, nước Đức tấn công Ba Lan tháng 9 năm 1939, chính thức mở màn Chiến tranh thế giới lần thứ 2. Ngày 9 tháng 4 năm 1940, Đức tấn công Na Uy và Đan Mạch. Ngày 10 tháng 5, Đức tiếp tục chuyển sang tấn công Bỉ, Hà Lan, Luxembourg và liên quân Pháp-Anh trên lãnh thổ Pháp. Chỉ trong vòng 6 tuần, nước Pháp của Thống chế Philippe Pétain phải ký văn kiện đầu hàng tại rừng Compiègne. Cùng lúc đó, nước Đức cũng chiếm xong Đan Mạch, Na Uy, khống chế Biển BắcBiển Baltic. Từ ngày 7 tháng 9 năm 1940, Không quân Đức Quốc xã (Luftwaffe) mở đầu kế hoạch Kế hoạch Sư tử biển tấn công nước Anh và Hải quân Hoàng gia Anh nhằm dọn đường cho quân Đức đổ bộ. Ngày 14 tháng 11 năm 1941, trung tâm công nghiệp Coventry của Anh bị ném bom hủy diệt. Ngày 6 tháng 4 năm 1941, Đức Quốc xã tấn công Nam TưHy Lạp, buộc Nam Tư đầu hàng ngày 18 tháng 4 và Hy Lạp đầu hàng ngày 27 tháng 4. Ngay sau đó, nhiếp chính vương Hungary Miklós Horthy, thủ tướng România Ion Antonescu và vua Bulgaria Boris III cũng tuyên bố đặt đất nước mình dưới sự bảo hộ của Đế chế thứ ba.
Trong các chiến dịch ở thời gian này, Quân đội Đức Quốc xã nhanh chóng giành những thắng lợi vang dội bằng phương thức "Chiến tranh chớp nhoáng" (Blitzkrieg), trong đó các mũi thọc sâu tốc độ cao của lực lượng thiết giáp hùng hậu được hỗ trợ của Không quân ở mật độ áp đảo. Với sự tự tin cao độ, Adolf Hitler và các nhà hoạch định quân sự của nước Đức Quốc Xã cho rằng đã đến lúc chĩa mũi Blitzkrieg vào Liên Xô để kết thúc cuộc chiến.

Ý đồ tấn công Liên Xô của nước Đức Quốc xã

Vào mùa hè năm 1940, khi Đức bắt đầu gặp phải cuộc khủng hoảng về nguồn nguyên liệu dành cho công nghiệp và khả năng về một cuộc xung đột với Liên Xô tại khu vực Balkan đang đến gần, một cuộc tấn công xâm lược Liên Xô gần như là giải pháp duy nhất đối với Hitler. Trong khi chưa có một kế hoạch cụ thể nào được lập ra, tháng 6 năm 1940, Hitler nói với một trong những tướng lãnh của ông rằng những chiến thắng ở Tây Âu "cuối cùng đã khiến ông ta rảnh tay để lo cho kế hoạch quan trọng thật sự của mình: cuộc quyết đấu một mất một còn với những người Bolshevik". Mặc dù các tướng lĩnh của Hitler cố khuyên ông rằng chiếm đóng miền Tây nước Nga sẽ rút cạn sinh lực nhiều hơn là giảm nhẹ gánh nặng cho nền kinh tế Đức vào thời điểm hiện tại, nhưng vị quốc trưởng Đức lại đề cập đến những lợi ích có được khi đánh bại Liên Xô:
  • Khi Liên Xô bị đánh bại, tình trạng khan hiếm nhân lực trong nền công nghiệp Đức sẽ chấm dứt do một phần lớn binh sĩ Đức sẽ được giải ngũ sau chiến tranh.
  • Ukraina sẽ trở thành nguồn cung cấp lương thực lớn cho Đức Quốc xã.
  • Biến Liên Xô thành nguồn cung cấp lao động nô lệ sẽ góp phần rất lớn trong việc tăng cường vị thế địa chính trị của nhà nước Đức phát xít.
  • Đánh bại Liên Xô sẽ khiến các quốc gia Đồng Minh - đặc biệt là Anh - bị cô lập sâu sắc hơn nữa.
  • Nền kinh tế Đức Quốc xã đang cần một nguồn cung cấp dầu mỏ lớn: chiếm được vựa dầu Baku của Liên Xô sẽ giúp Đức đạt được điều đó. Tại tòa án Nürnberg, Albert Speer - Bộ trưởng Bộ vũ trang và công nghiệp chiến tranh của Đức - đã nói trong cuộc thẩm vấn ông: "nhu cầu về dầu mỏ là một động lực chủ yếu" trong quyết định xâm lược Liên Xô của phát xít Đức.
Kế hoạch Barbarossa hình thành trong tình hình chính trị - ngoại giao tại Châu Âu có nhiều diễn biến phức tạp. Ngày 29 tháng 9 năm 1938, nước Đức Quốc xã ký kết với Ý, Anh và Pháp Hiệp ước München và kết quả của nó là nước Đức đã thôn tính Tiệp Khắc. Ngày 20 tháng 8 năm 1939, cuộc đàm phán tay ba gồm Liên Xô, Anh, Pháp đã kết thúc thất bại "do một quyết định được coi là dại dột về chính trị của Ba Lan" và thái độ thiếu hợp tác của phía Anh. Thất bại lớn nhất trong cuộc đàm phán tay ba tại Moskva là đã không lập được khối liên minh quân sự giữa ba cường quốc này để bảo đảm cho chính sách an ninh chung Châu Âu. Nhằm tránh một cuộc đối đầu Xô-Đức, ngày 23 tháng 8 năm 1939, Liên Xô đã ký kết với nước Đức Quốc xã Hiệp ước không xâm phạm Xô-Đức kèm theo một nghị định thư bí mật về phân chia vùng ảnh hưởng của hai bên ở Đông Âu. Ngày 1 tháng 9 năm 1939, nước Đức Quốc xã đã tấn công Ba Lan và chiếm 2/3 lãnh thổ phía Tây nước này sau 10 ngày. Liên Xô cũng đưa quân đội vào vùng Đông Ba Lan để thu hồi lại vùng lãnh thổ phía Tây của Đế quốc Nga trước đây, vốn bị mất vào tay Ba Lan từ thập niên 1920. Ngày 23 tháng 11 năm 1939, chỉ ba tháng sau khi ký hiệp ước không xâm lược với Liên Xô, Hitler tuyên bố:
Chúng ta đã có một hiệp ước với người Nga. Nhưng các hiệp ước chỉ được tôn trọng khi chúng còn có lợi.
—Adolf Hitler, 
Như vậy ý định tấn công Liên Xô đã được Hitler ấp ủ từ năm 1939. Đức chưa tiến hành ngay vì họ muốn đánh bại 2 đối thủ là Pháp và Anh để giải quyết mặt trận phía Tây, sau đó mới dồn toàn lực tấn công Liên Xô.

Binh lực các bên

Quân đội Đức Quốc xã và các nước phụ thuộc Đức

Sự phát triển của quân đội Đức Quốc xã
từ năm 1939 đến năm 1941

1/9/1939 1/5/1940 1/6/1941
Tổng số sư đoàn 103 156 214
Số sư đoàn cơ giới 8 10 21
Số sư đoàn xe tăng 8 8 14
Xe tăng và xe thiết giáp 3.200 3.387 5.640
Máy bay quân sự 4.404 5.900 10.000
Bộ máy công nghiệp quân sự khổng lồ của nước Đức đến năm 1940 đã cho sản lượng tăng 76% so với năm 1939 và gấp 2,2 lần năm 1938. Năm 1940, nước Đức sản xuất được hơn 19 triệu tấn thép, 14 triệu tấn gang, 63 tỷ KWh điện. Nền công nghiệp và quân đội này cần một khối lượng dầu hoả khổng lồ nhưng nước Đức và các vùng Đức chiếm đóng đều không có nhiều dầu hoả. Ba trung tâm sản xuất dầu lửa lớn nhất nằm dọc lưu vực sông Danube (phía Nam thành phố Viên, đồng bằng Hungary và vùng phụ cận Ploesti của România) chỉ cung cấp sản lượng không quá 2 triệu thùng mỗi năm. Đến năm 1940 quân đội Đức (không kể đồng minh của Đức) đã có 214 sư đoàn trong đó có 21 sư đoàn xe tăng, 14 sư đoàn cơ giới, tổng cộng 7,2 triệu quân (trong đó có hơn 5 triệu quân thường trực và 2 triệu quân dự bị). Lục quân Đức được trang bị tốt với các loại tiểu liên Mauzer và MP-38/40 dần dần thay thế súng trường không tự động.
Theo Grigori Doberin thì tính đến ngày 21 tháng 6 năm 1941, Quân đội phát xít Đức và đồng minh phe Trục (gồm Phần Lan, Ý, Hungary, Romania, Croatia, Slovakia và quân Tây Ban Nha của Franco) bao gồm 190 sư đoàn trong đó có 152 sư đoàn Đức, 38 sư đoàn các nước đồng minh với tổng quân số 5,3 triệu người, tập trung dọc theo hơn 2.900 km biên giới (1800 dặm) từ bờ biển Baltic phía Bắc đến bờ biển Đen phía nam. Một số lượng khổng lồ phương tiện chiến tranh được triển khai gồm có:
  • Xe tăng: khoảng 5.000 chiếc (trong đó có hơn 3.000 chiếc Panzer IIIPanzer IV)
  • Xe bọc thép: 3.410 chiếc
  • Xe cơ giới (không kể xe tăng xe bọc thép) khoảng 600.000 chiếc gồm: xe kéo pháo, xe vận tải, xe công trình, xe thông tin, mô tô ba bánh của bộ binh cơ giới
  • Pháo: khoảng 47.000 khẩu (trong đó có hơn 10.000 trọng pháo cỡ nòng trên 85 mm)
  • Máy bay chiến đấu: 4.940 chiếc (trong có có hơn 2.000 chiếc ME-109 các kiểu C, D, E)
  • Máy bay vận tải quân sự: 60 chiếc
  • Tàu chiến: hơn 300 chiếc (trong đó có 85 tàu tuần dương, 105 tàu khu trục, 86 tàu ngầm các loại)
Để thực hiện kế hoạch Barbarossa, nước Đức đã huy động 3/4 quân đội Đức cùng với quân đội nhiều nước đồng minh với Đức tại Châu Âu, chỉ để lại 1/4 quân số và phương tiện tại Tây Âu và Bắc Phi.

Quân đội Liên Xô

Sự phát triển của quân đội Liên Xô
từ năm 1939 đến năm 1941

1/1/1939 22/6/1941 % tăng trưởng
Số lượng sư đoàn 131,5 316,5 140,7
Quân số 2485000 5774000 132,4
Pháo và súng cối 55800 117600 110,7
Xe tăng và xe thiết giáp 21100 25700 21,8
Máy bay các loại 7700 18700 142,8
Trước ngày 22 tháng 6 năm 1941, nền công nghiệp quốc phòng Liên Xô đã có sự phát triển mạnh sau kế hoạch năm năm lần thứ ba (1936-1940). Năm 1940, Liên Xô sản xuất được gần 18 triệu tấn thép, 15 triệu tấn gang, 48 tỷ KWh điện. Mặc dù Liên Xô liên tục tăng cường trang bị cho quân đội nhưng đến sát trước "cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại", trang bị của quân đội Liên Xô vẫn thua kém quân đội Đức cả về số lượng về chất lượng vũ khí, khí tài, trang bị quân sự.
Do yêu cầu của chiến tranh, công nghiệp quốc phòng của Liên Xô có bước phát triển lớn. Tới năm 1938, so với đầu những năm 30, sản xuất xe tăng Liên Xô đã tăng hơn gấp 3. Kể từ 1-1-1939 tới 22-6-1941, Hồng quân đã được trang bị hơn 7.000 xe tăng và nếu chỉ tính riêng năm 1941 thì Hồng quân đã được cung cấp gần 5.500 xe, 29.637 pháo dã chiến, 52.407 súng cối. Tổng số pháo và súng cối tính cả đại bác trên xe tăng là 92.578. Theo tướng Zhukov thì về mặt số lượng và chất lượng, các súng cối của Liên Xô đã vượt khá xa các súng cối Đức.
Năm 1939, Liên Xô cho xây thêm 9 nhà máy sản xuất máy bay và 7 nhà máy sản xuất động cơ, ngoài ra còn có 7 nhà máy khác chuyển sang chế tạo sản phẩm cho máy bay. Cuối năm 1940, công nghiệp sản xuất máy bay Liên Xô đã tăng lên 70%. Tuy nhiên khoảng 75 - 80% tổng số máy bay Liên Xô thua Đức về các chỉ tiêu kỹ thuật. Tướng Zhukov khẳng định rằng chỉ sau một năm đến một năm rưỡi, Không quân Liên Xô đã được đổi mới và có sức chiến đấu rất mạnh mẽ.
Đến giữa năm 1941, Quân đội Liên Xô có tổng quân số khoảng 5 triệu người. Trong đó, 3,2 triệu quân bố trí trên phần lãnh thổ Châu Âu của Liên Xô chịu trách nhiệm phòng thủ 3.375 km đường biên giới. Chỉ có hơn 800.000 quân bố trí tại Viễn Đông để đối phó với Nhật Bản, 500.000 quân bố trí ở các nước cộng hòa vùng Trung Á, 500.000 quân bố trí tại Kuban và Kavkaz. Lực lượng này được biên chế và trang bị như sau:
  • Bộ binh: 170 sư đoàn (tại phần lãnh thổ Châu Âu có 149 sư đoàn).
  • Pháo binh: 29.673 pháo dã chiến, 52.407 súng cối các cỡ.
  • Xe tăng: gần 14.000 chiếc. Tuy số lượng đông đảo nhưng phần lớn là xe tăng hạng nhẹ có giáp mỏng và hỏa lực yếu như T-26, BT-5... chỉ có 1861 xe tăng hạng trung và hạng năng, trong đó có 1.475 chiếc kiểu mới là các loại KV-1, KV-2T-34. Khi chiến sự nổ ra, các đơn vị thiết giáp vẫn còn trong quá trình xây dựng, nhiều đơn vị thiếu đạn dược, nhiên liệu, thậm chí thiếu cả tổ lái và đội kỹ thuật. Do vậy, nhiều xe đã bị hỏng hoặc hết nhiên liệu và bị loại khỏi vòng chiến dù chưa hề giao chiến với địch.
  • Máy bay: 17.745 chiếc, trong đó có 3.719 chiếc kiểu mới gồm: 2.030 chiếc tiêm kích các loại Iak-1, MiG-3, LaGG-3, 460 chiếc Pe-2, 249 chiếc IL-2, 980 chiếc I-16. Những chiếc còn lại là loại cũ và tốc độ chậm, thậm chí có cả những máy bay 2 tầng cánh làm bằng gỗ từ thời Thế chiến thứ nhất. Phi công được đào tạo cũng rất ít, ví dụ: Không quân Xô Viết có 201 chiếc MiG-3 và 37 chiếc MiG-1 hoạt động được vào ngày 22 tháng 6 năm 1941, nhưng chỉ có 4 phi công đã được huấn luyện để sử dụng các máy bay này., nhiều phi công Xô Viết ở tiền tuyến chỉ từng lái máy bay có 4 tiếng đồng hồ
Lực lượng hải quân Liên Xô sát chiến tranh có gần 600 tàu chiến, 211 tàu ngầm, hơn 1.000 pháo phòng thủ bờ biển với trên 2.500 máy bay. Gần 270 tàu các loại được đóng vào sát cuối năm 1940. Nhiều căn cứ hải quân mới được xây dựng trong khi các khu vực ở vùng Baltic, Biển Đen và biển Bắc cực được Hồng quân củng cố thêm.

Phương án tác chiến

Quân đội Đức


Trang đầu bản Chỉ thị số 21 của Adolf Hitler về việc thi hành Kế hoạch Barbarossa
Ngày 21 tháng 7 năm 1940, Adolf Hitler giao cho Bộ Tổng chỉ huy lục quân Đức soạn thảo Kế hoạch Otto. Tại Chỉ thị số 21 của Bộ Tổng tư lệnh tối cao các lực lượng vũ trang của Đế chế (Reich) ngày 18 tháng 12 năm 1940 và Chỉ thị về việc tập trung và triển khai có tính chiến lược các lực lượng quân đội ngày 31 tháng 1 năm 1941 đã chỉ ra những phương án cuối cùng được duyệt của kế hoạch này, đồng thời, thông báo lệnh của Quốc trưởng đổi tên thành Kế hoạch Barbarossa. Kế hoạch này dự định khởi sự ngày 15 tháng 6 năm 1941, tấn công và đánh chiếm Liên Xô (chủ yếu là phần lãnh thổ thuộc Châu Âu) trong một thời gian ngắn ngay trước khi kết thúc chiến tranh với Anh. Ý đồ chiến lược của kế hoạch này là dùng ba đòn vu hồi liên tiếp chia cắt chính diện mặt trận Xô-Đức; hợp vây các lực lượng chủ yếu của quân Nga trên các vùng Pribaltic, Belorussia, Ukraina và miền Tây nước Nga (vùng phụ cận Smolensk). Trọng tâm tác chiến là sử dụng các tập đoàn quân xe tăng tiến hành những đòn đột kích sâu ở phía Bắc và phía Nam khu vực đầm lầy Pripiat (khu tiếp giáp giữa BelorussiaUcraina), tiêu diệt những cách quân đã bị chia cắt trước khi tiến chiếm Moskva, Leningrad, vùng công nghiệp Donbass cũng như vùng đồng bằng trung và hạ lưu sông Volga.
Để có thể giành được một chiến thắng chớp nhoáng, quân Đức buộc phải nhanh chóng hủy diệt Hồng quân Liên Xô trong những chuỗi tấn công và hợp vây trên. Vì vậy mục tiêu chính yếu trước mắt của kế hoạch Barbarossa chính là Hồng quân Liên Xô và sau đó mới là đánh chiếm những vùng đất đai quan trọng hay đạt được những thắng lợi về chính trị. Bản thân Hitler đã nói: so với việc tiêu diệt Hồng quân thì "đánh chiếm Mạc Tư Khoa không thật sự quá quan trọng". Chỉ thị số 21 đã nêu rõ ý định của Hitler như sau:
Các lực lượng của Hồng quân ở miền Tây nước Nga sẽ bị hủy diệt bởi những chiến dịch táo bạo bao gồm những đòn tấn công thọc sâu của các lực lượng thiết giáp xung kích; và việc rút lui thành công của các nhân tố giúp đối phương có thể chiến đấu vào những vùng lãnh thổ mênh mông của nước Nga sẽ bị ngăn chặn. Bằng những cuộc truy kích thần tốc, chúng ta sẽ tiến tới được một giới tuyến mà ở đó Không quân Nga sẽ không thể nào tổ chức được một cuộc tấn công vào lãnh thổ của Đức.
—Chỉ thị số 21 của Bộ Tổng tư lệnh tối cao các lực lượng vũ trang của Đế chế, 
Phương án tác chiến ban đầu của Kế hoạch Otto tháng 12 năm 1940 là dùng các đòn đột kích liên tiếp của nhiều thê đội xe tăng - thiết giáp mạnh (4 tập đoàn quân xe tăng), sử dụng chiến thuật "luân xa chiến", mở đường tấn công một mạch từ Brest qua MinskSmolensk đến Moskva theo lối đánh "gạt đối phương ra để tiến"; nhanh chóng đánh tan cơ quan lãnh đạo tối cao của Nhà nước và quân đội Liên xô tại Moskva và kết thúc sớm chiến tranh trong vòng vài tuần lễ. Đến ngày 3 tháng 2 năm 1941, nhận thấy phương án này khá phiêu lưu do kéo dài tuyến mặt trận hai bên sườn và các đường tiếp tế cũng phải kéo dài, rất dễ bị Quân đội Xô Viết công kích và chia cắt từ hai phía Bắc và Nam (như đã xảy ra với quân đội của Napoleon năm 1812), các tướng lĩnh Đức Quốc xã đưa ra phương án cuối cùng, chia quân đội Đức ở mặt trận phía Đông thành ba cụm tập đoàn quân, tấn công trên ba hướng chiến lược:

Cụm tập đoàn quân Bắc


Thống chế Wilhelm Ritter von Leeb, tư lệnh Cụm tập đoàn quân Bắc
Cụm tập đoàn quân phụ trách hướng tấn công vào Tây Bắc Liên Xô, do Thống chế Wilhelm Ritter von Leeb chỉ huy. Trên chính diện từ phía Bắc Goldapa đến Klaipeda trên bờ biển Baltic, cụm quân này được giao nhiệm vụ mở hai mũi vu hồi bằng đường bộ và đường biển, hợp vây các đơn vị thuộc Quân khu Pribaltic của Quân đội Liên Xô, tấn công dọc theo bờ biển Baltic hướng về Leningrad, bao vây và đánh chiếm thành phố này cùng với các cảng trên biển Baltic, bao gồm Tallinn và Kronstadt. Cụm tập đoàn quân này gồm 29 sư đoàn, được biên chế vào các đơn vị:
  • Tập đoàn quân xe tăng 4 của do tướng Erich Höpner chỉ huy
  • Tập đoàn quân 16 binh chủng hợp thành
  • Tập đoàn quân 18 bình chủng hợp thành
  • Quân đoàn xe tăng 56, một sư đoàn bộ binh cơ giới mô tô hóa và một sư đoàn pháo binh cơ giới.
Phối hợp với cụm tập đoàn quân này có Tập đoàn quân sơn cước 20 (còn gọi là tập đoàn quân Lapland), bảy sư đoàn bộ binh Phần Lan tấn công từ phía Bắc eo đất Karelia, phân hạm đội Đông Baltic của Hải quân Đức từ phía biển và Tập đoàn quân không quân 3 yểm hộ từ trên không.

Cụm tập đoàn quân Trung tâm

Đây là cụm quân chủ lực, có binh lực, hỏa lực và phương tiện mạnh nhất trong ba cụm tập đoàn quân Đức Quốc xã trong chiến dịch (hai trong số 4 tập đoàn quân thiết giáp của Đức - tập đoàn quân số 2 và số 3 - nằm trong cụm quân này. Cụm này do Thống chế Fedor von Bock chỉ huy. Trên chính diện từ Goldapa đến thành phố Włodawy, Cụm tập đoàn quân Trung tâm có nhiệm vụ mở ba đòn vu hồi liên tiếp của hai tập đoàn quân xe tăng và một quân đoàn xe tăng độc lập, hợp điểm lần lượt tại Minsk, Smolensk và cuối cùng là Moskva. Các tập đoàn quân bộ binh tiến theo xe tăng có nhiệm vụ bao vây, tiêu diệt các đơn vị chủ lực của Quân đội Liên Xô ở phía Tây sông Neman, phía tây sông Berezina và cuối cùng là vùng phụ cận Moskva tại Rzhev - Vyazma.

Thống chế Fedor von Bock, Tư lệnh Cụm tập đoàn quân Trung tâm
Cụm tập đoàn quân này gồm 50 sư đoàn (trong đó có 15 sư đoàn xe tăng), được biên chế vào các đơn vị:
  • Tập đoàn quân xe tăng 2 do tướng Heinz Guderian chỉ huy
  • Tập đoàn quân xe tăng 3 do tướng Hermann Hoth chỉ huy
  • Tập đoàn quân 2 binh chủng hợp thành
  • Tập đoàn quân 4 binh chủng hợp thành
  • Tập đoàn quân 9 binh chủng hợp thành
  • Quân đoàn xe tăng 8
  • Ba quân đoàn bộ binh độc lập
  • Ba sư đoàn pháo binh cơ giới.
Cụm tập đoàn quân Trung tâm được các tập đoàn quân không quân 2 và 6 yểm hộ từ trên không.

Cụm tập đoàn quân Nam

Đây cũng là một cụm quân rất mạnh của Quân đội Đức Quốc xã do Thống chế Gerd von Rundstedt chỉ huy, gồm 46 sư đoàn (trong đó có 9 sư đoàn xe tăng). Chính diện tấn công từ Lublin đến cửa sông Danube trên bờ Biển Đen được chia làm hai hướng. Hướng Shepetivka - Kiev có 34 sư đoàn (trong đó có 7 sư đoàn xe tăng, hai sư đoàn cơ giới). Hướng Tarnopol - Odessa có 11 sư đoàn (trong đó có hai sư đoàn xe tăng và 1 sư đoàn cơ giới). Hai mục tiêu hợp vây Quân đội Xô Viết được hoạch định là Kiev và bán đảo Krym. Biên chế của cụm quân này gồm có:

Thống chế Gerd von Rundstedt, tư lệnh Cụm tập đoàn quân Nam
Các đơn vị này được sự yểm hộ từ trên không của tập đoàn quân không quân 4 của tướng Manfred von Richthofen.

Lực lượng dự bị chiến dịch

Ngoài 153 sư đoàn có mặt ở tuyến đầu, Quân đội Đức Quốc xã cùng chuẩn bị một lực lượng dự bị tuyến hai để phát huy chiến quả hoặc tiếp quản những vùng đất đã chiếm được sau khi các lực lượng tuyến một đẩy mặt trận lên phía trước. Tổng số lực lượng này có 24 sư đoàn, gồm có:
  • Hai quân đoàn Đức (trong đó có một quân đoàn cơ giới)
  • Tập đoàn quân 8 Ý
  • Tập đoàn quân 2 Hungary
  • Các tập đoàn quân Romania 3 và 4.

Quân đội Liên Xô

Toàn bộ Quân đội Xô Viết tại phần lãnh thổ Châu Âu của họ được bố trí trên 10 quân khu:

Các quân khu biên giới phía Tây

Đơn vị Chính diện
phòng thủ
Bộ binh nhẹ Xe tăng Bộ binh
cơ giới
Kỵ binh Tư lệnh Chính uỷ Tham mưu trưởng
Quân khu Leningrad 2.100 km 12 sư đoàn
1 lữ đoàn
3 sư đoàn 1 sư đoàn 3 sư đoàn Trung tướng
M. M. Popov
Chính ủy quân đoàn
A. A. Zhdanov
Đại tá
N. V. Gorodeski
Quân khu
đặc biệt Pribaltic
380 km 19 sư đoàn
1 lữ đoàn
4 sư đoàn 2 sư đoàn Không có
thống kê
Thượng tướng
F. I. Kuznessov
Chính ủy quân đoàn
P. A. Dibrova (nữ)
Thiếu tướng
P. X. Klenov
Quân khu
đặc biệt miền Tây
640 km 24 sư đoàn 12 sư đoàn 6 sư đoàn 2 sư đoàn Đại tướng
D. G. Pavlov
Chính ủy quân đoàn
A. F. Fominyk
Thiếu tướng
V. E. Klimovskics
Quân khu
đặc biệt Kiev
860 km 32 sư đoàn 16 sư đoàn 8 sư đoàn 2 sư đoàn Thượng tướng
M. P. Kirponosh
Chính ủy quân đoàn
N.N.Vashughin (30-6),
Chính uỷ lữ đoàn
E.P.Rykov(1-7)
Trung tướng
M.A.Purkaev (30-7),
Thiếu tướng
V.I.Tupikov (1-8)
Quân khu Odessa 320 km 13 sư đoàn 4 sư đoàn 2 sư đoàn 3 sư đoàn Trung tướng
Ya. T.Terevishenko
Chính ủy quân đoàn
A. F. Koliabov
Thiếu tướng
M. V. Zakharov

Nguyên soái S. K. Timoshenko, Bộ trưởng Bộ dân ủy Quốc phòng Liên Xô

Đại tướng D. G. Pavlov, Tư lệnh Quân khu đặc biệt miền Tây

Thượng tướng M. P. Kirponos Tư lệnh Quân khu đặc biệt Kiev
Trên toàn tuyến mặt trận, binh lực được bố trí thành hai thê đội phòng thủ. 48 sư đoàn thuộc thê đội một bố trí cách biên giới quốc gia từ 10 đến 50 km. Trong đó, bộ binh bố trí phía trước, xe tăng, cơ giới, pháo binh bố trí xa hơn. Chủ lực các quân khu tổng cộng 101 sư đoàn bố trí ở tuyến hai cách đường biên giới quốc gia từ 80 đến 300 km. Hai bên sườn quân khu Leningrad, sườn phải Quân khu Pribaltic và sườn trái Quân khu Odessa có hải quân tuần duyên và pháo bờ biển bảo vệ. Ngoài ra, còn có trên 200 đồn biên phòng thuộc Bộ Dân ủy Nội vụ, quân số mỗi đồn tương đương một trung đội bố trí ngay trên đường biên giới.

Các quân khu trong nội địa

  • Quân khu Volkhov: Bố trí phía sau các Quân khu Leningrad và Pribaltic.
  • Quân khu Moskva: Bố trí phía sau Quân khu đặc biệt miền Tây.
  • Quân khu Privolga: Bố trí phía sau Quân khu đặc biệt Kiev.
  • Quân khu Zakavkaz: Bố trí tại vùng thảo nguyên Kuban và vùng núi Kavkaz
  • Quân khu Ural: Bố trí tại phía tây dãy núi Ural

Kế hoạch KOVO-41

Từ giữa năm 1940, Bộ Quốc phòng Liên Xô đã giao cho Bộ Tổng tham mưu mà trực tiếp là tổ kế hoạch tác chiến lần lượt do nguyên soái B. M. Shaposhnikov, đại tướng K. A. Meretskov và trung tướng N. F. Vatutin phụ trách xây dựng kế hoạch phòng thủ biên giới quốc gia. Sau ba bốn lần được đưa ra Hội đồng Quốc phòng Liên Xô để bàn thảo và chỉnh sửa; đến tháng 4 năm 1941, bản Kế hoạch được đích thân Stalin phê chuẩn và chính thức mang mật danh "KOVO-41".
Nội dung kế hoạch gồm 4 điểm cơ bản cần thực hiện:
  • Trong trường hợp có nguy cơ chiến tranh, các lực lượng vũ trang phải ở tư thế sẵn sàng chiến đấu.
  • Lập tức tiến hành động viên quân dự bị trên toàn liên bang.
  • Phát triển các đơn vị đúng với biên chế thời chiến theo kế hoạch động viên.
  • Tập trung và triển khai tất cả các lực lượng được động viên trên các vùng biên giới phía Tây theo kế hoạch của các quân khu biên giới và Bộ Tổng tư lệnh.
Theo kế hoạch này, hướng tấn công được coi là nguy hiểm nhất của quân đội Đức Quốc xã vào Liên Xô là hướng Tây Nam (Quân khu đặc biệt Kiev và Quân khu Odessa). I. V. Stalin hoàn toàn đồng ý với nhận định này. Kế hoạch "KOVO-41" được chia ra theo các nhiệm vụ cụ thể của từng quân khu và lần lượt được gửi kèm theo các Chỉ thị số UN/584814 và UN/584815 ngày 8 tháng 4 năm 1941 của Bộ Tổng tham mưu Quân đội Liên Xô đến các Quân khu để hướng các hoạt động triển khai kế hoạch này. Các chỉ thị yêu cầu:
Cho đến khi có chỉ thị đặc biệt các khu phòng thủ giữ nguyên trạng thái cũ. Khi chiến tranh nổ ra, cần tiến hành các biện pháp:
  • Thành lập bộ máy chỉ huy các vùng phòng thủ.
  • Củng cố hệ thống hỏa lực, gia cố công sự bằng đất, gỗ, bê tông, đá hộc.
  • Tính toán nhu cầu về vũ khí và trang thiết bị bên trong; chú ý đến các công sự bê tông cốt sắt đã được xây dựng trong các năm 1938-1939 (trên đường biên giới cũ).
Cũng trong khuôn khổ "KOVO-41", ngày 13 tháng 5, Bộ Tổng tham mưu Liên Xô điều động 28 sư đoàn từ các quân khu ở sâu trong nội địa ra phía Tây: Tập đoàn quân 22 từ Ural ra đến Velikiye Luki, tập đoàn quân 21 từ Privolga đến Gomel, tập đoàn quân 19 từ Bắc Kavkaz đến Belaya Tserkov, tập đoàn quân 16 từ Zabaikal đến Shepetivka, quân đoàn bộ binh nhẹ 25 từ Kharkov đến Tây Dvina.
Bốn điểm mấu chốt của "KOVO-41" mãi đến sáng ngày 22 tháng 6 mới có quyết định thi hành và được diễn giải bằng một bức điện khá dài và không rõ nghĩa trong khi hàng trăm sư đoàn Đức đã vượt biên giới và hàng nghìn máy bay Đức đã trút bom xuống lãnh thổ Liên Xô. Khi các Phòng tác chiến của các Quân khu biên giới mở các phong bì tuyệt mật chứa kế hoạch "KOVO-41" thì Quân đội Đức Quốc xã đã bắt đầu tấn công được hơn 3 giờ đồng hồ. Theo nguyên soái I. Kh. Bagramian (khi đó là Đại tá, Trưởng phòng tác chiến Quân khu đặc biệt Kiev), chỉ cần Bộ Tổng tham mưu phát một bức điện ngắn với nội dung "KOVO-41 có hiệu lực" là đủ.

Diễn biến quốc tế trước chiến dịch

Thái độ của Hoa Kỳ và Anh

Trong khi Hoa Kỳ tạm giữ thái độ của "người ngoài cuộc" giống như giai đoạn mở đầu Chiến tranh thế giới thứ nhất thì Anh lại "chơi cả hai con bài" Đức và Liên Xô. Một mặt, chính phủ Anh do Neville Chamberlain và sau này là Winston Churchill đứng đầu ra sức đẩy Liên Xô và Đức đối đầu nhau, cung cấp tin giả cho người Đức về mối đe dọa quân sự của Liên Xô cũng như cung cấp tin thật cho Liên Xô về mối đe dọa của Đức. Hệ thống thông tin báo chí của Anh và sau này là cả Hoa Kỳ đều thường xuyên đăng những tin tức về cuộc chuyển quân của các hai bên đến vùng biên giới mà hãng TASS của Liên Xô đã nhiều lần lên tiếng bác bỏ.
Sau chuyến công cán đặc biệt của Rudolf Hess, phó thủ lĩnh Đảng Quốc xã sang Anh tháng 5, tháng 6 năm 1940 và bị phía Anh bắt bỏ tù cho tới khi chết năm 1987, đại sứ Đức tại London báo cáo về nước những chính sách có chiều hướng xây dựng trong giới cầm quyền Anh. Cũng tại thời điểm đó, từ Moskva, đại sứ Đức tại Liên Xô Schulenburg lại báo cáo với Berlin rằng: Chính phủ Xô Viết, trong tình hình quốc tế hiện nay mà họ coi là nghiêm trọng, vẫn tìm cách tránh cuộc xung đột với Đức. Đến tháng 4 năm 1941, chính phủ Anh đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động thúc đẩy nước Đức gây hấn với Liên Xô. Trung tâm cơ quan MI6 đặt tại New York đã chuyển đến Đại sứ quán Đức ở Hoa Kỳ tin tức về việc người Nga có kế hoạch hoạt động quân sự mạnh ngay sau khi nước Đức bị lôi kéo vào cuộc chiến với Anh.
Trong khi đó, Thủ tướng Anh Winston Churchill lại thông báo cho I.V. Stalin rằng cuộc khởi nghĩa của Serbia do người Anh giúp đỡ tháng 3 năm 1941 đã làm cho quân Đức không thể điều động thêm ba sư đoàn xe tăng từ đây sang Nam Ba Lan. Tất cả những điều đó đều nhằm một mục tiêu, hướng nước Đức Quốc xã mở rộng sự bành trướng của nó sang phía Đông. Chính phủ Anh rất có lợi nếu Đức phạm sai lầm về điểm này. Điều đó có nghĩa là nước Anh sẽ có nhiều hy vọng được cứu thoát.
Khi quân Đức bắt đầu xâm lược Liên Xô, các nước Anh - Mỹ đều tuyên bố ủng hộ nhà nước Xô viết. Thủ tướng Anh Winston Churchill cam đoan rằng Anh quốc sẽ không chấp nhận hòa bình với Đức để giúp Stalin thì đáp trả lại, Stalin lại lén cử người đi Berlin để cầu hòa, đề xuất nhường cho Đức Quốc xã các nước vùng Baltic, Bessarabia và thậm chí cả 1 phần Ukraina. Liên Xô còn tuyên bố cuộc tấn công của Đức là 1 cuộc "tấn công hòa bình".

Các nước đồng minh phe Trục


Lễ ký Hiệp ước trung lập thân thiện Xô - Nhật
Tại Châu Âu, ngoài Ý là đồng minh thân cận của nước Đức Quốc xã đã tham gia hiệp ước phân chia thế giới và Tây Ban Nha dưới chế độ độc tài Franco cũng được coi là đồng minh thực sự của Đức; các nước Châu Âu khác không phải là đồng minh của Đức theo đúng nghĩa của từ này. Bởi từ năm 1938 đến 1940, nước Đức đã dùng sức mạnh quân sự khổng lồ của mình để đặt các nước này dưới sự cai trị của mình. Ngoại trừ Thụy SĩThụy Điển là hai nước trung lập và nước Anh đang chiến đấu chống lại máy bay Đức; Quân đội Đức có mặt gần như khắp Châu Âu, từ Pháp đến Ba Lan, từ Na Uy, Đan Mạch đến Hy Lạp, Nam Tư. Trong số các đồng minh của nước Đức, có năm "đồng minh" tích cực nhất đã gửi quân đội của mình tham gia đội quân xâm lược của Đức Quốc xã chống Liên Xô là Ý, HungaryRomânia nhưng mỗi nước đều có một lý do địa-chính trị riêng. Nhà độc tài Romania Antonescu được Hitler hứa sẽ trả lại vùng Bessarabia. Nhiếp chính Hungary Miklos Hórthy cũng hi vọng lấy lại vùng Transilvania và bắc Serbia. Còn Mussolini muốn chia phần chiến thắng theo hiệp ước phe Trục. Bộ trưởng quốc phòng Phần Lan C. G. E. Mannerheim hy vọng lấy lại vùng Petsamo đã bị Liên Xô chiếm trong cuộc chiến mùa Đông năm 1939-1940. Nhà độc tài Tây Ban Nha Franco cử quân tình nguyện do tướng Munoz Grandes chỉ huy tham chiến để trả đũa việc Quân tình nguyện Liên Xô đã giúp những người Cộng hòa trong chiến tranh Tây Ban Nha những năm 1936-1937. Điều quan trọng nhất là nước Đức đã huy động được nguồn nhân lực và kinh tế vào cuộc chiến chống Liên Xô, nắm toàn bộ các kho vũ khí, dự trữ kim loại, các nguyên liệu chiến lược, huy động gần như toàn bộ bộ máy công nghiệp quân sự của Châu Âu vào cuộc chiến.
Tại Phương Đông, Nhật Bản tuy ký hiệp ước phe Trục nhưng có thái độ khác trong việc đối xử với Liên Xô vì dù sao, Nhật Bản cũng đã chiếm được những vùng giàu có ở Trung Quốc, Đông Dương và đang nhằm vào Miến Điện cùng các quốc đảo ven bờ Châu Á. Vùng Siberia của Nga tuy hẫp dẫn thật nhưng chưa phải là cấp thiết. Sau các thất bại quân sự tại vùng Khalkhyl Golhồ Khasan, chính phủ của Thủ tướng Konoe đã đi đến kết luận: Chưa đến lúc xé bỏ hiệp ước trung lập thân thiện với Liên Xô. Họ chờ đợi sự suy yếu của Liên Xô trong cuộc chiến Xô - Đức nay mai. Họ muốn bày tỏ với nước Đức rằng: Chúng ta là đồng minh, nhưng ngoại trừ việc chống Liên Xô. Song phải đến khi Quân đội Đức chỉ còn cách Moskva trên dưới 20 km, tin tức về việc Nhật Bản "không vào cuộc" mới được Richard Sorge khẳng định và báo về Moskva.

Chiến dịch nghi binh của Đức Quốc xã

Tuy đã chuẩn bị lên kế hoạch tấn công Liên Xô nhưng Đức Quốc xã vẫn chơi trò "bắt cá hai tay". Ngoài hiệp ước liên minh phe Trục ký với Nhật BảnÝ năm 1938 phân chia vùng chiếm đóng trên thế giới kể cả Hoa Kỳ, Volthard - cố vấn của Hermann Göring - vẫn có cuộc đàm phán với Bộ trưởng thương mại Anh Hudson về việc phân chia ba khu vực hoạt động kinh tế chủ yếu của hai nước gồm hệ thống thuộc địa Anh, Nga và Trung Quốc. Ngay sau khi ký kết với Ý và Nhật Hiệp ước chống quốc tế cộng sản ngày 27 tháng 9 năm 1940, Ngoại trưởng Đức Von Ribbentrop vẫn mời đoàn ngoại giao Liên Xô do V. M. Molotov dẫn đầu sang thăm Đức. Tại cuộc đàm phán ngày 12 tháng 11 năm 1940, Ribbentrop đề nghị Liên Xô cùng với Đức, Ý, Nhật phân chia thế giới. Tất nhiên, đề nghị này bị phái đoàn Liên Xô bác bỏ thẳng thừng.

Chân dung nhà tình báo Xô Viết Richard Sorge
Ngày 3 tháng 2 năm 1941, Hitler ra "Chỉ thị đặc biệt về việc đánh lạc hướng đối phương". Trong đó, các cơ quan tình báo và phản gián Đức được giao nhiệm vụ tung ra những tin đồn về việc quân Đức chuẩn bị chiến dịch đổ bộ lên các đảo của nước Anh với hai kế hoạch có mật danh "Đinh ba" (Harpune) và "Cá mập" (Haifisch). Để cho mọi việc diễn ra "như thật", Hitler còn làm trò nổi nóng và doạ xử bắn tại chỗ hai sĩ quan Đức đã để lộ tin tức về kế hoạch "Sư tử biển". Các quân đoàn đổ bộ (chỉ có bộ khung) được thành lập, nhiều nhân viên phiên dịch tiếng Anh được điều đến các đơn vị quân đội Đức đóng trên bờ biển Manche của Pháp. Bộ máy tuyên truyền của nước Đức Quốc xã do Joseph Goebbels cầm đầu liên tục tung ra những thông tin về việc Đức giả tập trung quân ở biên giới Liên Xô để nghi binh, thực chất là tấn công Anh; những thông tin về khả năng quân Đức sẽ viễn chinh sang Ấn Độ. Tất cả động thái đó đều nhằm đánh lạc hướng bộ máy tình báo của Liên Xô, che giấu ý đồ thật sự của "Kế hoạch Barbarossa".
Vượt lên trên tất cả những màn kịch ngoại giao, những tấm mạng nhện bùng nhùng các tin tức đồn đại thật có, giả có và cả giả lẫn thật cũng có, ngày 15 tháng 6 năm 1941, cơ quan GPU của Liên Xô nhận được tin tức của điệp viên Nga gốc Đức Richard Sorge từ Tokyo, Nhật Bản: "Chiến tranh sẽ bắt đầu ngày 22 tháng 6". Sau đó sáu ngày, Richard Sorge gửi tiếp một tin nữa để xác nhận: "Cuộc tiến công sẽ được thực hiện trên toàn mặt trận lúc rạng sáng ngày 22 tháng 6". Cùng thời điểm này, một tùy viên lục quân Liên Xô tại Berlin cũng gửi báo cáo về Moskva khẳng định: Chiến sự chống Liên Xô sẽ khởi sự trong khoảng từ 15 tháng 5 đến 15 tháng 6 năm 1941. Nhưng người đứng đầu cơ quan tình báo GRU F. I. Golikov đã không nhận thức được ý nghĩa thực sự của những thông tin quý giá này. Và cả I. V. Stalin cũng đã xử lý chậm chạp do nghi ngờ tính xác thực của các thông tin đó với niềm tin thái quá vào các nỗ lực ngoại giao để tránh một cuộc chiến tranh. Ngay cả đô đốc Tư lệnh hải quân Liên Xô N. G. Kuznetsov khi nhận được báo cáo ngày 6 tháng 5 của Tùy viên hải quân Liên Xô tại Berlin về việc quân Đức có thể khởi chiến vào 14 tháng 5 cũng coi đó chỉ là tin giả do phía Đức tung ra để thăm dò phản ứng của Liên Xô.

Diễn biến chiến dịch


Mặt trận Xô - Đức từ tháng 6 đến tháng 12 năm 1941
Chiều tối 21 tháng 6 năm 1941, vài người dân Ba Lan đã liều mạng bơi qua sông Bug gặp những lính biên phòng Xô Viết ở đồn số 9 và đồn số 17 Cờ Đỏ để báo cáo về việc Quân Đức chuẩn bị tiến công vào sáng sớm ngày 22. Tin tức này phù hợp với tin tình báo do trinh sát ngoại biên của các đồn biên phòng miền Tây báo cáo về việc quân Đức tập trung vô số xe tăng, pháo binh và bộ binh sát đường biên giới. Cùng thời điểm trên, một thượng sĩ Đức thuộc trung đoàn 222, sư đoàn bộ binh 73 chạy sang Liên Xô tại khu vực Tây Vladimir - Volynski thuộc Quân khu đặc biệt Kiev quả quyết rằng quân Đức sẽ tấn công vào 4 giờ sáng 22 tháng 6. Nhiều đơn vị biên phòng và quân đồn trú sát biên giới của các quân khu phía Tây Liên Xô đều qua bộ tư lệnh của mình liên tiếp gửi về Moskva những tin tức tương tự. Bộ trưởng dân ủy quốc phòng S. K. Timoshenko, Tổng tham mưu trưởng G. K. Zhukov và Cục trưởng cục tác chiến N. F. Vatutin thống nhất đề nghị khởi động khẩn cấp Kế hoạch "KOVO-41". Nhưng thay vì đưa quân đội Liên Xô vào tình trạng sẵn sàng chiến đấu ngay tức khắc và tuyên bố tình trạng chiến tranh, I. V. Stalin và tập thể Hội đồng Quốc phòng Liên Xô lại quyết định tiến hành những biện pháp hạn chế, chủ yếu có tính đề phòng với tinh thần: "không được rơi vào âm mưu khiêu khích có thể gây ra những rắc rối lớn". Ngoài những biện pháp đề phòng, bức điện hỏa tốc lúc 2 giờ 30 phút sáng 22 tháng 6 được truyền đến các quân khu biên giới phía Tây còn quy định: "Không có lệnh đặc biệt, không được tiến hành bất kỳ biện pháp nào khác". Từ 3 giờ 30 phút đến 4 giờ sáng 22 tháng 6 năm 1941, 152 sư đoàn Đức Quốc xã lần lượt tấn công lãnh thổ Liên Xô từ ven biển Barents đến ven bờ Biển Đen. Cuộc chiến tranh giữ nước của Liên Xô chính thức mở màn.

Mặt trận Belorussia và vùng Pribaltic


Các hướng tấn công của Quân đội Đức Quốc xã và các mũi phản kích của Quân đội Liên Xô tại mặt trận Belorussia trong tuần đầu của cuộc chiến

Tại mặt trận Belorussia

Tại hướng Belorussia, Tổng hành dinh quân đội Đức tập trung lực lượng mạnh nhất của chiến dịch gồm 29 sư đoàn trên đất Ba Lan và 21 sư đoàn ở Đông Phổ, trong đó có 15 sư đoàn xe tăng. Hai mũi tiến công vu hồi sâu ở hai hướng Bắc và Nam thành phố Brest - Litovsk. Cánh quân phía Bắc do Tập đoàn quân xe tăng 3 của tướng Hermann Hoth dẫn đầu có tập đoàn quân 9 tiến theo sau mở mũi đột kích từ Belostok vượt qua Lida và Molodechno đến Borisov. Tại phía cực Bắc của hướng này, tập đoàn quân 2 có quân đoàn xe tăng 8 dẫn đầu phát triển tấn công đến Vilnius. Cánh quân phía Nam có Tập đoàn quân xe tăng 2 của tướng Heinz Guderian dẫn đầu và tập đoàn quân 4 tiến theo sau đột kích từ Nam Brest qua Kobrin, Baranovichi, Slutsk, Pukhavichy đến Berezina. Ngay trong ngày 22 tháng 6, Bộ chỉ huy tối cao Liên Xô hầu như bị đứt liên lạc hoàn toàn với Quân khu đặc biệt miền Tây. Chỉ biết được không quân của Quân khu bị thiệt hại rất lớn. Trinh sát đường không chỉ nắm được tình hình chung nhất là quân Đức đã đột nhập lãnh thổ với chiều sâu từ 15 đến 20 km.

Quân dự bị động viên của Liên Xô tiến ra mặt trận. Bảng trên cây bên trái ảnh có gi dòng chữ: "Chiến thắng hay là chết" (Ảnh của RIA NOVOSSTI)
Cũng ngay trong ngày đầu chiến tranh, nhiều sư đoàn và quân đoàn thuộc Quân khu đặc biệt Miền Tây (từ ngày 23 tháng 6 đổi tên là Phương diện quân Tây) đã độc lập tác chiến với quân Đức. Thông tin liên lạc bị đứt làm cho việc chỉ huy chung không thể thực hiện được. Ngay cả khi liên lạc được nối lại, đại tướng D. G. Pavlov, tư lệnh Phương diện quân cũng thường có những quyết định không còn phù hợp với tình hình. Kết quả là ngày 25 tháng 6, các tập đoàn quân 3 của thiếu tướng A. A. Korotkov và 4 của trung tướng V. I. Kuznesov ngay cả khi được tăng cường quân đoàn cơ giới 14 vẫn rút lui vô tổ chức khỏi Grodno và Brest. Hành động đó đã đẩy đồng đội của họ là tập đoàn quân 10 do thiếu tướng K. D. Golubev chỉ huy vào tình trạng bị nửa hợp vây tại khu phòng thủ Ossoved trên bờ sông Narev. Phó tư lệnh phương diện quân Tây, trung tướng I. V. Boldin đã sử dụng quân đoàn kỵ binh 6, các quân đoàn cơ giới 6 và 11 tổ chức phản kích từ Suvanki vào sườn trái của tập đoàn quân xe tăng 3 Đức. Mặc dù cuộc phá vây không thành công nhưng đòn phản kích này đã buộc tập đoàn quân xe tăng 3 Đức phải phân chia lực lượng để "nhổ cái dằm" Suvanki - Ossoved. Tại Slonim, một bộ phận lớn Quân đoàn cơ giới 6 Liên Xô được trang bị các loại xe tăng cũ BT-7, T-26 và T-28 đã bị tập đoàn quân xe tăng 2 Đức bao vây tại đây. Quân đoàn phải bỏ lại hầu hết xe tăng sau khi đã sử dụng đến những viên đạn, những giọt dầu cuối cùng và chiến đấu như bộ binh để mở đường máu rút lui. Tư lệnh quân đoàn cơ giới 6, tướng M.G. Khaskilevik và tư lệnh quân đoàn kỵ binh 6, tướng I.X. Nikitin tử trận.
Ngày 26 tháng 6, quân đoàn cơ giới 39 thuộc tập đoàn quân xe tăng 3 (Đức) đã tiếp cận khu phòng thủ Minsk và chạm súng với Quân đoàn khinh binh 5 (Liên Xô) do tướng V. D. Yushenko chỉ huy. Bộ tư lệnh Phương diện quân Tây lấy từ lực lượng dự bị của họ Quân đoàn khinh binh 2 do tướng A. N. Ermakov chỉ huy (chỉ có hai sư đoàn 100 và 161), tăng cường cho khu phòng thủ. Đêm 26 tháng 6, quân đoàn cơ giới 47 thuộc tập đoàn quân xe tăng 2 Đức cũng tấn công Minsk từ phía Nam. Minsk đứt liên lạc với Moskva từ rạng sáng 26 tháng 6. Bộ Tổng tư lệnh tối cao Quân đội Xô Viết triệu tập đại tướng G. K. Zhukov đang chỉ đạo mặt trận Tây Nam về Moskva để tìm biện pháp khôi phục tình hình mặt trận miền Tây.
Trong hai ngày 27 và 28 tháng 6, do vẫn không có tin tức gì về đại tướng D. G. Pavlov; bằng tất cả các kênh liên lạc có thể có, G. K. Zhukov đã lập tức nắm tình hình và chỉ đạo tướng V. E. Klimovskic, tham mưu trưởng Phương diện quân Tây tập hợp tất cả các lực lượng còn lại để chặn đường hợp vây của hai cánh quân xe tăng Đức đang tiến đến hợp điểm tại Borisov. Song, tất cả đã quá muộn, chiều tối 28 tháng 6, tập đoàn quân xe tăng 2 Đức đã chiếm thành phố Minsk.

Binh lính Liên Xô bị quân Đức bắt làm tù binh ở Minsk tháng 7 năm 1941
Ngày 27 tháng 6, Bộ Tổng tham mưu quân đội Xô Viết đề nghị thành lập Phương diện quân Dự bị gồm các tập đoàn quân 13, 19, 20, 21, 22 và bố trí nó ở Đông Belorussia trên tuyến Bắc Dvina, Polotsk, Vitebsk, Orsa, Mogilev và Mozyr; điều động các tập đoàn quân 24 và 28 bố trí phía sau Phương diện quân này tại tuyến Seliazharov, Smolensk, Roslavl, Gomel. Nguyên soái Liên Xô S. M. Budionny được đề nghị chỉ định làm tư lệnh phương diện quân. I. X. Stalin chuẩn y ngay tức khắc đề nghị này. Ngày 30 tháng 6, I. V. Stalin ra lệnh triệu tập về Moskva đại tướng D. G. Pavlov, tư lệnh; thiếu tướng, V. E. Klimovskic tham mưu trưởng, thiếu tướng Klish, tư lệnh pháo binh, thiếu tướng Grigoriev, chủ nhiệm thông tin Phương diện quân miền Tây. Họ đều bị cách chức ngay lập tức và bị đưa ra xét xử tại tòa án binh sau đó ít ngày. Nguyên soái Liên Xô S. K. Timoshenko được cử làm tư lệnh Phương diện quân Tây, Phó tư lệnh: trung tướng A. I. Yeryomenko. Phương diện quân Dự bị chuyển thuộc toàn bộ sáu tập đoàn quân cho Phương diện quân Tây, lùi về giữ tuyến Seliazharov, Smolensk, Roslavl, Gomel để cơ cấu lại với hai tập đoàn quân 24 và 28 vừa được chuyển thuộc cùng ba tập đoàn quân đang trong quá trình tập hợp từ lực lượng dự bị động viên. Trong chiến dịch ở Minsk, không tính 93.000 binh sĩ chết và bị thương, 324.000 quân Liên Xô đã bị quân Đức bắt giữ cùng 2.300 xe tăng, thiết giáp bị phá hỏng hay loại khỏi vòng chiến.

Tại vùng Pribaltic


Các mũi tấn công của quân Đức vào Tallinn tháng 8 năm 1941
Tại hướng Pribaltic, Cụm tập đoàn quân Bắc của thống chế Wilhelm Ritter von Leeb nắm trong tay 29 sư đoàn triển khai tấn công dọc theo bờ biển và khép chặt sườn phải với Cụm tập đoàn quân Trung tâm tại tuyến Vilnius - Pskov. Ngày 26 tháng 6, Tập đoàn quân 8 Quân đội Liên Xô bị đứt liên lạc, bị thiệt hại nặng và phải lùi về Riga trên chính diện bị đẩy sâu vào đến 100 km thuộc Phương diện quân Tây Bắc (nguyên là Quân khu Pribaltic). Tập đoàn quân 11 bị đẩy lùi về Polotsk. Bộ Tổng tham mưu Quân đội Liên Xô điều Quân đoàn cơ giới 21 từ Quân khu Moskva đi ứng cứu cho hướng này trong khi mối đe dọa nghiêm trọng nhất đối với Quân đội Xô Viết lại không phải ở đây mà là ở khu vực phụ cận Minsk. Tại đây, ba tập đoàn quân 3, 4 và 10 của Quân đội Liên Xô đang có nguy cơ bị hợp vây.

Xác một chiếc xe tăng Đức Panzer IV bị phá hủy tại Kaunas (Litva) năm 1941
Sau khi Quân khu Pribaltic chuyển đổi thành Phương diện quân Tây Bắc, các tập đoàn quân 8 và 11 (Liên Xô) đã thoát khỏi vòng vây nhưng do không có chỉ huy (tham mưu trưởng, tướng P. X. Klenov bị cơ quan phản gián quân sự NKVD bắt, không rõ số phận của tư lệnh F. I. Kuznessov và chính ủy P. A. Dibrova), các tập đoàn quân này đã tản mát trên nhiều hướng và hầu như tan rã. Đại bản doanh quân đội Liên Xô đã cử trung tướng N. F. Vatutin làm tham mưu trưởng phương diện quân này; đồng thời điều Quân đoàn cơ giới 21 của tướng D. D. Leliushenko tiến ra chặn quân Đức tại Daugapinsk. Quân đoàn này chỉ chặn được quân đoàn xe tăng 56 của Đức trong một tuần rồi buộc phải lui về dải phòng ngự của tập đoàn quân 27 do thiếu tướng N. E. Berdarin chỉ huy. Thừa thắng, tập đoàn quân xe tăng 4 (Đức) của tướng Erich Höpner tiếp tục ép tập đoàn quân 27 (Liên Xô) phải lùi và đánh chiếm thành phố Pskov. Đến ngày 30 tháng 7, Phương diện quân Tây Bắc (Liên Xô) đã để mất hầu như toàn bộ vùng Pribaltic với các trung tâm quan trọng như: Vilnius, Lida, Riga, Pskov, Luga. Quân số còn lại của tập đoàn quân 8 (Liên Xô) bị vây tại Tallinn và đến ngày 28 tháng 8 phải bỏ Tallinn, rút lui theo đường biển về Leningrad.
Kết thúc cuộc hội chiến biên giới Xô-Đức tại Belorussia và các nước cộng hòa vùng Baltic, Quân đội Đức Quốc xã đã chiếm đóng toàn bộ khu vực này.

Hội chiến biên giới tại Ukraina


Tình hình phía Nam mặt trận Tây Nam từ 22-6 đến 10-7-1941
Chiến cuộc tại miền Tây Ukraina bắt đầu bằng đòn đột kích của tập đoàn quân xe tăng 1 và tập đoàn quân 6 (Đức) vào dải phòng ngự của các tập đoàn quân 5 (Liên Xô) ở khu vực Liuboml, Vladimir - Volynski, Ustyluh và dải phòng ngự của tập đoàn quân 6 (Liên Xô). Ngay từ sáng sớm, tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) đã chiếm được thị trấn biên giới Parkhash và bốn điểm dân cư khác. Cũng ngay từ 5 giờ sáng 22 tháng 6, không quân của Quân khu đặc biệt Kiev đã mất 180 máy bay chiến đấu, phần lớn bị không quân Đức ném bom phá hủy ngay tại sân bay. Mặc dù Bộ Quốc phòng Liên Xô chỉ thị cho không quân của quân khu phải dùng máy bay tập kích vào lãnh thổ Ba Lan - Đức sâu từ 100 đến 150 km nhưng chỉ có những tốp nhỏ máy bay Liên Xô vượt qua được hàng rào máy bay tiêm kích của Đức chi viện cho bộ binh mặt đất. Quân khu không còn đủ máy bay để oanh kích hậu phương quân Đức. Chiều tối 22 tháng 6, I.V. Stalin yêu cầu đại tướng G. K. Zhukov tới ngay Kiev để chỉ đạo mặt trận Tây Nam và đổi tên Quân khu này thành Phương diện quân Tây Nam.
Sáng 23 tháng 6, tập đoàn quân 6 (Đức) mở rộng khu vực đột phá đến Sokal, Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) tấn công địa đoạn tiếp giáp giữa hai tập đoàn quân 5 và 6 (Liên Xô) ở Rava - Russkaya và Peremyshliany. Trong tác chiến mặt đất, điển tiếp giáp giữa các đơn vị luôn là chỗ hiểm yếu nhất. Tại thê đội một, quân Đức có 10 sư đoàn bộ binh, 4 sư đoàn xe tăng. Ngay phía sau là thê đội hai với 2 sư đoàn bộ binh, 4 sư đoàn cơ giới và 1 sư đoàn xe tăng được thống chế Walther von Reichenau sử dụng để phát huy chiến quả. Tại cánh Nam, tập đoàn quân 17 của tướng Carl-Heinrich von Stülpnagel hướng đòn tấn công vào Tomashuv và Tarnopol với ý đồ khép vòng vây quanh hai tập đoàn quân Liên Xô trên vùng sát biên giới.

Quân Đức tấn công một ngôi làng ở miền Nam Liên Xô
Ngày 24 tháng 5, Phương diện quân Tây Nam điều các quân đoàn cơ giới 9 và 19 để phản kích vào Kovel và Dubno với ý định chia cắt phía sau tập đoàn quân 6 (Đức). Quân đoàn cơ giới 22 do tướng Konstantin Konstantinovich Rokossovsky chỉ huy sẽ đảm bảo hậu cần cho các đơn vị này. Cũng trong ngày 24 tháng 6, Quân đoàn cơ giới 8 của tướng D. I. Riabyshev phản công trên hướng Berestecko, Quân đoàn cơ giới 15 của tướng I. I. Karpezo cũng tấn công vào Rezekhov, đánh tan sư đoàn bộ binh 57 ở sườn phải Quân đoàn cơ giới 58 (Đức). Thống chế Walther von Reichenau phải tung Quân đoàn 44 từ lực lượng dự bị để giải nguy cho Quân đoàn 58; đồng thời đưa Quân đoàn cơ giới 14 (cũng lấy từ lực lượng dự bị) tăng cường cho hướng Rava - Russkaya; điều quân đoàn 55 tăng cường cho cánh quân tấn công Dubno. Toàn bộ 30 xe tăng KV của Liên Xô tại khu vực phòng thủ Kovel - Dubno đều thiếu đạn chống tăng. G. K. Zhukov đã lệnh cho tướng M. I Potapov, tư lệnh Tập đoàn quân 5 (Liên Xô) cung cấp cho họ loại đạn phá bê tông 09-30г để diệt xe tăng Đức. Đến ngày 27 tháng 6, tập đoàn quân xe tăng 1 và tập đoàn quân 6 (Đức) đã chịu những thiệt hại đáng kể và vẫn chưa tiến qua được khu vực hành lang biên giới rộng 50 km.

Mặt trận Xô-Đức tháng 8 năm 1941. Khu phòng thủ Kiev trở thành một mũi đất nhô về phía Tây, chia cắt Cụm tập đoàn quân Trung tâm và Cụm tập đoàn quân Nam của Đức
Ngày 28 tháng 6, tướng Paul Kleist điều sư đoàn xe tăng 11 của tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) bất ngờ đột kích chiếm Dubno. Trong khi Bộ tư lệnh Phương diện quân Tây Nam phán đoán rằng, cánh quân này sẽ tiến xuống phía Nam để hợp vây tập đoàn quân 6 (Liên Xô) thì trên thực tế, cánh quân xe tăng này tiếp tục vượt qua Ostroh và lao về Kiev. Trên hướng này, tập đoàn quân 16 lại đang lên tàu chuyển quân đi tăng cường cho Phương diện quân Tây. Vì lợi ích chung, tướng M. F. Lukin, tư lệnh tập đoàn quân đã ra lệnh cho hai sư đoàn xuống tàu, quay về phòng thủ Shepetivka và yêu cầu Ủy viên hội đồng quân sự Phương diện quân Tây Nam N. X. Khrushov báo cáo về Moskva xin giữ lại các đơn vị còn lại của tập đoàn quân 16. Cuộc phản kích dự kiến có sự tham gia của các quân đoàn cơ giới 8, 9, 15 và 19 nhưng trên thực tế, chỉ có quân đoàn cơ giới 8 và 15 thực hiện. Mũi đột kích đơn độc của Quân đoàn cơ giới 8 (Liên Xô) hướng về Dubno đã bị Quân đoàn xe tăng 40 (Đức) hợp vây tại khu vực Brody và bị tổn thất nặng. Trên chính diện của Phương diện quân Tây Nam xuất hiện một lỗ hổng lớn ở Đông Nam Dubno. Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) đã lợi dụng lỗ hổng này lao về phía Kiev. Không chịu đựng được thất bại, Chính ủy quân đoàn N. N. Vashughin, Uỷ viên hội đồng quân sự Phương diện quân Tây Nam đã tự sát.
Ngày 1 tháng 7, quân đoàn bộ binh 15 (Liên Xô) bỏ Kovel rút về Stokhot trước nguy cơ bị hợp vây. Để thu hẹp chính diện mặt trận do quân số thương vong nhiều, Bộ tư lệnh phương diện quân Tây Nam cũng lui binh về tuyến sông Ikhva, Zbytyn, Kremenets, Zloshev, Bobrka, Slavuta và mở đợt phản kích vào hướng Tsuman, Stavok (Tây bắc Rovno) để lấp lỗ hổng giữa hai tập đoàn quân 5 và 6. Kết quả phản công không như ý muốn của Bộ tư lệnh phương diện quân Tây Nam. Ngày 7 tháng 7, thống chế Reichenau tập trung lực lượng về phía Nam Novograd - Volynsky, đánh chiếm Berdichev, ngày 9 tháng 7 chiếm Jitomir. Một lỗ hổng còn lớn hơn lỗ hổng tại vùng Dubno lại xuất hiện làm cho các tập đoàn quân 6, 12, 26 của Liên Xô có nguy cơ bị hợp vây. Từ ngay 9 đến ngày 16 tháng 7, Phương diện quân Tây Nam đã tổ chức tập kích liên tục vào các cánh quân Đức, rút được phần lớn lực lượng của ba tập đoàn quân nói trên về củng cố phòng thủ Kiev. Trận hội chiến trên vùng biên giới Ukraina kết thúc. Tuyến mặt trận tại Phương diện quân Tây Nam hình thành một mũi nhô về phía quân Đức trên địa đoạn Kremenchuk, Kiev, Korosten, Kremenets, Pripiat.

Cuộc phòng thủ tại Pháo đài Brest


Bản đồ pháo đài Brest, thành phố Brest và vùng phụ cận năm 1912
Là thành phố địa đầu miền Tây Belorussia, thành phố Brest - Litovsk đã chứng kiến lễ ký kết hiệp định đình chiến Nga - Ba Lan, kết thúc cuộc chiến tranh giữa hai nước năm 1920. Ngày 22 tháng 6 năm 1941, Pháo đài Brest trở thành một trong những địa điểm đầu tiên bị Quân đội Đức Quốc xã tấn công. Sau chiến tranh, Pháo đài Brest trở thành một trong những biểu tượng cho lòng dũng cảm của Quân đội và nhân dân Liên Xô trong cuộc Chiến tranh giữ nước vĩ đại. Nằm giữa ngã ba sông Mukhavets hợp lưu với sông Tây Bug, từ thế kỷ thứ 18, pháo đài Brest là vị trí có ý nghĩa địa quân sự quan trọng, được các kỹ sư quân sự Nga thời kỳ Sa hoàng thiết kế và tổ chức xây dựng như một tòa thành đồ sộ gồm pháo đài chính và 5 đồn binh phụ thuộc, trở thành căn cứ phòng thủ quân sự tiền tiêu trọng yếu ở phía Tây Đế quốc Nga. Trong thời đại công nghiệp quân sự phát triển cao với xuất hiện đại bác nòng rãnh, xe tăng, máy bay, Pháo đài Brest dần mất đi sức mạnh của nó. Tuy nhiên, vào năm 1940, Quân đội Liên Xô vẫn coi đây là một trong các cứ điểm phòng ngự kiên cố và quan trọng trên tuyến biên giới với Ba Lan.

Thiếu tá Pyotr Mikhailovish Gavrilov, một trong năm sỹ quan chỉ huy cuộc phòng thủ pháo đài Brest
Nhiệm vụ phòng thủ pháo đài và toàn bộ dải phòng ngự phụ cận được giao cho sư đoàn bộ binh 18 (Sư đoàn Orion) và sư đoàn bộ binh 42 đều thuộc Tập đoàn quân 4 (Quân khu đặc biệt miền Tây). Đầu mùa hè năm năm 1941, các sư đoàn này đang tham gia cuộc diễn tập quân sự thường niên ở các vùng đồng cỏ và các khu rừng phụ cận thành phố Brest nên trong pháo đài chỉ còn chưa đầy hai trung đoàn bộ binh, trong đó, nòng cốt là trung đoàn 44, sư đoàn 42 do Thiếu tá Pyotr Mikhailovish Gavrilov và Chính ủy trung đoàn Efim Moiseyevish Fomin chỉ huy. Ngoài ra, trong khu vực pháo đài còn có các đồn biên phòng số 9 do trung úy Andrei Kijevatov chỉ huy và đồn biên phòng số 17 Cờ đỏ do thiếu tá A. P. Kuznesov chỉ huy; tổng quân số hai đồn khoảng một đại đội. Để tấn công khu vực này, thống chế Günther von Kluge, tư lệnh tập đoàn quân 4 Đức đã bố trí tại khu vực đối diện với Pháo đài Brest quân đoàn bộ binh 17 do tướng Schroth chỉ huy. Trong đó, sư đoàn 45 tấn công chính diện, các sư đoàn 31 vu hồi phía Bắc pháo đài vào thành phố Brest, sư đoàn 34 tấn công vu hồi phía Nam pháo đài.

Di tích cổng Kholm của pháo đài Brest với vô số vết đạn. Phía bên trái cổng có tấm bia tưởng niệm Chính ủy Fomin, một trong các chỉ huy pháo đài, đã hi sinh tại đây ngày 30 tháng 6 năm 1941
3 giờ 15 phút sáng 22 tháng 6 năm 1941, Pháo binh Đức Quốc xã trút xuống pháo đài những loạt đạn đầu tiên của trận pháo kích kéo dài hơn nửa giờ. 4 giờ 15 phút, bộ binh và xe tăng Đức tấn công pháo đài từ ba hướng: Bắc, Tây Bắc và Tây Nam. Sau gần một giờ hoảng loạn, Quân đội Xô viết trong pháo đài đã tập hợp dưới sự chỉ huy của thiếu tá Gavrilov và đại úy Ivan Nikolaevish Zhubashev. Ít phút sau, Chính ủy Fomin cũng tham gia Ban chỉ huy. Họ đã ra bản "Mệnh lệnh số 1", phân công các vị trí phòng thủ trong pháo đài. Từ ngày 22 đến 28 tháng 6, quân đội Xô viết còn lại trong pháo đài đã mở nhiều cuộc phản kích, ba lần đánh lui quân Đức ra khỏi pháo đài. Các khu vực nhà chỉ huy, doanh trại công binh, lũy phía Đông, Đồn Đông, cổng Brest, cổng Kholm, cổng Terepolsky, cổng Bắc đều biến thành các hỏa điểm của quân đội Liên Xô. Lính Đức phải dùng cả đến hơi ngạt, súng phun lửa, bom cháy và tháo nước vào các đường hầm để dìm chết đối phương, dùng thuốc nổ đánh sập các căn nhà kiên cố nhưng vẫn không bẻ gãy được sức kháng cự của họ. Ban chỉ huy lực lượng phòng thủ pháo đài dự định tổ chức phá vây vào đêm 27 tháng 6 nhưng không thành công và bị thiệt hại lớn về người. Ngày 29 tháng 6, Không quân Đức oanh tạc cấp tập xuống pháo đài bằng nhiều loại bom phá hạng nặng. Song, quân đội Liên Xô đồn trú trong pháo đài còn sống sót vẫn tiếp tục chiến đấu đơn độc, không có tiếp tế, không có pháo binh và không quân yểm hộ. Lúc đó, hậu phương Xô Viết vẫn chưa hề biết đến họ.
Ngày 30 tháng 6, quân Đức dùng thuốc nổ phá sập tòa nhà chính, nơi đóng Sở chỉ huy phòng thủ pháo đài. Chính ủy Fomin bị bắt và bị quân Đức sát hại ngay tức khắc do lời tố giác của một kẻ phản bội. Thiếu tá Gavrilov bị bắt làm tù binh và được giải phóng khỏi trại Hammensburg tháng 4 năm 1945. Đại úy Zhubachev cũng bị bắt và bị chết trong tù năm 1944. Một số sĩ quan chỉ huy và hơn 20 binh sĩ Liên Xô, trong đó có thượng úy Semenenko, trung úy Vinogradov đã mở đường máu thoát vây, tham gia đội du kích của A. F. Fedotov đang hoạt động trong khu rừng Beloveja và tiếp tục chiến đấu.
Mặc dù Ban chỉ huy phòng thủ pháo đài đã mất nhưng những người còn lại vẫn không đầu hàng. Những người lính Xô Viết cuối cùng trước khi ngã xuống tại khu doanh trại phía Tây đã dùng lưỡi lê khắc lên tường nhà lời trăng trối:
Tôi thà chết chứ không đầu hàng. Vĩnh biệt Tổ Quốc.
—20/VII- 41, 
Đến ngày 25 tháng 7, hiệu thính viên K. I Korshakov thuộc sư đoàn bộ binh 262 thuộc Phương diện quân Tây Nam đóng tại Staraya - Russa đã tình cờ nhận được bức điện cuối cùng được phát không mã từ Pháo đài Brest:
Tình hình nguy kịch, pháo đài sắp thất thủ, chúng tôi tiêu diệt lũ súc sinh, chúng tôi sẽ nổ mìn bắt chúng chết theo chúng tôi.
—Pháo đài, 
Cuộc phòng thủ ở pháo đài Brest sau này đã tạo cảm hứng cho nhà văn Boris Vasiliev viết tiểu thuyết nổi tiếng Tên anh không có trong danh sách (В списках не значился, 1974), tác phẩm này đã khắc họa hình ảnh những người lính Xô viết tử thủ cuối cùng tại đây sau khi pháo đài đã rơi vào tay quân đội Đức.

Chiến dịch Smolensk


Mặt trận vùng Smolensk từ này 10 đến 18 tháng 7 năm 1941
Kết thúc trận hội chiến tại Belorussia, Quân đội Liên Xô tại Phương diện quân miền Tây bị tổn thất đặc biệt lớn với quân số bị chết, bị bắt, bị thương lên đến 420.000 người. Tuy nhiên, tinh thần chiến đấu của Quân đội Liên Xô làm cho các tướng lĩnh Đức phải kinh ngạc. Tướng Hermann Hoth, tư lệnh Tập đoàn quân xe tăng 3 (Đức) ghi nhận: "Quân địch bị đẩy lùi khỏi biên giới nhưng chẳng bao lâu đã chấn chỉnh lại và chuyển sang phản công. Các thiết giáp của họ chặn đánh làm cho quân Đức không tiến lên được". Mặc dù Quân đội Đức quốc xã cũng bị thương vong 389.924 người (vượt qua tổng số thương vong trong các cuộc chiến với Pháp, Ba Lan, Na Uy, Đan Mạch, Bỉ, Hà Lan, Luxembourg, Hy Lạp, Nam Tư); nhưng đến ngày 5 tháng 7 năm 1941, tại mặt trận này, Quân đội Đức Quốc xã vẫn tạo được ưu thế 1,8 lần về quân số, 1,5 lần về xe tăng hạng nặng và hạng trung, 3,2 lần về máy bay chiến đấu, 1,2 lần về pháo và súng cối. Vẫn tin tưởng vào "Kế hoạch Barbarossa" do những thắng lợi vừa đạt được và cho rằng người Nga sẽ không thể giữ vững được vì không còn dự trữ, ngày 10 tháng 7, Thống chế Fedor von Bock mở chiến dịch tấn công Smolensk với mục tiêu mở con đường ngắn nhất để vào Moskva.
Với ý định kết thúc sớm chiến tranh, Hitler lệnh cho thống chế Walther von Brauchitsch lấy quân của Cụm tập đoàn quân Bắc tăng cường cho Cụm tập đoàn quân Trung tâm. Ngoài hai tập đoàn quân xe tăng 2 và 4, hai tập đoàn quân binh chủng hợp thành 4 và 9, Bộ Tư lệnh Cụm tập đoàn quân Trung tâm của Đức còn được bổ sung thêm Tập đoàn quân xe tăng 4 điều từ hướng Leningrad xuống và quân đoàn xe tăng 8 từ lực lượng dự bị vào chiến dịch này thay cho quân đoàn cơ giới 26 của tập đoàn quân 2 được tạm thời điều sang Cụm tập đoàn quân Nam. Quân đội Liên Xô phòng thủ trên hướng Smolensk gồm tập đoàn quân 22 của trung tướng F. A. Ershakov, tập đoàn quân 19 của trung tướng I. X. Konev, tập đoàn quân 20 của trung tướng P. A. Kurotkin, tập đoàn quân 13 của trung tướng F. N. Remezov, tập đoàn quân 16 (thiếu) của tướng M. F. Lukin. Quân Đức vẫn dùng chiến thuật quen thuộc sử dụng các binh đoàn xe tăng đột kích từ hai bên sườn để chia cắt và hợp vậy chủ lực cơ bản đối phương tại vùng gần mặt trận. Tập đoàn quân xe tăng 2 từ vùng Sklov đánh vu hồi vào Smolensk từ hướng Tây Nam. Riêng quân đoàn cơ giới 24 tại Byschov được tách ra để phát triển tấn công sâu hơn theo hướng Krischev và Yelnia. Tập đoàn quân xe tăng 3 phối hợp với các quân đoàn bộ binh 5 và 6 (tập đoàn quân 9) vu hồi hướng Tây Bắc. Tập đoàn quân 4 và quân đoàn bộ binh 7 (tập đoàn quân 9) hoạt động tại chính diện tấn công.
Từ ngày 10 đến ngày 14 tháng 7, Tập đoàn quân xe tăng 3 (Đức) đã đột phá qua Polotsk, Vitebsk và phía Bắc Mogilev, buộc cánh phải của Phương diện quân Tây phải lùi về Nevel. Tập đoàn quân xe tăng 3 trong đó sư đoàn xe tăng Reich ("Đế chế") đã hợp vây toàn bộ tập đoàn quân 13 (Liên Xô) tại Mogilev và vùng phụ cận nhưng đã phải để lại tại đây hai quân đoàn cơ giới 24 và 46 do tập đoàn quân 13 (Liên Xô) liên tục đột kích phá vây. Tập đoàn quân 21 (Liên Xô) vượt sông Dnepr, tái chiếm Rogachev và Zhlobin, tiếp tục tiến lên phía Bắc đến Bobruisk, đánh vào sau lưng tập đoàn quân xe tăng 2, mở vây cho tập đoàn quân 13. Quân Đức chỉ chiếm lại được Rogachev và Zhlobin sau 23 ngày giao chiến với tổn thất gần 30.000 sĩ quan và binh sĩ. Tám sư đoàn Đức vẫn bị giam chân tại Bobruisk cho đến kết thúc chiến dịch. Mặc dù các tập đoàn quân 19, 20, và 22 đã liên tục phản đột kích trên chính diện và sườn phía Bắc nhưng đến ngày 16 tháng 7, xe tăng Đức đã đột nhập vào Smolensk. Các tập đoàn quân 16 và 20 (Liên Xô) đã bị bao vây tại đây.
Để lấp lỗ hổng phòng ngự trên hướng này, ngoài tập đoàn quân 24 đã có, Bộ Tổng tư lệnh tối cao lập tức điều động cho Phương diện quân Dự bị các tập đoàn quân 28, 29, 30, 31 và bố trí nó dọc theo tuyến Staraya - Russa, Ostakov, Belyi, Yelnia và Briansk để chặn các ngả đường vào Moskva. Phương diện quân Tây được tăng cường 20 sư đoàn bộ binh (tương đương 2 tập đoàn quân) với nhiệm vụ khôi phục lại tình hình vùng Smolensk. Để giữ hướng Gomel, Bộ Tổng tư lệnh Liên Xô cũng đã thành lập Phương diện quân Trung tâm gồm tập đoàn quân 4 (mới tái lập) và các tập đoàn quân 13, 21 tách ra từ Phương diện quân Tây. Từ ngày 23 đến ngày 25 tháng 7, tập đoàn quân 28 xuất phát tấn công từ Roslavl, các tập đoàn quân 24 và 30 tấn công từ Belyi và Yashevo; đồng thời, các tập đoàn quân 16 và 20 cũng từ Smolesk đánh ra. Ngày 26 tháng 7, tập đoàn quân 30 của trung tướng K. K. Rokossovsky đã đón gặp các tập đoàn quân 16 và 20 từ Smolensk phá vây vượt ra. Riêng tập đoàn quân 28 của trung tướng V. Ya. Kashalov bị vây tại khu vực phía Tây Roslavl, bị 9 sư đoàn bộ binh và một quân đoàn cơ giới Đức bao vây, tiêu diệt. Trung tướng V. Ya. Kashalov tử trận. Ngày 28 tháng 7, quân đoàn cơ giới 46 (Đức) tiếp tục tiến chiếm bàn đạp Yelnia nhưng đã bị Tập đoàn quân 24 (Liên Xô) chặn đứng.
Trong chiến dịch này, hai bên đều chịu những tổn thất rất lớn và đều không đạt được mục tiêu cuối cùng. Quân Đức thực sự "mất máu" trong trận này với hơn 250.000 quân thương vong, hơn 500 xe tăng, xe thiết giáp bị mất. Số thương vong của Quân đội Liên Xô còn lớn hơn thế nhưng ít nhất họ cũng đã phá vỡ ý đồ tiến chiếm Moskva trong hành tiến của Cụm tập đoàn quân Trung tâm (Đức). Sau trận này, các sư đoàn của Cụm tập đoàn quân Trung tâm đã không còn phục hồi được sức mạnh của họ sau những đòn phản công của Quân đội Liên Xô. Sức mạnh của quân đội Đức đã bị bẻ gãy. Tuy nhiên, Quân đội Liên Xô cũng có thêm 700.000 thương vong (trong đó hơn 300.000 sĩ quan và binh sĩ bị bắt làm tù binh) cùng khoảng 3.000 xe tăng, thiết giáp và các phương tiện cơ giới khác bị quân Đức phá hủy hoặc tịch thu.

Cuộc tấn công và đánh chiếm Kiev


Quân Đức chiếm cây cầu Okuninovo
Do kết quả của các trận hội chiến trên biên giới Liên Xô tại Ukraina bất lợi cho Phương diên quân Tây Nam, ngày 30 tháng 6 năm 1941, Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh tối cao Liên Xô cho phép Phương diện quân đến ngày 9 tháng 7 được rút lui về tuyến Corosten, Novograd - Volynsky, Shepetivka, Starokostiantyniv, Proskurov. Ngày 1 tháng 7, Bộ Tổng tư lệnh tối cao đã lấy một phần biên chế của tập đoàn quân 26 để thành lập tập đoàn quân 18 và bố trí nó vào chỗ đứt đoạn giữa Phương diện quân Nam và Phương diện quân Tây Nam trên khu vực Kamenets Podolski. Tuy nhiên, tập đoàn quân xe tăng 1 và tập đoàn quân 6 (Đức) đã đi trước các đơn vị Liên Xô. Ngày 7 tháng 7, Berdichev thất thủ, ngày hôm sau, Jitomir cũng bị quân đoàn cơ giới 3 Đức đánh chiếm. Tư lệnh phương diện quân Tây Nam Kirponnos chỉ còn trong tay quân đoàn bộ binh 6 để lấp cửa mở, không còn pháo binh chi viện. Để tăng cường binh lực bảo vệ Kiev, Bộ Tổng tham mưu quân đội Xô Viết đã lấy phải từ lực lượng dự trữ chiến lược Quân đoàn đổ bộ đường không số 2 ném vào mặt trận Tây Nam.
Đến ngày 1 tháng 7, thống chế Walther von Brauchitsch điều tập đoàn quân xe tăng 2 tiến xuống phía Nam để "thanh toán" chủ lực Phương diện quân Tây Nam của Liên Xô trước khi tiến hành trận công kích Moskva. Tình hình của Phương diện quân Tây Nam trở nên phức tạp. Trong các ngày từ 17 đến 22 tháng 7, Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) của tướng Paul Kleist tiếp tục khoan sâu lỗ thủng ở vùng Uman, đẩy cánh Bắc và cánh Nam của Phương diện quân Tây Nam ngày càng tách rời nhau. Ngày 28 tháng 7, thiếu tướng V. I. Tupikov được cử làm tham mưu trưởng Phương diện quân Tây Nam thay trung tướng M. A. Purkaev được rút về Bộ Tổng tham mưu. Trong thời gian từ 22 đến 28 tháng 7, Cụm tập đoàn quân Nam của quân đội Đức đã tập trung hơn 20 sư đoàn quanh các cửa ngõ vào Kiev. Ngày 29 tháng 7, tại cuộc gặp giữa I.V. Stalin, G. K. Zhukov, L. D. Mekhlick trong phòng làm việc của Stalin, khi nghe đề nghị của Zhukov rút thêm quân từ Viễn Đông về phòng thủ Moskva và phải bỏ Kiev vì không đủ lực lượng; Stalin đã chê trách Zhukov là hồ đồ, đã cho Zhukov thôi chức Tổng tham mưu trưởng, (Nguyên soái B. M. Shaposhnikov thay) và điều ông đi Phương diện quân Dự bị để tổ chức trận phản công tại Yelnia.

Hỏa điểm với xe tăng được chôn ngầm trong locot bên bờ sông Dniestr
Mặc dù kìm chân được Tập đoàn quân 6 và quân đoàn xe tăng 48 của tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) ở khu vực Korosten - Kiev nhưng tại cánh Nam, ngày 2 tháng 8, tập đoàn quân 17 và chủ lực tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) đã hợp vây các tập đoàn quân 6 và 12 của Quân đội Liên Xô tại Uman. Vì những thiếu hụt về binh lực, Bộ tư lệnh Phương diện quân Nam đề nghị cho rút về tuyến sông Ingrun. Tuy nhiên, I. V. Stalin không đồng ý rút nhanh và yêu cầu phải phòng thủ Odessa đến hết khả năng. Trong khi Phương diện quân Tây Nam chưa giải vây được cho hai tập đoàn quân 6 và 12 tại vùng Uman thì ngày 8 tháng 8, tập đoàn quân 2 và tập đoàn quân xe tăng 2 (Đức) mở cuộc tấn công xuống Gomel, Chernigov, RoslavlStarodub, đẩy lùi Phương diện quân Trung tâm (Liên Xô) sâu đến hơn 100 km. Để cứu vãn tình hình ở khu vực này. Ngày 8 tháng 8, Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh Liên Xô đã thành lập Phương diện quân Briansk gồm hai tập đoàn quân 13 và 50 do tướng A. I. Yeriomenko chỉ huy nhưng do lực lượng quá mỏng (chỉ có 7 sư đoàn bộ binh) Phương diện quân này cùng với Phương diện quân Trung tâm cũng không khôi phục được tình hình mà còn bị đẩy lùi sâu thêm về hướng Đông, làm cho tuyến mặt trận của Phương diện quân Tây Nam vốn đã dài trên 800 km nay lại kéo dài thêm hơn 100 km nữa.
Ngày 4 tháng 8, thống chế Walther von Reichenau tập trung bộ binh, xe tăng, cơ giới và gần như toàn bộ tập đoàn quân không quân 4 vào một chính diện hẹp và mở cuộc đột kích khu phòng thủ Kiev từ các hướng Tây và Tây Nam. Mặc dù Phương diện quân Tây Nam được tăng cường thêm hai tập đoàn quân 38 (chỉ có 5 sư đoàn) và lữ đoàn đổ bộ đường không số 5 nhưng phải rải quân trên chính diện hơn 350 km quanh Kiev nên tại đoạn đột phá, quân Đức vẫn chiếm ưu thế. Từ ngày 4 đến ngày 8 tháng 8, hơn 30 trận kịch chiến đã diễn ra quanh Kiev với thiệt hại rất lớn cho cả hai bên. Ngày 9 tháng 8, quân đoàn 6 cơ giới (Đức) đã đột phá đến Myshilovka và Sovky. Phương diện quân Tây Nam không còn lực lượng dự bị cho hướng này. Ngày 16 tháng 8, Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô đồng ý với đề nghị của nguyên soái Semeon Budyonny, Tổng tư lệnh hướng Tây Nam cho rút tập đoàn quân 5 sang tả ngạn sông Dnepr. Việc này giúp cho Phương diện quân thu hẹp chính diện mặt trận để rút ra tám sư đoàn dự bị để sử dụng cho khu phòng thủ Kiev; nhưng cũng làm cho tập đoàn quân 6 (Đức) được "rảnh tay" ở phía Bắc và điều các đơn vị ở hướng này đến cửa ngõ Kiev. Phát hiện quân đội Liên Xô rút quân, ngày 22 tháng 8, sư đoàn xe tăng 11 (Đức) đã đánh chiếm cây cầu Okuninovo và một số bến vượt trên đường rút quân của Tập đoàn quân 5 (Liên Xô). Quân đoàn 27 (Tập đoàn quân 5) có nguy cơ bị bao vây bên hữu ngạn sông Dnepr. Vượt qua cây cầu này, sư đoàn xe tăng 11 (Đức) lao nhanh về Kiev; buộc bộ tư lệnh Phương diện quân Tây Nam phải cho phá sập toàn bộ các cầu trên sông Dnepr và Desna. Ngày 24 tháng 8, cầu Okuninovo bị không quân Liên Xô phá sập sau khi Quân đoàn 27 đã rút hết sang tả ngạn Dnepr.
Cuối tháng 8 năm 1941, ngoài bàn đạp Okuninovo, Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) đã chuẩn bị một cuộc tấn công lớn từ phía Nam Kiev đến Dnepropetrovsk do tập đoàn quân 17 và tập đoàn quân xe tăng 1 thực hiện. Tại hướng Bắc, mặc dù được chuyển giao hai tập đoàn quân 21 và 40 nhưng Phương diện quân Briansk vẫn không cản được đường tiến xuống phía Nam của Tập đoàn quân xe tăng 2 (Đức). Trên hướng Konotop, Chernigov, sườn phía Bắc của Tập đoàn quân 5 (Liên Xô) bị hở. Mãi đến ngày 6 tháng 9, Bộ tổng tư lệnh tối cao Liên Xô mới chuyển tập đoàn quân 21 cho Phương diện quân Tây Nam thì tình hình cánh Bắc của phương diện quân này đã cực kỳ nghiêm trọng. Tập đoàn quân 5 (Liên Xô) đã nằm giữa hai gọng kìm của sư đoàn xe tăng 11 và tập đoàn quân xe tăng 2 (Đức), ở vào thế không còn đường rút. Ngày 10 tháng 9, sư đoàn xe tăng 3, tập đoàn quân xe tăng 2 (Đức) sau khi vượt qua Baturin và Konotop đã lao đến Romny, phía sau Kiev. Ngày 12 tháng 9, tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) đột kích vào Oster - Kremenchuk, chia cắt chính diện cánh Nam của Phương diện quân Tây Nam và tiến nhanh lên Romny để hội quân với Tập đoàn quân xe tăng 2 (Đức). Ba tập đoàn quân 5, 26, 37 và một phần các tập đoàn quân 21 và 38 của Phương diện quân Tây Nam đã bị hợp vây với tuyến mặt trận không còn liên tục.

Khu Maidan, thành phố Kiev bị máy bay Đức quốc xã ném bom hủy diệt, mùa hè năm 1941
Đến tận ngày 15 tháng 9, khi hai tập đoàn quân xe tăng và ba tập đoàn quân dã chiến Đức đã khép vòng vây quanh ba tập đoàn quân Liên Xô ở phía Đông Kiev nhưng I. V. Stalin vẫn coi nhẹ nguy cơ chủ lực Phương diện quân Tây Nam bị vây cũng như không xem xét nghiêm chỉnh đề nghị rút quân của Tổng tư lệnh hướng Tây Nam và Bộ tư lệnh Phương diện quân. Đánh giá quá cao ý nghĩa của các cuộc tấn công hạn chế của Phương diện quân Tây, Phương diện quân Dự bị và Phương diện quân Briansk vào sườn trái của tập đoàn quân xe tăng 2, đặc biệt là quá tin vào lời cam kết của tư lệnh Phương diện quân Briansk, tướng Yeriomenko; Stalin đã để lỡ cơ hội rút quân của chủ lực Phương diện quân Tây Nam. Chỉ đến ngày 17 tháng 9, khi tình hình mặt trận Tây Nam đã rõ ràng không thể cứu vãn được. Stalin mới đồng ý cho rút quân nhưng đã quá muộn. Trong các trận chiến đấu phá vây từ 17 đến 19 tháng 9, chỉ có 1/4 lực lượng của Phương diện quân Tây Nam thoát vây. Tư lệnh phương diện quân, tướng M. P. Kirponosh, tham mưu trưởng phương diện quân, tướng P. I. Tupikov và ủy viên Hội đồng quân sự phương diện quân M. A. Burmistenko tử trận. Ngày 20 tháng 9, Nguyên soái Semeon Timoshenko được chỉ định làm Tư lệnh Phương diện quân Tây Nam đã thu thập các đơn vị còn lại và bố trí phòng thủ trên tuyến Belopolie, Lebedin, Krasnograd, Novomoskovsk. Cùng với hai bộ tư lệnh hướng Tây Bắc và Tây, Bộ tổng tư lệnh hướng Tây Nam bị giải thể. Cuộc phòng thủ Kiev kết thúc với kết quả không như mong muốn của các nhà quân sự Liên Xô. Quân đội Đức Quốc xã đã chiếm trọn phần nửa phía Tây Ukraina. Do Stalin không chấp nhận triệt thoái mà 600.000 quân Liên Xô bị bắt làm tù binh.

Trận phản kích Yelnya


Một đơn vị Xe tăng KV (Liên Xô) giải phóng một ngôi làng trong trận Yelnya
Yelnia là một thị trấn nhỏ nằm ở phía Tây thành phố Spat Demiansk, phía Tây Nam Dorogobuzh. Sau chiến dịch Smolensk, tập đoàn quân xe tăng 4 của Đức đã chiếm thị trấn này và dự định dùng nó làm bàn đạp tấn công Moskva từ hướng Tây Nam. Ngay sau khi được cử làm Tư lệnh Phương diện quân Dự bị (thực chất đã trở thành Phương diện quân chính thức phòng ngự bên cánh trái Phương diện quân Tây); G. K. Zhukov đã ra ngay mặt trận để thị sát tình hình. Ông kết luận rằng Tập đoàn quân 24 (trong biên chế chỉ có ba sư đoàn bộ binh), không đủ sức phản kích vào cụm quân Đức đóng tại đây và cần phải tăng viện cho họ thêm hai sư đoàn nữa. Phía trước tập đoàn quân 24 là sư đoàn xe tăng 10 và sư đoàn xe tăng SS "Größ-Deuschland" đều thuộc Tập đoàn quân xe tăng 4 mới được điều từ hướng Leningrad đến trong Chiến dịch Smolensk.
Ngày 20 tháng 8, Tập đoàn quân 24 (Liên Xô) mở cuộc phản kích vào "mỏm" Yelnia cùng toàn bộ số máy bay và pháo của Phương diện quân Dự bị. Lần đầu tiên, tên lửa đất đối đất tầm ngắn Katyusha của quân đội Liên Xô được đem ra sử dụng. Tại Ushakovo, trung tâm phòng ngự của sư đoàn xe tăng 10 (Đức) đã bị hàng trăm quả đạn Katyusha san bằng. Đến ngày 6 tháng 9, các sư đoàn 19, 100, 107 của tập đoàn quân 24 và hai sư đoàn được tăng cường đã đánh bật hai sư đoàn xe tăng Đức ra khỏi vùng Yelnia, 45.000 quân Đức chết và bị thương. Tuy nhiên, Tập đoàn quân 24 không hợp vây được hai sư đoàn xe tăng Đức vì thiếu xe tăng. Tập đoàn quân xe tăng 4 (Đức) đã rút được phần lớn các phương tiện cơ giới khỏi Yelnia.
Mặc dù diễn ra trong thời gian ngắn, chỉ nhằm thanh toán một cứ điểm bàn đạp của Quân đội Đức chuẩn bị cho cuộc tấn công Moskva với quy mô cấp tập đoàn quân nhưng toàn bộ trận phản kích Yelnia cho thấy trình độ tổ chức tấn công của Quân đội Xô Viết đã được cải thiện. Trận đánh này cũng đem lại nhiều kinh nghiệm về việc tập trung hỏa lực pháo binh cường tập với mật độ cao để phá vỡ tuyến phòng ngự có tổ chức của đối phương, tạo cửa mở và yểm hộ bộ binh tấn công. Trong năm 1941 đen tối đối với Quân đội Liên Xô, thắng lợi nhỏ ở Yelnia đã có một ý nghĩa tinh thần to lớn.
Sau trận Yelnia, đại tướng G. K. Zhukov được cử đến Leningrad làm tư lệnh phương diện quân này, nguyên soái S. K. Timoshenko được cử là tư lệnh Phương diện quân Tây Nam (tái lập), trung tướng I. S. Koniev được cử làm tư lệnh phương diện quân Tây, nguyên soái S. M. Budyonny thay Zhukov làm tư lệnh phương diện quân dự bị.

Cuộc phòng thủ Odessa


Đại tá N. I. Krylov, tham mưu trưởng khu phòng thủ Odessa năm 1941
Sau khi chiến tranh nổ ra, Quân khu Odessa ban đầu được chuyển thành Tập đoàn quân độc lập số 9, sau đó đổi thành Cụm quân duyên hải. Từ ngày 30 tháng 6, Bộ tư lệnh Phương diện quân Nam được thành lập. Trung tướng Ya. T. Terevishenko làm tư lệnh Phương diện quân. Đây là Phương diện quân có biên chế ít nhất trong số 8 phương diện quân Liên Xô thời kỳ đầu chiến tranh. Nó gồm 13 sư đoàn bộ binh nhẹ, 3 sư đoàn kỵ binh, 2 sư đoàn cơ giới, phòng thủ trên 320 km chính diện trên tuyến biên giới với Slovakia, Hungary và Romania. Trong kế hoạch Barbarossa, đây là hướng thứ yếu của Cụm tập đoàn quân Nam (Đức). Thống chế Gerd von Rundstedt chỉ điều động cho hướng này tập đoàn quân 11 (thiếu). Để bổ sung cho hướng này, từ ngày 1 tháng 7 năm 1941, Gerd von Rundstedt đã điều động thêm tập đoàn quân 4 Romania, quân đoàn bộ binh 9 Ý tham chiến.
Trong tuần lễ đầu tiên của cuộc chiến tranh Xô-Đức, mặt trận miền Nam tương đối yên tĩnh. Cụm tập đoàn quân Nam của Đức dồn toàn bộ chủ lực về hướng Kiev. Đến ngày 1 tháng 7, tập đoàn quân 4 Romania đã vượt biên giới tấn công về hướng Odessa. Ngày 18 tháng 7, tập đoàn quân xe tăng 1 và tập đoàn quân 11 Đức đã cắt rời hai tập đoàn quân 6 và 12 thuộc Phương diện quân Tây Nam và bao vây phần lớn các đơn vị của hai tập đoàn quân này tại Uman. Tướng I. N. Muzytshenko, tư lệnh tập đoàn quân 6 và tướng P. G. Ponedelin, tư lệnh tập đoàn quân 12 bị bắt làm tù binh tại Uman. Bộ tổng tư lệnh Liên Xô phải gấp rút thành lập thêm tập đoàn quân 18 để lấp vào lỗ trống trên mặt trận, tái lập hai tập đoàn quân 6 do tướng R.I Malinovsky và 12 do tướng Koroteev chỉ huy; khôi phục lại tuyến phòng ngự phía Nam Ukraina. Đến ngày 25 tháng 8 năm 1941, hai tập đoàn quân 11 (Đức) và 4 (Romania) đã tiến đến bờ Đông sông Dnepr và cửa ngõ bán đảo Krym; đánh chiếm Kirovograd, Krivoi Rog, NikolayevKherson; ngày 5 tháng 8, quân Đức bao vây thành phố cảng Odessa.

Pháo chống tăng của Quân đội Xô Viết tham gia phòng thủ Odessa. Tháng 8 năm 1941
Tham gia phòng thủ Odessa ban đầu có có phân hạm tuần duyên do Hạm trưởng bậc nhất Georgiy Safronov chỉ huy, hai lữ đoàn hải quân đánh bộ 33 và 60 của Hạm đội biển Đen dưới quyền chỉ huy của các trung tá D. I. Surov, B. V. Kudriavshev và cụm quân Duyên hải gồm ba sư đoàn bộ binh Liên Xô dưới quyền chỉ huy của tướng I. E. Petrov và tham mưu trưởng, đại tá N. I. Krylov. Tổng quân số có 34.500 người và 240 khẩu pháo, cối. Kế hoạch phòng thủ Odessa của phương diện quân Nam đã được đại tướng G. K. Zhukov bổ sung. Bao vây và tấn công Odessa ban đầu có quân đoàn bộ binh 72 (Đức) và tập đoàn quân 4 (Romania) do tướng Dumitrescu chỉ huy. Đến tháng 10, Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) điều thêm đến khu vực Odessa quân đoàn 9 thuộc tập đoàn quân 8 (Italia). Các đơn vị này có tổng quân số 340.233 người.

Xe tăng Panzer IV yểm hộ bộ binh Đức tấn công
Cuộc phòng thủ Odessa bắt đầu ngày 5 tháng 8 năm 1941 khi Phương diện quân Nam của Liên Xô rút khỏi vùng ven biển phía Tây Nam vì không còn đủ lực lượng để phản kích. Quân đội Xô Viết và người dân Odessa đã chiến đấu liên tục trong hơn hai tháng, thực hiện việc phòng thủ khu vực Odessa đến người cuối cùng. Từ ngày 5 đến ngày 10 tháng 8, không quân và pháo binh Đức mở cuộc nhiều trận oanh tạc và bắn phá thành phố. Ngày 13 tháng 8, tập đoàn quân 4 Romania bắt đầu đột kích dọc bờ biển vào thành phố từ phía Tây Nam nhưng đều bị các lữ đoàn hải quân đánh bộ 33 và 60 (Liên Xô) đánh bật trở lại. Ngày 14 tháng 9, sau khi đã bao vây và loại khỏi vòng chiến đấu phần lớn binh lực của hai tập đoàn quân 6 và 12 (Liên Xô) tại vùng Uman, quân đoàn cơ giới 50 (Đức) được điều về khu vực Odessa. Ngày 15 tháng 8, Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Xô Viết điều phân hạm đội 157 do Hạm trưởng bậc nhất D. I. Tomilin với 12.600 quân từ khu phòng thủ Novorossisk cơ động đường biển đến tăng viện cho cụm quân Duyên hải, phòng thủ phía Bắc Odessa. Đến ngày 24 tháng 9, nhiều trận đánh ác liệt đã nổ ra tại các khu vực Tshabanky, Staroiy và Novo Dofinovky. Ngày 30 tháng 9, tuyến phòng thủ thành phố bị xe tăng Đức chọc thủng nhưng cuộc phòng thủ vẫn tiếp tục trong các ổ đề kháng được bố trí khắp khu vực nội đô. Ngày 16 tháng 10, do tập đoàn quân 11 (Đức) đã đột nhập bán đảo Krym và tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) đã chiếm Taganrog; Phương diện quân Nam quyết định rút các lực lượng còn lại tại Odessa theo đường biển về phòng thủ Sevastopol. Cuộc phòng thủ Odessa chấm dứt.

Mặt trận Leningrad


Ba bước tấn công của Cụm tập đoàn quân Bắc (Đức) về hướng Leningrad, hè - thu năm 1941
Trong kế hoạch Barbarossa, Leningrad là một trong ba mục tiêu chiến lược. So với hai mục tiêu còn lại (Moskva và Kiev), đây là hướng mà Quân đội Xô Viết có ít binh lực hơn. Adolf Hitler tuyên bố: "Phải xóa thành phố này khỏi bản đồ thế giới, phải phá hủy nó bằng các cỡ đại bác và không quân tầm xa".
Sau khi đánh tan Phương diện quân Pribaltic, chiếm Tallinn, buộc số quân còn lại và Bộ chỉ huy Phương diện quân này phải rút về Leningrad bằng đường biển; ngày 19 tháng 8 năm 1941, Cụm tập đoàn quân Bắc của thống chế Wilhelm von Leeb đã tạo được ưu thế 3/1 tại mặt trận này và mở cuộc tổng công kích tiến đến Leningrad. Từ ngày 22 đến 24 ngày tháng 8, Phương diện quân Bắc được thành lập và mở cuộc phản công tại vùng Novgorod. Quân đoàn xe tăng 56 (Đức) bị thiệt hại nặng. Lỗ thủng đột phá do cuộc phản công này tạo ra sâu đến 60 km buộc Thống chế Wilhelm von Leeb phải ném vào đây hai sư đoàn cơ giới để bảo vệ hậu cứ của Cụm tập đoàn quân Bắc và đẩy lùi Quân đội Xô Viết về tuyến xuất phát. Đầu tháng 9, tập đoàn quân 18 đã chiếm vùng Narva, cửa ngõ phía Tây Leningrad. Ngày 4 tháng 9, cứ điểm Shlisselburg thất thủ, tập đoàn quân 16 và tập đoàn quân xe tăng 4 (Đức) đã chiếm khu vực bờ Nam Hồ Ladoga; bao vây Leningrad từ hướng Nam và Đông Nam. Ở phía Bắc, quân đoàn Phần Lan tấn công vào eo đất Karelia, phối hợp với quân Đức bao vây Leningrad từ hướng Bắc. Trên hướng Tây Leningrad, mỏm đất Oranienbaum vẫn do Hải quân đánh bộ Hạm đội Baltic (Liên Xô) đóng giữ (còn được gọi là "Cụm chiến dịch ven biển"), trở thành mối đe dọa thường xuyên đối sườn trái của tập đoàn quân 18 (Đức). Leningrad chỉ còn có thể liên lạc với hậu phương Xô Viết qua mặt hồ Ladoga. Cuộc phòng thủ 900 ngày của Quân đội và nhân dân Liên Xô tại Leningrad bắt đầu.
Ngày 5 tháng 9, Bộ Tổng tư lệnh tối cao Quân đội Liên Xô đã chia Phương diện quân Bắc thành hai Phương diện quân: Leningrad và Karelia. Ban đầu, nguyên soái K. E. Vorosilov được cử làm tư lệnh Phương diện quân, tướng M. M. Popov làm tham mưu trưởng. Đến ngày 10 tháng 9, K. E. Vorosilov xin từ chức. I. V. Stalin bổ nhiệm đại tướng G. K. Zhukov làm tư lệnh Phương diện quân Leningrad, trung tướng M. X. Khozin được cử làm tham mưu trưởng. Bộ Tư lệnh Phương diện quân đã tiến hành ngay ba biện pháp phòng thủ trong tình hình quân số, vũ khi, đạn dược và lương thực bắt đầu thiếu hụt:

Quân đội Xô Viết tiến ra mặt trận phòng thủ Leningrad, năm 1941
  • Rút một phần pháo phòng không trong thành phố ra các tuyến phòng ngự mặt đất, sử dụng đạn xuyên phá thay đạn mảnh phá để chống xe tăng.
  • Xây dựng tuyến phòng thủ kiên cố tại Urisk và Pulkovo với binh lực của tập đoàn quân 42, một phần tập đoàn quân 23 và các pháo hạm của hạm đội Baltic
  • Tổ chức từ 5 đến 6 lữ đoàn bộ binh độc lập lấy từ hải quân thuộc Hạm đội Baltic, học viện quân sự và các cơ quan thuộc Bộ dân ủy Nội vụ tại Leningrad.
Từ ngày 15 đến ngày 30 tháng 9, tướng Georg von Küchler, tư lệnh Tập đoàn quân 18 (Đức) đã tổ chức ba trận công kích vào Leningrad trên tuyến Urisk, Pulkovo, Kolpino và Pushkin, phối hợp với quân dù đổ bộ xuống Petergof nhưng đều bị chặn đứng. Hạm đội Baltic đã ngăn chặn có hiệu quả các chiến hạm và tàu ngầm Đức trên vịnh Phần Lan. Đầu tháng 10, Tập đoàn quân 18 (Đức) phải ngừng các cuộc công kích đường bộ và mở chiến dịch phá hoại thành phố bằng không quân và pháo binh. Ngày 8 tháng 10, đại tướng G. K. Zhukov lại được chỉ định làm tư lệnh Phương diện quân Tây để tổ chức phòng thủ Moskva. Các tướng I. I. Fediuninsky và M. X. Khozin lần lượt được cử làm tư lệnh Phương diện quân Leningrad.
Từ ngày 16 tháng 10 đến ngày 8 tháng 11, Tập đoàn quân 16 (Đức) tấn công đánh chiếm Tikhvin, tiến sát thành phố Volkhov, cắt đứt đường sắt Moskva - Leningrad và chỉ bị chặn lại trước tuyến phòng ngự của tập đoàn quân 4 và tập đoàn quân độc lập 7 do đại tướng K. A. Mereskov chỉ huy. Tháng 11 năm 1941, do dự trữ lương thực đã cạn và việc tiếp tế qua hồ Ladoga bị gián đoạn, nạn đói bắt đầu xuất hiện tại Leningrad. Khẩu phần bánh mỳ hàng ngày của quân nhân trên tuyến 1 giảm xuống còn 400 gam, công nhân được nhận 250 gam, người sống nương nhờ và trẻ em chỉ có 125 gam. Người ta đã phải dùng đến cân tiểu ly để phân phát lương thực và thực phẩm. Thành phố thiếu chất đốt trầm trọng trong khi mùa đông vùng cực Bắc đã bắt đầu. Tuy nhiên, Leningrad vẫn không đầu hàng.

Khẩu siêu pháo 305 mm được Quân đội Đức sử dụng để bắn phá Leningrad
Mặc dù bị cô lập trên bộ nhưng đến mùa đông năm 1941, Liên Xô đã thiết lập con đường sống (Доро́га жи́зни) - một tuyến tiếp tế sử dụng mặt băng trên hồ Ladoga - nhằm đưa lương thực, đạn dược, nhiên liệu... vào trong thành phố và vận chuyển dân cư cũng như người bị thương ra ngoài. Nhưng đến mùa hè, khi mặt hồ Ladoga tan băng, tuyến tiếp thế này bị hạn chế tác dụng.
Ngày 17 tháng 12 năm 1941, Bộ Tổng tư lệnh tối cao Liên Xô thành lập Phương diện quân Volkhov gồm các tập đoàn quân 4. 26, 52, 59 do đại tướng K. A. Mereskov chỉ huy. Phương diện quân mới được giao nhiệm vụ phối hợp với Phương diện quân Leningrad tấn công cánh quân Shlisselburg của tập đoàn quân 16 (Đức), giải tỏa cho Leningrad. Từ tháng 1 đến tháng 4 năm 1942, các phương diện quân này tiến hành chiến dịch Lyuban nhưng do Phương diện quân Leningrad đã suy yếu trong phòng thủ, không thể hợp điểm với mũi tấn công của tập đoàn quân xung kích 2 (nguyên là tập đoàn quân 26). Tập đoàn quân này bị quân Đức bao vây và tư lệnh tập đoàn quân, tướng Vlasov đã đầu hàng và chấp nhận làm việc cho quân đội Đức. Thành phố Leningrad vẫn nằm trong vòng vây đến ngày 18 tháng 1 năm 1943, khi Phương diện quân Leningrad và Phương diện quân Volkhov tiến hành chiến dịch Iskra (Tia Chớp), đánh chiếm dải đất hẹp Shlisselburg - Sinyavino ở bờ Nam hồ Ladoga, phá vỡ vòng phong tỏa Leningrad.

Chiến dịch phản công Rostov

Phát huy ưu thế áp đảo về binh lực, tháng 9 năm 1941, Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) phát triển tấn công về phía Đông, buộc các Phương diện quân Tây Nam và Nam của Quân đội Liên Xô phải hai lần rút quân về phía bên kia sông Oskol. Cuối tháng 9, các tập đoàn quân dã chiến 6, 11, 17 và tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) đã tiến đến tuyến Krasnohrad, Zaporoze, Melitopol. Sau khi đánh chiếm Odessa, tập đoàn quân xe tăng 1 và tập đoàn quân dã chiến 17 lao về hướng Rostov on Don. Tập đoàn quân 11 hướng đòn tấn công vào bán đảo Krym, buộc các tập đoàn quân 44 và 51 Liên Xô phải rút sang bán đảo Taman. Căn cứ hải quân Liên Xô tại Sevastopol bị bao vây.
Đến tháng 11 năm 1941, sức tấn công của Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) bị suy giảm do tuyến hậu cần kéo dài và liên tục bị các đội du kích Liên Xô đánh phá trong hậu tuyến và mặt trận bị trải rộng ra trên 600 km. Tuy phải rút lui nhưng các Phương diện quân Tây Nam và Nam của Liên Xô vẫn tổ chức các cuộc phản đột kích vào bên sườn các cánh quân xe tăng và cơ giới Đức, buộc Cụm tập đoàn quân Nam của Đức phải phân tán lực lượng dàn đều trên các hướng có nguy cơ bị tập kích và bảo đảm các tuyến giao thông. Ngày 4 tháng 11, Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) vượt qua Taganrog đột nhập đến cửa ngõ Rostov on Don, đẩy lùi chính diện của tập đoàn quân 12 về Bakhvelkovo, của tập đoàn quân 18 về bên kia sông Miush. Ngày 21 tháng 11, quân Đức đánh bật tập đoàn quân 9 của Phương diện quân Nam khỏi Rostov và chiếm thành phố.
Sau khi để tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) "nghỉ lại" vài ngày, các Phương diện quân Nam và Tây Nam mở cuộc phản công vào ngày 23 tháng 11. Để bao vây đạo quân xe tăng của tướng Kleist, tập đoàn quân 37 (Liên Xô) hướng đòn tấn công về phía Taganrog nhằm cô lập tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức). Tập đoàn quân 9 áp sát tuyến sông Tuzlov đến Kamenny Brod. Mặc dù đánh thiệt hại nặng sư đoàn cơ giới SS "Viking", các sư đoàn xe tăng 1 và 16 nhưng Quân đội Liên Xô không thực hiện được ý định hợp vây Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) do không còn lực lượng dự bị. Ngày 29 tháng 11, tướng Kleist rút các đơn vị còn lại của tập đoàn quân xe tăng 1 khỏi Rostov về phía bên kia sông Miush. Thành phố Rostov được giải phóng lần thứ nhất sau một tuần bị đánh chiếm.

Chiến dịch phòng ngự-phản công Moskva


Xe tăng Liên Xô chuẩn bị phản công ở ngoại vi Moskva, tháng 12 năm 1941
Sau khi bao vây Leningrad và làm suy yếu nghiêm trọng các Phương diện quân Briansk, Tây Nam và Nam của Liên Xô, ngày 3 tháng 10 năm 1941, Cụm tập đoàn quân Trung Tâm (Đức) bắt đầu triển khai tấn công Moskva trên hướng Oryol - Tula. Ngày 5 tháng 10, tuyến phòng ngự chủ yếu của Phương diện quân Dự bị (Liên Xô) bị chọc thủng tại Yukhnov. Bộ tư lệnh Cụm tập đoàn quân Trung Tâm nắm trong tay các tập đoàn quân dã chiến 2, 4, 9; các tập đoàn xe tăng 2, 3, 4 (mới được điều từ Cụm tập đoàn quân Bắc đến) tiến hành chiến dịch tổng công kích vào Moskva, thực hiện kế hoạch "Typhoon" (Bão táp) do đích thân Adolf Hitler phê chuẩn. Trong Chỉ thị số 35 của mình, Hitler nói: "Phải bao vây Moskva sao cho không một tên lính Nga, không một người dân - dù là đàn ông, đàn bà hay trẻ con- có thể ra khỏi thành phố. Mọi mưu toan tẩu thoát đều phải đàn áp bằng vũ lực." Chỉ trong tuần lễ đầu tiên quân Đức đã hoàn tất 2 trận vây hãm lớn tại Briansk và Vyazma, bắt giữ thêm 500.000 tù binh Liên Xô, tạo một lỗ hổng lớn trước thủ đô Liên Xô nhưng do những trận mưa mùa thu khiến đà tiến của Đức bị chậm lại. Thống kê sau 2 tuần quân Đức đã tiêu diệt hoặc bắt được 650.000 binh sĩ, phá hủy 5.000 pháo và 1.200 xe tăng và thiết của quân đội Liên Xô.
Đầu tháng 11 năm 1941, sau khi chọc thủ phòng tuyến của Phương diện quân Tây tại tuyến Dukhovsshina - Sychevka - Volokolamsk; của Phương diện quân Dự bị tại tuyến Roslavl - Yukhnov - Maloyaroslavets; của Phương diện quân Briansk tại tuyến Shotshka - Mtsensk - Plavsk - Dedilovo, sáu tập đoàn quân Đức đã áp sát Moskva từ các hướng Tây, Tây Bắc, Tây Nam. Tại kênh đào Yakhroma, lính Đức đã có thể nhìn thấy những tòa tháp của nhà thờ Ivan Velikii trong khu vực điện Kremly qua ống nhòm. Nhưng đây là vị trí gần Moskva nhất mà quân đội Đức Quốc xã có thể tiến đến được. Ngày 7 tháng 11, tại Quảng trường Đỏ diễn ra cuộc duyệt binh lịch sử. Trong cuộc duyệt binh này, lãnh tụ Liên Xô I. V. Stalin đã đọc nhật lệnh kêu gọi quân đội và nhân dân bảo vệ Thủ đô. Các đơn vị bộ binh, xe tăng, pháo binh Liên Xô sau khi diễu binh qua Lăng Lenin đã thẳng tiến ra mặt trận.

Quân đội Liên Xô phản công tại Moskva
Đầu tháng 12 năm 1941, một số đơn vị Đức lâm vào thế "chết đứng" do thiết giáp không thể vận hành dưới cái lạnh khủng khiếp. Những lực lượng tiên phong không được chuẩn bị cho mùa Đông và cũng không có dự trữ. Ngày 4 tháng 12, tập đoàn quân xe tăng 2 của Guderian phải dừng lại khi nhiệt độ là -35 độ, hôm sau nhiệt độ xuống thêm 2 độ nữa và xe tăng hầu như bất động trong khi quân đội Liên Xô liên tục phản kích hai bên sườn và uy hiếp phía sau cánh quân này từ hướng Tula.
Từ ngày 30 tháng 11 đến ngày 5 tháng 12 năm 1941, Cụm tập đoàn quân Trung tâm của Đức đã chịu những thiệt hại rất nặng nề tại Mặt trận Moskva, không còn đủ sức tấn công và phải chuyển sang phòng ngự nhưng không kịp. Ngày 5 tháng 12, các Phương diện quân Tây Bắc (cánh Nam), Kalinin (mới thành lâp), Tây, Briansk, Tây Nam (cánh bắc) của Liên Xô đồng loạt phản công từ Oshtaskoye, qua Klin, Naro-Fominsk, Tula đến Efremov và Elets. Bộ Tổng tư lệnh quân đội Đức Quốc xã hoàn toàn không ngờ lại có chuyện như vậy. Các tập đoàn quân dã chiến 4, 9, các tập đoàn quân xe tăng 2, 3 của Cụm tập đoàn quân Trung Tâm (Đức) bị thiệt hại nặng và bị đánh bật khỏi Moskva, có nơi đến hơn 250 km. Chiến dịch "Bão táp" của quân đội Đức nhằm đánh chiếm Moskva bằng một trận hợp vây đã phá sản, kéo theo sự phá sản của toàn bộ Kế hoạch Barbarossa.

Chiến dịch phản công Yelets - Khomutovo


Quân đội Liên Xô tấn công gần Briansk
Chiến dịch phản công Yelets - Khomutovo do Phương diện quân Tây Nam tiến hành là một phần của cuộc Tổng phản công mùa Đông 1941-1942 của Quân đội Liên Xô. Mặc dù đang ở thế phòng ngự và quyền chủ động tấn công vẫn ở trong tay quân đội Đức Quốc xã nhưng để phối hợp với chiến dịch phản công tại khu vực Moskva, Phương diện quân Tây Nam vẫn được giao nhiệm vụ sử dụng cánh Bắc của mình để mở cuộc tấn công vào thành phố Elech và phát triển tuyến sông Zusha, che chở sườn trái cho Phương diện quân Briansk đang chuẩn bị tấn công từ Efremov đến Novosin. Khi giao nhiệm vụ, Tổng tư lệnh tối cao I. V. Stalin nói rõ: "Phương diện quân Tây Nam phải hành động bằng lực lượng hiện có của mình. Các lực lượng dự bị, đặc biệt là xe tăng của Đại bản doanh hiện đang tập trung cho hướng chiến lược Moskva". Mặc dù nguyên soái S. K. Timoshenko phàn nàn: "Không có xe tăng thì làm được trò trò trống gì ?" nhưng ông vẫn chỉ thị cho Bộ tham mưu Phương diện quân Tây Nam triển khai chiến dịch trong điều kiện không có xe tăng và chỉ có 245 khẩu pháo. Trong khi đó, các quân đoàn bộ binh 34 và 55 thuộc Tập đoàn quân 2 (Đức) đang đóng trong khu vực tam giác Yelets - Khomutovo - Livny có trong tay 470 khẩu pháo và 50 xe tăng

Sơ đồ Chiến dịch phản công Yelets - Khomutovo
Ngày 6 tháng 12 năm 1941, Cụm cơ động thuộc Tập đoàn quân 40 của tướng F. I. Kostenko gồm gần 20.000 quân, được sự yểm hộ của 206 khẩu pháo và súng cối, xuất phát từ Terbuny, phía Tây Bắc Voronezh, chia làm hai mũi bắt đầu xuất phát. Mũi tấn công thứ nhất đánh vào phía Tây Nam Yelets. Mũi tấn công thứ hai đánh dọc sông Zusha qua Livly và phát triển đến Khomutovo. Cùng thời điểm, Cụm xung kích thuộc Tập đoàn quân 13 của tướng K. S. Moskalenko cũng xuất phát từ thượng nguồn sông Đông đánh vào phía Tây Bắc Yelets và hướng cánh trắc vệ bên phải về phía sông Zusha. Cả hai cánh quân đều hướng đến các điểm gặp nhau tại phía Tây Yelets và Khomutovo. Ngày 16 tháng 12, Sư đoàn bộ binh 95 (Đức) bị lọt vào vòng vây tại Yelets. Tập đoàn quân 2 (Đức) tung Quân đoàn bộ binh 34 ra đối phó, lập tuyến phòng thủ trên sông Sosna và án ngữ con đường sắt từ Yelets đi Oryol nhưng đã muộn. Ngày 7 tháng 1 năm 1942, hai cụm xung kích của các Tập đoàn quân 40 và 13 đã gặp nhau tại Khomutovo và đến lượt Quân đoàn bộ binh 34 (Đức) bị hợp vây. Cánh trái của Tập đoàn quân 40 cũng hành động tích cực, khiến cho Tập đoàn quân 2 (Đức) không thể rút Quân đoàn bộ binh 55 khỏi cụ cứ điểm Shigry để ứng cứu cho Quân đoàn bộ binh 34. Ngày 20 tháng 1 năm 1942, các Tập đoàn quân 40 (Phương diện quân Tây Nam) và 13 (Phương diện quân Briansk) đã tiêu diệt phần lớn Quân đoàn bộ binh 34 (Đức), đưa chiến tuyến đến sống Zusha, đánh chiếm đầu mối giao thông đường thủy Novosin và đầu mối giao thông đường sắt Verkhovye. Thanh toán được cụm cứ điểm trong khu tứ giác Yelets - Efremov - Khomutovo - Livny, Quân đội Liên Xô đã khép chặt sườn phải của Phương diện quân Tây Nam và sườn trái của Phương diện quân Briansk đẩy chiến tuyến về phía Tây từ 50 đến 100 km.

Kết quả chiến dịch

Hình thế chiến trường

Sau cuộc tổng tấn công mùa Đông 1941-1942 của Quân đội Liên Xô mà đặc biệt là ba trận phản công lớn tại Moskva, Spad Demiansk và Rostov, kế hoạch Barbarossa đã hoàn toàn sụp đổ, chiến lược đánh nhanh thắng nhanh của quân đội Đức Quốc xã bị phá sản. Mặt trận Xô-Đức tương đối ổn định trong mấy tháng. Do chưa chuyển kịp lực lượng dự bị từ Đức sang và từ các nước bị chiếm đóng ở Tây Âu đến nên trên các hướng chiến lược chủ yếu, quân Đức đã mất quyền chủ động chiến lược và phải chuyển sang phòng ngự theo Chỉ thị số 39 ngày 3 tháng 1 năm 1942 của Hitler. Mặc dù Quân đội Liên Xô đã đẩy quân Đức lùi lại các vị trí gần giống như trước khi diễn ra chiến dịch phòng ngự Moskva nhưng cũng đã sử dụng hết những lực lượng dự bị được xây dựng từ tháng 9 năm 1941 đến tháng tháng 1 năm 1942. Các nhà máy công nghiệp vừa sơ tán sang vùng Ural và Tây Siberi mới hoạt động trở lại nên chưa thể cung cấp nhiều súng đạn, xe tăng, đại bác, máy bay và các phương tiện quân sự khác cho mặt trận. Do đó, Quân đội Liên Xô cũng phải chuyển sang phòng ngự; đồng thời tiến hành một số trận phản công có quy mô vừa và nhỏ.
Tranh thủ thời gian chiến sự tạm lắng xuống, Bộ Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô đã khẩn trương xây dựng các đơn vị xe tăng và không quân có quy mô quân đoàn, tập đoàn quân và tổ chức thêm nhiều tập đoàn quân binh chủng hợp thành. Quy mô các đơn vị chống tăng được nâng từ cấp lữ đoàn lên cấp sư đoàn để tổ chức những trận đánh tiêu diệt xe tăng lớn. Sau ba tháng chuyển sang phòng ngự tích cực, Quân đội Liên Xô đã có quân số lên đến 5.534.500 người, 4.959 xe tăng (gồm hơn 1.500 chiếc T-34 và KV kiểu mới), 40.798 pháo và súng cối. Tám tập đoàn quân không quân được thành lập với 2.480 máy bay chiến đấu, hầu hết là máy bay kiểu mới. Việc huấn luyện chiến đấu diễn ra liên tục ở cả hậu phương và ngay sát mặt trận.
Tuy Kế hoạch Barbarossa bị đổ vỡ hoàn toàn nhưng giới cầm quyền Đức Quốc xã vẫn còn nhiều tiềm năng lớn. Việc các nước đồng minh Anh, Mỹ không mở mặt trận thứ hai theo như thỏa thuận ngày 1 tháng 1 năm 1942 tại Washington đã làm cho Tổng hành dinh quân đội Đức Quốc xã tự do điều động hơn 50 sư đoàn từ nước Đức, từ Pháp, Bỉ, Hà Lan và Đông Âu sang chiến trường Xô-Đức; chỉ để lại ở Tây Âu, Nam Âu, Bắc Phi và nước Đức không quá 20% quân số. Đến tháng 5 năm 1942, trên mặt trận Xô-Đức kéo dài từ biển Barents đến biển Đen, Quân đội Đức Quốc xã đã khôi phục lại được ưu thế về quân số và phương tiện gồm 217 sư đoàn, 20 lữ đoàn với 6,2 triệu quân. Trong đó, 178 sư đoàn, 8 lữ đoàn và 4 tập đoàn quân không quân người Đức; 81 vạn quân thuộc các nước đồng minh của Đức. Về vũ khí, phương tiện, đạo quân khổng lồ này vẫn có 3.230 xe tăng, gần 57.000 khẩu pháo và súng cối, hơn 3.400 máy bay chiến đấu. Dựa vào ưu thế về quân số, pháo và máy bay, Bộ Tổng tư lệnh quân đội Đức Quốc xã vạch kế hoạch mới để tiếp tục tấn công Liên Xô với mật danh Kế hoạch Xanh, sử dụng 102 sư đoàn tấn công trên vùng thảo nguyên miền Nam Liên Xô, bổ đôi mặt trận Xô Đức, cắt đứt và đánh chiếm các mỏ dầu ở Baku, đánh chiếm vựa lúa mỳ ở hạ lưu sông Volga và vùng Kuban. Đây là nỗ lực chiến lược quân sự cuối cùng của nước Đức Quốc xã với mục tiêu làm cho Nhà nước Xô Viết vừa thất bại về quân sự, vừa suy yếu nghiêm trọng về tiềm lực kinh tế, tiến tới tiêu diệt Liên Xô.

Đánh giá

Với ưu thế về binh lực và tạo được bất ngờ về chiến dịch, chiến thuật, quân đội Đức Quốc xã đã gây ra cho quân đội Liên Xô những thiệt hại ban đầu hết sức to lớn. Hàng chục vạn quân nhân Liên Xô tử trận hoặc bị bắt làm tù binh. Riêng trong ba ngày đầu tiên của cuộc chiến tranh, các quân khu biên giới đã mất gần 1.200 máy bay, trong đó có 900 chiếc bị không quân Đức ném bom phá hủy trên các sân bay, 300 chiếc khác bị bắn rơi trong các trận không chiến; không quân Liên Xô chỉ bắn rơi hơn 200 chiếc máy bay Đức trong tuần đầu của cuộc chiến.
Mặc dù thu được những chiến thắng ban đầu vô cùng to lớn tại mặt trận phía đông, nhưng trong cuộc chiến một mất một còn với Liên Xô, quân đội Đức Quốc xã đã gặp phải một đối thủ kiên cường. Qua cơn choáng váng ban đầu Quân đội Xô Viết kháng cự ngày càng có tổ chức và ý chí ngày càng tăng. Ngay từ những ngày đầu của chiến dịch tại Pháo đài Brest cho đến các trận đánh ở sâu trong nội địa Liên Xô, các đơn vị Xô Viết thường chiến đấu đến viên đạn cuối cùng, không nao núng khi chiến đấu trong vòng vây và liên tục phản kích, làm suy giảm đáng kể sức tiến công vũ bão của quân đội Đức. Mặc dù bị tổn thất lớn về quân số và phương tiện nhưng Nhà nước và người dân Xô Viết đã thành công trong việc động viên toàn diện để thành lập các đơn vị mới và đưa vào cuộc chiến. Các nỗ lực phòng ngự kiên cường của Quân đội Liên Xô tại Odessa, Sevastopol, Leningrad và đặc biệt tại Kiev đã giam chân một bộ phận rất lớn quân đội Đức. Nhờ đó Liên Xô đã tranh thủ được thời gian, đưa lên phía trước những lực lượng dự bị mới để phản kích ngày một mạnh hơn; và cuối cùng đã tổ chức thành công Chiến dịch phòng thủ-phản công tại Moskva. Chiến tranh du kích ("chiến tranh đường ray") sau lưng quân chiếm đóng cũng được phát động để phá hoại hậu cần, tiếp tế ngay tại hậu tuyến của quân đội Đức. Những nỗ lực đó tuy đã phải trả giá bằng các tổn thất vô cùng to lớn nhưng chặn được đà tấn công, góp phần làm phá sản cuộc chiến tranh đánh nhanh thắng nhanh của Đức. Trong ba mục tiêu lớn cuối cùng của Kế hoạch Barbarossa, nước Đức Quốc xã chỉ đạt được một mục tiêu: đánh chiếm Kiev. Mục tiêu lớn nhất là chiếm Moskva và tiêu diệt Nhà nước Xô Viết hoàn toàn không thực hiện được. Tại cánh Bắc, quân Đức cũng phải dừng bước trước cửa ngõ Leningrad. Thế cân bằng chiến lược Xô-Đức đã được tạo lập, dù chỉ tồn tại trong 4 tháng.

Về Đức Quốc xã

Ngoài những ưu thế về quân số, vũ khí, phương tiện chiến tranh thì những thắng lợi ban đầu hết sức to lớn của quân đội Đức trên lãnh thổ Liên Xô trước hết là do sức chiến đấu của binh lính và sĩ quan Đức ở tất cả các quân binh chủng do được huấn luyện chuyên môn tốt và trui rèn qua trận mạc đều đạt trình độ tác chiến cao, đặc biệt là thiết giáp và không quân. Binh lính Đức trên chiến trường thực sự chuyên nghiệp, thành thạo nghiệp vụ, kiên trì, tự tin và có kỷ luật. Các cơ quan tham mưu các cấp của Quân đội Đức đều được huấn luyện tốt về phương pháp tổ chức chiến đấu từ các trận đánh nhỏ đến các chiến dịch lớn theo phương thức chiến tranh hiện đại. Quân đội Đức đã hiện đại hóa các phương tiện thông tin liên lạc bằng vô tuyến điện, trang bị đầy đủ cho các cơ quan chỉ huy, tham mưu các cấp nên đã tổ chức chiến đấu hiệp đồng tốt giữa xe tăng và bộ binh, giữa không quân và lục quân. Cơ quan chỉ huy cấp chiến lược của quân đội Đức Quốc xã cũng làm việc rất khoa học và bài bản. Việc vạch kế hoạch tổ chức các đòn tấn công phủ đầu trên các hướng chiến lược đều được làm rất tỷ mỷ, chi tiết. Bộ Tổng tư lệnh tối cao quân đội Đức Quốc xã cũng chọn được những tư lệnh binh chủng, tư lệnh tập đoàn quân dày dạn kinh nghiệm tổ chức chiến đấu. Trong nhiều trường hợp, họ đã xác định đúng phương hướng tấn công, thành phần các quân binh chủng tham gia, nắm được những địa đoạn mỏng yếu trong các tuyến phòng ngự của đối phương để giáng đòn đột kích mạnh vào đó. Ngoài ra, uy tín chính trị của Hitler cũng góp phần nâng cao tinh thần chiến đấu cho các quân nhân Đức Quốc xã. Hầu hết sĩ quan và binh sĩ (trừ một số nhỏ thống chế, tướng lĩnh có cách nhìn tỉnh táo hơn) đều tin rằng mình là dân tộc thượng đẳng, đều cho rằng có thể dễ dàng đánh bại Liên Xô một cách nhanh chóng như những lời tuyên bố, hứa hẹn của Hitler và Goebbels.
Đối lập với những điểm mạnh nói trên, giới cầm quyền Đức Quốc xã lại mắc phải chính những sai lầm chiến lược chính trị-quân sự do thiển cận và chủ quan khinh thường đối phương. Cho dù huy động một lực lượng quân sự lớn nhất trong khả năng của chính họ và các nước đồng minh, quân đội Đức Quốc xã vẫn không thể đủ lực lượng để đồng thời tấn công chiến lược trên ba hướng chủ yếu. Càng vào sâu trong nội địa Liên bang Xô viết, tuyến mặt trận ngày càng mở rộng, mật độ binh lực và phương tiện ngày càng mỏng đi. Vấp phải sức chống cự ngày càng tăng lên của quân đội Liên Xô, mật độ binh lực và phương tiện này ngày càng mỏng yếu hơn nữa khiến cho đến cuối chiến dịch, khả năng đột kích của các binh đoàn xe tăng, sức mạnh chính của quân đội Đức Quốc xã gần như bị triệt tiêu. Không phải các thống chế Đức không nhận ra điều này và họ đã chọn Moskva để "đánh canh bạc cuối cùng". Mặc dù đã đổ vào đây đến 34% quân số và 68% xe tăng của toàn bộ mặt trận Xô-Đức nhưng quân đội Đức vẫn không đủ lực lượng để hoàn thành đến cùng chiến dịch "Typhoon" và buộc phải rút lui sau những thiệt hại nặng nề do chiến thuật chống tăng tổng hợp của Quân đội Liên Xô.
Một sai lầm quan trọng khác của Quân đội Đức là tính cứng nhắc trong điều hành tác chiến. Khi mọi cuộc tấn công diễn ra suôn sẻ, quân đội Đức hành động rất bài bản với tính kế hoạch có độ chính xác rất cao và điều đó đem lại sức mạnh cho họ. Tuy nhiên, đến khi tình hình chiến trường có những đột biến, cục thế xoay chuyển ngoài những dự kiến thì Bộ Tổng tư lệnh và các tướng lĩnh Đức lại trở thành "tù binh" của chính họ với thói quen khuôn mẫu, bị trói buộc vào những lý thuyết quân sự vốn có trong khi tình hình đòi hỏi phải có những thay đổi linh hoạt. Heinz Guderian là một trong số hiếm hoi các tướng lĩnh Đức Quốc xã có tư duy mềm dẻo, linh hoạt nhưng lại bị Hitler ghét bỏ vì "bất tuân thượng lệnh", tự ý chuyển sang phòng ngự và lui quân. Kết quả là khi bị mất quyền chủ động chiến lược, nhiều tướng lĩnh Đức chậm hoặc không thích nghi với các điều kiện mới, ít chịu cải tổ bộ máy cũng như chậm tìm ra giải pháp khắc phục các khó khăn khi kế hoạch đã định ra có những mâu thuẫn lớn với các tình huống thực tế.
Một trong các điểm yếu nữa về chiến thuật quân sự của Quân đội Đức khiến họ không thể áp dụng đầy đủ học thuyết đánh nhanh thắng nhanh tại chiến trường Xô-Đức mặc dù trước đó, học thuyết này đã được kiểm nghiệm và được đánh giá là đạt hiệu quả cao tại các chiến trường Tây Âu và Đông Âu năm 1940-1941. Đó là việc bao vây các đơn vị quân đội Liên Xô tại các lòng chảo lớn không khỏi tạo nên một thế trận kéo dài của các binh đoàn xe tăng. Các binh đoàn cơ động này không chỉ phải chiến đấu chống lại đối phương phản kích tại vòng vây bên trong mà còn phải chống lại cả những đòn tấn công giải vây từ bên ngoài. Buộc phải tác chiến trên cả hai mặt trận, sức cơ động đột kích của các đơn vị xe tăng Đức suy giảm đáng kể. Chính Hitler cũng cho rằng chiến thuật này đòi hỏi quá nhiều binh lực nhưng kết quả đạt được lại khá hạn chế.

Về Liên Xô

Đối với Liên Xô, sai lầm lớn nhất là việc dự báo thời điểm quân đội Đức phát động chiến tranh và để cho quân đội và nhân dân của mình hoàn toàn bị bất ngờ trước cuộc tấn công tổng lực của Quân đội Đức Quốc xã ngày 22 tháng 6. Ban lãnh đạo Liên Xô cùng với người đứng đầu nhà nước Xô Viết là I. V. Stalin đã cho rằng nước Đức phải cần thêm một thời gian chuẩn bị. Mặc dù nhiều biện pháp ngoại giao đã được áp dụng, kể cả các biện pháp "nín nhịn" tránh khiêu khích với Đức, tìm cách ký hiệp ước liên minh quân sự với Anh và Pháp cũng đã được thi hành; thậm chí những người đề nghị những biện pháp đặt quân đội vào tình trạng báo động cao còn bị coi là "gieo rắc hoang mang" nhưng chiến tranh vẫn diễn ra sớm hơn dự định. Hơn nữa, I. V. Stalin cũng đánh giá quá cao khả năng dùng biện pháp ngoại giao để đẩy lùi thời điểm xảy ra chiến tranh. Đến khi cuộc chiến thực sự sắp nổ ra, với cương vị là người đứng đầu Nhà nước, ông cũng không có được một quyết định quan trọng làm cho đất nước thích ứng ngay với tình trạng chiến tranh, đã chậm trễ trong việc đặt quân đội vào tư thế sẵn sàng chiến đấu. Ngay cả những nhà chính trị và quân sự Xô Viết cũng coi đây là một trong những khuyết điểm hết sức nghiêm trọng về chính trị của ông. Góp phần vào các sai lầm ấy là báo cáo kết luận không rõ ràng, thiếu quyết đoán và thậm chí là "xuôi chiều" theo ý I. V. Stalin của ngành tình báo quân sự do tướng F. I. Golikov đứng đầu. Mặc dù nắm trong tay nhiều tin tức xác định thời điểm quân Đức sẽ tấn công là trung tuần tháng 6 năm 1941 nhưng trong Báo cáo ngày 14 tháng 5, F. I. Golikov vẫn cho rằng: "thời gian Đức bắt đầu hành động chống Liên Xô có khả năng chính xác nhất là sau khi đánh bại Anh hoặc ký với Anh một hòa ước có lợi" và "tin đồn và những về cuộc chiến chống Liên Xô sẽ xảy ra cần được coi như tin đánh lừa do các cơ quan tình báo Anh và thậm chí cả Đức tung ra".

Áp phích Liên Xô: "Cái chết của quân xâm lược Đức", tác giả: N.Dolgorukov, B. Yefimov năm 1942.
Sai lầm chiến lược thứ hai là việc bố trí quân đội trên toàn tuyến phòng ngự bị lệch về phía Nam. Do I. V. Stalin cho rằng Quân đội Đức trước hết phải chiếm lấy miền Ukraina trù phú rồi mới có thể tiến đánh vào trung tâm Liên Xô nên đã lệnh cho Bộ Tổng tham mưu bố trí tại đây 45 sư đoàn bộ binh, 20 sư đoàn xe tăng, 10 sư đoàn cơ giới, 5 sư đoàn kỵ binh, chiếm khoảng 1/2 số tổng binh lực của Liên Xô tại tuyến 1 và tuyến 2 vùng biên giới phía Tây. Tại quân khu đặc biệt miền Tây và quân khu Pribaltic chỉ bố trí 49 sư đoàn bộ binh, 16 sư đoàn xe tăng, 8 sư đoàn cơ giới. Hai quân khu phải hứng chịu những đòn đột kích rất mạnh của 79 sư đoàn Đức (trong đó có 24 sư đoàn xe tăng). Do thua kém về binh lực và phương tiện, thua kém về chất lượng khí tài và thế bố trí, hai phương diện quân miền Tây và Tây Bắc đã bị vỡ trận một cách nhanh chóng. Do bị chia cắt bởi khu đầm lầy Pripiat, việc điều động binh lực của phương diện quân Tây Nam để tăng viện cho Phương diện quân Tây không thể thực hiện nhanh chóng. Tới khi tập đoàn quân 16 của tướng M. F. Lukin và hai quân đoàn cơ giới 9 và 22 rút từ Phương diện quân Tây Nam đến được với phương diện quân Tây thì chiến sự đã ở trước cửa ngõ Smolensk. Theo đại tướng G. K. Zhukov, đây là một trong số những nguyên nhân làm cho Liên Xô thất bại trong thời kỳ đầu của cuộc chiến.
Sai lầm chiến lược thứ ba của Liên Xô là việc chậm rút các lực lượng chủ yếu của các phương diện quân Tây và Tây Nam ra khỏi các gọng kìm xe tăng của quân đội Đức. Trong các trận đánh từ phía Tây Minsk hồi tháng 6 đến các trận đánh trên tả ngạn sông Berezina hồi tháng 7, Phương diện quân Tây đã hai lần bị hợp vây và cả hai lần đều bị tổn thất rất nặng nề. Cộng vào sai lầm đó là sai lầm lớn cũng thuộc về I. V. Stalin khi vào đầu tháng 9 năm 1941, ông không cho phép rút các lực lượng cơ bản của Phương diện quân Tây Nam về tả ngạn sông Dnepr. Ông cũng không đủ can đảm để bỏ Kiev mặc dù đã được Bộ Tổng tham mưu xác định Phương diện quân Tây Nam có nguy cơ bị hợp vây bởi hai cánh quân Đức từ Konotop đánh xuống, từ Kremenchuk đánh lên và khuyến nghị ông nên cho rút quân. Thậm chí, ngay cả khi tham mưu trưởng Phương diện quân Tây Nam, thiếu tướng V. I. Tupikov gửi báo cáo số 15614 ngày 17 tháng 9 đề nghị rút quân ngay với dự báo: "Chỉ vài ngày nữa thôi, sẽ bắt đầu cái tai họa mà đồng chí đã hiểu" thì I. V. Stalin lại cho rằng đó là một báo cáo hoảng loạn và yêu cầu Phương diện quân phải thực hiện đến cùng nghĩa vụ của mình. Kết quả là 5 tập đoàn quân Liên Xô đã bị bao vây, tiêu diệt hoặc bị bắt và chỉ có không quá 1/4 quân số thoát vây.
Một sai lầm nữa cũng có tính chiến lược quân sự là sai lầm của Bộ Tổng tư lệnh tối cao cùng nguyên soái S. M. Budionny và trung tướng I. S. Koniev trong giai đoạn đầu của cuộc phòng thủ Moskva. Việc bố trí hai phương diện quân gần như nhập làm một trên tuyến phòng thủ phía Tây Moskva đã gây ra những rối loạn trong điều hành tác chiến, chỉ huy cấp trên không nắm được các đơn vị cấp dưới khi lâm trận. Đến khi quân Đức mở cuộc tấn công, các đơn vị này bị dồn vào khu vực Rzhev - Viazma và nhanh chóng bị vây. Cơ quan quân báo của hai Phương diện quân này cũng không xác định được hướng tấn công chính của quân đội Đức để điều động binh lực và phương tiện đến đẩy lui đối phương, bịt các cửa đột phá do xe tăng Đức tạo ra. Sai lầm này chỉ được sửa chữa khi G. K. Zhukov từ Leningrad quay về nắm lại Phương diện quân Tây hợp nhất và trở thành tư lệnh phòng thủ Moskva trên thực tế.
Thất bại của Liên Xô trong giai đoạn đầu của chiến dịch còn có những nguyên nhân về tổ chức và con người. Việc đề bạt một loạt sĩ quan trẻ chưa qua trận mạc lên giữ các chức vụ cao đã làm giảm sức chiến đấu của quân đội, trước hết là do kinh nghiệm chỉ huy tác chiến còn quá mỏng. Ngay trước chiến tranh, khi tiến hành các biện pháp tổ chức lại quân đội, Bộ Tổng tham mưu quân đội Liên Xô đã phát hiện thấy sự thiếu hụt trầm trọng các cán bộ chỉ huy giỏi, có nhiều kinh nghiệm và đội ngũ chuyên gia tham mưu tác chiến binh chủng hợp thành. Ở các đơn vị, đội ngũ sĩ quan, hạ sĩ quan xe tăng, pháo binh, phi công và nhân viên kỹ thuật hàng không có tay nghề cao, chuyên môn giỏi cũng có số lượng rất ít. Trong khi chiến tranh đã cận kề thì người ta lại dự tính đến cuối năm 1941 mới khắc phục hết những thiếu sót này.
Cố gắng lớn nhất của Liên Xô vào giai đoạn cuối cùng của chiến dịch là đã chặn được đà tiến công của các cánh quân xe tăng Đức trước cửa ngõ Moskva bằng những lực lượng dự bị đủ mạnh và chiến thuật hợp lý. Các chỉ huy Quân đội Liên Xô đã biết rút quân đúng thời điểm trước các mũi đột kích bằng cơ giới của quân Đức để rồi dùng chính những lực lượng này tập kích vào hai bên sườn những đạo quân cơ giới của đối phương. Bộ Tổng tư lệnh tối cao Liên Xô không chỉ xây dựng kịp thời các tập đoàn quân dự bị mà còn biết giữ gìn các đơn vị này. Họ không còn đưa những đơn vị lẻ tẻ ra mặt trận mà tập trung lực lượng và phương tiện thành những khối quân cơ động đột kích mạnh, đánh thẳng vào những đoạn tiếp giáp hiểm yếu giữa các đơn vị Đức Quốc xã. Chiến thuật cơ bản này về sau được phổ biến và trở thành giáo khoa kinh điển của Quân đội Liên Xô và nhiều nước khác. Một chiến thuật khác cũng được sáng tạo và áp dụng là "chiến thuật chống tăng tổng hợp". Không giống như giai đoạn đầu chiến dịch, các đơn vị xe tăng Liên Xô trong phòng thủ đã tránh những trận đấu tăng khi yếu thế và chọn cách đánh phối hợp chặt chẽ với pháo chống tăng, các tổ xung kích cảm tử diệt tăng và các bãi mìn được bố trí có trọng điểm. Do đó, các tập đoàn quân xe tăng Đức bị thiệt hại rất nặng trước các trận địa này. Phá huỷ thật nhiều xe tăng, xe bọc thép cũng có nghĩa là bẻ gãy mũi nhọn đột kích của các binh đoàn cơ giới Đức và cũng có nghĩa là đánh quỵ "xương sống" của chủ lực lục quân Đức.
Thành công của Liên Xô vào giai đoạn cuối của chiến dịch đã tạm thời tước được quyền chủ động chiến lược từ tay quân đội Đức Quốc xã. Mặc dù giữ việc Moskva có tầm quan trọng chiến lược, mất Moskva sẽ cực kỳ thất lợi và tai hại về chính trị - quân sự cho họ; mặc dù quyết tâm giữ Moskva của G. K. Zhukov cũng như quân đội Liên Xô rất cao nhưng Bộ Tổng tư lệnh Liên Xô vẫn chuẩn bị cho tình huống xấu nhất một cách tuyệt đối bí mật. Bộ Tổng tư lệnh Liên Xô đã hiểu được ý tưởng của Cố nguyên soái M. I. Kutuzov hồi năm 1812. Khi đó, Kutuzov đã đặt câu hỏi với Hoàng đế NgaAleksandr I về việc "nên đánh một trận cuối cùng rồi để mất cả quân đội lẫn Moskva hay giữ lấy quân đội để chiếm lại Moskva". Và Aleksandr I đã nghe theo vị nguyên soái già: giữ lấy quân đội. Cùng với việc kịp thời tổ chức lại các các tập đoàn quân 5, 16, 43, 49 với phần đông quân số lấy từ lực lượng dự bị động viên; Bộ Tổng tư lệnh tối cao Liên Xô đã bố trí một thê đội chiến lược lớn phía Đông Moskva trên tuyến Vytega - Rybinsk - Gorky - Saratov - Stalingrad - Astrakhan theo Nghị quyết ngày 5 tháng 10 của Hội đồng Quốc phòng Nhà nước. Tại tuyến này đã thành lập cấp tốc 10 tập đoàn quân dự bị. Hầu như cả Liên Xô đã tập trung chăm lo cho quân đội của mình để chặn đứng quân đội Đức Quốc xã tại bất kỳ nơi nào có thể chặn được. Trong thời gian Moskva bị uy hiếp nghiêm trọng; để đảm bảo công tác chỉ huy trong tình huống xấu nhất, Bộ Tổng tham mưu quân đội Xô Viết cũng được chia làm hai, một phần sơ tán về Saratov (căn cứ chỉ huy chiến lược dự bị). Nhóm tiền phương gồm 10 người ở lại Moskva. Hội đồng Quốc phòng Nhà nước Liên Xô cũng cho sơ tán một phần các cơ quan Đảng, Chính phủ; các đoàn ngoại giao, các cơ sở công nghiệp quốc phòng lớn, các cơ quan văn hoá, khoa học khỏi Thủ đô về phía Đông. Tuy nhiên, trường hợp xấu nhất đã không xảy ra. Đến tháng 2 năm 1942, khi quân Đức bại trận trước cửa ngõ Moskva và phải rút lui; các cơ quan đã sơ tán lại lần lượt trở lại Moskva.

Ảnh hưởng quốc tế sau chiến dịch

Chiến thắng của Quân đội Liên Xô làm phá sản Kế hoạch Barbarossa có ảnh hưởng lớn đến mức làm rung động ngay cả những tướng lĩnh lão luyện của quân đội Đức Quốc xã và về sau này, nhiều người vẫn còn nhắc đến nó như một bài học sâu sắc. Được hỏi tại Tòa án Quốc tế Nuremberg rằng khi nào thì người Đức nhận ra sự thất bại của Kế hoạch Barbarossa, cựu Thống chế Wilhelm Keitel, Tổng tham mưu trưởng quân đội Đức Quốc xã trả lời ngay bằng một từ ngắn gọn: "Moskva". Tướng Tippelskirch đã phải thừa nhận: "Kết quả và quy mô chiến dịch phản công của Hồng quân lớn tới mức khiến chúng tôi bàng hoàng sửng sốt, và điều đó gần như là một thảm họa đối với nước Đức".
Những thất bại ở Moskva, ở Tikhville, ở Rostov làm cho Adolf Hitler nổi điên. Ngày 30 tháng 11, ông chỉ thị cho Thống chế Gerd von Rundstedt phải ra lệnh cấm Tâp đoàn quân xe tăng 1 rút lui. Một tuần sau, khi nhận được câu trả lời là không thể thực hiện lệnh đó, Hitler lập tức bay đến Sở chỉ huy Cụm tập đoàn quân Nam ở Poltava (Ukraina). Tại đây, những lời buộc tội của Hitler đối với Rundstedt về thất bại của quân Đức tại Rostov đã bị viên thống chế lão luyện này phản bác. Rundstedt cho rằng người ra lệnh thực hiện chiến dịch này phải chịu trách nhiệm về thất bại của nó. Nói cách khác, đó chính là Führer. Hitler nhảy bổ vào Rundstedt và giật chiếc huân chương chữ thập hiệp sĩ của viên thống chế ra khỏi cổ áo. Ngày 11 tháng 2, Hitler ký lệnh phế truất chức vụ Tổng tư lệnh lục quân Đức của thống chế Walther von Brauchitsch đồng thời tự phong cho mình chức vụ này. Ngoài ra, tư lệnh cụm Tập đoàn quân Trung tâm, thống chế Fedor von Bock; tư lệnh tập đoàn quân xe tăng 2, tướng Heinz Wilhelm Guderian; tư lệnh tập đoàn quân 17, tướng Carl-Heinrich von Stülpnagel cùng hàng chục tướng khác cũng bị Führer cách chức. Thống chế Günther von Kluge được chỉ định thay thống chế Fedor von Bock làm tư lệnh cụm Tập đoàn quân Trung tâm.
Sự kiện Quân đội Xô Viết đánh bại Quân đội Đức Quốc xã trước cửa ngõ Moskva, đánh dấu chấm hết cho Kế hoạch Barbarossa đã làm cho tình hình quốc tế có những thay đổi lớn. Không chờ đến khi Quân đội Đức bị đánh đuổi về phía Tây thêm hàng trăm km nữa; ngày 1 tháng 1 năm 1942, tuyên bố của 26 nước Liên minh chống chống phát xít đã được ký kết tại Washington. Sự hình thành liên minh này của các dân tộc có ý nghĩa toàn cầu rất to lớn. Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, những quốc gia có chế độ chính trị khác nhau, thậm chí đối lập nhau đã liên minh với nhau nhằm một nhiệm vụ có tính thời đại lớn lao là cứu loài người khỏi hiểm họa phát xít. Đối với Nhật Bản, sự thất bại của Chiến dịch Barbarossa đã khẳng định những tin tức mà điệp viên Xô Viết Richard Sorge báo về Moskva là chính xác. Nhật Bản không bao giờ đặt lại vấn đề tấn công vùng Siberi của Liên Xô nữa. Nguy cơ Liên Xô phải tiến hành chiến tranh trên hai mặt trận đã bị đẩy lùi.
Sự thất bại của Kế hoạch Barbarossa trên chiến trường đã củng cố niềm tin đối với hai đồng minh lớn của Liên Xô là Anh và Mỹ. Thủ tướng Anh Winston Churchill thừa nhận: "Sự nghiệp của người Nga đang chiến đấu bảo vệ tổ quốc của họ cũng là sự nghiệp của những con người tự do và những dân tộc tự do trên toàn thế giới". Sau trận Moskva, nhân loại tiến bộ hiểu rằng, việc đánh bại nước Đức phát xít không phải là không có khả năng thực tế.
Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 7:22, ngày 15 tháng 7 năm 2014.

Georgi Konstantinovich Zhukov

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

RIAN archive 2410 Marshal Zhukov speaking.jpg
Nguyên soái Georgy Konstantinovich Zhukov, khi còn là Đại tướng, tại một Hội nghị quân sự,
Moskva, ngày 5 tháng 2 năm 1942
Georgi Konstantinovich Zhukov (tiếng Nga: Георгий Константинович Жуков, đọc là Ghê-oóc-ghi Can-xtan-chi-nô-vích Giu-cốp; 1 tháng 12 năm 1896 – 18 tháng 6 năm 1974) là danh tướng trong quân đội Liên Xô. Trong rất nhiều tướng lĩnh nổi danh thế giới trong Chiến tranh thế giới thứ hai, G.K. Zhukov được xếp đầu bảng về số lượng trận thắng nhiều và quy mô lớn, được nhiều người công nhận về tài năng chỉ đạo chiến dịch và chiến lược. Những chiến tích của ông đã trở thành những đóng góp rất lớn vào kho tàng di sản kiến thức quân sự nhân loại. Nó không những có ảnh hưởng lớn về lý luận quân sự của Liên Xô mà cũng có ảnh hưởng rất lớn đối với sự phát triển của lý luận quân sự thế giới.
Theo nhận định của Nguyên soái A. M. Vasilevsky, G. K. Zhukov là một trong những nhà cầm quân lỗi lạc của nền quân sự Xô Viết. Trong cuộc Chiến tranh giữ nước vĩ đại của Liên bang Xô viết, ông đã giữ các chức vụ Tư lệnh Phương diện quân Dự bị, Tư lệnh Phương diện quân Tây, Tư lệnh Phương diện quân Beloussia 1, Tổng tham mưu trưởng quân đội Liên Xô, Thứ trưởng Bộ dân ủy Quốc phòng kiêm Phó Tổng tư lệnh tối cao quân đội Liên Xô, Ủy viên Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô. Hầu hết các nhà lãnh đạo quân sự nổi tiếng thế giới cùng thời với ông như Thống chế Anh Sir Bernard Law Montgomery, Thống tướng Hoa Kỳ Dwight David Eisenhower, Thống chế Pháp Jean de Lattre de Tassigny đều công nhận tên tuổi của ông đã gắn liền với hầu hết các chiến thắng lớn trong cuộc chiến như Trận Moskva (1941), Trận Stalingrad, Trận Kursk, Chiến dịch Bagrachion, Chiến dịch Visla-OderChiến dịch Berlin. Trong giai đoạn sau chiến tranh, ông giữ các chức vụ Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô tại nước Đức, tư lệnh các quân khu Odessa và Ural. Sau khi lãnh tụ tối cao I. V. Stalin qua đời, ông được gọi về Moskva và được bổ nhiệm chức vụ Thứ trưởng thứ nhất Bộ Quốc phòng Liên Xô. Trong thời gian từ năm 1955 đến năm 1957, ông giữ chức vụ Ủy viên trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Liên Xô. Năm 1957, trong thời gian đang đi thăm Nam Tư, ông bị đưa ra khỏi Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô. Năm 1958, ông bị miễn nhiệm tất cả các chức vụ trong quân đội.

Tiểu sử

Thời thơ ấu và thanh niên

G.K. Zhukov năm 1916
Georgi Konstantinovich Zhukov sinh ngày 1 tháng 12 năm 1896 (hay 19 tháng 11 trong lịch Julius), con ông Konstantin Zhukov và bà Ustina Zhukova, trong một gia đình nghèo tại làng Strenkovka, tỉnh Kaluga; làng này nằm ở phía Nam Moskva khoảng 160 km. Thuở nhỏ, phải sống rất cực khổ trong ngôi nhà chật chội vừa làm nhà ở, vừa làm nhà bếp nhưng ông rất ham học. Ông thường trích dẫn một câu ngạn ngữ Nga làm phương châm sống cho mình.
Sống chen chúc không có nghĩa là bị chôn vùi
—Ngạn ngữ Nga, 
Năm 7 tuổi, ông được cha cho đi học tại trường dòng. Điểm các môn thi của ông rất cao và ba năm liền được nhận phần thưởng của nhà thờ. Năm lên 9 tuổi, trong một lần theo cha lên Moskva phụ giúp việc đóng giày, ông được chứng kiến tận mắt các cuộc biểu tình của công nhân tại thành phố này để ủng hộ cuộc Cách mạng 1905 tại thủ đô Sankt Peterburg. Năm 11 tuổi, do việc làm ăn khó khăn, gia đình không còn điều kiện cho ông đi học. Ông được gửi lên Moskva làm thợ học việc trong một cửa hàng đồ da. Trong thời gian làm thợ học việc, ông vẫn theo học hai năm sơ học vào ban đêm.
Ngày 1 tháng 8 năm 1914, cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ. Anh họ của ông là Alexandr (cũng là con trai người chủ xưởng thuê anh) đã nhập ngũ và trở về nhà sau hai tháng vì bị thương nặng. Một người đồng nghiệp của Zhukov là bác thợ già Fiodor Ivanovich Coliosov khuyên ông không nên nhập ngũ vì cuộc chiến tranh này chẳng giúp gì cho việc cha của Zhukov bị xua đuổi khỏi Moskva và mẹ ông sẽ phải "gồng mình" cứu đói cho gia đình. Tuy nhiên, G. K. Zhukov có suy nghĩ khác. Ông cảm thấy nước Nga đang trong cơn nguy khốn và trả lời rằng:
Đến lượt tôi, tôi sẽ chiến đấu hết sức mình và trung thành với Tổ quốc của tôi
—G. K. Zhukov, 
Có điều, trong hồi ký, G. K. Zhukov cũng ghi nhận về những bất công và đau khổ của cuộc chiến, về "những người tàn tật từ mặt trận trở về, trong khi đó vẫn thấy bọn con nhà giàu sống phong lưu, nhàn nhã như xưa." Zhukov cũng kể lại tâm trạng bất mãn của binh sĩ cũng như thái độ vô cảm, hách dịch của tầng lớp sĩ quan cao cấp. Trong khi đó, Zhukov đánh giá cao những hạ sĩ quan và những người chỉ huy cấp thấp, theo ông chỉ có những viên chỉ huy này hiểu, yêu thương binh sĩ, và được binh sĩ ủng hộ, tin tưởng.
Ngày 7 tháng 8 năm 1915, Zhukov nhập ngũ. Ông được điều vào lực lượng kỵ binh, một điều mà ông cảm thấy rất vui vì lâu nay Zhukov luôn đam mê binh chủng "đầy lãng mạn" này. Sau khóa tập huấn tại trường hạ sĩ quan kỵ binh trong Trung đoàn kỵ binh dự bị số 106, cuối tháng 8 năm 1916 Zhukov được điều đến phục vụ tại trung đoàn long kỵ binh 10 mang tên "Novgorod" (Новгородский 10-й драгунский полк) thuộc Mặt trận Tây Nam nước Nga. Trong thời gian chiến đấu, ông được tặng Huân chương chữ thập Thánh Georghi. Tháng 10 năm 1916, ông bị thương trong một trận đánh và được tặng Huân chương chữ thập Thánh Georghi lần thứ hai vì đã bắt sống được một sỹ quan Đức. Tháng 2 năm 1917, cuộc Cách mạng Tháng Hai nổ ra, Hoàng đế Nikolai II thoái vị, Aleksandr Fyodorovich Kerenskii thành lập Chính phủ lâm thời. Ngày 27 tháng 2 năm 1917, Zhukov và các sĩ quan phản đối lệnh đàn áp của viên đại úy chỉ huy người Đức Von der Goltz đối với đoàn biểu tình của người lao động Moskva. Những người lính trong trung đoàn long kỵ binh 10 đã bầu Zhukov vào Ban đại biểu Xô Viết của trung đoàn. Ngày 7 tháng 11 năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga nổ ra. Chính quyền Bolshevik của Lenin tuyên bố rút ra khỏi cuộc chiến tranh. Do từ chối đi theo chính quyền của Simon Petlyura ở Ukraina, tháng 11 năm 1917, đại đội long kỵ binh của Zhukov bị giải thể. Ngày 30 tháng 11 năm 1917, G. K. Zhukov trở về quê hương, đem theo giấy chứng nhận giải ngũ và bệnh sốt phát ban (typhus) bị mắc từ mặt trận.

Trưởng thành trong Hồng quân

Tháng 8 năm 1918, Hồng quân Công nông được thành lập. Tháng 1 năm 1919, G. K. Zhukov gia nhập Hồng quân và được bố trí vào Trung đoàn 4 thuộc sư đoàn kỵ binh Moskva 1. Trong cuộc nội chiến Nga giữa Hồng quân và các lực lượng Bạch vệ của Denikin, Kolchak, Yudenit và Wrangel, G. K. Zhukov đã chiến đấu ở các mặt trận phía Đông, phía Tây và phía Nam, tham gia các chiến dịch Ural và Tsaritsyn (Царицын, nay là Volgograd). Tháng 5 và tháng 6 năm 1919, Sư đoàn kỵ binh Moskva 1 đã đến Ural, chiến đấu chống lại lực lượng chống đối Colchak tại khu vực nhà ga Sipovo. Từ tháng 6 đến tháng 8 năm 1919, ông đã cùng sư đoàn chuyển quân từ Uralsk đến tham gia các trận đánh tại các thành phố Vladimirovka và Nikolaevsk ở miền Nam Nga. Sau trận đánh này, ông gia nhập Đảng Cộng sản Nga (Bolshevik).
Tháng 10 năm 1919, ông tham gia các trận đánh tại Tsaritsyn. Sau đó trong trận đánh chiếm các thị trấn Zaplavnev (Заплавнев) và Srednei Akhtuba (Средней Ахтубa) thuộc vùng Privolzhe, ông đã bị thương do mảnh đạn pháo. Sau khi tốt nghiệp khóa học đào tạo sỹ quan chỉ huy trung cấp tại trường kỵ binh Ryazan, tháng 8 năm 1920, ông đã tham gia vào trận chiến với quân Kulac tại Ekaterinodar. Từ tháng 12 năm 1920 đến tháng 8 năm 1921, ông tham gia vào việc trấn áp cuộc nổi dậy của lực lượng phỉ Antonov ở Tambov. Năm 1922, ông được tặng thưởng Huân chương Cờ đỏ vì:
Trong trận chiến gần làng Elm tỉnh Tambov tháng 5 năm 1921, mặc dù các lực lượng đối phương tấn công với quân số từ 1.500 đến 2.000 tay kiếm, đồng chí đã cùng với tiểu đoàn của mình chống trả quyết liệt trong 7 giờ liền, sau đó chuyển sang truy kích và tiêu diệt 6 đơn vị quân phiến loạn.
—Mệnh lệnh số 183/RMCR của Tổng tư lệnh Hồng quân, 

Thời kỳ trước Chiến tranh thế giới thứ hai

1923 đến 1939


G. K. Zhukov trong trang phục kỵ binh Budyony năm 1923, trung đoàn trưởng trung đoàn 39 Buzuluk, sư đoàn kỵ binh 7 Samara.
Từ cuối tháng 5 năm 1923, G. K. Zhukov được giao chức vụ trung đoàn trưởng Trung đoàn 39 của sư đoàn kỵ binh 7 mang tên "Samara" (7-й Самарской кавалерийской дивизии). Năm 1924, ông được cử đi đào tạo bậc sỹ quan cao cấp tại trường kỵ binh Ryazan. Ông đã lần lượt học tiếp các khoá học quân sự ở Học viện Berlin, lớp tu nghiệp sĩ quan chỉ huy kị binh Leningrad và Học viện Quân sự Mikhail Frunze. Trong thời gian tại Đức, Zhukov đã tiếp nhận quan điểm chiến thuật tấn công chớp nhoáng dựa trên tổ chức lực lượng cơ giới hóa của Quân đội Đức. Học thuyết này gây ấn tượng lớn đối với ông, nên sau khi trở về nước, ông trở thành một trong những người ủng hộ việc cơ giới hóa Hồng quân.
Năm 1929, ông tốt nghiệp khóa học. Chỉ một năm sau, tháng 5 năm 1930, ông được giao chỉ huy Lữ đoàn 2 của Sư đoàn kỵ binh 7 "Samara" (lữ đoàn này sau đó đã được Rokossovsky chỉ huy). Sau đó, ông được điều về công tác tại Bộ tư lệnh Quân khu Bạch Nga. Năm 1932, ông được giao chức vụ Phó chánh Thanh tra kỵ binh, dưới quyền chỉ huy của Ieronim Petrovich Uborevich, Tổng thanh tra Hồng quân Liên Xô. Tiếp đó, ông được giao chỉ huy Sư đoàn kỵ binh 4. Trong thời gian ông làm Sư trưởng, cuộc Nội chiến Tây Ban Nha bùng nổ. Năm 1936, ông là một trong số các thành viên quan sát quân sự chủ chốt của Liên Xô được phái tới đó. Trở về nước, ông lần lượt được bổ nhiệm chỉ huy các quân đoàn kỵ binh 3 và 6. Tháng 7 năm 1938, ông được phong quân hàm Tư lệnh tập đoàn quân bậc 2, được giao chức vụ phó Tư lệnh quân khu đặc biệt miền Tây. Zhukov được nguyên soái S. M. Budiony đánh giá là một sĩ quan kỵ binh ưu tú. Ông chỉ huy đơn vị nghiêm minh, quản lý đúng phương pháp, các đơn vị được giao cho ông phụ trách bao giờ cũng là đơn vị tiên tiến, lập nhiều thành tích xuất sắc trong huấn luyện. Riêng sư đoàn kỵ binh 4 trong thời gian ông chỉ huy đã được tặng thưởng Huân chương Cờ đỏ.
Trong thời gian của cuộc đại thanh trừng 1937-1938 của Stalin nhắm vào Hồng quân, ông bị viên chính ủy sư đoàn kỵ binh 4 S. P. Tikhomirop tố cáo về một loạt khiếm khuyết "vụn vặt" như hay nổi nóng với cấp dưới khi họ không hoàn thành nhiệm vụ, đã cùng ăn tối với I. P. Uborevich, một trong các tướng lĩnh cao cấp của Hồng quân bị buộc tội là "kẻ thù của nhân dân" và đã bị xử tử. Tuy nhiên, Zhukov đã gửi điện cho Stalin và Voroshilov để nói rõ mọi chuyện, trong đó có mối quan hệ xã giao thông thường với I. P. Uborevich mà Tikhomirop đã cố tình buộc cho ông. Những kiến giải của Zhukov được chấp nhận và ông vẫn tiếp tục giữ vị trí của mình.

Trong Chiến dịch Khalkhyn Gol

Tháng 5 năm 1939, quân đội Nhật Bản tiến hành khiêu khích vũ trang tại vùng Khalkhyn Gol (Mông Cổ). Ngày 5 tháng 6 năm 1939, Zhukov được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh tập đoàn quân 1 của Liên Xô tại Mông Cổ. Từ ngày 20 đến ngày 31 tháng 8 năm 1939, ông đã tổ chức chiến dịch bao vây, tiêu diệt cụm quân Nhật của tướng Komatsubara Michitarō tại Khalkhyn Gol. Trong chiến dịch này, G. K. Zhukov đã sử dụng hiệu quả lực lượng xe tăng - cơ giới hoá, phối hợp với không quân và hoả lực yểm hộ của pháo binh để bao vây, chia cắt các đơn vị Nhật. Phương pháp tác chiến này về sau được gọi là phương pháp hợp đồng binh chủng, ra đời trước phương pháp tương tự mà quân Đức áp dụng trong cuộc tấn công Ba Lan sau này. Trong trận đánh chia cắt và bao vây các tập đoàn quân được trang bị nặng của Nhật, Quân đội Liên Xô đã đuổi được quân Nhật ra khỏi khu vực Khalkhyn Gol, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 61.000 quân Nhật. Đây là lần đầu tiên G. K. Zhukov thể hiện tài năng về mặt chỉ huy và hiệp đồng tác chiến binh chủng.
Chiến thắng ở Khalkhin Gol không chỉ có ý nghĩa về mặt chiến thuật và ngoại giao. Trong chiến dịch này, Zhukov đã thử nghiệm và sử dụng thành công nhiều chiến thuật mới mà sau này Hồng quân sẽ áp dụng để đánh bại phát xít Đức trong cuộc chiến tranh vệ quốc, tỉ như việc sử dụng cầu ngầm dưới nước, hay phiên chế các tân binh chung đơn vị với những binh sĩ kinh nghiệm để bổ túc kinh nghiệm chiến đấu cho nhau. Đồng thời, việc nghiên cứu hiệu quả tác chiến của các xe tăng BT trong chiến dịch này đã khiến Hồng quân thay thế các động cơ xăng bằng động cơ diesel trong xe tăng cũng như cung cấp nhiều kiến thức cần thiết cho việc phát triển các xe tăng T-34. Các binh sĩ thiện chiến từng tham gia trận Khalkhin Gol cũng được phiên chế sang các đơn vị tân binh nhằm bổ túc kinh nghiệm cho họ.
Tuy nhiên, chiến thắng Khalkhin Gol và chiến thuật của Zhukov không được biết đến nhiều bên ngoài Liên bang Xô Viết. Kết quả là thảm bại của các nước Đồng minh phương Tây tại Trận chiến nước Pháp năm 1940 trước chiến thuật chiến tranh chớp nhoáng của Đức. Chính vì thế, Zhukov cho rằng trận Khalkhin Gol là một bước chuẩn bị cần thiết cho Liên Xô trước cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại. Sau chiến dịch này, G. K. Zhukov được trao tặng danh hiệu Anh hùng Liên bang Xô viết theo Quyết định số 435/MPR ngày 28 tháng 8 năm 1939. Tháng 6 năm 1940, ông được bổ nhiệm chức vụ tư lệnh quân khu đặc biệt Kiev. Trong cuộc cải tổ hệ thống cấp hàm quân đội Liên Xô, với quân hàm cũ là tư lệnh tập đoàn quân bậc nhì, ông được phong quân hàm đại tướng (tháng 5 năm 1940) theo chế độ quân hàm mới (tương đương với cấp hàm tư lệnh tập đoàn quân bậc nhất cũ).
Ngoài năng lực tổ chức tác chiến. G. K. Zhukov còn được đánh giá cao trong việc năng cao khả năng chiến đấu hợp đồng quân chủng của quân đội. Ngày 9 tháng 6 năm 1940, ông được kiêm nhiệm chức vụ Tư lệnh quân khu Odessa theo các chỉ thị số 583/OU và 584/OU của Bộ trưởng dân ủy Quốc phòng để triển khai các kế hoạch phòng thủ biên giới quốc gia (KOVO), trong đó có nhiệm vụ phòng thủ biên giới tại vùng Bessarabia. Ngày 28 tháng 6 năm 1940, Phương diện quân Nam với 460.000 quân do ông làm Tổng tư lệnh, trung tướng N. F. Vatutin làm tham mưu trưởng đã vượt biên giới cũ tấn công và lấy lại vùng Bessarabia. Khi quân đội Romania tổ chức phản công, G. K. Zhukov đã điều động các lữ đoàn đổ bộ đường không 201 và 204, phối hợp với lực lượng hải quân đánh bộ và hai lữ đoàn thiết giáp đẩy lui quân Romania. Ngày 2 tháng 9 năm 1940, Xô Viết tối cao Liên Xô đã thông qua sắc lệnh thành lập nước CHXHCN Xô Viết Moldavia trên vùng đất Bắc Bukovina và ba huyện thuộc vùng Bessarabia với dân số 776.000 người trên diện tích 50.762 km vuông.

Ngay trước khi Chiến tranh Xô-Đức nổ ra


Sau chiến dịch Khalkhin Gol, G. K. Zhukov được phong quân hàm Đại tướng
Mùa thu năm 1940, G. K. Zhukov bắt tay vào thực hiện các kế hoạch diễn tập phòng thủ biên giới Liên Xô, giờ đây đã được đẩy sang phía Tây tại các vùng tiếp giáp Ba Lan - Đông Phổ (phía Tây) và Hungary - România (phía Tây Nam), có tên gọi là "Huấn luyện quân sự và chính trị cho quân đội trong mùa hè năm 1940". Trong cuộc diễn tập này, G. K. Zhukov được giao chỉ huy quân "Xanh" (quân đội xâm lược giả định) và đại tướng xe tăng D. G. Pavlov được giao chỉ huy quân "Đỏ" (Hồng quân Liên Xô). Những sự kiện có thể xảy ra tại biên giới phía tây trong trường hợp Đức tấn công Liên Xô đã được lấy làm cơ sở cho tình huống chiến lược. Phương diện quân "Xanh" của G. K. Zhukov được giả định đóng trên tuyến sông Vistula có nhiệm vụ tấn công từ Ba Lan và Đông Phổ với binh lực dự kiến 60 sư đoàn. Phương diện quân "Đỏ" của D. G. Pavlov phải bảo vệ Bạch Nga và Litva với binh lực dự kiến 50 sư đoàn. Hai bên đều có trong tay những lực lượng không quân và xe tăng mạnh tương đương nhau. Tuy nhiên, trái với kế hoạch dự kiến là quân "Đỏ" phòng ngự, còn quân "Xanh" tấn công; D. G. Pavlov lại cho quân của mình tấn công trước từ ngày 1 tháng 8 năm 1940 với ý đồ đến ngày 3 tháng 9, sẽ đoạt được tuyến sông Vistula. Hành động này của D. G. Pavlov bộc lộ nhiều thiếu sót và đã được G. K. Zhukov khai thác triệt để trong cuộc tập trận. Bằng các đòn đột kích sâu của các lực lượng xe tăng mạnh vào hai bên sườn, G. K. Zhukov không những không để cho D. G. Pavlov thực hiện được ý định bao vây quân "Xanh" của ông ở bờ Đông sông Vistula mà còn hợp vây quân "Đỏ" tại bờ Tây Sông Neman ngày 13 tháng 8, đưa quân "Xanh" đột kích vào kích sâu vào lãnh thổ Liên Xô từ 110 đến 120 km. Sau ba ngày diễn tập, quân "Đỏ" bị G. K. Zhukov đánh bại. I. V. Stalin đặc biệt khó chịu về thất bại của quân "Đỏ". Khi được I. V. Stalin hỏi về nguyên nhân thất bại của quân "Đỏ", D. G. Pavlov đánh trống lảng rằng: "Đó là việc vẫn thường xảy ra khi diễn tập". D. G. Pavlov không hề lường trước rằng, chỉ một năm sau, ông đã gặp thất bại cay đắng nhất và là thất bại cuối cùng của cuộc đời binh nghiệp trong một trận chiến thực sự với các diễn biến tương tự trước Cụm tập đoàn quân Trung tâm (Đức) cũng sử dụng những phương pháp đột kích giống như G. K. Zhukov đã diễn tập trong mùa thu năm 1940 cũng tại khu vực Belorussia. Tất cả những tình huống diễn ra trong cuộc diễn tập so với thực tế chiến trường 10 tháng sau đó giống nhau đến nỗi P. N. Bobylev đã phải làm một cuộc so sánh giữa "Diễn tập" và "Thảm họa".
Trong cuộc diễn tập thứ hai tại Quân khu đặc biệt Kiev, vai trò được thay đổi, G. K. Zhukov được giao chỉ huy quân "Đỏ". Nguyên soái G. I. Kulik cầm quân "Xanh". Ngay ngày đầu xuất quân, ông đã cho triển khai tấn công từ lãnh thổ của Ukraina và Bessarabia vào lãnh thổ của đối phương ở phía tây trên chính diện 90–180 km ở khu vực biên giới của Liên bang Xô viết với Slovakia (phía Bắc) và România (phía Nam). Lần này thì quân "Đỏ" thắng. Cuộc diễn tập thứ hai kết thúc với việc quân "Đỏ" đánh chiếm Budapest sau một trận đột phá đến hồ Balaton và vượt sông Danube. Bốn năm sau, bằng những cuộc hành binh tương tự, các phương diện quân Ukraina 2 của nguyên soái R. Ya. Malinovsky và Phương diện quân Ukraina 3 của nguyên soái F. I. Tolbukhin đã đánh sập toàn bộ cánh Nam của quân đội Đức Quốc xã tại mặt trận Xô-Đức. Kết thúc cuộc tập trận hè-thu năm 1940, G. K. Zhukov được chỉ định vào chức vụ Tổng tham mưu trưởng quân đội Liên Xô.
Có thể nói Zhukov đã hội đủ mọi tố chất để trở thành một vị tướng tài ba: Giỏi quan sát và phán đoán địch tình; dự kiến tình huống phát triển một cách chính xác; biết xử trí linh hoạt, ứng phó hữu hiệu với sự thay đổi của tình hình; điều chỉnh bố trí binh lực một cách hợp lý, luôn giáng cho địch những đòn đích đáng. Ông bao giờ cũng chọn đúng điểm đột phá khẩu, biết sử dụng binh đoàn xe tăng, chia cắt và đánh vu hồi, nhanh chóng đẩy đối thủ vào thế bị động. Zhukov còn là một nhà chiến thuật tài năng, hiểu rõ tầm quan trọng của yếu tố địa hình và khí hậu. Trước khi nổ ra chiến dịch, bao giờ ông cũng tiến hành thị sát và đo đạc địa hình, tính toán cân nhắc cẩn thận so sánh lực lượng giữa hai bên, dựa vào sức mạnh tổng hợp của các quân binh chủng, luôn chú ý việc yểm hộ có hiệu quả của không quân, pháo binh, sự đảm bảo các đơn vị công binh công trình, thông tin và hậu cần tiếp liệu. Ông không bao giờ chấp nhận một cuộc giao tranh mà không nắm chắc phần thắng.
Từ tháng 2 năm 1941, trên cương vị Tổng tham mưu trưởng, Thứ trưởng Bộ dân ủy Quốc phòng Liên Xô, ông tham gia soạn thảo tài liệu "Kế hoạch chiến lược cho việc triển khai của Liên Xô trong trường hợp chiến tranh với Đức và các đồng minh của nó"  Bản kế hoạch đã hoàn thành không muộn hơn ngày 15 tháng 5 năm 1941. Trong tài liệu này, có đoạn chỉ rõ:
Nước Đức hiện nay đã huy động phần lớn quân đội của nó đến biên giới và tích cực xây dựng các đơn vị dự bị. Điều đó cảnh báo cho chúng ta về một cuộc tấn công bất ngờ có thể xảy ra. Để ngăn chặn điều này, tôi cho là cần thiết phải giành quyền chủ động chiến lược đối với Đế chế thứ ba trong bất kỳ trường hợp nào, kể cả việc ngăn chặn trước kẻ thù và triển khai tấn công các đơn vị quân Đức khi xác định chắc chắn thời gian chúng triển khai tấn công. Thậm chí, phải làm cho chúng không có thời gian chuẩn bị trước để tạo ra ưu thế về binh lực.
Một số nhà nghiên cứu cho rằng, vào tối 14 tháng 5 năm 1941, Bộ trưởng dân ủy Quốc phòng S. K. Timoshenko và tổng tham mưu trưởng G. K. Zhukov đã báo cáo với I. V. Stalin một tài liệu đề nghị triển khai tấn công trước của quân đội Liên Xô qua lãnh thổ của miền Nam Ba Lan (với mục tiêu đánh chiếm tuyến phân giới Vistula) sau đó, có thể phát triển đến Katowice hoặc Berlin (trong trường hợp các cụm quân chủ lực của Đức rút lui đến Berlin), hoặc vùng bờ biển Baltic, khi các lực lượng chính của Đức không kịp rút và phải cố gắng giữ lãnh thổ Ba Lan và Đông Phổ. Cuộc tấn công trên cánh trái của Mặt trận phía Tây theo hướng dự kiến sẽ đến Siedlce, Deblin, đến các cụm quân tại Warsawa; đánh chiếm Warsawa và tấn công ở hướng Tây Nam của mặt trận để đánh bại đối phương tại Lublin.
Hiện nay, sử học hoàn toàn không có tài liệu gốc để xác định có hay không có bản kế hoạch nói trên, và nếu có thì liệu nó có được I. V. Stalin thông qua hay không vì không có một bằng chứng nào về việc ký tài liệu này, mặc dù khoảng dành cho chữ ký trong đó đã được đánh dấu. Theo một bản ghi lại cuộc phỏng vấn G. K. Zhukov ngày 26 tháng 5 năm 1965, kế hoạch này đã không được I. V. Stalin chấp thuận. Tuy nhiên, Zhukov đã không xác định được vào thời điểm ngày 22 tháng 6 năm 1941, liệu kế hoạch có được thông qua và được đem ra thực hiện. Cho đến thời điểm hiện nay, có thể xác định Liên Xô không có kế hoạch nào khác cho cuộc chiến với Đức có chữ ký của Stalin mà không được công bố.
Trong giai đoạn 1930-1940, với sự chấp thuận của lãnh đạo Liên Xô, các nhà nghệ sĩ, nhà văn đã có một số tác phẩm giả tưởng về một cuộc tấn công như vậy. Do đó, nó làm cho người ta dễ hiểu lầm rằng kế hoạch nói trên dường như đã được thông qua. Điều này còn được nhấn mạnh bởi những người cực đoan luôn tin rằng kế hoạch hành động của Hồng quân chỉ có thể là "tấn công". Từ đó, người ta cho rằng G. K. Zhukov đã có sẵn một kế hoạch tấn công vào "đêm trước" cuộc xâm lược Liên Xô của nước Đức Quốc xã với suy lý rằng nếu kế hoạch này không được thực hiện thì đó là do sự không chấp thuận của Stalin. Tuy nhiên điều cần lưu ý là mọi kế hoạch tác chiến đều phải căn cứ vào tình hình thực tế trên mặt trận vào thời điểm đó, chứ không thể tùy tiện đặt ra cho dù những hành động giáng trả của quân đội Liên Xô đối với quân Đức ngày 22 tháng 6 năm 1941 có vẻ như gián tiếp hoặc trực tiếp triển khai tấn công. Bản thân G. K. Zhukov cũng không hề nhắc đến kế hoạch này trong hồi ký của mình, kể cả tại bản đầy đủ được công bố năm 1992. Theo nguyên soái A. M. Vasilevsky, trong khi kết quả cuộc tập trận tại Quân khu đặc biệt miền Tây không được phổ biến rộng rãi, thì kết quả cuộc tập trận tại Quân khu đặc biệt Kiev lại được khuếch trương quá mức bởi các cơ quan tuyên truyền và các văn nghệ sĩ, làm lan rộng ảo tưởng có thể giành thắng lợi dễ dàng trong chiến tranh bằng đòn tấn công sang lãnh thổ đối phương.
Có điều chắc chắn là G. K. Zhukov đã nhận định rằng Chiến tranh Xô-Đức là không thể tránh khỏi, nên về mặt xây dựng quân đội, ông đã đề xuất thành lập các đơn vị thiết giáp độc lập để đáp ứng nhu cầu của chiến tranh. Tuy nhiên ý kiến đúng đắn của ông đã không được giới lãnh đạo Liên Xô coi trọng. Điều này chỉ được chứng thực vào tháng 6 năm 1941, khi Chiến tranh Xô-Đức nổ ra, thực tế chiến trường đã chứng minh hầu hết các luận điểm của ông về sử dụng tập trung xe tăng trong chiến tranh hiện đại là chính xác.

Trong Chiến tranh Xô-Đức

Năm 1941

22 tháng 6 năm 1941, Đức Quốc xã bất ngờ tấn công Liên Xô. Trên cương vị Tổng tham mưu trưởng, ông đã đề nghị I. V. Stalin ban hành Chỉ thị số 1 (lúc 0 giờ 25 phút ngày 22 tháng 6). Đến 7 giờ 15 phút ngày 22 tháng 6, ông đề nghị Bộ Tổng tư lệnh ra Chỉ thị số 2 ban hành lệnh tổng động viên trên toàn bộ phần lãnh thổ Châu Âu của Liên Xô để chống lại cuộc tấn công xâm lược của nước Đức Quốc xã. 13 giờ cùng ngày, theo lệnh của I. V. Stalin, ông bay đến Phương diện quân Tây Nam để thị sát tình hình và chỉ đạo tại chỗ. Hồi 23 giờ 50 phút ngày 22 tháng 6. I. V. Stalin ra lệnh cho Phó tổng tham mưu trưởng N. F. Vatutin thảo Chỉ thị số 3 yêu cầu các phương diện quân chuẩn bị tổng phản công. Từ Tarnopol, G. K. Zhukov điện về Moskva nói rõ rằng ông không thể đồng ý vì chưa nắm được tình hình đối phương. Tuy nhiên, khi N. F. Vatutin nói rằng I. V. Stalin đã tự quyết định thì ông mới miễn cưỡng bảo N. F. Vatutin ghi chữ ký của ông bên cạnh chữ ký của S. M. Timoshenko. Do không nắm được tình hình quân Đức, không căn cứ vào thực tế chiến trường và không được chuẩn bị chu đáo, đặc biệt về không quân yểm hộ mặt đất và hậu cần tiếp liệu, các cuộc phản công của các Phương diện quân Tây, Tây Bắc, Tây Nam và Nam đã thất bại. Là đại diện Bộ Tổng tư lệnh tối cao tại Phương diện quân Tây Nam, G. K. Zhukov đã cố gắng hết sức để chỉ đạo các hoạt động tác chiến và thu được một số kết quả, thiết lập được tuyến phòng thủ nhiều lớp để làm chậm đáng kể bước tiến của Cụm Tập đoàn quân Nam (Đức) trong khi Phương diện quân Tây Bắc đã chịu những tổn thất lớn và Phương diện quân Tây đã bị tổn thất đặc biệt nghiêm trọng.
Kế hoạch rút bỏ Kiev và trận Yelnya
Zhukov nhìn thấu suốt toàn cục, lại hiểu rõ tư tưởng quân sự của người Đức. Sau khi nghiên cứu sự bố trí lực lượng của quân Đức trên chiến trường, ông và các đồng sự kết luận rằng lực lượng thiết giáp Đức đã bị tiêu hao trong các đợt tấn công vừa qua, nên mục tiêu khả dĩ trước mắt là các vị trí tương đối yếu của Hồng quân. Ông cho rằng quân Đức sẽ không đánh ngay vào thủ đô Moskva, mà sẽ nhằm vào Phương diện quân Trung tâm để từ đó tập kích vào hông và cánh phải của Phương diện quân Tây Nam đang giữ Kiev. Sau đó, Zhukov đề xuất một kế hoạch táo bạo: điều quân trấn thủ phía Tây Moskva đến tăng cường cho Phương diện quân Trung tâm, rút phương diện quân Tây Nam khỏi Kiev, lui về phía Tây sông Dnepr để tránh bị bao vây. Phương diện quân Tây sẽ tấn công vào chỗ lồi Yelnya để xóa sổ nguy cơ quân Đức dùng bàn đạp này để đánh vào Moskva.
Tuy nhiên, Stalin không chấp thuận rút bỏ Kiev. Đêm 29 tháng 7, trong một cuộc tranh luận nảy lửa, Stalin gọi chủ trương bỏ Kiev để giữ quân đội của Zhukov là hồ đồ. Với cá tính bộc trực, Zhukov coi thái độ của Stalin là sự phủ định đối với tri thức, kinh nghiệm của bao nhiêu người trong bộ tham mưu. Không chấp nhận cách phủ định đó, Zhukov đề nghị được thôi giữ chức vụ Tổng tham mưu trưởng và xuống chỉ huy các đơn vị đang chiến đấu:
Nếu đồng chí nghĩ rằng với tư cách Tổng tham mưu trưởng, tôi chỉ có khả năng phát biểu những điều hồ đồ thì tôi không còn gì để làm ở đây. Tôi đề nghị cho tôi được rút khỏi chức vụ Tổng tham mưu trưởng và được điều ra ngoài mặt trận. Ở đó tôi cảm thấy mình sẽ có ích hơn cho Tổ quốc !
—Georgi Konstantinovich Zhukov, 
Stalin đồng ý và phái ông đến làm tư lệnh Phương diện quân Dự bị. Tuy nhiên Stalin nhấn mạnh là Zhukov vẫn là một thành viên trong Bộ Tổng Tư lệnh tối cao. Vào giai đoạn cuối Chiến dịch Smolensk 1941, từ ngày 30 tháng 8 đến ngày 8 tháng 9 năm 1941, ông chỉ huy Phương diện quân Dự bị tổ chức thành công trận phản kích vào Yelnya, xóa bỏ một bàn đạp quan trọng của quân Đức trước cửa ngõ Moskva, biến Yelnya thành mồ chôn của năm vạn quân Đức trong đó có cả sư đoàn "Đại Đức" của đảng phát xít Đức.
Trong khi đang chỉ huy Phương diện quân Dự bị, Zhukov vẫn nghiên cứu tình hình quân Đức và chú ý đến các mặt trận khác. Ngày 19 tháng 8 năm 1941, khi phát hiện Tập đoàn quân xe tăng 2 (Đức) chuyển hướng tấn công xuống phía Nam vào Glukhov, Chernigov, Konotop, Lokhvitsa, ông đã gửi cho Stalin một bức điện dự báo quân Đức sẽ tập trung công kích sau lưng Phương diện quân Tây Nam, tiêu diệt Phương diện quân này để xóa bỏ nguy cơ Cụm tập đoàn quân Trung Tâm bị đánh thọc sườn, từ đó sẽ tấn công Donbass. Các mục tiêu này hoàn thành, thì đại bộ phận lực lượng thiết giáp sẽ lại tập trung vào hướng Moskva. Ông yêu cầu thành lập càng sớm càng tốt một cụm quân mạnh ở tuyến Glukhov, Chernigov, Konotop để ngăn chặn ý đồ bao vây Phương diện quân Tây Nam của quân Đức. Ba tuần sau, ngày 5 tháng 9, quân Đức đã thực hiện cuộc tấn công này. Mặc dù Bộ Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô đã tổ chức các Phương diện quân Trung Tâm và Bryansk nhưng do không đủ lực lượng, phương tiện, do sự thụ động của các tướng F. I. Kuznetsov và A. I. Yeriomenko và do Stalin quyết định rút quân quá muộn; nên quân Đức với ưu thế binh lực vượt trội đã hợp vây và tiêu diệt Phương diện quân Tây Nam, chiếm Kiev.
Leningrad
Ngày 14 tháng 9, Zhukov được giao chỉ huy Phương diện quân Leningrad giữa lúc Cụm Tập đoàn quân Bắc của Đức đã vây chặt và cố chiếm lấy thành phố. Trong tuần đầu tiên, ông đã cùng Bộ Tư lệnh Phương diện quân tổ chức lại tuyến phòng ngự, ngăn chặn và đánh bại nhiều cuộc tấn công của quân đội Đức. Những sĩ quan chỉ huy kém cỏi cũng như những binh sĩ bỏ chạy khỏi trận tuyến đều bị xử tử. Zhukov ra lệnh bố trí những trận địa pháo mật độ cao che chắn các những hướng chủ yếu và rải mìn dày đặc ở những khu vực có nguy cơ cao, đồng thời tăng cường hệ thống phòng không, đề phòng nguy cơ quân Đức nhảy dù. Ông còn hạ lệnh cho thủy quân của Hạm đội Baltic bỏ chiến hạm lên bờ tác chiến, yêu cầu binh sĩ phải tận dụng mọi cơ hội dù là nhỏ nhất để tổ chức phản kích, liên tục quấy rối ở mọi nơi, ngăn cản quân Đức tập trung binh lực tấn công mạnh vào thành phố. Sau đó ông tập hợp một lực lượng gồm 5 vạn binh sĩ mở một đợt tấn công dữ đội vào mũi tấn công vươn xa nhất của quân Đức vào Leningard. Được sự yểm hộ tích cực của pháo mặt đất và hải pháo, đợt tấn công này đã tước mất hơn một nửa binh lực tấn công của quân Đức tại khu vực đó.
Đồng thời, Zhukov cũng nhận ra rằng, bị kích thích bởi trận thắng lớn tại Kiev, Hitler sẽ tranh thủ mở ngay một đợt tấn công nhằm vào Moskva để kết thúc sớm chiến tranh. Như thế, Tập đoàn quân thiết giáp ở khu vực Leningrad sẽ được chuyển đến chiến trường Moskva, và cụm Tập đoàn quân Bắc khi mất lực lượng thiết giáp sẽ phải ngừng các cuộc tấn công. Mọi chuyện xảy ra như phán đoán của ông, và Thống chế chỉ huy Cụm quân Bắc Wilhelm von Leeb bị mất chức khi ngưng tấn công trái ý với Hitler. Ngày 21 tháng 9, Hitler đành ra lệnh ngưng công kích Leningrad và chuyển sang bao vây phong tỏa thành phố. Trong một thời gian ngắn sau sự kiện, Zhukov đã kịp củng cố các tuyến phòng ngự bằng lực lượng của Phương diện quân và Hạm đội Baltic, biến Leningrad thành một pháo đài vững chắc. Trong khoảng thời gian sau đó, Zhukov vẫn tiếp tục giám sát tình hình mặt trận, bí mật bay ra bay vào thành phố và tham gia vào việc tổ chức sơ tán dân chúng, di tản các nhà máy công nghiệp, tái tổ chức lại lực lượng sau khi Tập đoàn quân Xung kích của tướng Vlaslov bị tiêu diệt, cũng như phối hợp một số đợt tấn công nhằm giải vây Leningrad.
Moskva
Sau khi mặt trận Leningrad tạm bình ổn, đủ sức chống trả cuộc vây hãm, ngày 8 tháng 10, Zhukov được điều về lại Phương diện quân Dự bị. Lúc này, Phương diện quân này và Phương diện quân Tây đang bị ba Tập đoàn quân xe tăng và 3 tập đoàn quân dã chiến Đức bao vây tại khu vực Rzhev - Vyazma, còn Tư lệnh Budyonny của Phương diện quân không có mặt ở Chỉ huy sở, các sĩ quan trong Bộ tư lệnh hoàn toàn không biết chuyện gì đang xảy ra. Zhukov cố gắng liên lạc với Budyonny và đích thân ra mặt trận để nắm tình hình chiến sự. Để thống nhất hoạt động, ông đã đề nghị với Stalin hợp nhất hai phương diện quân này và trở thành người tổ chức phòng thủ Moskva trên thực tế.
Sau một thời gian ngắn, Zhukov bắt liên lạc được với lực lượng của phương diện quân Tây đang bị bao vây. Ông phân tích cho họ thấy chỗ mạnh yếu của quân Đức và hướng dẫn họ tổ chức chống trả. Dưới sự chỉ đạo của Zhukov, Hồng quân đã củng cố được trận địa và tiêu hao nặng sinh lực của quân địch, khiến sức tấn công của quân Đức càng lúc càng suy yếu.
Ngày 15 tháng 11, quân Đức lại mở một đợt tổng công kích Moskva. Trong khu vực Krasnaia Poliana (Красная поляна) và Kriukovo (Крюково) ở phía Tây Bắc, quân Đức chỉ còn cách Moskva 20 km. Dưới áp lực nặng nề, Zhukov vẫn bình tĩnh nhận ra một sai lầm quan trọng trong kế hoạch tấn công của quân Đức: người Đức chủ trương bao vây Moskva nên dốc toàn lực đánh mạnh ở hai cánh, nhưng 6 quân đoàn bố trí ở chính diện hầu như không làm gì cả. Vì vậy ông đề xuất một kế hoạch táo bạo: rút bới một phần lớn lực lượng ở trung tâm để tăng cường cho hai cánh. Nhờ vậy mà Hồng quân đã không phải tung lực lượng dự bị vào trận mà "để dành" cho đợt phản công mở màn vào ngày 6 tháng 12 cùng năm.
Tuy nhiên, việc rút bớt quân ở khu vực chính diện đã khiến lực lượng trấn thủ nơi đây trở nên hết sức mỏng. Vì vậy Zhukov ra lệnh cho bộ đội tại khu vực này phải canh phòng hết sức cẩn mật, ngừa trường hợp quân Đức mở một đợt tấn công tại đây. Đúng như ông dự đoán, sau cùng quân Đức đã nhận thấy sai lầm của mình và bắt đầu tấn công vào khu vực chính diện. Tuy nhiên sự phòng thủ hết sức kỹ lưỡng của Hồng quân đã chặn đứng tất cả các đợt tấn công của quân Đức.
Mặc dù cả ba Phương diện quân của Liên Xô không chiếm ưu thế về binh lực so với Cụm tập đoàn quân Trung Tâm của quân đội Đức Quốc xã: về người 1,1 triệu/1,7 triệu, về xe tăng 774/1.170 chiếc;.\ G. K. Zhukov vẫn quyết tâm phản công. Ngày 1 tháng 12, ông đã chỉ đạo Phương diện quân Tây phối hợp với Phương diện quân Briansk và Phương diện quân Kalinin tiến hành chiến dịch phản công tại khu vực Moskva. Sau hai tháng phản công đã tiêu diệt 581.900 quân Đức, đánh bật quân Đức khỏi khu vực Moskva và các vùng phụ cận từ 100 đến 250 km. Đây là lần đầu tiên trong chiến tranh thế giới thứ hai, quân Đức bị đánh bại trong một trận đánh chiến lược, có quy mô lớn với hàng triệu quân mỗi bên tham gia. Sau trận này, Kế hoạch Barbarossa của nước Đức Quốc xã hoàn toàn phá sản. Trận đánh này đã củng cố niềm tin của liên minh chống phát xít toàn thế giới chống lại Hitler và các đồng minh trong phe Trục.
Và Zhukov, với tư cách là người cứu Moskva, trở nên nổi tiếng vang dội. Trong buổi lễ mừng công ngày 25 tháng 5 năm 1945 sau khi chiến tranh kết thúc, Stalin đã hết lời khen ngợi Zhukov. Ông đã phát biểu như sau:
Tổ quốc và Đảng vĩnh viễn không bao giờ quên tác dụng của những chỉ huy viên quân đội Liên Xô đã phát huy trong cuộc chiến tranh bảo vệ dân tộc. Tên tuổi của các tướng lĩnh chiến thắng đã cứu nguy cho Tổ quốc sẽ vĩnh viễn được ghi chép vào lịch sử và sẽ được khắc lên trên những tấm bia vinh dự cắm tại chiến trường để được lưu danh trăm năm. Trong số các chiến trường đó, có một chiến trường mang ý nghĩa không tầm thường, đó là chiến trường đại chiến tại thủ đô Moskva. Và tên tuổi của đồng chí Zhukov, được tượng trưng cho sự thắng lợi, sẽ vĩnh viễn không tách rời với sự liên hệ của chiến trường này.
—I.V.Stalin, 

Năm 1942


Đại tướng G. K. Zhukov, Tư lệnh Phương diện quân Tây
Trong năm này, với tư cách đại diện Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh tối cao Liên xô, G. K. Zhukov chỉ đạo quân đội Liên Xô thực hiện bốn hoạt động quân sự lớn, gồm có:
Kế hoạch Sao Hỏa
Đến tháng 2 năm 1941, ảnh hưởng từ cuộc phản công thắng lợi của quân đội Xô Viết gần Moskva bắt đầu suy giảm vì quân đội Đức đã chuyển một số binh đoàn từ Tây Âu sang và tăng sức đề kháng. Mặc dù thiếu quân tiếp viện và thiếu đạn dược nhưng G. K. Zhukov vẫn tiếp tục tấn công quân Đức đang hồi phục phần nào sau khi thất bại tại Moskva. Do kết quả hành động nóng vội của Phương diện quân Kalinin, mùa hè năm 1942 tập đoàn quân 33, quân đoàn kỵ binh cận vệ 1 và quân đoàn đổ bộ đường không 4 đã bị quân Đức bao vây tại Rzhev. Ông đặt ra nhiệm vụ phải giải vây cho các đơn vị quân dội Liên Xô đang bị bao vây tại "chỗ lồi" Rzhev - Viazma. Hai chiến dịch được tổ chức từ tháng 1 đến tháng 4 và từ tháng 7 đến tháng 10 năm 1942 đã giải vây được quân đoàn kỵ binh cận vệ 1, quân đoàn đổ bộ đường không 4 và một phần tập đoàn quân 33. Phần lớn tập đoàn quân 33 bị đánh tan với quân số bị tổn thất là 193.683 người, chiếm 24,93% tổng quân số của Phương diện quân Tây và bằng 56,1% số quân bị vây lúc ban đầu. Trái với nhận xét của một số tướng lĩnh Liên Xô cho rằng các cuộc tấn công trên hướng Rzhev - Sychevka là không cần thiết, tướng Đức Kurt von Tippelskirch đánh giá:
Những tháng đầu năm đã xuất hiện một tình huống khó khăn trên hướng Rzhev - Sychevka. Người Nga gần như đã phá vỡ tuyến phòng thủ đầu tiên của chúng tôi. Cuộc đột phá này chỉ được ngăn chặn khi chúng tôi giữ lại đây ba sư đoàn xe tăng và một số đơn vị bộ binh mà lẽ ra theo kế hoạch, chúng phải được triển khai tại mặt trận phía Nam. Người Đức đã thành công về chiến thuật khi họ phản công bịt lại lỗ thủng trên hướng này, nhưng người Nga còn được lợi lớn hơn về chiến lược khi họ giam chân một số lượng lớn quân Đức tại đây, không cho chúng tăng viện cho mặt trận chính.
—Tướng Đức Kurt von Tippelskirch, 
Chiến dịch "Sao Hỏa", được tiến hành đồng thời với giai đoạn đầu tiên của Chiến dịch Sao Thiên Vương nhưng không do G. K. Zhukov chuẩn bị và trực tiếp chỉ huy mặt trận. Vào thời điểm đó, ông đang thực hiện nhiệm vụ Phó tổng tư lệnh tối cao, đại diện Đại bản doanh Bộ tổng tư lệnh chỉ đạo mặt trận Stalingrad. Tuy nhiên, G. K. Zhukov vẫn phải chịu một phần trách nhiệm điều phối các hoạt động tấn công của Phương diện quân Tây do I. S. Konev chỉ huy và Phương diện quân Kalinin do M. A. Purkayev chỉ huy. Trong chiến dịch này, mục tiêu bao vây và tiêu diệt Cụm tác chiến tập đoàn quân 9 (Đức) đã không đạt được. Trong vòng 25 ngày, quân đội Liên Xô đã tổn thất 215.000 người chết, bị thương và bị bắt, 1. 315 xe tăng, xe bọc thép và pháo tự hành bị phá huỷ. Tỷ lệ thương vong trung bình ngày còn cao hơn tại mặt trận Stalingrad. Bằng việc cung cấp chi tiết về các mệnh lệnh của Bộ Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô, đặc biệt là việc "làm giả" thông tin về chuẩn bị tấn công tại khu vực Rzhev để phân tán sự chú ý của đối phương vào hướng tấn công chính; M. A. Gareev đã phản bác lại ý kiến của David Glantz và một số nhà sử học phương Tây. Ông cho rằng: "Các chiến dịch "Sao Hỏa" và Sao Thiên Vương đều nằm trong một tầm nhìn chiến lược và mục tiêu chiến lược cốt lõi của Chiến dịch "Sao Hỏa" là nhằm chuyển hướng binh lực tăng viện của quân Đức cũng như giam chân các lực lượng cơ bản của quân Đức tại đây, không cho quân Đức điều động lực lượng bổ sung cho mặt trận Stalingrad để đảm bảo chắc chắn cho sự thành công của cuộc phản công của quân đội Liên Xô tại Stalingrad. Do đó,"không có lý do thuyết phục cho để đánh giá Chiến dịch "Sao Hỏa" thất bại hay là "thất bại lớn nhất của Nguyên soái Zhukov" như David Glantz và một số nhà sử gia phương Tây mô tả"..
Chính David Glantz cũng đã dẫn ra trong lời nói đầu cuốn sách "Thất bại lớn nhất của Nguyên soái Zhukov" (bản tiếng Nga. Moskva. 2006) nói về chiến dịch Sao Hỏa 1942, đoạn bình luận sau đây của A. V. Isaev:
Ngoài việc gây ra các ảnh hưởng cho các sự kiện có tính cục bộ khác của các mặt trận trong các tháng 11, 12 năm 1942; Chiến dịch "Sao Hỏa" còn ảnh hưởng đến cả quá trình chiến sự năm 1943. Mùa đông 1943, tập đoàn quân 9 của tướng Walther Model đã bị găm chặt vào "chỗ lồi" Rzhev. Đến mùa hè năm 1943, nó đã kiệt quệ đến mức người ta đã không thể sử dụng nó trong Chiến dịch "Thành trì".
—A. V. Isaev, 
Theo những tiết lộ của Trung tướng tình báo P. A. Sudoplatov, trong một "trò chơi điện đài" mang tên "Tu viện", cơ quan tình báo Liên Xô đã cố tình để lộ thông tin về chiến dịch Sao Hỏa đã được cho quân Đức biết đế thu hút binh lực quân Đức về đây, đảm bảo cho sự thành công của Chiến dịch Sao Thiên Vương sắp diễn ra ở Stalingrad. Tuy nhiên, G. K. Zhukov cũng như các tướng lĩnh dưới quyền của I. V. Stalin hoàn toàn không biết gì và họ đã trở thành nạn nhân của "trò chơi" này:
Thông tin sai lạc thường có tầm quan trọng chiến lược. Ngày 4 tháng 11 năm 1942, "Heine" và "Max" cho người Đức biết rằng Hồng quân thực hiện các cuộc tấn công vào ngày 19 tháng 11 không phải là ở Stalingrad và Bắc Kavkaz mà là một cú đánh vào Rzhev. Vì vậy, người Đức đang chờ đợi các hoạt động lớn của Hồng quân tại Rzhev và đẩy lùi cuộc tấn công. Tuy nhiên, khi cụm quân của tướng Paulus bị bao vây tại Stalingrad thì người Đức hoàn toàn bị bất ngờ. Không biết gì về "trò chơi điện đài" này, G. K. Zhukov đã phải trả một giá rất đắt trong cuộc tấn công tại Rzhev với hàng vạn binh sĩ thiệt mạng. Trong hồi ký của mình, ông (G. K. Zhukov) thừa nhận rằng kết quả của cuộc tấn công này là không đạt yêu cầu. Tuy nhiên, ông không bao giờ biết rằng người Đức đã được cảnh báo về cuộc tấn công của chúng ta chống lại họ trên hướng Rzhev, do đó mà ông đã ném vào đấy rất nhiều binh lực.
P. A. Sudoplatov - Những nhiệm vụ đặc biệt, Lyuban và Kremlin, những năm 1930-50, 
Chiến sự tại Stalingrad và Kế hoạch Sao Thiên Vương
Ngày 27 tháng 8 năm 1942, trong khi đang chỉ đạo chiến sự ở khu vực Pogoreloye Gorodishchye, G. K. Zhukov được bổ nhiệm làm Phó Tư lệnh Tối cao và được triệu hồi về Moskva. Tại Đại bản doanh, I. V. Stalin thông báo vắn tắt tình hình tại khu vực Stalingrad và điều Zhukov tới Stalingrad để xử lý chiến sự. Ngày 29 tháng 8 Zhukov tới Stalingrad. Sau khi nghiên cứu tình hình, G. K. Zhukov và Tổng tham mưu trưởng A. V. Vasilevsky quyết định tổ chức một đợt phản công mạnh vào cạnh sườn quân Đức, bắt đầu không muộn hơn ngày 6 tháng 9. I. V. Stalin đồng ý và yêu cầu cuộc phản công phải diễn ra vào ngày 2 tháng 9, nhưng G. K. Zhukov đã thuyết phục I. V. Stalin dời lại ngày 5 tháng 9 do dự trữ đạn dược chưa đầy đủ. Do nhiều nguyên nhân, đợt tấn công không diễn ra như mong đợi và các mũi tấn công của quân đội Liên Xô đều bị chặn đứng, mặc dù họ đã thành công trong việc buộc quân Đức phân tán lực lượng khỏi Stalingrad. Zhukov kết luận rằng quân đội Liên Xô tại Stalingrad chưa đủ mạnh để tổ chức phản công và trong cuộc họp tại Đại bản doanh ngày 12 tháng 9, ông trình bày với I. V. Stalin cần phải tăng cường lực lượng cho khu vực chung quanh Stalingrad và trong thời gian chờ đợi, nên tổ chức phòng ngự tích cực để tiêu hao dần lực lượng của quân Đức. Ý kiến này được A. M. Vasilevsky tán đồng và sau đó I. V. Stalin đã yêu cầu Zhukov cùng Vasilevsky nghiên cứu thêm về kế hoạch phản công mới tại Stalingrad.
Và thế là bắt đầu quá trình thai nghén kế hoạch phản công mang tên "Sao Thiên Vương" tại mặt trận Stalingrad do G. K. Zhukov và A. M. Vasilevsky cùng soạn thảo, được đánh giá là "với một nhiệm vụ minh xác, với một ý nghĩ táo bạo và với một phạm vi rộng lớn, đã làm cho mọi người phải chú ý". Suốt từ tháng 9 đến tháng 11 năm 1942, Zhukov và Vasilevsky ngoài việc soạn thảo kế hoạch phản công có một không hai này còn trực tiếp tham gia chỉ đạo chiến sự ở phía Nam, báo cáo tình hình từ mặt trận về STAVKA, và xem xét tình hình chuẩn bị binh lực phản công. Kế hoạch được I. V. Stalin phê chuẩn vào cuối tháng 9, và vào ngày 3 tháng 11 tất cả các chỉ huy phương diện quân được triệu tập để thông báo kế hoạch hành động. K. K. Rokossovsky đã đánh giá cao sự hướng dẫn của G. K. Zhukov trong các buổi thông báo này: "Đại tướng Zhukov đã thể hiện học vấn vô cùng uyên bác và sự am hiểu sâu rộng về tình hình mặt trận."
Trận phản công Stalingrad cuối cùng cũng được phát động ngày 19 tháng 11 năm đó và kết thúc ngày 2 tháng 2 năm 1943. Trong chiến dịch, nguyên soái G. K. Zhukov chỉ huy phối hợp hành động của các Phương diện quân Đông Nam và Stalingrad, nguyên soái A. M. Vasilevsky chỉ huy phối hợp hành động các phương diện quân Tây Nam và Sông Đông. Thắng lợi to lớn của quân đội Liên Xô trên sông Volga đã trở thành bước ngoặt của cuộc chiến tranh thế giới thứ hai trên chiến trường Châu Âu. Trận Stalingrad đã trở thành một trong các trận đánh có quy mô lớn nhất trong lịch sử chiến tranh hiện đại. Không một nước Đồng minh nào trong cuộc chiến tranh này không tự hào về một chiến thắng vĩ đại như thế. Do có nhiều công lao đóng góp từ việc vạch kế hoạch chiến dịch đến trực tiếp chỉ huy quân đội, G. K. Zhukov được tặng thưởng Huân chương Suvorov hạng nhất cùng với A.M.Vasilevsky, N.N. Voronov, N.F.Vatutin, A.I.YeryomenkoK.K.Rokossovsky. Riêng huân chương của Zhukov được đúc rõ chữ "hạng nhất".

Năm 1943

Giải vây Leningrad
Tiếng đại bác dưới chân thành Leningrad vẫn còn nổ, và Zhukov lại đến đó để tham gia chỉ huy mặt trận. Ông cùng với Voroshilov phối hợp hành động của các phương diện quân Leningrad, phương diện quân Volkhovhạm đội Ban Tích trong chiến dịch Tia Lửa. Ngày 18 tháng 1 năm 1943, đúng vào ngày đầu tiên đột phá được sự bao vây của quân Đức, chủ tịch đoàn Xô Viết tối cao đã phong cho G. K. Zhukov quân hàm Nguyên soái Liên bang Xô Viết. Ông là tự lệnh chiến trường đầu tiên được phong hàm Nguyên soái Liên Xô trong cuộc chiến tranh này.
Trận Vòng cung Kursk
Ngày 17 tháng 3, G. K. Zhukov chỉ đạo tác chiến tại phía Nam Kursk và gấp rút thành lập Phương diện quân Voronezh do tướng N. F. Vatutin chỉ huy để đối phó với cuộc phản công mùa xuân của Cụm tập đoàn quân "Sông Đông" (Đức) do thống chế Erich von Manstein chỉ huy vào khu vực Belgorod - Kharkov. Theo lệnh của G. K. Zhukov, phương diện quân Voronezh đã nhận được từ lực lượng dự bị các tập đoàn quân bộ binh 21, 64 và tập đoàn quân xe tăng 1. Dưới sự chỉ đạo của ông, phương diện quân Voronezh đã chặn đứng được cuộc phản công của quân Đức tại phía khu vực Bắc Kharkov mà sau này, trở thành mặt chính diện phía Nam của "Vòng cung Kursk". Ngày 8 tháng 4, dựa trên dữ liệu từ các cơ quan tình báo thu thập được, ông gửi điện báo cho I. V. Stalin:
Tình hình ở khu vực giữa mặt trận Xô-Đức cho thấy kẻ thù sẽ cố gắng để cắt đứt "chỗ lồi" Kursk, bao vây và tiêu diệt các lực lượng quân đội Liên Xô thuộc Phương diện quân Trung Tâm và Phương diện quân Voronezh đang bố trí tại đây. Hiện tại, cả hai phương diện quân mới có 15 sư đoàn xe tăng, trong khi quân Đức tại hướng Belgorod - Kharkov đã tập trung tới 17 sư đoàn xe tăng, phần lớn thuộc các loại xe tăng mới như Tiger I, Panther cải tiến, Jagdpanzer IV và một số pháo chống tăng tự hành Marder II, Marder III.
—Konstantinov.
Điều thú vị là tại thời điểm này, Bộ Tổng tư lệnh quân đội Đức vẫn chưa xây dựng xong một kế hoạch cho "Chiến dịch Thành trì". Chỉ một tuần sau, ngày 15 tháng 4 năm 1943, Hitler mới ra chỉ thị về việc này nên điều đó được hiểu như một sự dự báo chính xác của G. K. Zhukov. Cũng trong báo cáo ngày 8 tháng 4, G. K. Zhukov viết tiếp:
Tôi nghĩ rằng trong những ngày sắp tới, chuyển bộ đội của ta sang tiến công là không hợp lý. Tốt hơn hết là nên đánh tiêu hao địch trong tuyến phòng ngự của chúng ta, diệt lực lượng xe tăng của chúng. Sau đó điều những lực lượng dự bị còn dồi dào sinh lực đến rồi mới chuyển sang phản công toàn diện và kết liễu cánh quân chủ lực của địch tại đây.
—Konstantinov.

Nguyên soái G. K. Zhukov xem chiếc xe tăng Tiger-I của Đức Quốc xã bị bắt giữ trong Chiến dịch Kursk, tháng 8 năm 1943
Do những dự báo có căn cứ từ sự phân tích tình huống và vận dụng những kiến thức quân sự phong phú của ông, quân đội Liên Xô có thời gian ba tháng trước khi xảy ra trận trận Kursk để tổ chức phòng thủ chu đáo và còn có một đội dự bị mạnh (Phương diện quân Thảo Nguyên) có thể được sử dụng để phản công hoặc tăng thêm chiều sâu phòng ngự tùy theo tình huống. Thực tế đã chứng minh những dự báo đó là chính xác. Không giống như những năm 1941-1942, ngay trong tuần lễ đầu tiên (5 đến 12 tháng 7 năm 1943), quân đội Liên Xô đã chặn đứng "Kế hoạch Thành trì" của Hitler, đánh bại các binh đoàn xe tăng của các thống chế Günther von KlugeErich von Manstein hùng mạnh hơn nhiều so với các binh đoàn xe tăng Đức trong chiến dịch Barbarossa.
Trước khi giai đoạn phòng ngự của chiến dịch Kursk diễn ra, mặc dù ông không đồng ý tấn công trước như các tướng N. F. VatutinK.K.Rokossovsky đã yêu cầu trong khi nóng lòng chờ đợi nhưng ông vẫn đồng ý với đề xuất của họ về tiệc tiến hành đòn "phản chuẩn bị" bằng pháo binh, tên lửa Katyusha và máy bay ném bom vào đội hình xe tăng Đức đang chuẩn bị tấn công tại tuyến xuất phát. Chính các đòn "phản chuẩn bị" này đã làm suy yếu đáng kể sức tấn công của quân đội Đức tại mặt trận Kursk và là một trong những nguyên nhân làm cho quân Đức chỉ tiến được không quá 12 km ở mặt Bắc và 35 km ở mặt Nam "vòng cung Kursk".
Chiến dịch tả ngạn sông Dniepr
Ngày 28 tháng 8 năm 1943, G. K. Zhukov được gọi về Moskva. Ngày hôm sau, ông đã báo cáo ngay với I. V. Stalin về một kế hoạch mới. Nhân lúc các đơn vị quân đội Đức vừa bị thiệt hại nặng sau trận Kursk, cần mở ngày một cuộc tổng tấn công trên toàn bộ cánh Nam của mặt trận Xô-Đức từ Kharkov đến biển Azov để đánh bại toàn bộ Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) tại đây. Tuy nhiên, đề nghị này không được I. V. Stalin chấp thuận. Trong tháng 8 và tháng 9 năm 1943, ông điều phối hành động của hai phương diện quân Voronezh và Thảo nguyên tiến hành một hoạt động tấn công hạn chế hơn, truy kích cánh Bắc của Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) đến sông Dniepr và chiếm được một số đầu cầu có lợi cho việc vượt sông Dniepr.
Từ ngày 12 tháng 10 đến ngày 23 tháng 12 năm 1943 Phương diện quân Voronezh (ngày 20 tháng 10 đổi tên thành Phương diện quân Ukraina 1) đã mở cuộc tấn công Kiev. Vào giai đoạn đầu, Phương diện quân Ukraina 1 do N. P. Vatutin chỉ huy cố gắng hướng các đòn tấn công chính vào khu vực đầu cầu Bukrin phía nam của Kiev, nơi thuận lợi để tập trung lực lượng. Tuy nhiên, quân đội Đức với binh lực yếu hơn đã kéo quân từ những hướng thứ yếu đến đây và chặn được cuộc vượt sông của quân đội Liên Xô. Từ ngày 25 tháng 10 đến ngày 03 tháng 11, G. K. Zhukov ra lệnh dừng cuộc công kích tại Bukrin và bí mật điều tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3 của tướng P. S. Rybalko, tập đoàn quân cận vệ 7 của tướng M. X. Sumilov ra khỏi Bukrin và chuyển đến căn cứ đầu cầu Lyutezh ở phía bắc Kiev. Bị một đòn bất ngờ từ hướng đầu cầu Lyutezh, quân Đức buộc phải bỏ Kiev để tránh nguy cơ bị hợp vây.
Ngày 23 tháng 12, quân Đức đã tổ chức một cuộc phản công mạnh nhằm chiếm lại Kiev nhưng không thể vượt qua tuyến mặt trận của Phương diện quân Ukraina 1. Từ ngày 29 tháng 12, Phương diện quân Ukraina 1 bắt đầu tấn công trên hướng Zhytomyr - Berdichevsk.

Năm 1944

Chiến dịch Korsun-Shevchenko
Năm 1944 mở đầu bằng chiến dịch Korsun-Shevchenko ngay sau khi triển khai tấn công trên hướng Zhitomir-Berdichevsk do Phương diện quân Ukraina 1 do N. F. Vatutin chỉ huy và Phương diện quân Ukraina 2 do I. S. Koniev chỉ huy dưới sự chỉ đạo của G. K. Zhukov với tư cách là đại diện Đại bản doanh tại các phương diện quân Ukraina 1 và 2. Tại khu vực Korsun-Shevchenko, quân đoàn xe tăng 42 thuộc tập đoàn quân xe tăng 1 và quân đoàn bộ binh 8 thuộc tập đoàn quân 11 (Đức) đã lọt vào vòng vây của các phương diện quân ngay trên hữu ngạn sông Dniepr. Với sự phối hợp giữa Phương diện quân Ukraina 1 của N. F. Vatutin và Phương diện quân Ukraina 2 của I. S. Koniev tại tam giác Shenderovka - Khilki - Komarovka, quân Đức đã mất 55.000 lính và sĩ quan chết và bị thương, 18.200 tù binh cùng một số lượng lớn các loại vũ khí và trang thiết bị chiến đấu gồm 271 xe tăng, 32 xe bọc thép, 110 pháo tự hành, 944 pháo, 536 súng cối, 1.689 súng máy.
Ngay sau khi kết thúc chiến dịch Korsun-Shevchenko, ngày 17 tháng 3, tư lệnh Phương diện quân Ukraina 1, đại tướng N. F. Vatutin đã bị quân phỉ Bandera bắn bị thương trên đường đi công tác và qua đời ngày 15 tháng 4 năm 1944 tại quân y viện ở Kiev. Ngày 10 tháng 4, I. V. Stalin chỉ định Nguyên soái G. K. Zhukov giữ chức vụ tư lệnh Phương diện quân Ukraina 1. Dưới sự lãnh đạo của G. K. Zhukov, trong tháng 3 và tháng 4 năm 1944, Phương diện quân Ukraina 1 đã mở chiến dịch Chernovtsy - Proskurov thành công và tiến đến chân núi Karpat
Chiến dịch Bagration
Tháng 6 năm 1944, G. K. Zhukov chịu trách niệm phối hợp hành động của các phương diện quân Belorussia 1 do đại tướng I. D. Chernyakovssky chỉ huy và phương diện quân Ukraina 1 do đại tướng I. S. Koniev chỉ huy. Cuộc tổng tấn công mùa hè năm 1944 của quân đội Liên Xô diễn ra trên chính diện 1.300 km ở phía Bắc và hơn 900 km ở phía Nam dãy núi Karpat. Các phương diện quân dưới sự chỉ đạo của G. K. Zhukov và A. M. Vasilevsky đã tiến xa 350-400, có nơi đến hơn 550 km. Quân đội Liên Xô đại thắng trong Chiến dịch Bagrachion, bao vây và tiêu diệt 30 sư đoàn Đức, giải phóng hoàn toàn Bạch Nga, khôi phục biên giới quốc gia và bắt đầu tác chiến trên đất Ba Lan, Đông Phổ, Slovakia. Sau chiến dịch, ngày 8 tháng 7 năm 1944, G. K. Zhukov đã ra lệnh bí mật điều động tập đoàn quân xe tăng 5 do tướng P. A. Rotmistrov chỉ huy từ Phương diện quân Belorussia 3 sang Phương diện quân Pribaltic 1 đã tạo nên những bất ngờ lớn cho quân Đức trong chiến dịch Memen (Klaipeda) từ 14 tháng 9 đến 2 tháng 10 năm 1944 và chiến dịch Đông Phổ sau đó. Tháng 7 năm 1944, G. K Zhukov đã chỉ đạo các cuộc tiến công của Phương diện quân Ukraina 1 tại Lvov và Rava-Russkaya, đẩy mặt trận ra khỏi biên giới Liên Xô đến tuyến Stanislavsk - Sandomirsk - Đông Phổ.
Chiến dịch Yashy - Kishinev
Tháng 8 năm 1944, G. K. Zhukov phối hợp hành động của Phương diện quân Ukraina 2 do đại tướng R. Ya. Malinovsky chỉ huy và Phương diện quân Ukraina 3 do đại tướng F. I. Tolbukhin chỉ huy mở chiến dịch Yashy - Kishinev, đánh bại Cụm tập đoàn quân Nam Ukraina (Đức); giải phóng Romania, Bulgaria, phát triển sang Nam Tư và Hungaria, tạo một mũi tấn công thứ hai về phía nước Đức từ hướng Đông Nam. Trong chiến dịch Yashy - Kishinev, ông đã yêu cầu các phương diện quân Ukraina 2 và 3 thu hẹp chính diện đột phá khẩu từ 22 km xuống còn 16 km để tăng mật độ pháo binh từ 220 khẩu/km lên 240 khẩu/km, bảo đảm nhanh chóng phá vỡ tuyến phòng thủ của quân Đức.. Tại Bulgaria, ông đã giúp đỡ chính quyền mới của Đảng Công nhân Bulgaria (sau này là Đảng Cộng sản Bulgaria) xây dựng quân đội gồm 2 tập đoàn quân và 5 quân đoàn độc lập, tham gia chiến đấu bên cạnh quân đội Liên Xô chống phát xít Đức.
Vistula và Đông Phổ
Cuối tháng 9 năm 1944, G. K. Zhukov trở về Đại bản doanh và lại được cử đến khu vực Đông Ba Lan để điều phối hoạt động của các phương diện quân Belorussia 1 và 2. Tại đây, ông đã cương quyết ủng hộ đề nghị của Tư lệnh phương diện quân Belorussia 1, đại tướng K. K. Rokossovsky yêu cầu Đại bản doanh cho dừng các cuộc tấn công vượt sông Vistula vì không đủ lực lượng. Theo ông, do tiền quân tiến quá nhanh, hậu cần và các căn cứ không quân không theo kịp đã làm cho việc tiếp tế và yểm hộ bị gián đoạn. Quân đội Liên Xô sau ba tháng tấn công liên tục, vượt qua chặng đường dài từ 400 đến 600 km cần được củng cố, tái trang bị và bổ sung quân số. Quân Đức càng bị đẩy lùi về gần nước Đức thì càng rút ngắn cự ly giữa tuyến đầu và tuyến sau, giữa mặt trận với các căn cứ không quân và hậu cần tiếp liệu, do đó, sức kháng cự tăng lên. Nếu không tích cực tích lũy vật chật, bổ sung đầy đủ về quân số và đạn dược thì các cuộc tấn công như vậy sẽ làm cho quân đội Liên Xô liên tục bị tiêu hao và sa lầy bên tả ngạn sông Vistula với những tổn thất lớn. Tuy cho ngừng tiến công nhưng G. K. Zhukov vẫn yêu cầu phải kiên quyết giữ các bàn đạp Saldomirsk (Phương diện quân Ukraina 1), Pulava (Phương diện quân Belorussia 1) và Nareva (Phương diện quân Belorrusia 2) để triển khai tấn công sau này.
Trong chiến dịch Đông Phổ bắt đầu từ tháng 12 năm 1944, G. K. Zhukov đã đề nghị không nên tung các lực lượng xe tăng vào chiến đấu trong địa bàn chật hẹp của thành phố Königsberg mà phải dùng không quân và pháo binh kéo quân Đức ra khỏi các tòa nhà kiên cố bằng đá ra trận địa trên cánh đồng để giao chiến. Tuy nhiên, ý tưởng này đã không được chấp nhận. Sau này, G. K. Zhukov đã nhận xét:
Tôi nghĩ rằng đây là một sai lầm nghiêm trọng của Tổng tư lệnh tối cao. Những diễn biến sau đó cho thấy việc dùng xe tăng trên các đường phố phức tạp ở Đông Phổ đã làm cho các trận đánh trở nên đẫm máu

Năm 1945

Chiến dịch Vistula-Oder
Ngày 15 tháng 1 năm 1945, G. K. Zhukov đến Liublin để làm việc với Ủy ban giải phóng dân tộc Ba Lan do Bolesław Bierut lãnh đạo. Ông chấp nhận đề nghị của Ủy ban về việc đưa hai tập đoàn quân Ba Lan 1 và 2 do các tướng Stanislav Gilyarovich PoplavskyZygmunt Henryk Berling (đều là người Ba Lan) chỉ huy vào chiến đấu bên cạnh quân đội Liên Xô tại các phương diện quân Belorussia 1 và Ukraina 1. Ông cũng đề nghị và được I. V. Stalin chấp thuận về việc chuyển giao cho Quân đội nhân dân Ba Lan một khối lượng lớn vũ khí, khí tài gồm 3.500 khẩu pháo, 1.200 máy bay, 1.000 xe tăng, 700.000 khẩu tiểu liên và súng trường, 18.000 ô tô các loại. Bản thân Zhukov đã đi thị sát kỹ lưỡng tất cả các căn cứ địa tấn công. Khi một sĩ quan chỉ huy tỏ ra thắc mắc trước quy mô to lớn và trước quá trình chuẩn bị kỹ càng của của chiến dịch, Zhukov đã trả lời:
Cần phải đảm bảo cuộc tấn công chẳng những chắc chắn được thành công 100%, mà phải chắc chắn 200% !
—G. K. Zhukov, 
Ngày 17 tháng 1, G. K. Zhukhov phối hợp hành động các phương diện quân Belorussia 1 và Ukraina 1 mở Chiến dịch Vistula-Oder. Mục tiêu ban đầu của chiến dịch là đưa quân đội Liên Xô vượt sông Vistula tiến ra tuyến cử sông Vistula - Bromberg (Bytgot) - Poznal - Breslaw (Vroslav). Tuy nhiên, ngay trong ngày 17 tháng 1, Tập đoàn quân Ba Lan 1 của tướng Stanislav Poplavsky đã giải phóng Warsawa. Chỉ đến ngày 2 tháng 2, các phương diện quân Belorussia 1 và Ukraina 1 đã đánh tan các binh đoàn chủ lực của Cụm tập đoàn quân Trung Tâm của Đức (sau đổi thành Cụm tập đoàn quân Vistula), tiến đến biên giới nước Đức trên tuyến sông Oder - Neisse. Trong số các đơn vị thiết giáp Liên Xô tiến xa nhất, có đơn vị chỉ còn cách thủ đô Berlin có 68 cây số. Đối với quân Đức, điều này chả khác gì một tiếng sét giữa trời trưa.
Chiến dịch Berlin

G. K. Zhukov ký vào biên bản chấp nhận sự đầu hàng không điều kiện của nước Đức Quốc xã. Berlin, ngày 9-5-1945
Trước những thắng lợi nhanh chóng trên hướng Berlin và dựa trên các báo cáo lạc quan của đại tướng V.I.Chuikov - tư lệnh tập đoàn quân cận vệ 8 - I. V. Stalin lệnh cho Tổng tham mưu trưởng, đại tướng A. I. Antonov soạn thảo một kế hoạch đánh chiếm Berlin ngay trong thời gian cuối tháng 2, đầu tháng 3 năm 1945. Tuy nhiên, G. K. Zhukov cho rằng mọi việc không đơn giản như Tổng tư lệnh tối cao nghĩ. Từ kinh nghiệm Chiến dịch phòng thủ phản công tại khu vực Moskva năm 1941, G. K. Zhukov cho rằng quân Đức sẽ không chịu mất Berlin một cách dễ dàng và sẽ tổ chức phản công từ hai bên sườn vào của ba phương diện quân Liên Xô lúc này đã làm thành một đội hình kéo dài như một mũi nhọn trên hướng Berlin. Ông hiểu rõ: đánh thẳng vào Berlin không khó, nhưng quân Đức có thể cắt đứt và hợp vây lực lượng Hồng quân tiến quá nhanh về phía trước, khiến cho Hổng quân tổn thất nặng. Thêm vào đó, Hồng quân chưa có kinh nghiệm đánh chiếm một thành phố rộng lớn và có sự phòng thủ kiên cố như Berlin. Chính vì vậy, ông yêu cầu quân đội phải củng cố thật chặt trận địa trên bờ tây sông Oder. Đồng thời Zhukov cũng tiến hành trinh sát một cách kỹ lưỡng: ông ra lệnh cho không quân chụp 6 kiểu ảnh về thành phố Berlin và các phòng tuyến của quân Đức xung quanh đấy, rồi dựa vào đó cùng với những tài liệu bắt được và lời khai của tù binh Zhukov cho biên soạn một bản báo cáo tổng hợp được thuyết minh rõ ràng đính kèm với những tấm bản đồ chi tiết, phát hành xuống các cấp chỉ huy từ tư lệnh đến chỉ huy đại đội.
Và thực tế đã diễn ra đúng như G. K. Zhukov dự đoán. Trong khi phòng ngự tích cực trên tuyến sông Oder - Neisse, từ tháng 2 năm 1945, Bộ Tổng tư lệnh quân đội Đức đã điều động tập đoàn quân xe tăng 6 SS và tập đoàn quân 5 từ mặt trận phía Tây về khu vực Budapest, điều động các tập đoàn quân xe tăng 3 và tập đoàn quân 11 đến khu vực Đông Pomerania để tổ chức phản công. Nắm được chính xác tình hình, G. K. Zhukov đề nghị I. V. Stalin cho hoãn ngay chiến dịch Berlin, điều Phương diện quân Belorussia 2 của Nguyên soái K. K. Rokossovssky quay lên hướng Tây Bắc mở Chiến dịch Đông Pomerania chặn trước cuộc phản công của quân Đức. Ngày 20 tháng 2, Phương diện quân Belorussia 2 sử dụng các tập đoàn quân xe tăng cận vệ 1 và 2 đột kích vào Gonnof - Stagag - Colberg, chia cắt và bao vây cụm quân Đông Pomerania khỏi chủ lực của Cụm tập đoàn quân Vistula (Đức). Ngày 4 tháng 3, 14 sư đoàn của cụm quân này bị đánh tan. Tại hướng Nam, G. K. Zhukov cũng yêu cầu Nguyên soái K. E. Voroshilov chỉ đạo các phương diện quân Ukraina 2 và 3 thiết lập trận địa phòng thủ vững chắc tại khu vực Budapest - Velense - Balaton, mở chiến dịch phòng ngự Balaton, đánh bại cuộc phản công của 31 sư đoàn Đức, trong đó có 11 sư đoàn xe tăng được triển khai ngày 6 tháng 3. Ngày 15 tháng 3, cuộc phản công của quân Đức tại khu vực Balaton bị chặn đứng, hai phương diện quân Ukraina 2 và 3 chuyển sang tấn công thẳng qua Budapest đến Viên. Ở giữa mặt trận, Phương diện quân Ukraina 1 tiến hành chiến dịch Hạ Silesia quét sạch quân Đức khỏi khu vực Glogau, thủ tiêu mối đe dọa bên sườn trái của phương diện quân và vững tiến ra tuyến Neisse. Một số chỉ huy quân sự Liên Xô quá hăng hái đã coi sự chậm trễ công phá Berlin là một khuyết điểm của ông. Tuy nhiên, sự thật đã chứng minh G. K. Zhukov đúng. Với cuộc phản kích của quân Đức từ hai bên sườn (từ khu vực Đông Pomerania xuống phía Đông Nam, từ khu vực Budapest vòng lên phía Đông Bắc, phối hợp với Cụm tập đoàn quân A từ Silesia vòng lên phía Tây Bắc), các Phương diện quân Liên Xô có thể sẽ phải chịu những thiệt hại nặng nề như quân Đức trước cửa ngõ Moskva cách đó gần 4 năm trước hoặc như Hồng quân Nga Xô Viết trước cửa ngõ Warsawa năm 1920.

Các tổng tư lệnh quân đội Đồng Minh chống phát xít: Bernard Montgomery (Anh), Georgy Zhukov (Liên Xô), Dwight D. Eisenhower (Hoa Kỳ) và Jean de Lattre de Tassigny (Pháp). Trong buổi làm việc đầu tiên của Hội đồng kiểm soát đồng minh tại nước Đức, Berlin, ngày 5-6-1945
Cuộc tổng công kích sau cùng vào Berlin cũng bắt đầu. Sau hai ngày sử dụng các trận đánh trinh sát để buộc quân Đức phải điều động lực lượng bố trí ở hướng chủ yếu đi hướng khác, 5 giờ sáng ngày 16 tháng 4, G. K. Zhukov phát lệnh mở màn Chiến dịch Berlin, chiến dịch quân sự cuối cùng trong cuộc đời binh nghiệp của ông. Sau gần 1 giờ pháo binh, tên lửa Katyusha bắn chuẩn bị, hơn 140 ngọn đèn pha phòng không công suất lớn rọi thẳng vào phòng tuyến của quân Đức đã làm lóa mắt toàn bộ các đài quan sát, các đối kính pháo, kính tiềm vọng... Xe tăng và bộ binh Liên Xô trong ngày đầu đã vượt qua hai tuyến phòng thủ vòng ngoài.
Khi tiến vào nội đô Berlin, Zhukov nhận thấy đường sá trong thành phố quá chật hẹp đối với các tập đoàn quân xe tăng từng phát huy uy lực mạnh mẽ trên thảo nguyên trống trải. Vì vậy ông điều các lực lượng xe tăng xuống cùng thành lập các tổ hiệp đồng tác chiến cùng với bộ binh, pháo binh và các binh chủng khác - với quân số mỗi tổ thường chỉ gồm một trung đội. Các tổ hiệp đồng đó đã chiến đấu rất linh hoạt giữa các đường phố chằng chịt như mê cung của thủ đô nước Đức.
Sau một tuần tấn công, Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 1 của Phương diện quân Ukraina 1 và Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 2 của Phương diện quân Belorussia 1 đã gặp nhau tại khu vực Ketshino - Potsdam - Brandenburg, phía tây Berlin. Các đơn vị khác của ba phương diện quân Liên Xô đã gặp gỡ với quân Đồng Minh Anh, Hoa Kỳ trên bờ sống Elbe. 8 vạn Hồng quân đã hy sinh trong trận Berlin đẫm máu, nhưng vào ngày 30 tháng 4, lá cờ chiến thắng được cắm lên nóc nhà Quốc hội Đức. Hitler và Goebbel tự sát. 0 giờ ngày 9 tháng 5, tạo Karlhorst, đại diện nước Đức và quân đội Đức Quốc xã ký biên bản đầu hàng vô điều kiện trước đại diện 4 nước đồng minh Anh, Hoa Kỳ, Liên XôPháp. Thay mặt nhà nước, quân đội và nhân dân Liên Xô, nguyên soái G. K. Zhukov ký biên bản này. Do có công đánh chiếm Berlin, Zhukov được phong tặng Huân chương Sao vàng - Anh hùng Liên Xô lần thứ ba.

Những năm sau chiến tranh


Nguyên soái Zhukov và Rokossovsky tại Berlin năm 1945

Thống chế Bernard Law Montgomery và Nguyên soái G. K. Zhukov cùng các tướng lĩnh Anh và Liên Xô sau Lễ trao tặng Huân chương Hiệp sĩ Bath của Vương quốc Anh tại cổng Bradenburg (Berlin) ngày 12-7-1945
Sau chiến thắng tại Berlin, G. K. Zhukov được Chính phủ Liên Xô cử làm Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô tại phần lãnh thổ Đức bị Liên Xô chiếm đóng. Ngày 10 tháng 6, G. K. Zhukov về Moskva để chuẩn bị cho cuộc duyệt binh mừng chiến thắng trên Quảng trường Đỏ. Ngày 20 tháng 6, ông cho đem lá cờ Liên Xô đã cắm trên nóc nhà Quốc hội Đức từ 30 tháng 4 về Moskva. Ngày 24 tháng 6, G. K. Zhukov được I. V. Stalin chỉ định là Tổng chỉ huy duyệt binh, nhận báo cáo của Nguyên soái K.K.Rokossovsky. Ông cưỡi con bạch mã Ả Rập "Tspeki" đến dự Lễ mừng chiến thắng được tổ chức tại Điện Kremli tối hôm ấy, và sao khi chào hỏi tướng sĩ ông đã đến bên Stalin ở chân tường lăng Lenin và đọc diễn văn ca ngợi thắng lợi của Hồng quân trước phát xít Đức. Hôm ấy mưa tầm tã khiến có lúc ông định ngưng đọc diễn văn và lau mũ nhưng khi thấy Stalin không hề có động tĩnh gì, ông đọc tiếp. Sau đó Zhukov chỉ huy cuộc duyệt binh và giữa đường, binh lính đã thả 200 lá cờ phát xít Đức xuống điện Kremlin, như thể các binh sĩ Nga thả các hiệu kỳ Pháp xuống chân Hoàng đế Aleksandr I sau khi đánh bại cuộc xâm lược của Napoléon năm 1812. Theo Geoffrey Roberts, không thời khắc chiến thắng nào trong đời Zhukov đáng sánh với ngày này, và việc Stalin chọn Zhukov làm Tổng chỉ huy duyệt binh không hề gây bàn tán: ông được nhìn nhận rộng rãi là kiến trúc sư trưởng của thắng lợi của Liên Xô trước phát xít Đức - một thắng lợi đã cứu cả châu Âu và nước Nga khỏi ách nô dịch của Đức Quốc xã. Phim thời sự về buổi duyệt binh này phát sóng khắp thế giới, chỉ càng tăng thêm vị thế của Zhukov là vị tướng giỏi nhất của Liên Xô thời Thế chiến thứ hai. Sau lễ, ông quay lại Berlin tiếp tục nhiệm vụ của mình.
Trong tháng 5 năm 1945, ông đã ký ba quyết định quan trọng về đảm bảo đời sống cho nhân dân Đức ở khu vực do quân đội Liên Xô chiếm đóng. Đó là Quyết định số 063 ngày 11 tháng 5 năm 1945 về việc cung cấp lương thực cho người dân ở Berlin, Quyết định số 064 ngày 12 tháng 5 về việc khôi phục vào bảo đảm hoạt động bình thường của các ngành dịch vụ công cộng tại Berlin và Quyết định số 080 ngày 31 tháng 5 về việc cung cấp sữa cho trẻ em ở Berlin. Ông cũng đề nghị Chính phủ Liên Xô khẩn cấp chuyển đến Berlin 96.000 tấn ngũ cốc, 60.000 tấn khoai tây, gần 50.000 gia súc, hàng vạn tấn thực phẩm khác như mỡ động vật, đường. Theo lệnh của ông, tất cả các đơn vị quân đội Liên Xô đóng tại nước Đức, các ủy ban quân quản đều phải tập trung vào việc ổn định đời sống cho nhân dân Đức. Ông yêu cầu các quân nhân dưới quyền phải thực hiện đúng phương châm: "Căm thù chủ nghĩa phát xít nhưng phải tôn trọng nhân dân Đức".
Ngày 16 tháng 7 đến ngày 2 tháng 8, G. K. Zhukov tham gia phái đoàn Liên Xô trong Hội nghị Potsdam. Là một trong bốn vị tổng tư lệnh quân đội các nước đồng minh thực hiện chế độ quân quản tại nước Đức trong "Hội đồng kiểm soát của đồng minh", ông đã gây dựng các mối quan hệ tốt với Thống tướng Hoa Kỳ Dwight David Eisenhower, Thống chế Anh Bernard Law Montgomery và Thống chế Pháp Jean de Lattre de Tassigny. Hai bên thường trao đổi với nhau về các vấn đề xử lý tội phạm chiến tranh, vấn đề tái thiết nước Đức, vấn đề quan hệ giữa các nước đồng minh và vấn đề Liên Xô tham chiến chống phát xít Nhật ở Viễn Đông. Trong quá trình làm việc Thống tướng Dwight David Eisenhower rất hài lòng và trân trọng tình bạn giữa ông và G. K. Zhukov. Người thay thế ông từ năm 1946, đại tướng Lucius Dubignon Clay cũng đề cao mối quan hệ này, ông cho rằng:
Quan hệ Xô-Mỹ lẽ ra đã giữ được chiều hướng phát triển tốt đẹp nếu Eisenhower và Zhukov tiếp tục làm việc với nhau.
—Đại tướng Lucius Dubignon Clay.
Bản thân Eisenhower cũng đến Liên Xô cùng với Zhukov trong một chuyến thăm nước này sau chiến tranh.

Bốn nhà lãnh đạo quân sự xuất sắc của Đồng Minh chống phát xít; từ trái sáng phải: Bernard Montgomery (Anh), Dwight D. Eisenhower (Hoa Kỳ, Georgy Zhukov (Liên Xô) và Jean de Lattre de Tassigny (Pháp). Berlin, ngày 5-6-1945
Có thể các mối quan hệ này đã làm cho I. V. Stalin nghi ngờ G. K. Zhukov nên vào tháng 4 năm 1946, I. V. Stalin triệu tập G. K. Zhukov về Moskva. Các chức vụ Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô tại Đức, Chủ tịch Ủy ban quân chính vùng chiếm đóng của Liên Xô tại Đức và Thành viên Hội đồng kiểm soát của đồng minh được trao lại cho người phó của ông là đại tướng V. D. Sokolovsky. Trước đó, hồi tháng 11, 12 năm 1945, cấp phó của L. P. Beria là V. S. Abakumov đã bay sang Berlin tiến hành bắt giữ một số cấp dưới của G. K. Zhukov vì bị nghi ngờ là phản bội nhưng thực chất là ngụy tạo chứng cứ để chống lại ông. Khi biết việc này. G. K. Zhukov đã bảo V. S. Abakumov nên quay về Moskva ngay nếu không muốn bị "vệ binh" của ông "chăm sóc". Tại Moskva, trong cuộc họp của Hội đồng Quân sự Trung ương, Zhukov bị chỉ trích dữ dội về các "tội" không đáng tin tưởng về mặt chính trị và có thành kiến với Ban Chấp hành Trung ương Đảng; vì vậy người ta đã cất bỏ chức vụ Phó chủ tịch thứ nhất Hội đồng quốc phòng nhà nước của ông , trong khi A. M. Vasilevsky dược chỉ định là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và N. A. Bulganin được cử làm Phó Chủ tịch hội đồng này. Tháng 7 năm 1946, G. K. Zhukov được điều động đến nhận chức vụ tư lệnh quân khu Odessa, một chức vụ thường chỉ giao cho cấp thượng tướng là đủ. Ngoài ra, ông cũng bị đưa ra khỏi Ban Chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô.
Cuối năm 1947, G. K. Zhukov bị mắc bệnh đau tim và ông đã phải chữa bệnh gần 3 tháng tại Krym. Tháng 2 năm 1948, ông đến Sverdlovsk nhận một chức vụ "nhỏ nhặt" khác là tư lệnh quân khu Ural. Đến năm 1951, số phận của Zhukov trở nên ít u ám hơn khi sự tầm soát của Stalin đối với ông giảm bớt. Một nhà máy sản xuất xe gắn máy ở địa phương đã bầu Zhukov làm đại diện của mình tại Xô Viết tối cao. Tháng 6 năm 1951, ông được phép tham dự ngày quốc khánh Ba lan tại Warszawa với tư cách là thành viên của phái đoàn Liên Xô. Trong Đại hội Đảng lần thứ XIX diễn ra vào tháng 10 năm 1952, Zhukov được đề cử làm ứng cử viên của chức Ủy viên Ban chấp hành Trung ương.
Tháng 2 năm 1953, I. V. Stalin cho ông thôi chức vụ Tư lệnh quân khu Ural và gọi ông về Moskva. Một số nguồn tin cho rằng ông được gọi về để tham gia cuộc chiến ở Triều Tiên, nhưng thực tế là trong suốt một tháng. I. V. Stalin không giao cho ông một công việc nào cả. Hồi 9 giờ 50 phút sáng ngày 5 tháng 3 năm 1953, I. V. Stalin qua đời và cuộc đời G. K. Zhukov đã sang một thời kỳ mới.

Vai trò của Zhukov trong vụ xử lý Berya

Những âm mưu bẩn thỉu nhằm hãm hại Zhukov

Một trong những tai họa cuối cùng mà Beria gây ra cho đất nước Liên Xô là âm mưu hạ bệ G. K. Zhukov. Hai cấp dưới của ông là Nguyên soái tư lệnh không quân Alexander Alexandrovich Novikov và trung tướng Konstantin Fyodorovitch Teleghin (Ủy viên Hội đồng quân sự phụ trách chính trị Phương diện quân Belorussia 1) đã bị bắt giam, bị tra tấn trong nhà tù Lefortovo từ cuối năm 1945. Tại các cuộc đối chất, G. K. Zhukov đã lật tẩy các lời mớm cung của Cục trưởng tình báo F. I. Golikov vu khống ông phung phí các chiến lợi phẩm và thổi phồng sức mạnh của quân đội Đức Quốc xã. Một số người ghen tỵ với ông còn buộc tội ông theo chủ nghĩa Bonapart.
Vào tháng Sáu năm 1946, người ta còn tổ chức một cuộc điều tra nhằm vào ông (sau này được giới quân sự Liên Xô mỉa mai gọi là "cuộc điều tra về chiếc cốc"). Một số xe hàng của Zhukov có nhiệm vụ chở các đồ vật từ Đức về Liên Xô bị chặn lại và tịch thu. Năm 1948, nhà của Zhukov bị lục soát và các báo cáo điều tra nói rằng đã "phát hiện" ra nhiều chiến lợi phẩm quý giá lấy từ Đức. Trong cuộc điều tra này. L. P. Beria đã bịa ra cả những chuyện không thể tưởng tượng được như G. K. Zhukov đã giữ 17 nhẫn vàng, 3 viên đá quý, 15 mặt dây chuyền vàng, và hơn 4.000 mét vải, 323 tấm da lông thú, 44 tấm thảm lấy từ cung điện của Đức, 55 bức tranh, 55 bộ đồ ăn, 20 súng săn..... Và G. K. Zhukov đã viết về điều này trong biên bản ghi nhớ để giải thích cho Bí thư Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (b) A. A. Zhdanov như sau:
Tôi không cần phải tự biện hộ vì một thực tế là những thứ này không hề cần thiết đối với tôi và nó có thể được người ta bỏ vào nhà kho của tôi. Tôi cần một cuộc kiểm tra công khai và cam kết đàng hoàng để tránh những sự hiểu lầm và vu khống. Chắc chắn tôi vẫn và sẽ vẫn phục vụ hết mình cho Tổ Quốc, Đảng và đồng chí Stalin vĩ đại.
—G. K. Zhukov, 
Khi được biết về những điều "không may" xảy ra với G. K. Zhukov, mặc dù không thể nắm được thực chất vấn đề nhưng Dwight David Eisenhower đã tỏ ra thông cảm với người "bạn chiến đấu" của mình.

Xử lý Beria

Một tháng sau cái chết của Stalin, G. K. Zhukov được bổ nhiệm làm Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. Dưới sự lãnh đạo của Nikita Khrushchev, ông đã tham gia vào việc bắt giữ và xử lý L. P. Beria.
Ngày 26 tháng 6 năm 1953, một phiên họp đặc biệt mở rộng của Bộ Chính trị trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô được Georgi Maximilianovich Malenkov tổ chức. L. P. Beria đến cuộc họp với tâm trạng băn khoăn vì nó được tổ chức một cách vội vã và không ngờ rằng đó là buổi họp Bộ Chính trị cuối cùng của ông ta. N. S. Khruchev phát biểu trước: "Cuộc họp hôm nay chỉ có một nội dung duy nhất, đó là thảo luận về việc làm gián điệp cho nước Anh, chống Đảng, chống chủ nghĩa xã hội, gây chia rẽ của phần tử theo chủ nghĩa đế quốc là Beria". Tiếp đó là một loạt các liệt kê về các tội ác của Beria. Cuối cùng, N. S. Khruchev đề nghị khai trừ Beria ra khỏi Đảng và đưa ra tòa án binh. L. P. Beria chưa kịp phản ứng gì thì đội sĩ quan cận vệ do trung tướng K. S. Moskalenko theo lệnh của G. K. Zhukov đã xông vào. G. K. Zhukov đến trước mặt Beria hô lớn: "Giơ tay lên ! Đi theo tôi". Beria nói với họ: "Các đồng chí, có việc gì thế, ta hãy ngồi xuống đã". G. K. Zhukov quát: "Câm miệng, anh không phải là chỉ huy ở đây. Các đồng chí, hãy bắt giữ tên phản bội". Đội sĩ quan cận vệ đã tuân lệnh ông ngay tức khắc. Ngày 18 tháng 12 năm 1953, tại Tòa án quân sự của Tòa án tối cao Liên Xô, Chánh án I. S. Konev đã tuyên L. P. Beria chịu án tử hình. Ban đầu, việc thi hành án được giao cho trung tá V. P. Yuriev nhưng anh này không đủ can đảm thực hiện. Cuối cùng, trung tướng P. F. Batisky, một trong những người thực hiện bắt giữ Beria rút súng bước lên: "Để hắn đó cho tôi". Và P. F. Batisky được phép thi hành bản án. Lúc đưa Beria vào quan tài đem đi chôn cất, trong khi Nguyên soái I. S. Koniev nói: "Cái ngày mà tên này sinh ra thật đáng nguyền rủa." thì G. K. Zhukov chỉ phát biểu: "Tôi coi nghĩa vụ của tôi là phải đóng góp phần nhỏ bé của mình vào việc này".

Quan hệ giữa Zhukov với Stalin và Khruchev

Với I. V. Stalin

Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, G. K. Zhukov là một trong số ít người biết rõ về I. V. Stalin. Với tư cách Tổng tham mưu trưởng trong thời kỳ đầu và sau này là Phó Tổng tư lệnh tối cao. Giữa ông và I. V. Stalin đã có không dưới 100 lần gặp riêng và hàng trăm cuộc họp chung với các thành viên của Đại bản doanh. Vì vậy, ông nắm rõ phong cách làm việc, tâm trạng, tính khí của I. V. Stalin. Vì cả hai người đều nóng tính nên phải có sự nhượng bộ khi thì của người này, khi thì của người kia đã làm cho họ mới có thể cộng tác với nhau. Theo G. K. Zhukov, I. V. Stalin là một con người mạnh mẽ, kín kẽ, nhưng dễ cáu kỉnh và đa nghi. Thậm chí G. K. Zhukov còn biết được khi tẩu thuốc được I. V. Stalin được rít mạnh và cháy đỏ lên là lúc ông đang vui; và khi tẩu thuốc ấy tắt mà không được châm lại thì có thể "dông tố" sẽ nổi lên ở Đại bản doanh. Việc nắm bắt được những nét tính cách đặc trưng của I. V. Stalin khiến cho G. K. Zhukov có thể dám đương đầu với cơn thịnh nộ của Stalin trong khi nhiều người khác lại né tránh nó.
Chiều quan hệ giữa G. K. Zhukov và I. V. Stalin hoàn toàn mang tính công vụ trong khi chiều quan hệ ngược lại giữa I. V. Stalin và G. K. Zhukov lại thoáng chút ghen tị. Mặc dù cũng là một nhà chỉ huy quân sự nhưng I. V. Stalin thuộc về thế hệ của tác chiến phối hợp pháo binh - kỵ binh, trong khi G. K. Zhukov thuộc thế hệ của tác chiến binh chủng hợp thành hiện đại. Chính sự chênh lệch về tuổi tác và khác nhau về kinh nghiệm thực tế đã làm cho giữa hai người đôi khi có những cuộc tranh cãi nảy lửa. Tuy nhiên, G. K. Zhukov lại thua I. V. Stalin về kinh nghiệm hoạt động chính trị, đặc biệt là kinh nghiệm trong quan hệ đối nội. Điều này được chứng minh rõ rệt sau những thất bại của G. K. Zhukov không phải trên chiến trường mà ở trên chính trường Liên Xô. Trong hoạt động lãnh đạo của mình I. V. Stalin quý trọng tài năng của G. K. Zhukov nhưng chỉ về mặt quân sự. Và đây cũng có thể là một lý do khiến ông triệu hồi Zhukov từ Berlin về.
Một điểm quan trọng nữa khiến hai người có thể tương hợp trong sự tương khắc với nhau tại nhiều vấn đề là ở chỗ giữa họ, không ai mắc nợ ai. Mặc dù có lúc, I. V. Stalin đã không ít lần nói phải nói thẳng, thậm chí đã viết ra giấy rằng: "Những lời ca tụng Stalin thật là chối tai, đọc thì thật bất tiện"; nhưng xung quanh ông lúc nào cũng có những người xu nịnh, bợ đỡ ông như Beria, Yezhov, Mekhlis và nhiều người khác. Một số người có lòng tự trọng cũng thường xuôi theo theo ý kiến của I. V. Stalin để tránh sự rắc rối. G. K. Zhukov thì khác, ông không những kiên trì bảo vệ quan điểm của mình và sẵn sàng hy sinh chức vụ để được tự do tìm công việc thực tế mà ông cho là có ích nhất đối với quân đội và đất nước mình. Việc ông đề nghị cho thôi chức vụ Tổng tham mưu trưởng để xuống các đơn vị trực tiếp chỉ huy chiến đấu là một ví dụ điển hình.
Những nét cá tính độc lập trong tư duy của G. K. Zhukov khiến I. V. Stalin luôn phải chú ý đến ông. Mặc dù nó đem lại nhiều bất lợi cho ông nhưng lại chính là nguyên nhân làm cho việc ra các quyết định về quân sự trong những năm chiến tranh trở nên có căn cứ khách quan và do đó, có độ chính xác cao hơn. Nhưng đến khi chiến tranh kết thúc thì vị thế của hai người khác hẳn nhau. Và khi đó thì chính cá tính độc lập, tự thân vận động của G. K. Zhukov đã làm hại ông. Trong cơ chế sùng bái cá nhân, cơ chế của sự xơ cứng cả về lý thuyết và thực tiễn, của sự trì trệ trong tư duy và tệ quan liêu; những người như Zhukov rất khó có chỗ chen chân trên chính trường.

Với Nikita Khrushchev

Sau khi I. V. Stalin chết, chính trường Liên Xô rơi vào khủng hoảng lãnh đạo. Theo Điều lệ của Đảng thì Georgy Maximilianovich Malenkov tạm quyền Bí thư thứ nhất. Tuy nhiên, ông này không đủ can đảm để loại bỏ tệ "sùng bái cá nhân" và hơn nữa, "ông bạn" L. D. Beria của G. M. Malenkov lúc nào cũng có thể ra tay. Một lần nữa, người ta lại phải nhờ đến sức mạnh và uy tín của các nhà quân sự. Người được Nikita Sergeyevich Khrushchev chọn không ai khác là G. K. Zhukov. N. S. Khrushchev chịu ơn ông không chỉ một lần. Trước hết, với tư cách Ủy viên hội đồng quân sự hướng Tây Nam, N. S. Khrushchev chính là người đề nghị cho dừng trận phản công tại "chỗ lồi" Izyum - Barvenkovo hồi mùa hè năm 1942 khi biết rằng nó có nguy cơ thất bại. Sau này, G. K. Zhukov và A. M. Vasilevsky đã chứng minh rằng chính Tổng tư lệnh tối cao đã bác bỏ đề nghị này của N. S. Khrushchev và ra lệnh tiếp tục tấn công. Ngày 17 tháng 3 năm 1944, trong đoàn xe hộ tống đại tướng N. F. Vatutin đi công tác và bị phục kích có xe của N. S. Khrushchev. Có người tố cáo với I. V. Stalin rằng N. S. Khrushchev đã lệnh cho lái xe quay đầu bỏ chạy nhưng G. K. Zhukov với tư cách là Phó Tổng tư lệnh tối cao, trực tiếp chỉ đạo các Phương diện quân Ukraina 1 và 2 đã bác bỏ điều này. Ông chứng minh cho I. V. Stalin thấy rằng N. S. Khrushchev đã làm mọi cách để cứu N. F. Vatutin. Trong quá trình giữ chức vụ Tư lệnh Quân khu đặc biệt Kiev, G. K. Zhukov có mối quan hệ tốt với N. S. Khrushchev lúc bấy giờ đang giữ chức vụ Bí thư thứ nhất Ủy ban trung ương Đảng Cộng sản Ukraina.
Tại Hội nghị đặc biệt để xử lý Berya, G. K. Zhukov đã có tiếng nói quan trọng của một người có uy tín nhất trong quân đội. Trên thực tế, chính ông đã yêu cầu tướng S. K. Moskalenko bí mật chuẩn bị đội đặc nhiệm và cùng với Bulganin cho đội này sử dụng hai chiếc xe đặc biệt của hai ông (loại có lắp kính đen) để vào điện Kremly mà không bị phát hiện. Đến giờ khởi sự, đội vệ binh canh gác của NKVD cũng được thay thế bằng đội vệ binh của quân khu Moskva theo lệnh của G. K. Zhukov.
Mối quan hệ quan hệ giữa N. S. Khrushchev phát triển tốt đẹp nhất trong thời kỳ diễn ra Đại hội lần thứ 20 Đảng Cộng sản Liên Xô. Sau khi được bầu giữ cương vị Bí thư thứ nhất, N. S. Khrushchev đã làm một việc mà từ trước đến nay không ai dám nghĩ đến. Đó là việc phê phán "chủ nghĩa sùng bái cá nhân", đưa thi hài I. V. Stalin ra khỏi Lăng Lê Nin và chôn cất bên tường thành Kremly như những nhà lãnh đạo khác. Ít ai biết rằng để làm được việc đó, N. S. Khrushchev phải được sự đồng ý (hay ít nhất cũng là đứng ngoài cuộc) của giới quân nhân mà người đứng đầu là G. K. Zhukov lúc này đã ở cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Tại Hội nghị trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô tháng 6 năm 1957, những người theo phái Stalinísm đã tìm cách loại bỏ N. S. Khrushchev bằng "đa số phiếu cơ học" với một dự thảo nghị quyết về việc cách chức Bí thư thứ nhất của ông này. Tuy nhiên, dự thảo nghị quyết này đã bị bác bỏ và một trong những người ủng hộ N. S. Khrushchev nhiệt thành nhất là G. K. Zhukov. Như đã giúp cho S. K. Timoshenko thoát khỏi sự trừng phạt của I. V. Stalin hồi tháng 7 năm 1942, lần này, G. K. Zhukov cũng chứng minh sự vô căn cứ của những lời cáo buộc đối với N. S. Khrushchev. Ông tuyên bố:
Quân đội chống lại nghị quyết này và sẽ không có một chiếc xe tăng nào rời khỏi vị trí nếu không có lệnh của tôi !
—G. K. Zhukov. Phát biểu tại Hội nghị trung ương tháng 6., 
.
Tuy nhiên, không lâu sau đó, G. K. Zhukov đã phải trả giá cho câu nói đó. Ông bị đưa ra khỏi Đoàn chủ tịch Ủy ban trung ương Đảng, bị miễn nhiệm chức vụ Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và cho nghỉ hưu ở tuổi 62. Tất cả mọi việc đều diễn ra sau lưng ông, khi ông đã "rời khỏi những đoàn xe tăng của mình" để đi thăm Nam Tư theo lời mời của Nguyên soái Josip Broz Tito. N. S. Khrushchev đã không làm gì để giúp đỡ ông. Quân đội và nhân dân Liên Xô cũng không nhận được một lời giải thích nào về sự ra đi của ông. Theo nhiều nhà phân tích, chính giới lãnh đạo Liên Xô và cả bản thân N. S. Khrushchev đã mắc một nỗi sợ có tính truyền thống: "Sợ kẻ có sức mạnh"..

Những năm tháng cuối cùng

Hoạt động chính trị

Trước khi thất sủng, G. K. Zhukov đã tham gia vào nhiều hoạt động đối nội và đối ngoại vừa với tư cách thành viên Chính phủ Liên Xô vừa với tư cách cá nhân. Năm 1955, tại một cuộc họp Hội đồng lý luận quân sự, G. K. Zhukov cho rằng trong chiến tranh, các chỉ huy quân đội phải có quyền cao nhất, còn các nhà lãnh đạo Đảng nên đóng vai trò lý luận và phải đứng đằng sau, đơn giản là vì họ không phải là nhà quân sự chuyên nghiệp. Chính luận điểm này của ông đã chặn đứng ý tưởng lập lại chế độ chính ủy trong Quân đội Liên Xô vốn đã bị bãi bỏ từ năm 1943. Cho đến năm 1955, ông vẫn có vài lần trao đổi thư từ riêng với Tổng thống Hoa Kỳ Dwight Eisenhower và cả hai đều nhất trí ủng hộ việc chung sống hòa bình giữa các cường quốc.
Tháng 7 năm 1955, ông cùng với N. S. Krushchev, N. A. Bulganin, V. M. MolotovA. A. Gromyko dự Hội nghị thượng đỉnh tại Geneva sau khi Liên Xô ký hiệp ước hòa bình với Áo và rút quân khỏi Áo. Năm 1956, với tư cách Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, G. K. Zhukov đã ra lệnh đưa quân đến hỗ trợ quân đội nước sở tại trấn áp các cuộc nổi dậy ở thủ đô Budapest. Ông cho rằng, nếu Hungaria nằm ngoài tầm kiểm soát của Moskva thì toàn bộ vai trò của Liên bang Xô viết ở Đông Âu sẽ không còn. Phát biểu về việc này, Nguyên soái J. B. Tito đã coi việc dùng quân đội Xô Viết ở Hungaria là lỗi lầm tai hại về chính trị. Cũng trong năm 1956, cuộc khủng hoảng kênh đào Suez nổ ra. Mặc dù Hoa Kỳ hết sức khuyên can nhưng liên quân Anh, Pháp và Israel vẫn tấn công Ai Cập. G. K. Zhukov đã đứng về phía Ai Cập và coi cuộc chiến của người Ai Cập là sự phòng vệ chính đáng. Triết gia Bertrand Russell coi cả hai sự kiện trên đây là hai sự kiện bất hạnh nhất trong năm 1956. Vào tháng 10 năm 1957, Zhukov viếng thăm Nam Tư và Albania trên một chiếc tàu tuần dương lớp Chapayev mang tên Kuibyshev trong một nỗ lực nhằm hàn gắn lại mối quan hệ Liên Xô-Nam Tư. Trong chuyến hải hành đó, phái đoàn Liên Xô gặp các thành viên của Hạm đội 6 Hoa Kỳ và hai bên đã có một buổi chào hỏi mang tính nghi thức.
Vào dịp sinh nhật lần thứ 60, G. K. Zhukov được nhận danh hiệu Anh hùng Liên Xô lần thứ tư. Ông trở thành nhà quân sự chuyên nghiệp cao nhất có mặt trong Đoàn chủ tịch Ủy ban trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô. Hàng trăm triệu người dân Xô Viết đặt niềm tin vào ông và quân đội Liên Xô và coi đó là biểu tượng cho sự vững mạnh của quốc gia, còn hơn cả Đảng hay các cơ quan an ninh, cảnh sát. Điều đó đã gây lo ngại hay ít nhất cũng tạo ra sự ghen tỵ trong hàng ngũ lãnh đạo của Liên Xô. Và sự lo ngại ấy không phải không có lý do. Đi xa hơn N. S. Khruchev, ông yêu cầu các cơ quan chính trị trong quân đội phải báo cáo với ông trước khi báo cáo với Đảng. Ông muốn có một sự lên án chính thức đối với các cuộc thanh trừng của I. V. Stalin nhằm vào các sỹ quan cao cấp trong quân đội. Ông đã vận động hết mình cho việc phục hồi danh dự của M. N. Tukhachevsky, V. K. Blyukher, A. I. Yegorov và nhiều người khác. Như ông từng nói, cái chết của Tukhachevsky là "sự lãng phí to lớn nhất của quân đội và toàn thể chính phủ Liên Xô của chúng ta". Nhiều vị lãnh đạo đã buộc tội ông theo "chủ nghĩa cải lương", "chủ nghĩa Bonapart" và hậu quả đã xảy ra. Sau cuộc đi thăm hữu nghị tại Liên Bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Nam Tư theo lời mời của Nguyên soái J. B. Tito, ông bị cất bỏ mọi chức vụ trong Đảng, chính quyền và nhận quyết định nghỉ hưu. Sau đó, trong một cuộc họp của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, Zhukov bị buộc phải "nhận khuyết điểm" và hứng chịu nhiều lời chỉ trích nặng nề, trong đó đến từ một số tướng lĩnh từng là đồng chí của ông trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Nặng nề hơn cả vẫn là chỉ trích từ phía Nguyên soái I. S. Koniev, người lâu nay luôn giữ mối hiềm thù và ganh ghét sâu sắc đối với Zhukov. Dường như Koniev không biết rằng chính G. K. Zhukov đã cứu ông ta khỏi bị I. V. Stalin trừng phạt vào năm 1941 khi Stalin không hài lòng về kết quả tác chiến của Koniev.
Việc bị cho nghỉ hưu sớm như vậy là một sự sỉ nhục lớn đối với vị Nguyên soái, vì theo lệ thường, các Nguyên soái Liên Xô sau khi rời nhiệm sở thường được trao chức vụ Thanh tra hay một số chức vụ thấp hơn khác - tức là vẫn tiếp tục có hoạt động ở một mức độ nào đó trong binh nghiệp. Thậm chí, sau khi Zhukov bị cắt bỏ hết mọi chức vụ, quá trình thủ tiêu ảnh hưởng và tên tuổi của Zhukov không dừng lại. Nhiều người không ưa thích Zhukov cũng được dịp "dậu đổ bìm leo". Báo Pravda đã cho đăng một bài viết của Nguyên soái Koniev với nội dung chỉ trích vai trò của Zhukov trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Tháng 3 năm 1964, tướng Chuikov xuất bản quyển sách "Sự kết thúc của Đế chế Thứ Ba", một phần nội dung trong đó đã công kích nặng nề quyết định trì hoãn tấn công vào Berlin của Zhukov hồi tháng 2 năm 1945. Ngày 10 tháng 8 năm 1961, tờ Ivestiya đã đăng bài viết chỉ trích thái độ không coi trọng của Zhukov đối với binh chủng tên lửa chiến lược, tàu ngầm và vũ khí hạt nhân. Trên thực tế, Zhukov chưa bao giờ phủ nhận vai trò của vũ khí hạt nhân, ông chỉ nhận xét rằng mặc dù nó quan trọng nhưng không đến mức đóng vai trò then chốt quyết định.
Có thể nói, đối với Zhukov, việc bị đột ngột cắt bỏ chức vụ và bị sỉ nhục công khai như vậy là một đả kích lớn. Ông đã phải sử dụng thuốc ngủ để trấn an tinh thần của mình suốt 15 ngày liền. Theo tự thuật của Zhukov, trong suốt những ngày đó, ông gần như chỉ ngủ, thức dậy một thời gian ngắn, rồi ngủ tiếp. Tất cả mọi sự đắn đo, suy tư, đau khổ, khuây khỏa của ông đều diễn ra trong giấc mơ. Otto Chaney đã nhận xét rằng, Zhukov đã phải nỗ lực rất nhiều trong việc cố giữ vững ý chí và sự bình tĩnh của mình.

Nguyên soái giữa đời thường


G. K. Zhukov, nhà văn Konstantin Simonov và nhà điện ảnh Lev Indenbom thảo luận về bộ phim "Những người bạn cũng chí hướng". Moskva. 1967
Sau khi ra khỏi vầng hào quang mà những người tôn vinh ông đã khoác cho ông, G. K. Zhukov cũng lánh xa tất cả các hoạt động chính trường. Tuy nhiên, nhiều người vẫn không quên ông. Các tướng lĩnh dưới quyền ông trong Chiến tranh thế giới thứ hai thường đến thăm nhà riêng của ông, đi săn với ông và gợi lại những kỷ niệm vui để cho ông khuây khoả. Bản thân Nguyên soái Koniev cũng đến thăm Zhukov, xin lỗi ông về bài báo chỉ trích Zhukov hồi đó; hành động hòa giải này được Zhukov đón nhận một cách chân thành. Tháng 9 năm 1959, khi được N. S. Khrushchev đang trong chuyến đi thăm Hoa Kỳ cho biết G. K. Zhukov đã nghỉ hưu và thích câu cá, Thống tướng Dwight D. Eisenhower, lúc đó đã là Tổng thống Hoa Kỳ đã qua Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Moskva gửi tặng ông một bộ đồ câu cá và ông đã sử dụng bộ đồ câu này đến cuối đời.
Trong giai đoạn này, tên tuổi Zhukov thực sự biến khỏi lịch sử chiến tranh. Theo tác giả Hoa Kỳ Chaney thì tuy ông đã chịu tổn thương lớn, nhưng nền sử học Liên Xô còn là một nạn nhân lớn hơn. Nhiều người xót cho tình cảnh ấy, trong đó có Đại sứ Ấn Độ tới Liên Xô từ năm 1951 đến 1962 - K. P. S. Menon đã viết trong nhật ký của mình ngày 5 tháng 11 năm 1957:
Không ánh sao nào chiếu trên bầu trời nước Nga sau khi Stalin chết với vẻ đẹp lộng lẫy như Zhukov. Những cố gắng để che lấp nó chỉ có thể gọi là đáng khinh. Đảng (Cộng sản) có thể thành công trong việc dời hình ảnh Zhukov ra khỏi con mắt của dư luận, nhưng họ sẽ không thể nào loại trừ ký ức về ông ra khỏi con tim của binh sĩ… Sau cùng sự thật tất thắng, Clio sẽ đặt Zhukov bên cạnh những danh nhân như Aleksandr Suvorov, Mikhail KutuzovAleksandr Nevsky… Và mảnh đất Nga tri ân sẽ luôn giữ ký ức của ông trong vinh danh và tình cảm.
—K. I. S. Menon
Năm 1964, N. S. Khrushchev bị hạ bệ. L. I. Brezhnev lên cầm quyền và đã lại một lần nữa phải nhờ đến uy tín của G. K. Zhukov để làm nổi bật vai trò của mình trong cuộc chiến tranh Xô-Đức. Tên tuổi G. K. Zhukov xuất hiện trở lại ngày 8 tháng 5 năm 1965 khi L. I. Brezhnev nhắc đến tên ông trong diễn văn kỷ niệm 20 năm ngày chiến thắng phát xít Đức. Ngày 9 tháng 5 năm 1965, ông lại được mời lên Lễ đài trên lăng Lê Nin để xem duyệt binh tại Quảng trường Đỏ.
Những năm cuối đời, ông dành phần lớn thời gian để tập trung viết bộ hồi ký Nhớ lại và suy nghĩ (tiếng Nga: Воспоминания и размышления), tác phẩm mà ông khởi thảo hồi năm 1958. Vì tuổi đã cao và làm việc căng thẳng, tháng 12 năm 1967, bệnh tim của ông tái phát trầm trọng hơn đã làm ông bị đột quỵ. Ông phải nằm viện và điều dưỡng đến tháng 6 năm 1968 mới trở về nhà và tiếp tục được điều trị bằng phương pháp trị liệu bởi người vợ thứ hai của ông, bà Galina Semyonova. Đến khoảng giữa thập niên 1960, một nhà xuất bản Pháp ngỏ lời muốn xuất bản một tác phẩm của Zhukov như là một phần trong bộ sách 20 cuốn của các nhà quân sự trong thế chiến thứ hai. Kết quả của lời đề nghị này là, vào tháng 4 năm 1968, cuốn hồi ký của Zhukov được xuất bản. Bất chấp việc nó không được các cơ quan truyền thông quảng bá rộng rãi, "Nhớ lại và suy nghĩ" nhanh chóng trở thành một thành công vang dội về mặt doanh thu. Trong vòng vài tháng, ông đã nhận được hơn 10.000 lá thư của các độc giả ca ngợi ông, cảm ơn ông, đề nghị chỉnh sửa và bình luận. Tất cả những việc này là một sự ủng hộ to lớn về mặt tinh thần đối với vị Nguyên soái và cũng là động lực để ông tiếp tục chỉnh sửa hồi ký, chuẩn bị cho việc xuất bản lần thứ hai.
Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ 24 họp tháng 3 năm 1971 đã mời ông làm đại biểu danh dự. Do gặp phải mấy sự ngăn cản được viện lẽ từ nhiều lý do khác nhau, người ta đã làm cho ông mất đi cơ hội cuối cùng xuất hiện trước công chúng trong một hoạt động chính trị quan trọng. Bản thân Brezhnev đã nói thẳng rằng ông ta không hy vọng Zhukov sẽ tham dự, một điều khiến Zhukov hết sức thất vọng.
Ngày 18 tháng 6 năm 1974, trái tim của Georgi Konstantinovich Zhukov vĩnh viễn ngừng đập sau cơn đột quỵ cuối cùng, không lâu trước khi cuốn hồi ký của ông được xuất bản lần thứ hai. Thi hài của ông được hoả thiêu. Hộp tro thi hài của ông được an táng trên bức tường điện Kremli tại Quảng trường Đỏ ở Moskva, bên cạnh tro thi hài nhiều tướng lĩnh khác của Liên Bang Xô Viết và Liên Bang Nga. Tang lễ của vị nguyên soái được tổ chức trọng thể theo nghi lễ quốc gia, và gần một triệu người đã tham gia buổi lễ tiễn đưa ông về nơi an nghỉ cuối cùng.

Gia đình

Cha đẻ: Ông Konstantin Artemyevitch Zhukov, sinh năm 1851. Thuở nhỏ, ông lớn lên trong một trại trẻ mồ côi. Năm 2 tuổi, ông được nhận làm con nuôi bà Anuska Zhukova. Khi trưởng thành, ông làm nghề đóng giày. Ông mất năm 1921.
Mẹ đẻ: Bà Ustinina Aktemievna Zhukova (lấy theo họ của chồng khi kết hôn), sinh năm 1866, cũng lớn lên trong một gia đình nghèo nhưng có sức khỏe tốt và theo nghề nông. Theo G. K. Zhukov kể lại, bà có thể vác được một bao lúa mỳ nặng 5 put (80 kg). Ông ngoại của Zhukov, Artem, cũng là người rất khỏe, có thể nhấc bổng một con ngựa trên vai. Zhukov được thừa hưởng sự di truyền về sức khỏe từ người mẹ của ông.
Chị: Maria Kostantinovna Zhukova; sinh năm 1894.
Em trai: Alexei Konstantinovich Zhukov, sinh năm 1901; chết khi còn nhỏ tuổi.
Vợ (kết hôn lần thứ nhất): Bà Alexandra Dievna, kết hôn với G. K. Zhukov năm 1920 tại Voronezh; ly dị năm 1954, mất năm 1967 tại Moskva
Vợ (kết hôn lần thứ hai): Bà Galina Alexandrovna Semyonova, sinh năm 1926, đại tá quân y Quân đội Liên Xô; làm việc tại bệnh viện Burdenko, bác sỹ chuyên khoa trị liệu, kết hôn với G. K. Zhukov năm 1955. Bà qua đời vào tháng 11 năm 1973.
Con gái cả: Era Zhukova, sinh năm 1928, con bà Alexandra Dievna
Con gái thứ hai Margarita Zhukova, sinh năm 1929, con bà Alexandra Dievna
Con gái thứ ba: Ella Zhukova, sinh năm 1937, con bà Alexandra Dievna
Con gái thứ tư: Maria Zhukova, sinh năm 1957, con bà Galina Semyonova.

Các chức vụ đã nắm giữ


Tượng G. K. Zhukov tại Ulan Bator (Mông Cổ).

Trước chiến tranh Xô-Đức

  • Đại đội trưởng kỵ binh thuộc trung đoàn Samara 7: tháng 6 năm 1922.
  • Trung đoàn trưởng trung đoàn kỵ binh Buzuluk 39: tháng 4 năm 1923.
  • Lữ đoàn trưởng lữ đoàn kỵ binh 2: tháng 5 năm 1930.
  • Sư đoàn trưởng: năm 1933
  • Phó tư lệnh Quân khu đặc biệt miền Tây: tháng 7 năm 1938
  • Tư lệnh Tập đoàn quân 1 (Liên Xô) ở Mông Cổ: Ngày 5 tháng 6 năm 1939
  • Tư lệnh Quân khu đặc biệt Kiev: tháng 6 năm 1940
  • Tổng tham mưu trưởng quân đội Liên Xô: tháng 2 năm 1941.

Trong Chiến tranh Xô-Đức

Trong thời gian chiến tranh giữ nước vĩ đại (1941-1945), G. K. Zhukhov là thành viên của Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh tối cao quân đội Liên Xô từ 23 tháng 6 năm 1941. Ông cũng đã giữ các chức vụ:
  • Đại diện đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh tối cao: từ 10 tháng 7 năm 1941
  • Phó ủy viên nhân dân Quốc phòng (như thứ trưởng): từ 19 tháng 7 năm 1941
  • Tư lệnh Phương diện quân Dự bị.
  • Tư lệnh Phương diện quân Tây.
  • Tổng tư lệnh các mặt trận hướng Tây
  • Phó tổng tư lệnh tối cao: từ 26 tháng 8 năm 1942
  • Tư lệnh Phương diện quân Ukraina 1
  • Tư lệnh Phương diện quân Belorusia 1

Sau chiến tranh

  • Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Liên Xô
  • Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Liên Xô

Danh hiệu và giải thưởng


Huân, huy chương và các giải thưởng của Nga, Liên Xô và các nước trên bộ lễ phục nguyên soái của G. K. Zhukov

Đế quốc Nga phong tặng

  • Huân chương chữ thập Thánh Georgy hạng ba
  • Huân chương chữ thập Thánh Georgy hạng tư.

Liên Bang Xô Viết phong tặng

  • 4 lần phong tặng Huân chương Sao vàng Anh hùng Liên Xô (29-8-1939, 29-7-1944, 1-6-1945, 1-12-1956)
  • 6 Huân chương Lenin, (16-8-1936, 29-8-1939, 21-02-1945, 01-12-1956, 01-12-1966, 01-12-1971)
  • 2 Huân chương Chiến thắng, (11-4-1944, 30-3-1945)
  • 1 Huân chương Cách mạng tháng Mười, (22-2-1968)
  • 3 Huân chương Cờ Đỏ, (31-8-1922, 3-11-1944, 20-6-1949)
  • 2 Huân chương Suvorov hạng nhất, (28-1-1943 và 28-7-1943)
  • Vũ khí danh dự: Thanh kiếm vàng có chạm hình Quốc huy Liên Bang Xô Viết, (22-2-1968)
  • 16 huy chương và kỷ niệm chương khác...

Các nước khác phong tặng

Những hoạt động tưởng nhớ G. K. Zhukov


Huy chương-Giải thưởng quốc gia về lĩnh vực quân sự của Liên bang Nga mang tên Georgy Zhukov
  • 20 năm sau khi ông mất, ngày 5 tháng 9 năm 1994, Tổng thống Liên bang Nga B. N. Yeltsin đã ký sắc lệnh về việc thiết lập Huân chương mang tên Georgi Zhukov để kỷ niệm những thành tích xuất sắc của ông trong cuộc chiến tranh Xô-Đức. Và đến năm 1996, tại lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông, nước Nga đã có một huân chương mới: Huân chương Zhukov.
  • Ngôi nhà cũ của gia đình ông tại quận Kaluga trở thành nhà lưu niệm về ông. Trung tâm hành chính của quận Kaluga được đặt tên là thành phố Zhukovsky.
  • Năm 1995, Luật số № 80-ФЗ được Duma quốc gia Nga thông qua ngày 19 tháng 5 năm 1995 đã quy định thành lập Giải thưởng Nhà nước hàng năm của nước Nga mang tên "Nguyên soái Zhukov" cho các công trình nghiên cứu xuất sắc về khoa học quân sự, chế tạo các thiết bị quân sự và các tác phẩm văn học, nghệ thuật xuất sắc nhất viết về cuộc Chiến tranh Xô-Đức.
  • Năm 1979, để kỷ niệm lần thứ 40 Chiến thắng Khalkhyn-Gol, đài kỷ niệm G. K. Zhukov đã được xây dựng tại thủ đô Ulan Bator (Mông Cổ). Một đường phố của Ulan Bator cũng được mang tên ông.
  • Đài tưởng niệm G. K. Zhukov và các tượng toàn thân và bán thân của ông đã được dựng lên tại một số thành phố Nga. Năm 1995, một tượng đài được dựng lên tại Quảng trường quần ngựa ở Moskva. Cũng trong năm đó, một công viên và một đường phố tại Moskva đã được mang tên ông; tại nhà ga xe điện ngầm trên tuyến bắc Kashira (gần Moskva) cũng đã dựng một bức tượng bán thân của ông.
  • Một số ga xe điện ngầm thuộc các thành phố Kharkov (Ukraina), Moskva, Sankt Peterburg, Volgograd, Irkutsk đã được đặt tên "Nguyên soái Georgy Zhukov".
  • Học viện quốc phòng Nga và Học viện hàng không quân sự tại thành phố Tver đã được mang tên Zhukov.
  • Trong thiên văn học, tiểu hành tinh thứ 2.132 được phát hiện năm 1975 đã được đặt tên "Zhukov".
  • Một chiếc tàu chở dầu của Công ty vận tải đường biển Novorossysk đã được đặt trên "Nguyên soái Zhukov".

Tác phẩm về quân sự của Zhukov

Hồi ký quân sự

Không kể đến hàng chục bộ giáo trình quân sự, hàng trăm bài viết cho các tạp chí quân sự trong và ngoài nước và hàng chục bài diễn văn thì tác phẩm quân sự đáng kể nhất mà G. K. Zhukov để lại cho hậu thế là cuốn "Nhớ lại và suy nghĩ" viết theo thể loại hồi ký. Cuốn sách được ông khởi thảo từ năm 1958 và mãi 10 năm sau, nó mới được xuất bản sau hàng chục lần kiểm duyệt ở cấp cao. Mặc dù là cuốn hồi ký của bản thân nhưng trái với lệ thường, nhân vật chính trong hồi ký lại không phải là bản thân ông mà là các tướng lĩnh, sĩ quan, binh sĩ Liên Xô cũng như những tướng lĩnh cùng chiến đấu với ông trong phe đồng minh chống phát xít. Phần của ông chỉ chiếm chương đầu trong tập thứ nhất, khi ông tự thuật về xuất thân của mình. Sau đó, hình ảnh của ông dần dần hòa vào hình ảnh của cộng đồng, các đơn vị mà ông đã tham gia, các cuộc tập trận, các trận đánh và các chiến dịch. Ông cũng không dành phần kết cuốn hồi ký để nói về mình mà tổng kết về tình hình chính trị, quân sự thế giới sau chiến tranh thế giới thứ hai. Cuốn hồi ký của ông là một trong các tài liệu lịch sử quan trọng về cuộc chiến tranh này.
Cuốn hồi ký của Zhukov nhanh chóng trở thành một thành công vang dội về mặt doanh thu. 600.000 bản in phát hành vào năm 1969 đã nhanh chóng bán hết veo. Từ năm 1969 đến năm 1989, đã có hơn 7 triệu bản in được phát hành. Cuốn sách cũng đã được dịch sang nhiều thứ tiếng và ấn hành ở nhiều quốc gia khác nhau. Trong vòng vài tháng, ông đã nhận được hơn 10.000 lá thư của các độc giả ca ngợi ông, cảm ơn ông, đề nghị chỉnh sửa và bình luận.
Tuy nhiên, một điều đáng tiếc là cuốn hồi ký của Zhukov đã gặp phải nhiều sự kiểm duyệt đến từ các cơ quan chức năng. Nhiều đoạn văn bản, có khi tới cả chương (ví dụ chương nói về giai đoạn Đại Thanh trừng) đã bị cắt bỏ khỏi bản thảo cuốn hồi ký của Zhukov. Từ 150-175 trang đã bị "gạch bằng cây viết xanh" ra khỏi cuốn hồi ký. Công việc viết hồi ký của Zhukov cũng thường xuyên bị can thiệp bởi những "đồng tác giả" và "cố vấn", đến mức Zhukov đã than phiền rằng chỉ có một nửa cuốn hồi ký này là do ông viết. Thậm chí, nhiều thành viên trong Bộ Chính trị (như M. A. Suslov) đã phản đối kịch liệt việc xuất bản cuốn hồi ký của Zhukov. Nhưng việc làm Zhukov đau lòng nhất là chuyện ông bị ép buộc phải thêm những đoạn viết không có thật về Brezhnev nhằm thổi phồng vai trò của ông ta trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Vì việc này, Zhukov đã mất ăn mất ngủ suốt nhiều ngày liền và bị hành hạ bởi những cơn đau nửa đầu dữ dội. Tuy nhiên ông chịu đựng tất cả những điều này, "giống như một người chỉ huy thực thụ, bỏ cái nhỏ để cứu cái lớn, cho rằng việc mất những mẩu nhỏ không làm mất cả cuốn hồi ký". Sau khi Zhukov qua đời, các nhân viên cấp cao của chính phủ đã tìm đến nhà riêng của vị Nguyên soái để thu hồi những văn bản không được công bố của ông, tuy nhiên gia đình của Zhukov đã đề phòng trước việc này vì vậy các tài liệu đó đã được cất giấu kỹ lưỡng. Cuối cùng, vào cuối thế kỷ 20, cuốn hồi ký phiên bản đầy đủ, không kiểm duyệt của Zhukov đã được phát hành ở Nga.
Ngoài cuốn hồi ký 3 tập nói trên, G. K. Zhukov còn có một số tác phẩm quân sự được công bố sau khi ông qua đời.

Nghiên cứu quân sự

  • "Chiến lược quân sự của Liên Xô 1941-1942";
  • "Phân tích tóm lược về hoạt động quân sự trong Chiến tranh thế giới thứ hai";
  • "Nghiên cứu về Stavka".

Tiểu luận quân sự

  • "Hiệp đồng tác chiến giữa các phương diện quân";
  • "Tổ chức và lập kế hoạch phản công trong khung giới hạn thời gian";
  • "Tổ chức hoạt động ngụy trang và nghi binh";
  • "Kursk";
  • "Sự thất bại của quân đội Đức Quốc xã tại Belarus";
  • "Chiến dịch Berlin".

Các tác phẩm viết về Zhukov


Zhukov trên bìa tạp chí Time
Cho đến năm 2003, G. K. Zhukov chỉ được 5 tác giả viết tác phẩm chuyên khảo về cuộc đời và sự nghiệp của ông. Đó là các cuốn:
  • Nguyên soái Zhukov, chiến lược gia vĩ đại của nhà sử học quân sự Ấn Độ, đại tá A. I. Sethi, xuất bản tại New Dehli năm 1988.
  • Zhukov và những bước thăng trầm của nhà chỉ huy vĩ đại của tác giả người Anh William J. Spahr xuất bản tại Luân Đôn năm 1993.
  • Zhukov của học giả Hoa Kỳ Otto Chaney xuất bản tại Oklahoma năm 1996.
  • Nguyên soái Zhukov, người chiến thắng Hitler của tác giả Albert Axell xuất bản năm 2003 tại Luân Đôn.
  • Cuộc đời một người lính của Davis Dragunsky xuất bản tại Moskva năm 1977.
Có hai cuốn sách viết riêng về vai trò của ông trong một hoặc nhiều chiến dịch quân sự:
  • Zhukov bên sông Oder, trận đánh quyết định giành Berlin của Tony Le Tissier xuất bản tại Luân Đôn năm 1996.
  • Thất bại lớn nhất của Nguyên soái Zhukov của tác giả David Glantz xuất bản tại Kanssas năm 1999; bản dịch tiếng Nga xuất hiện năm 2003 tại Moskva.
Ngoài ra, tên tuổi và các hoạt động của ông được đề cập đến trong nhiều cuốn chuyên khảo về các sự kiện và nhân vật lịch sử trong và sau chiến tranh thế giới thứ hai. Một số cuốn sau đây đề cập đến nhiều nhất:
  • Các Chính uỷ, Tư lệnh và chính quyền quân sự. Cấu trúc của nền chính trị quân sự Xô Viết của Stephen Cohen. Massachusetts. 1979.
  • Cuộc thập tự chinh ở Châu Âu của Thống tướng Dwigth Eisenhower xuất bản tại New York năm 1947.
  • Một con người nghiêm khắc của John Eisenhower (con trai thống tướng Dwigth Eisenhower) xuất bản tại New York năm 1969.
  • Những vị tư lệnh vĩ đại của Phil Grabsky xuất bản tại Luân Đôn năm 1993.
  • Những danh tướng của Stalin của Harold Shukman xuất bản tại Luân Đôn năm 1993.
  • Nghĩa vụ quân nhân của K. K. Rokossovsky xuất bản tại Moskva năm 1965, tái bản năm 1970.
  • Sự nghiệp cả cuộc đời của A. M. Vasilevsky, xuất bản tại Moskva năm 1975, tái bản năm 1984.
  • Bộ Tổng tham mưu Xô Viết trong chiến tranh của S. M. Stemenko, xuất bản tại Moskva năm 1981, tái bản năm 1984.
  • Chiến tranh đã bắt đầu như thế của I. K. Bagramian xuất bản tại Moskva năm 1983, tái bản năm 1986.

Hình tượng G. K. Zhukov trong văn học, nghệ thuật và văn hóa đại chúng

Điêu khắc


Tượng G. K. Zhukov trước cửa Bảo tàng quân sự Nga - Moskva
Tượng G. K. Zhukov được dựng ở các thành phố Moskva, Sankt Peterburg, Yekaterinburg, Omsk, Sverdlovsk, Krymskaya, Irkutsk, Stary Oskol (Nga), Kharkov (Ukraina), Minsk (Belarus), Uralsk (Kazakstan), Ulan Bator (Mông cổ). Tại Kursk (Nga) có một bức phù điêu khắc hình Zhukov. Đồng tiền 2 rub Nga phát hành năm 1995 để kỷ niệm 50 năm ngày chiến thắng phát xít Đức có khắc hình ông ở mặt trước.

Tem thư

Các quốc gia Liên Xô và Nga (1976, 1995, 2004), Belarus (1996), Kyrgystan (2006) đã phát hành các con tem in hình Nguyên soái G. K. Zhukov.

Thơ văn

  • Nhà thơ Iosif Aleksandrovich Brodsky - người được giải thưởng Nobel văn học đã sáng tác bài thơ về cái chết của ông (На смерть Жукова). Bài thơ này được các nhà phê bình đánh giá là một trong các bài thơ hay nhất về chủ đề Chiến tranh thế giới thứ hai.

Âm nhạc

  • Năm 1982, nhạc sĩ E. Kolmanovsky đã soạn phần nhạc và nhà thơ, nhà văn E. Dolmatovsky đã viết phần lời cho bài hát "Nguyên soái Zhukov và chiến thắng".
  • Hình ảnh của Zhukov xuất hiện trong bài hát Attero Dominatus thuộc album cùng tên của nhóm nhạc Thụy Điển Sabaton với nội dung nói về trận Berlin.

Điện ảnh

Với vai trò là nhân vật trong phim

  • Nhân vật Nguyên soái Georgy Zhukov do nghệ sĩ Fedor Blazhevic thể hiện trong phim "Đánh chiếm Berlin" (Xưởng phim tài liệu trung ương Liên Xô thực hiện năm 1949).
  • Nhân vật Nguyên soái Georgy Zhukov do nghệ sĩ nhân dân Liên Xô Mikhail Ulyanov thể hiện trong các phim "Giải phóng" (Освобождение), 1969-1972; "Biển lửa" (Море в огне), 1971; "Phong tỏa" (Блокада) 1973-1977; "Những chiến sĩ của tự do" (Солдаты свободы), 1977; "Nếu đối phương không đầu hàng..." (Если враг не сдается…), 1982; "Một ngày của chỉ huy sư đoàn" (День командира дивизии), 1983; "Chiến thắng" (Победа), 1984; "Trận đánh Moskva" (Битва за Москву), 1985; "Đòn phản kích" (Контрудар), 1985; "Quy luật" (Закон), "Stalingrad" (Сталинград), 1989; "Cuộc chiến ở phía Tây" (Война на западном направлении), 1990; "Tấn thảm kịch của thế kỷ" (Трагедия века), 1993; "Georgy Zhukov, vị tư lệnh vĩ đại" (Великий полководец Георгий Жуков), 1995"Ngôi sao thời đại" (Звезда эпохи), 2005.
  • Nhân vật Nguyên soái Georgy Zhukov do nghệ sĩ nhân dân Nga Vladimir Valentinovich Menshov thể hiện trong các phim "Tướng lĩnh" (Генерал), 1992; "Cuộc tiễu trừ" (Ликвидация), 2007.

Đề cập đến với vai trò khác

  • Trong phim Star Trek: The Next Generation, một chiếc tàu vũ trụ có nhiệm vụ chở các phái đoàn ngoại giao được đặt tên là "Zhukov".
  • Năm 1967, G. K. Zhukov làm cố vấn chuyên môn về quân sự cho bộ phim "Những người bạn cùng chí hướng" do Konstantin Smonov viết kịch bản, Lev Indenborn đạo diễn.

Khác

  • Công ty bia Cigar City tại Tampa, Florida đã sản xuất một loại bia đen kiểu Nga mang tên Zhukov.

Về một số đánh giá trái ngược nhau đối với Zhukov

Sau chiến tranh, uy tín của G. I. Zhukov ít được thế giới biết đến vì ông là người bị đối xử không công bằng ngay trên chính đất nước mà ông đã chiến đấu để bảo vệ nó. Ngay cả sau khi Nhà nước Nga tôn vinh ông năm 1995, cũng vẫn còn một số người không nhìn nhận ông. Nhà sử học trẻ tuổi Nga Konstantin Zaleski tin rằng trong cuốn hồi ký, Zhukov đã phóng đại vai trò của mình trong chiến tranh. Nguyên soái K. K. Rokkosovsky thì khẳng định rằng Zhukov không tham gia vào bất cứ việc gì trong kế hoạch của trận Vòng cung Kursk. Một nhà sử học Nga khác là Andrei Mertsalov thì lập luận rằng ông đã có "tính nguyên tắc đến nghiệt ngã trong việc đạt được các mục tiêu" bằng bất kỳ giá nào và tính "thô lỗ, sự ương ngạnh và sự hay thay đổi là hành vi đặc trưng của Zhukov". Cũng về tính thô lỗ của ông, một số tài liệu về sự kiện G. K. Zhukov tham gia vụ bắt giữ và xử lý Beria tại điện Kremlin có ghi rằng ông đã quát lớn: "Nhân danh nhân dân Liên Xô, mày đã bị bắt, tên đồng chí chó đẻ." Sự chính xác lịch sử của các tài liệu này bị nghi ngờ. Và Nikita Khrushchev đã xác nhận trong cuốn hồi ký của mình rằng G. K. Zhukov không bao giờ sử dụng thứ ngôn ngữ đặc sắc như vậy. Một số tác giả khác thì lưu ý đến "sự độc tài" của Zhukov. Thiếu tướng P. G. Grigorienko trong cuốn tiểu thuyết tự truyện của mình đã cho rằng Zhukov "luôn bắt buộc người khác phải phục tùng vô điều kiện". Họ đưa ra ví dụ về việc trong tháng 9 năm 1941, tại Leningrad, ông đã ra lệnh xử tử bất cứ ai rời bỏ vị trí chiến đấu mà không được phép. Đặc biệt, học giả Anthony Beevor trong cuốn "Berlin: sự suy sụp" ("Berlin: The Downfall") xuất bản tại Luân Đôn năm 2002 đã chỉ trích Zhukov về việc ông đã để cho lính Nga thoải mái làm những gì mà họ thích trong 2 tuần trước khi quân lệnh của Ủy ban quân quản Berlin có hiệu lực. Ngay sau khi ra đời, cuốn sách này đã gặp phải phản ứng của tiến sỹ Joachim Fest, một học giả Đức chuyên nghiên cứu về Hitler và Berlin tại thời điểm cuối của cuộc chiến tranh thế giới thứ hai. Theo tiến sĩ Fest, khi đưa ra những thông tin này để rồi quy kết trách nhiệm cho G. K. Zhukov, Anthony Beevor quên mất rằng G. K. Zhukov rất nhạy cảm với sự vô kỷ luật của những binh lính dưới quyền và rất khắc nghiệt khi xử lý các vi phạm ấy. Joachim Fest cho rằng Anthony Beevor đã gieo rắc những sai lệch về sự thật lịch sử. Cuốn sách này cũng bị vấp phải sự chỉ trích của Đại sứ Nga tại Luân Đôn, ông Grigori Karasin và là cuốn sách cho đến nay vẫn gây nhiều tranh cãi.
Phản bác lại một số ý kiến cho rằng G. K. Zhukov là "tướng nướng quân", là bàng quan trước tổn thất nhân mạng; các học giả Nga nghiên cứu về ông đã dẫn ra một số mệnh lệnh của ông trong chỉ huy chiến đấu được Bộ Quốc phòng Nga và chính quyền thành phố Moskva công bố từ các kho lưu trữ tư liệu
Ngày 27 tháng 1 năm 1942, ông đã viết cho Bộ tư lệnh Tập đoàn quân 49 như sau:
Việc tập đoàn quân 49 không hoàn thành nhiệm vụ trong tấn công và bị thiệt hại nặng về người là do các cấp chỉ huy các đơn vị đã vi phạm nghiêm trọng các quy định về việc dùng pháo binh bắn chuẩn bị để chế áp và đột phá phòng tuyến địch, đã không chú ý củng cố hầm hào phòng tránh cho bộ đội. Các đơn vị của tập đoàn quân 49 đã nhiều lần lặp lại một cách vô ích các cuộc công kích vỗ mặt vào Kostino, Ostrozhnoye, Bogdanovo, Potapovo; đưa đến sự thiệt hại lớn về người mà vẫn không hoàn thành được nhiệm vụ.
Một người dù chỉ có trình độ tiểu học cũng có thể hiểu được rằng các cứ điểm nói trên là nơi rất tốt để phòng thủ và trú đông. Khu vực phía trước các cứ điểm ấy đều bố trí nhiều hỏa điểm hoàn chỉnh. Việc lặp đi lặp lại các cuộc tấn công giữa trời đông lạnh giá là hệ quả của tính vô kỷ luật và thiếu chuẩn bị chu đáo đến mức ngớ ngẩn, dẫn đến tổn thất sinh mạng lớn và không đáng có cho Tổ quốc và hàng nghìn bà mẹ
Nếu các anh còn muốn ngồi lại ở vị trí chỉ huy của mình thì hãy chấp hành mệnh lệnh sau đây của tôi:
Ngừng các cuộc công kích vỗ mặt. Chấm dứt ngay các trận bắn phá vu vơ của pháo binh trên chính diện. Khi chuyển quân phải lợi dụng địa hình khe núi và rừng để giảm thương vong. Bí mật chia cắt các cứ điểm và không dừng lại để ngay ngày hôm sau, đột kích vu hồi vào Sloboda, Rassvet và phát triển đến Levshina.
Tôi yêu cầu thi hành ngay trước 24 giờ ngày 27 tháng 1.
—G. K. Zhukov
Mệnh lệnh tiếp theo của ông đề ngày 7 tháng 3 năm 1942 gửi tướng Zakharkin:
Anh đã tư duy một cách vô ích rằng có thể chiến thắng bằng chiến thuật "lấy thịt đè người". Chiến thắng chỉ có thể đạt được nhờ nghệ thuật tác chiến và kỹ năng chiến đấu chứ không phải bằng mạng sống của con người.
—G. K. Zhukov, 
Và trong bản mệnh lệnh ngày 15 tháng 3 năm 1942, ông viết:
Chiến thuật của Phương diện quân Tây trong thời gian qua cho thấy một thái độ hoàn toàn không thể chấp nhận được về việc tiết kiệm sinh lực. Chỉ huy các tập đoàn quân, các quân đoàn, các sư đoàn cứ ra lệnh cho các đơn vị bước vào chiến đấu mà lại vô trách nhiệm trong việc chuẩn bị những biện pháp cứu chữa chiến thương cho họ. Thời gian qua, tỷ lệ thương vong ở Phương diện quân Tây cao gấp 2 đến 3 lần các khu vực khác. Nhưng thương binh vẫn bị bỏ đó; và đối với chỉ huy các đơn vị, hình như việc sớm cứu mạng sống cho thương binh và duy trì sức khỏe cho bộ đội lại chỉ được coi là thiếu sót nhỏ.
—G. K. Zhukov, 
Bên cạnh những đánh giá tiêu cực hoặc gây tranh cãi về G. K. Zhukov, những đánh giá tích cực hầu hết đến từ các tướng lĩnh của phe đồng minh cùng thời với ông và các bạn bè của ông trong quân đội Liên Xô trước đây cũng như giới quân sự Nga hiện nay. Trong cuốn Cuộc thập tự chinh ở Châu Âu xuất bản năm 1948, Thống tướng Dwight D. Eisenhower (sau này trở thành Tổng thống Hoa Kỳ) đã thừa nhận ông là người mà Liên Hợp Quốc "mắc nợ" lớn hơn bất kỳ nhân vật quân sự nổi tiếng nào khác trên thế giới vì những chiến công chống phát xít Đức. Ông viết trong hồi ký chiến tranh của mình kèm theo lời tiên đoán:
Chiến tranh ở Châu Âu đã kết thúc thắng lợi và không ai có thể làm được điều đó tốt hơn Nguyên soái Zhukov, chúng ta nợ ông công lao đó. Ông là một người khiêm tốn và vì thế, không thể đánh giá thấp vị trí của ông trong suy nghĩ của chúng ta. Khi chúng ta được trở về Tổ quốc của mình thì chắc chắn sẽ có một loại Huân chương khác của nước Nga, Huân chương mang tên Zhukov, được trao cho tất cả những ai học được lòng dũng cảm, tầm nhìn xa và tính quyết đoán của người lính này
—Thống tướng Dwigth Eisenhower, 
Phải mất gần nửa thế kỷ sau, lời tiên đoán của Thống tướng Dwigth Eisenhower mới trở thành hiện thực.
N. S. Khrushchyov, người đã "bỏ mặc" số phận của G. K. Zhukov hồi năm 1957, cũng dành những lời nhận xét tích cực về Zhukov:
Nguyên soái Zhukov không bao giờ bị trục xuất khỏi Đảng và vẫn là thành viên của Đảng Cộng sản. Ông là một chuyên gia quân sự vĩ đại, và chúng tôi tin chắc rằng ông vẫn sẽ cống hiến sức lực và kiến thức của mình vì lợi ích của nhân dân.
—Nhận định của Khrushchyov trong buổi nói chuyện với Robert Considine
Thật sự Zhukov đã chứng minh rằng ông ấy là một người lính và một chỉ huy quân sự tuyệt vời.
—N. S. Khrushchyov, 
Thiếu tướng Sir Francis de Guingand, tham mưu trưởng của Thống chế Bernard Montgomery đã mô tả G. K. Zhukov là một người thân thiện và vui vẻ. Nhà văn Hoa Kỳ John Gunther đã từng gặp gỡ G. K. Zhukov nhiều lần sau chiến tranh đã mô tả ông là con người "thân thiện, vui vẻ và chân thật nhất, hơn bất kỳ một nhà lãnh đạo người Nga nào mà tôi đã gặp". Còn John Eisenhower, con trai của tổng thống Dwight Eisenhower thì cho rằng. G. K. Zhukov là người rất sôi nổi và tâm đầu ý hợp với mình. Tác giả Hoa Kỳ Martin Caidin cũng ghi nhận rằng ông là một vị "Nguyên soái kỳ diệu". Cuốn Zhukov của Chaney ở phần "Lời mở đầu và những nhìn nhận" (Preface and acknowledgements) có chỗ ghi nhận ông là người lính xuất sắc nhất của Liên Xô, và là một "quân nhân được kính nể và tặng thưởng nhiều nhất của Nga". Tác giả Geoffrey Roberts trong cuốn Stalin's General: The Life of Georgy Zhukov xem ông là vị tướng giỏi nhất Thế chiến thứ hai. Axell, tác giả cuốn "Zhukov, Người chiến thắng Hitler" cũng tin rằng Zhukov là một thiên tài quân sự mang tầm cỡ của Alexandros Đại đế và Napoléon. Cũng theo Axell, "Giống như tất cả các vị tướng lĩnh cao cấp, Zhukov là một người cộng sản trung thành. Ông coi bản thân là một đảng viên tốt nhưng ông cũng là một nhà quân sự và trên tất cả, ông là một người ái quốc".
Tại nước Nga, nhà sử học Vasily Morozov cho rằng "G. K. Zhukov đã phải trải qua một quãng dài của cuộc đời khi mà lịch sử bị bóp méo một cách thảm hại do sự bất công lớn của các thế lực chính trị. Trong khi các nhà chính trị Liên Xô khi thì đưa ông lên, khi thì hạ ông xuống tùy theo động cơ vụ lợi của họ thì giới văn nghệ sỹ lại hết sức ngưỡng mộ ông. Nhà thơ Iosif Aleksandrovich Brodsky - người được Giải Nobel Văn học đã sáng tác bài thơ về cái chết của ông (На смерть Жукова) được các nhà phê bình đánh giá là một trong các bài thơ hay nhất về chủ đề Chiến tranh thế giới thứ hai. Khi so sánh với sự sáng tạo cách điệu hóa của nhà thơ Gavrila Romanovich Derzhavin trong khúc bi tráng "Con chim sẻ ức đỏ" nói về cái chết của Tổng tư lệnh quân đội Nga Aleksandr Vasilyevich Suvorov năm 1800, chắc chắn Brodsky đã tìm ra một sự tương đồng về sự nghiệp của hai nhà chỉ huy này. Dưới thời Tổng thống Boris Nikolayevich Yeltsin, có hai người đạt giải thưởng và hai sử gia Nga nổi tiếng khác viết thư cho Yeltsin, đề nghị Tổng thống thừa nhận đầy đủ công tích của "Người lính số một" của Nga. Theo đó, tên tuổi của Zhukov "gắn liền với những chiến thắng lịch sử trên các chiến địa trong cuộc phòng vệ Tổ quốc đa sắc tộc của chúng ta". Ngày nay, dân Nga vẫn tôn vinh ông là một anh hùng dân tộc.
Cuối tác phẩm nghiên cứu về Zhukov của mình, Otto Preston Chaney đã kết luận:
Zhukov thuộc về tất cả chúng ta. Trong giai đoạn đen tối nhất của Thế chiến thứ hai, sự ngoan cường và quyết đoán của ông cuối cùng đã giành thắng lợi. Đối với người dân Nga và người dân ở khắp mọi nơi, ông vẫn là một biểu tượng vĩnh cửu của thắng lợi trên chiến trường.
—Otto Preston Chaney, 
Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 16:20, ngày 10 tháng 7 năm 2014.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét