Thứ Ba, 14 tháng 10, 2014

CÂU CHUYỆN LỊCH SỬ 33/b (Vệ quốc vĩ đại ở Liên-xô, p2)

(ĐC sưu tầm trên NET)

Trận Moskva (1941)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Trận Moskva
Một phần của Chiến tranh Xô-Đức trong Thế chiến thứ hai
T-26 during the winter 1941-42.jpg
Các xe tăng T-26 của Liên Xô chuẩn bị cho cuộc phản công ở ngoại vi Moskva, mùa đông 1941-1942
.
Thời gian 2 tháng 10, 194110 tháng 2, 1942
Địa điểm khu vực Moskva, Liên Xô
Kết quả Chiến thắng bước ngoặt của Quân đội Liên Xô
Tham chiến
Flag of the NSDAP (1920–1945).svg
Đức Quốc xã
Flag of the Soviet Union.svg
Liên Xô
Chỉ huy
Đức Quốc Xã Walther von Brauchitsch,
Đức Quốc Xã Fedor von Bock,
Đức Quốc Xã Heinz Guderian,
Đức Quốc Xã Hermann Hoth,
Đức Quốc Xã Erich Höpner
Liên Xô G. K. Zhukov,
Liên Xô B. M. Shaposhnikov
Liên Xô A. M. Vasilevsky
Liên Xô I. S. Koniev
Liên Xô A. I. Yeryomenko


Lực lượng
Tổng số binh lực được huy động trong toàn bộ chiến dịch theo Liên Xô:
1.929.406 người, 72 đến 78 sư đoàn. 1.700 xe tăng
14.000 pháo và súng cối
1.390 máy bay

Giai đoạn phòng ngự:
1.250.000 người,
Giai đoạn phản công:
1.021.700 người,
hơn 10.500 pháo và súng cối
(trong đó có 1.200 pháo chống tăng),
1.044 xe tăng, 545 máy bay,
Tổn thất
theo Liên Xô:
Tháng 10 và 11-1941: 145.000
Tháng 12-1941: 103.600
Tháng 1-1942: 144.900
Tháng 2-1942: 108.700 người
Tháng 3-1942: 79.700
Tổng số: 581.900 người chết 
Giai đoạn phòng ngự:
514.338 chết, bị bắt hoặc mất tích (41,1%)
143.941 bị thương
Giai đoạn phản công:
139.586 chết và mất tích (13,7%)
231.369 bị thương.
.
Trận Moskva là một trong những trận đánh lớn nhất trong Chiến tranh Xô-ĐứcThế chiến thứ hai vào cuối năm 1941 và đầu năm 1942. Với quân số và vũ khí tham chiến hết sức đông đảo, trận quyết chiến này kéo dài tới bảy tháng. Đây là trận đánh giữa quân đội Xô Viết và quân đội Đức Quốc Xã vì thành phố Moskva, thủ đô của Liên bang Xô Viết. Trận này có tầm quan trọng bậc nhất cả về quân sự, chính trị cũng như tâm lý trong Thế chiến thứ hai. Vốn quân Đức đã gần chiếm được thủ đô Moskva, họ vấp phải sự kháng cự hết sức mãnh liệt của quân Liên Xô, và chịu nhiều mất mát. Để rồi, một cuộc phản công mang tính chiến lược của quân Liên Xô đã dập tắt hoàn toàn kế hoạch của Đức Quốc Xã nhằm nhanh chóng đánh thắng Liên Xô. Đầu năm 1942, quân Đức đã đẩy lui hẳn khỏi Moskva. Sau trận đánh này, cho dù Liên Xô chỉ tạm thời giành thế thượng phong, với sự thất bại hoàn toàn của chiến tranh đánh nhanh thắng nhanh của Đức, nước Đức Quốc xã buộc phải chấp nhận tiến hành chiến tranh tiêu hao kéo dài với đối thủ là cường quốc rộng lớn nhất thế giới, đông dân với tiềm lực chiến tranh ngày càng được huy động mạnh hơn. Như một chiến thắng bước ngoặt của quân đội Liên Xô trong suốt cuộc chiến, thất bại lớn đầu tiên của quân đội Đức Quốc xã ngay trước cửa ngõ Moskva đã báo trước thất bại của nước Đức Quốc xã trong toàn bộ cuộc chiến tranh. Lần đầu tiên, các "chiến binh vô địch" của Hitler đã phải tháo chạy trước một đối thủ hùng mạnh. Hồng quân Liên Xô đã chiến đấu với tất cả sự kiên trì, nỗ lực và quả cảm. Cùng với thất bại trong trận không chiến tại Anh Quốc, thảm họa Moskva - một thất bại mà người Đức không thể tưởng đến - cho thấy nền Đệ tam Đế chế Đức đã bắt đầu xuống dốc ngay từ trên đỉnh cao của mình. Sau thất bại này, nước Đức bước vào năm 1942 với cơn đại chiến chưa xong trên cả hai mặt trận. Cũng sau thắng lợi của quân Liên Xô ở trận Moskva, đời sống của thị dân thành phố này trở lại yên bình như xưa, dù đại thắng này vẫn chưa đem lại thất bại hoàn toàn cho phát xít Đức trong cuộc chiến. Vốn trong chiến thắng quan trọng ấy, thị dân (trong đó có cả phụ nữ) và các đội du kích Moskva đã đóng góp rất đáng kể và gây khó khăn to lớn cho quân Đức.
Sau toàn bại này, người Đức bắt đầu liên tưởng đến chiến bại của Napoleon trong cuộc xâm lược nước Nga hồi năm 1812. Hitler tức giận, đã cách chức nhiều bại tướng và đích thân nắm quyền chỉ huy quân đội. Thảm họa Moskva, cùng với các chiến bại ở trận Leningradtrận Stalingrad, đánh dấu sự thất bại của Hitler trong việc xâm chiếm Liên bang Xô viết, khắc hẳn với cuộc chinh phạt nhiều nước Âu lục của ông.

Tình thế chiến trường Xô – Đức tại mặt trận Moskva

Moskva là mục tiêu cuối cùng của Chiến dịch Barbarossa. Các nhà chiến lược của nước Đức Quốc xã cho rằng: Chừng nào Moskva còn tồn tại với tư cách là một trung tâm chỉ huy chiến lược của Quân đội Xô Viết, chừng nào nó còn là nguồn động viên cổ vũ cho quân đội và người dân Xô Viết thì chừng đó, "Đế chế thứ ba" chưa thể có một chiến thắng quyết định trước Liên Xô.
Do kết quả của Chiến dịch Smolensk, đến cuối tháng 9 năm 1941, các đơn vị chủ yếu của Cụm tập đoàn quân Trung tâm (Đức) chỉ còn cách Moskva hơn 300 km. Tuyến mặt trận trải dài hơn 300 km từ Ostaskoye qua phía Đông Smolensk - Tây Briansk đến Shotshka. Ngoài các tập đoàn quân xe tăng 2, 3, các tập đoàn quân dã chiến 2, 4, 9; Thống chế Fedor von Bock còn được tăng cường thêm tập đoàn quân xe tăng 4 rút từ Cụm tập đoàn quân Bắc và hai quân đoàn bộ binh cơ giới lấy từ lực lượng dự bị của Lục quân Đức. Tổng số binh lực của Cụm tập đoàn quân Trung tâm lên đến 77 sư đoàn, trong đó có 13 sư đoàn xe tăng, 8 sư đoàn cơ giới với 1,1 triệu sĩ quan và binh sĩ, khoảng 1.700 xe tăng, hơn 14.000 pháo và súng cối, 950 máy bay chiến đấu.
Mặc dù các chiến dịch phản công của quân đội Xô Viết tại SmolenskYelnya đã chặn đứng ý đồ chiếm Moskva trong hành tiến trong tháng 8, tháng 9 của Bộ chỉ huy tối cao quân đội Đức nhưng tình thế của Quân đội Liên Xô trên hướng Tây Moskva vẫn chứa đựng những nguy cơ hết sức nghiêm trọng. Tại mặt trận phía Tây, Quân đội Liên Xô có ba phương diện quân tham gia phòng thủ Moskva: Phương diện quân Tây, giữ tuyến mặt trận từ Ostaskoye đến Yelnia; Phương diện quân Dự bị giữ tuyến mặt trận từ Yelnia đến Roslavl, một phần của Phương diện quân này bố trí ngay ở phía sau lưng phương diện quân Tây từ Rzhev đến khu Vyazma - Yukhnov; Phương diện quân Briansk phòng thủ từ Lyudinovo, qua phía Tây Briansk đến Shotshka. Tổng số binh lực của ba phương diện quân này về hình thức thì có đến 14 tập đoàn quân nhưng do đã bị thiệt hại nặng sau trận Smolensk nên khi quân đội Đức Quốc xã bắt đầu tấn công, quân số của các đơn vị này chỉ còn hơn 800.000 sĩ quan và binh sĩ, 782 xe tăng, 6.808 pháo và súng cối, 545 máy bay chiến đấu.
Với ưu thế về binh lực gấp 1,25 lần về bộ binh, 2,2 lần về xe tăng, 2,1 lần về pháo và súng cối, 1,7 lần về máy bay, các chiến lược gia của Đế chế thứ ba cho rằng việc tiêu diệt chế độ Xô Viết có thể tính được từng ngày. Trong nhật lệnh ngày 30 tháng 9, Hitler tuyên bố: "Hôm nay, bắt đầu cuộc chiến đấu cuối cùng có tính chất quyết định. Nơi Moskva đang tồn tại hiện nay sẽ trở thành một vùng biển rộng lớn vĩnh viễn chôn vùi thủ đô của người Nga mãi mãi khỏi thế giới văn minh này". Joseph Goebbels, bộ trưởng tuyên truyền Đức còn lệnh cho báo chí Đức giành chỗ để đăng "những thông tin giờ chót về sự thất thủ của Moskva" trong số sẽ ra ngày 12 tháng 10. Với một loạt thắng lợi của quân đội Đức Quốc Xã trong suốt Chiến dịch Barbarossa, thực chất thái độ lạc quan của người Đức không hề vô căn cứ

Binh lực hai bên tham chiến

Quân đội Đức Quốc xã

  • Tập đoàn quân 9 của tướng Adolf Strauß gồm có:
  • Quân đoàn bộ binh 23 của tướng Alfred Shubert
  • Quân đoàn xe tăng 3 (tướng Adolf Strauß trực tiếp chỉ huy quân đoàn này)
  • Các sư đoàn bộ binh độc lập 102, 206, 251, 256
  • Tập đoàn quân xe tăng 3 của tướng Hermann Hoth gồm có:
  • Quân đoàn xe tăng 5 của tướng Richard Ruoff có các sư đoàn 5, 35 và 106
  • Quân đoàn xe tăng 6 của tướng Otto von Forster có các sư đoàn 26 và 110
  • Quân đoàn cơ giới 41 của tướng Georg Hans Reinhardt có các sư đoàn xe tăng 1, sư đoàn bộ binh 6 và sư đoàn mô tô cơ giới 36.
  • Quân đoàn cơ giới 56 của tướng Fridric Shols có các sư đoàn xe tăng 6, 7 và sư đoàn bộ binh 129.
  • Tập đoàn quân 4 của tướng Günther von Kluge gồm có:
  • Quân đoàn bộ binh 9 của tướng German Geyer có các sư đoàn 137, 183, 263 và 292.
  • Quân đoàn bộ binh 7 của tướng Veber Farmbarkh có các sư đoàn 7, 23, 169 và 197.
  • Quân đoàn bộ binh 20 của tướng Frish Matern có các sư đoàn 15, 78 và 268.
  • Tập đoàn quân xe tăng 4 của tướng Erich Hopner được điều từ Cụm tập đoàn quân Bắc đến, gồm có:
  • Quân đoàn cơ giới 40 của tướng Georg Stumme gồm các sư đoàn xe tăng 2, 10 và sư đoàn bộ binh 258
  • Quân đoàn cơ giới 46 của tướng Gherder von Vittinhoff-Shiler có các sư đoàn xe tăng 5, 11 và sư đoàn bộ binh 252
  • Quân đoàn cơ giới 57 của tướng Alfred Kunser có sư đoàn xe tăng 20, sư đoàn cơ giới 3 và sư đoàn cơ giới SS "Đế chế".
  • Quân đoàn bộ binh 12 của tướng Verner Shrot có các sư đoàn bộ binh 34 và 98.
  • Tập đoàn quân 2 của tướng Maximilian von Weichs gồm có:
  • Quân đoàn bộ binh 13 của tướng Hans Felber có các sư đoàn 17 và 260.
  • Quân đoàn bộ binh 43 của tướng Gotthard Heinrici có các sư đoàn 52 và 131.
  • Quân đoàn bộ binh 53 của tướng Karl Vaizenberger có các sư đoàn 56 và 167.
  • Các sư đoàn dự bị 2 và 112.
  • Tập đoàn quân xe tăng 2 của tướng Heinz Guderian gồm có:
  • Quân đoàn xe tăng 47 của tướng Julian Lemenzen có các sư đoàn xe tăng 17, 18 và sư đoàn mô tô cơ giới 29.
  • Quân đoàn xe tăng 24 của tướng Gheire von Shverpenburg có các sư đoàn xe tăng 3, 4 và sư đoàn mô tô cơ giới 10.
  • Quân đoàn xe tăng 48 của tướng Werner Kempf có các sư đoàn xe tăng 9, sư đoàn 16 và sư đoàn mô tô cơ giới 25.
  • Quân đoàn biệt kích 35 của tướng Robert Kempf có các sư đoàn cơ giới 95, 195, 262, 293 và sư đoàn kỵ binh 1.
  • Quân đoàn biệt kích 38 của tướng Hans Mess có các sư đoàn cơ giới 45 và 134.
  • Cụm dự bị chiến dịch gồm sư đoàn xe tăng 19, sư đoàn cơ giới 900 và sư đoàn cơ giới "Đại Đức".
  • Bảo vệ hậu tuyến mặt trận có các sư đoàn bộ binh 339 và 707, các sư đoàn cảnh vệ 221, 286, 403 và 454 và lữ đoàn kỵ binh SS.
  • Tập đoàn quân không quân 2 của tướng Albert Kesselring có 1320 máy bay yểm hộ các cuộc tấn công từ trên không.

Quân đội Liên Xô

  • Phương diện quân Tây:
  • Tập đoàn quân 22 do Thiếu tướng V. A. Yushkevic chỉ huy
  • Tập đoàn quân 29 do Trung tướng I. I. Maslennikov chỉ huy
  • Tập đoàn quân 30 do Thiếu tướng B. A. Khomenko chỉ huy
  • Tập đoàn quân 16 do Trung tướng M. F. Lukin chỉ huy
  • Tập đoàn quân 19 do Trung tướng K. K. Rokossovsky chỉ huy
  • Tập đoàn quân 20 do Trung tướng F. A. Ershakov chỉ huy
  • Phương diện quân Dự bị:
  • Tư lệnh: Nguyên soái S. M. Budyonny
  • Các đơn vị bố trí phía sau Phương diện quân Tây:
  • Tập đoàn quân 31 do Thiếu tướng V. N. Dalmatov chỉ huy
  • Tập đoàn quân 49 do Trung tướng I. G. Zakharkin chỉ huy
  • Tập đoàn quân 32 do Thiếu tướng S. V. Vishnevsky chỉ huy
  • Tập đoàn quân 33 do Đại tá D. N. Onuprienko chỉ huy
  • Các đơn vị bố trí trên tuyến đầu:
  • Tập đoàn quân 24 do Thiếu tướng K. I. Rakutin chỉ huy
  • Tập đoàn quân 43 do Thiếu tướng P. P. Sobenikov chỉ huy
  • Phương diện quân Briansk:
  • Tập đoàn quân 50 do Thiếu tướng M. P. Petrov chỉ huy
  • Tập đoàn quân 3 do Thiếu tướng Ya. K. Kreizer chỉ huy
  • Tập đoàn quân 13 do Thiếu tướng A. M. Gorodniansky chỉ huy
  • Cụm chiến dịch do Thiếu tướng A. N. Ermakov chỉ huy.
Không quân của ba phương diện quân của Liên Xô có tổng cộng 568 máy bay gồm 210 máy bay ném bom, 265 máy bay tiêm kích, 36 máy bay cường kích, 37 máy bay trinh sát. Ngoài ra, trong quá trình phản công, quân đội Liên Xô đã huy động thêm 368 máy bay ném bom tầm xa và 9 máy bay trinh sát.

Kế hoạch "Typhoon" của Đức và ý đồ phòng thủ của Liên Xô

Kế hoạch "Typhoon"


Ý đồ của Cụm tập đoàn quân Trung tâm (Đức) định hợp vây hai Phương diện quân Tây và Dự bị của Liên Xô, tháng 9 năm 1941
Đến trước trận Moskva, Cụm tập đoàn quân Trung tâm vẫn là lực lượng mạnh nhất của Quân đội Đức Quốc xã trên chiến trường Xô-Đức. Nó chiếm 68% tổng số xe tăng Đức với tập đoàn quân xe tăng 2 của tướng Guderian, tập đoàn quân xe tăng 3 của tướng Hoth và tập đoàn quân xe tăng 4 của tướng Hopner. Đạo quân này cũng có trong tay 38% bộ binh Đức trên chiến trường với các ba tập đoàn quân dã chiến, hai quân đoàn bộ binh cơ giới. Khi vạch kế hoạch này, Bộ chỉ huy Cụm tập đoàn quân Trung tâm của Đức do Thống chế Fedor von Bock chỉ huy vẫn áp dụng chiến thuật quen thuộc của quân đội Đức đã đem lại nhiều thành công trên chiến trường Tây Âu và mấy tháng chiến tranh đầu tiên với Liên Xô. Đó là việc sử dụng các mũi đột kích sâu, ồ ạt và nhanh chóng bằng xe tăng trên các khu vực xung yếu của mặt trận Quân đội Liên Xô, hình thành ba đòn vu hồi liên tiếp từ Dukhovshina (dải của tập đoàn quân xe tăng 3), Roslavl (dải của tập đoàn quân xe tăng 4) và Shotshka (dải của tập đoàn quân xe tăng 2); bao vây chủ lực của Quân đội Liên Xô tại các tuyến Rjiev - Viazma (tuyến ngoài) và Volokolamsk - Mojaiysk - Kaluga (tuyến trong), cuối cùng, hội quân tại tuyến Ryazan - Noghinsk, kết thúc chiến dịch. Theo tính toán của Quân đội Đức Quốc xã, với ưu thế vượt trội về xe tăng, pháo binh và không quân, mọi việc sẽ diễn ra tương tự như ở Belorussia cuối tháng 6, ở Uman và phía Đông Kiev cuối tháng 9 năm 1941.

Ý đồ phòng thủ của Liên Xô

Để bảo vệ Moskva quân đội Xô Viết cho thiết lập ba tuyến phòng thủ: tuyến ngoài: Rzhev (Ржев) – Viazma (Вязьма) – Briansk (Брянск) cách thủ đô khoảng 200–500 km; tuyến trong: Volokolamsk (Волоколамск) – Mozhaisk (Можайск) – Kaluga (Калуга) cách Moskva thoảng 100–150 km và tuyến cuối cùng là vành đai xung quanh thành phố. Phương diện quân Tây do Trung tướng Koniev chỉ huy gồm các tập đoàn quân 22, 29, 30, 19, 16, 20 lần lượt bố trí từ Dvina Tây xuống Yelnia. Do coi trọng hướng Tây, 2/3 binh lực của Phương diện quân Dự bị do Nguyên soái Budyonny gồm các tập đoàn quân 31, 48, 32, 33 được bố trí ngay phía sau Phương diện quân Tây. Một phần ba binh lực của Phương diện quân này (các tập đoàn quân 24 và 43) phòng ngự trong dải Yelnia - Roslap. Mặc dù trước đó, trinh sát đường không của Phương diện quân Tây Bắc đã thấy nhiều đoàn xe tăng Đức di chuyển từ Cụm tập đoàn quân Bắc xuống phía Nam nhưng trinh sát mặt đất lại không nắm được địch tình nên Bộ tư lệnh Phương diện quân Dự bị không biết rằng đối diện với hai tập đoàn quân này là tập đoàn quân xe tăng 4 (Đức) còn sung sức mới được điều từ mặt trận Leningrad về và nằm trong dải tiến công của tập đoàn quân dã chiến 4. Phương diện quân Briansk gồm các tập đoàn quân 3, 13 đã suy yếu trong các trận đánh hồi mùa thu năm 1941 phòng thủ hướng Tây Nam. Trong tay tướng Yeryomenko, tư lệnh phương diện quân chỉ có lữ đoàn xe tăng 17 chống lại tập đoàn quân xe tăng 2 (Đức).
Nhân dân Moskva đã thành lập 12 sư đoàn dân quân gồm những công nhân, kỹ sư, nhân viên kỹ thuật, bác sỹ, giáo sư, văn nghệ sỹ… vừa đánh địch vừa học quân sự. 40 đội du kích ra đời tiến hành quấy rối, phá hoại ở sau lưng quân Đức. Hơn 12 nghìn đội cứu hỏa tình nguyện với sự tham gia của 20 vạn người đã được thành lập để bảo vệ thủ đô.
Lực lượng dự bị chiến lược của Quân đội Liên Xô còn đang được xây dựng tại Ural, Trung Á và Povonge. Khi bắt đầu chiến dịch phòng ngự, Bộ Tổng Tư lệnh Liên Xô cũng chưa thể tính đến việc điều quân từ Viễn Đông về do chưa xác định rõ thái độ của Nhật Bản.

Diễn biến trận đánh

Đợt thứ nhất


Xe tăng Panzer III (Đức) tấn công gần làng Skirmanovo, khu vực Moskva, mùa đông năm 1941
Sáng sớm ngày 30 tháng 9, ba tập đoàn quân xe tăng Đức bắt đầu đột phá mặt trận sau hơn một giờ dùng không quân và pháo binh bắn phá dọn đường. Các cánh quân xe tăng Đức ồ ạt tấn công tuyến phòng thủ RzhevViazmaBriansk còn chưa chuẩn bị xong, nhanh chóng đẩy lùi các tập đoàn quân của Phương diện quân Tây, Phương diện quân Dự bị và Phương diện quân Briansk.
  • Tại cánh Bắc, trên tuyến Verdino (Вердино) - Yelnia (Елня), tập đoàn quân xe tăng 3 của tướng Hoth và tập đoàn quân bộ binh 9 đột phá lách qua sườn trái tập đoàn quân 30, đẩy lùi cuộc phản kích của các tập đoàn quân số 19 và 30 của Phương diện quân Tây (Liên Xô) chiếm Kholm Zhikovsky. Sau đó tập đoàn quân xe tăng số 3 chọc thủng tiếp giáp giữa 2 tập đoàn quân 32 và 43 của phương diện quân Dự bị ồ ạt tiến về bắc Viazma vào ngày 6 tháng 10.Đến ngày 10 tháng 10 tập đoàn quân xe tăng số 3 đã thọc sâu đánh chiếm Suchevka (Сычевка) và Gjask phối hợp khép chặt vòng vây 2 phương diện quân. Tướng Hoth tách một quân đoàn xe tăng tiếp tục phát triển tấn công theo hướng Kalinin (Калинин), hai quân đoàn còn lại đánh xuống phía Đông Viazma, hình thành cánh quân vây bọc phía Bắc. Tướng I. S. Koniev tổ chức phản kích từ phía Bắc vào tập đoàn quân xe tăng 3 (Đức) nhưng không thành công. Các tập đoàn quân 22, 29 và 31 bị đẩy lùi về tuyến Ostakoiye - Sytshevka.
  • Tại khu vực giữa mặt trận, tập đoàn quân xe tăng 4 của tướng Hopner và tập đoàn quân bộ binh số 4 từ bàn đạp Roslavl (Рославль) đột kích vào tiếp giáp giữa tập đoàn quân 43 (Phương diện quân Tây) và tập đoàn quân 50 (Phương diện quân Briansk).Sau khi chia cắt các tập đoàn quân số 24, 43, 50 của Phương diện quân Dự bị (Liên Xô), tập đoàn xe tăng số 4 chia 2 hướng: một vòng qua sườn tập đoàn quân 32 (Phương diện quân Dự bị) tiến về phía nam Viazma vào ngày 6 tháng 10 vây bọc Phương diện quân Dự bị; hướng thứ hai đã đột kích rất sâu đến tuyến Milyatino (Милятино) - Yukhnov và hướng thẳng đến Maloyaroslavets (Малоярославец). Mũi đột kích thứ yếu nhưng rất mạnh gồm các đơn vị xe tăng và cơ giới của tập đoàn quân xe tăng số 4 vòng lên phía Bắc, tiến đánh Viazma, cùng tập đoàn quân xe tăng 3 hợp vây bốn tập đoàn quân 19, 20, 24 và 32 (Liên Xô) tại phía Đông Viazma. Các tập đoàn quân này đã kịch chiến với hai tập đoàn quân xe tăng và một tập đoàn quân bộ binh Đức trong vòng vây, thu hút về mình 28 sư đoàn quân Đức trong gần hai tuần lễ trước khi liều chết phá vây để về với quân nhà.

Người dân Moskva đào hào chống tăng, tháng 10 năm 1941
  • Tại cánh Nam, tập đoàn quân xe tăng 2 và tập đoàn quân bộ binh dã chiến 2 từ các bàn đạp Shostka (Шостка) và Unetsha tấn công Phương diện quân Briansk. Mũi tấn công chủ yếu của tập đoàn quân xe tăng 2 hướng về khu vực Tula (Тула) - Serpukhov. Ngày 3 tháng 10, ba sư đoàn bộ binh mô tô của tập đoàn quân xe tăng 2 đã đột kích qua Oryol (Орел) và tiến dọc theo con đường cái Oryol (Орел) - Tula (Тула). Bộ Tổng tư lệnh Xô Viết lấy từ Phương diện quân Tây Nam Quân đoàn kỵ binh cận vệ 1 và từ lực lượng dự bị hai lữ đoàn xe tăng đến khu vực bị đột phá và chặn mũi tiến công này của quân Đức. Nhưng đến ngày 6 tháng 10, mũi thứ yếu của tập đoàn quân xe tăng 2 (Đức) đã chọc thủ mặt trận và tiếp tục tiến quân lên phía Bắc, đánh chiếm Briansk, phối hợp với tập đoàn quân bộ binh dã chiến 2 hợp vây các tập đoàn quân 3 và 13 (Liên Xô) tại Briansk. Tuy nhiên các đơn vị của các tập đoàn quân này đã nỗ lực phá vây và còn có sự trợ giúp của tập đoàn quân 40 (thuộc Phương diện quân Tây Nam) tập kích liên tục vào sườn phải tập đoàn quân xe tăng Đức nên hai tập đoàn quân số 3 và 13 tại Briansk đã thoát vây và lùi đến Phatezh (Фатеж) và Ponuri (Поныри). Đức buộc phải điều các đơn vị xe tăng từ phía bắc xuống phía Nam để truy đuổi các tập đoàn quân phá vây này, vì vậy việc bao vây tập đoàn quân 50 không thực hiện được. Đêm mùng 1 rạng ngày 2 tháng 10, Bộ Tổng tham mưu Xô Viết cấp tốc thành lập bốn cụm không quân gồm 4 sư đoàn máy bay ném bom tầm xa tiến hành không kích vào đội hình hành tiến của Tập đoàn quân xe tăng 2 (Đức). Tập đoàn quân 50 (Liên Xô) cũng tránh khỏi bị bao vây và rút lui kịp thời về Belev (Белев), lập tuyến phòng thủ và sau này là lực lượng chủ lực phòng thủ Tula, khu công nghiệp vũ khí quan trọng của Liên Xô. Tại Mtsensk (Мценск) các đơn vị Xô viết đã phản kích chặn đứng các đơn vị tăng Đức từ Oryol tới, tạo thời gian cho tập đoàn quân 50 củng cố tuyến phòng thủ vững chắc tại Tula.
Mặc dù đã nhanh chóng phá vỡ tuyến phòng thủ thứ nhất RzhevViazmaBriansk của Liên Xô, tiến được từ 100 km đến 200 km nhưng các cánh quân xe tăng Đức đã bị sa lầy vào việc tiêu diệt các vòng vây do sức kháng cự của các đơn vị Liên Xô không hề giảm, kể cả khi bị vây. Họ chiến đấu đến người cuối cùng, viên đạn cuối cùng. Một bộ phận các đơn vị bị vây đã thoát được qua tuyến mặt trận, một bộ phận khác trở thành các đội du kích lớn và tổ chức đánh phá các đoàn xe và căn cứ hậu cần trong hậu tuyến quân Đức. Quân đội Liên Xô có thời gian vài ngày để điều động lực lượng dự bị củng cố tuyến phòng thủ thứ hai VolokolamskMozhaiskKaluga. Ngày 9 tháng 10, Bộ Tổng tư lệnh Liên Xô quyết định hợp nhất những gì còn lại của Phương diện quân Tây và Phương diện quân Dự bị. Đại tướng G. K. Zhukov được triệu tập từ Leningrad về và được giao chỉ huy Phương diện quân Tây (hợp nhất), tướng I. S. Koniev làm phó tư lệnh, (sau đó được chỉ định làm tư lệnh Phương diện quân Kalinin). Đến ngày 13 tháng 10, các tập đoàn quân 29, 30 và 31 tiếp tục phòng ngự quyết liệt trên hướng Volokolamsk. Bộ Tổng tư lệnh Liên Xô đã tái lập tập đoàn quân 16 do Trung tướng K. K. Rokossovsky chỉ huy để tăng cường trấn giữ hướng Volokolamsk, thành lập tập đoàn quân 5 do Thiếu tướng Lelyushenko chỉ huy để phòng ngự hướng Mojaiysk. Tập đoàn quân 33 của tướng K. A. Meretskov giữ hướng Naro - Fominsk; tập đoàn quân 43 phòng thủ Malo - Yaloroslavesh, tập đoàn quân 49 giữ Kaluga. Tổng cộng, đã có 8 tập đoàn quân Liên Xô được triển khai phòng ngự trên tuyến hai, chặn giữ các ngả đường vào Moskva từ các hướng Tây Bắc, Tây và Tây Nam trước khi đợt tấn công thứ hai của quân Đức bắt đầu.

Tổ lái xe tăng của D. Lavrienko giữa hai trận đánh, ngoại ô Moskva, 1-10-1941. Lavrienko đã tiêu diệt được 52 xe tăng Đức trước khi hy sinh trong chiến dịch này.
Đến ngày 11 tháng 10, quân Đức đã đẩy tuyến mặt trận đến gần Moskva thêm từ 50 đến 100 km, từ Kalinin, qua Volokolamsk, Mojaiysk, Kaluga, bị đứt đoạn ở Duvna - Plavsk, sau đó tiếp tục từ Mostensk, qua Ponyri đến phía Bắc Kursk. Bên cạnh tương quan lực lượng và phương tiện có tỷ lệ hơn hẳn về phía Quân đội Đức Quốc xã, việc chỉ huy tác chiến yếu kém cũng là một trong những nguyên nhân thất bại của Quân đội Liên Xô trong đợt một. Tại cuộc họp đầu tiên của Bộ tư lệnh Phương diện quân Tây (hợp nhất), Đại tướng G. K. Zhukov vạch rõ sai lầm của S. M. BudyonnyI. S. Koniev là đã không xác định được hướng đột kích chính của quân Đức, không kịp thời chủ động kéo lực lượng từ những hướng chưa bị uy hiếp để tấn công vào bên sườn các cánh quân chủ yếu của đối phương. Vì vậy, quân Đức đã tạo được ưu thế tuyệt đối với các cú đánh tập trung, tạo nên các cửa mở mà các Bộ tư lệnh phương diện quân không thể bịt lại được do không còn lực lượng dự bị. Thượng tướng A. M. Vasilievsky cho rằng nguyên nhân thất bại còn là do tất cả các đơn vị trên các tuyến phòng ngự của ba phương diện quân "Tây", "Dự bị" và "Briansk" đều bố trí dàn đều trên toàn bộ tuyến mặt trận.
Phương diện quân Dự bị lại bố trí ngay sau lưng Phương diện quân Tây trên một tuyến kéo dài đến hơn 200 km trong khi tình hình mặt trận cho thấy phải phân chia mặt trận thành ba địa đoạn và giao cho từng phương diện quân trách nhiệm phòng thủ trên địa đoạn của mình. Đội hình tác chiến bị kéo dãn và chồng chéo đã làm cho các phương diện quân không tập trung được lực lượng và phương tiện trên các hướng đột kích chủ yếu của quân Đức.

Đợt thứ hai


Hệ thống chiến lũy và vật cản chống tăng trên đường phố Moskva, mùa đông 1941
Sau khi mất tuyến phòng thủ thứ nhất tình hình Moskva nguy ngập: trong khoảng 10 ngày, từ 14 tập đoàn quân phòng thủ, nay chỉ còn 8 tập đoàn quân bảo vệ tuyến Volokolamsk – Mozhaisk – Kaluga với 9 vạn sĩ quan và binh sỹ (tương đương với biên chế đầy đủ của một tập đoàn quân); 4 tập đoàn quân bị bao vây, một phần bị tiêu diệt và bị bắt, một phần tan rã; 2 tập đoàn quân bị đẩy xa Moskva xuống phía Tây Nam. Có đến 662.000 sĩ quan và binh sĩ Xô Viết bị bắt làm tù binh tại khu vực Rezhev - Viazma. Trong những giờ phút nghiêm trọng nhất, đã có lúc Stalin yêu cầu Zhukov nói thẳng, nói thật liệu có thể giữ được Moskva không. G. K. Zhukov cam đoan sẽ giữa được nếu có thêm hai tập đoàn quân và 200 xe tăng. I. V. Stalin đáp ứng tất cả các yêu cầu của G. K. Zhukov về bộ binh và các phương tiện. Riêng xe tăng thì không còn dự trữ. Rạng sáng ngày 5 tháng 10, Hội đồng Quốc phòng Nhà nước Xô Viết thông qua Nghị quyết về việc bảo vệ Moskva; điều động 11 sư đoàn bộ binh, 16 lữ đoàn xe tăng, hơn 40 trung đoàn pháo lấy từ các phương diện quân khác và các quân khu nội địa: Ural, Kazal, Perm, Samara, Trung Á, Viễn Đông. Quân số nhiều sư đoàn được bổ sung bằng các đơn vị dân quân và phụ nữ; nhiều trung đoàn bộ binh và pháo binh chống tăng gồm toàn phụ nữ chưa kịp huấn luyện, nhiều đơn vị chỉ được trang bị chống tăng bằng chai xăng. Tuy trình độ huấn luyện chiến đấu của các đơn vị Hồng quân lúc này chưa thành thạo nhưng tinh thần quyết tâm tử thủ bảo vệ thủ đô của họ lại rất cao. Quân đội Xô Viết tập trung các lực lượng còn lại tại bốn hướng chính là Volokolamsk, Mozaisk, MaloyaroslavetsKaluga. Hàng trăm nghìn đảng viên Cộng sản và đoàn viên thanh niên Cộng sản Moskva đã lên đường ra mặt trận. Khoảng 25 vạn công dân Moskva, chủ yếu là phụ nữ và thanh thiếu niên đã tham gia xây dựng các công trình phòng thủ thành phố, đào 128 km hào giao thông phục vụ chiến đấu, 72 km hào chống tăng, lắp đặt 52.500 chướng ngại vật chống tăng. Ngày 19 tháng 10, Hội đồng quốc phòng đã ra lệnh giới nghiêm Moskva và các vùng phụ cận. Khu vực nội đô được chia thành các ô vuông phòng thủ để sẵn sàng chiến đấu trong thành phố. Trong tình trạng bị vây hãm, Moskva vừa sản xuất, vừa chiến đấu. Tất cả các nhà máy xí nghiệp của thủ đô tập trung sản xuất vũ khí và thiết bị chiến đấu. Mọi người làm việc 12-18 giờ một ngày. Một bộ phận nhà máy công nghiệp, phần lớn các công sở, những người không có nhiệm vụ trực tiếp chiến đấu, người già và trẻ em đã được lệnh sơ tán. Quân dân Moskva hưởng ứng lời kêu gọi: "Chiến đấu bảo vệ Moskva đến giọt máu cuối cùng!".

Trung tướng K. K. Rokossovsky, tư lệnh Tập đoàn quân 16 trong chiến dịch phản công tại khu vực Moskva ngày 10-12-1941 (Ảnh của RIA NOVOSTI)
Trong những sự kiện mùa đông 1941-1942 tại Moskva, điệp viên Richard Sorge đã phát huy tác dụng lần cuối cùng trước khi bị cơ quan phản gián Nhật Bản bắt giữ. Ngày 14 tháng 9 năm 1941, Richard Sorge đã chuyển 3 bức điện cho Cục 4 - GPU khẳng định: "Chính phủ Nhật Bản quyết định không tấn công Liên Xô trong năm nay. Theo đại sứ Ott, một cuộc chiến tranh giữa Nhật và Liên Xô không còn đặt ra nữa". Từ nội dung nguồn tin đầu tiên của Richard Sorge được chứng minh là đúng bởi các nguồn tin xác minh khác của các điệp viên GPU tại Đức, Pháp, Italia; Bộ Tổng tư lệnh Xô Viết đã nhanh chóng điều động tập đoàn quân xung kích 1 và tập đoàn quân 20 từ Phương diện quân Viễn Đông, tập đoàn quân 61 từ Quân khu Ural, tập đoàn quân 10 từ Quân khu Trung Á về Moskva. Đến đầu tháng 11, bốn tập đoàn quân này đã có mặt ở Moskva và đóng vai trò quan trọng trong trận phòng ngự - phản công mùa Đông của Quân đội Xô Viết tại mặt trận này.
Về phía quân Đức chỉ tập chung được một nửa lực lượng xe tăng, lại phải phân tán theo các hướng nên sức đột kích giảm sút rất nhiều. Khí hậu bắt đầu lạnh và việc tiếp vận cũng khó khăn hơn. Việc hỗ trợ tấn công bằng không quân trong thời tiết xấu và xa các sân bay thực hiện được rất khó khăn. Vì thế bộ binh Đức cũng bắt buộc phải tham chiến mà có ít phương tiện hỗ trợ. Các đơn vị xe tăng Đức bắt đầu tiến công vào các lớp phòng thủ vành đai có chiều sâu nhưng được hỗ trợ rất ít về pháo binh và không quân.
Ngày 14 tháng 10 năm 1941 quân Đức tổng tấn công tuyến phòng thủ thứ hai của Quân đội Liên Xô. Để tránh hệ thống vật cản chống tăng tại hướng chính diện, Bộ tư lệnh tập đoàn quân Trung tâm điều tập đoàn quân xe tăng 3 của tướng Hoth và một bộ phận tập đoàn quân xe tăng số 4 của Hopner tấn công vào Kalinin (Калинин), Klin (Клин) và Volokolamsk (Волоколамск) trên hướng Tây Bắc mặt trận. Tập đoàn quân 9 (Đức) kiềm chế Phương diện quân Tây Bắc, bảo vệ sườn trái cho tập đoàn quân xe tăng 3. Trong ngày hôm đó Quân đoàn xe tăng 9 của Tập đoàn quân xe tăng 3 (Đức) đánh bật tập đoàn quân 31 (Liên Xô) ra ngoại ô phía Bắc Kalinin (Калинин) và chiếm thành phố này. Ngày 15 tháng 10, thành phố Volokolamsk (Волоколамск) bị chiếm. Tập đoàn quân xe tăng 2 của tướng Heinz Guderian và Quân đoàn cơ giới 2 (Đức) tấn công hướng Tây Nam lên Duvna, Tula, Dedilovo, Xerpukhov, Kasira. Hai mũi xe tăng này sẽ hình hai "gọng kìm thép" thọc sâu vây bọc Moskva từ phía Bắc và Nam, hợp điểm tại khu vực Noghinsk (Ногинск), 60 km phía đông Moskva. Quân đoàn cơ giới 57 (thuộc tập đoàn quân xe tăng 4) phối hợp với các tập đoàn quân bộ binh 4, 9 (Đức) tấn công kiềm chế chính diện tuyến phòng thủ Xô Viết tại Mozaisk, Maloyaroslavets và Kaluga. Tập đoàn quân 2 và Quân đoàn xe tăng 48 (Đức) được giao nhiệm vụ chia cắt, kiềm chế và đẩy lùi Phương diện quân Briansk, bảo vệ sườn phải cho tập đoàn quân xe tăng 2 (Đức). Chiến sự vẫn tiếp diễn cực kỳ ác liệt và đẫm máu trên ba hướng chính:
  • Tại cánh bắc: Ngày 14 tháng 10, các mũi tấn công của tập đoàn quân xe tăng số 3 và tập đoàn quân số 9 đầu tiên đã đột phá tuyến phòng ngự yếu của tập đoàn quân 30 (Liên Xô), tiến đến ngoại vi thành phố Kalinin. Ngày 15 tháng 10, Bộ Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô thành lập Phương diện quân Kalinin do Trung tướng Koniev chỉ huy gồm các tập đoàn quân 22, 29, 30 và 33 lấy từ cánh trái của Phương diện quân Tây; các sư đoàn bộ binh độc lập 183, 185, 246, các sư đoàn kỵ binh 46, 54 và lữ đoàn xe tăng 8 lấy từ cánh phải của Phương diện quân Tây Bắc. Cánh trái của Phương diện quân Kalinin gồm các tập đoàn quân 29 và 33 (Liên Xô) đã buộc tập đoàn quân xe tăng 3 (Đức) phải dừng lại trước cửa ngõ thành phố Kalinin. Các quân đoàn xe tăng 58 và 60 của tập đoàn quân xe tăng 4 cũng không thể phát triển tấn công nhanh hơn và phải dừng lại trước tuyến Volokolamsk - Mozhaisk do các tập đoàn quân 32 và 16 (tái lập) phòng thủ. Riêng thành phố Volokolamsk đã ba lần chuyển từ tay quân đội Liên Xô sang tay quân Đức và ngược lại. Ngày 17 tháng 10, tướng Koniev chuyển giao tập đoàn quân 30 cho Phương diện quân Tây để bố trí phòng thủ vùng hồ chứa nước Volga. Tư lệnh tập đoàn quân, Trung tướng Khomenko bị huyền chức, Thiếu tướng D. D. Leliushenko thay thế.

Xe tăng T-26 của Liên Xô chuẩn bị phản công
  • Tại cánh nam: Do phải đuổi theo các tập đoàn quân số 3 và 13 của Liên Xô nên quân đoàn xe tăng 48 thuộc tập đoàn quân xe tăng 2 của Guderian phải tách ra để hỗ trợ cho tập đoàn quân 2 tấn công về hướng Livny (Ливны). Đến ngày 18 tháng 10, chủ lực của tập đoàn quân xe tăng này đã chiếm được Mtsensk (Мценск) và tiến về Tula (Тула). Các xe tăng của Guderian sau khi tấn công đột phá ban đầu cuối tháng 10 đã đến được Tula. Tại đây quân Đức gặp sự chống cự rất kiên cường của quân phòng thủ và người dân Tula với nòng cốt là tập đoàn quân 50. Xe tăng Đức đã không thể chiếm được thành phố trong hành tiến và phải đi vòng lên phía bắc về hướng Kashira (Кащира) nhưng đã bị tập đoàn quân 49 (Liên Xô) chặn đứng trước cửa ngõ thị trấn Serebiannye Prudy. Tại hướng này, lần đầu tiên trong chiến tranh Hồng quân đã tung một lực lượng lớn cấp lữ đoàn loại xe tăng T-34 được nâng cấp với tính năng vượt xa xe tăng Đức xe tăng Panzer IV gây thiệt hại và hoang mang lớn trong lực lượng xe tăng thiết giáp Đức. Kể từ đây quân Đức bắt đầu mất dần ưu thế về chất lượng xe tăng. Việc quân đội Liên Xô phòng thủ thành công tại thành phố Tula đã tạo nên một bàn đạp chiến lược để liên tục phản kích vào sườn trái cánh quân Guderian, ngăn chặn xe tăng Đức thọc sâu bao vây Moskva ở cánh nam. Đây là một trong các nhân tố quyết định phòng thủ vững chắc Moskva. Đại tướng Liên Xô G.K. Zhukov, Tư lệnh Phương diện quân Tây, đã đánh giá rất cao vai trò của thành phố Nga cổ Tula trong trận phòng thủ thắng lợi trước cửa ngõ Moskva 
  • Tại khu vực giữa mặt trận: Đây là nơi chiến sự diễn ra nhiều trận đánh căng thẳng nhất do tuyến mặt trận chỉ còn cách Moskva hơn 50 km. Quân đoàn cơ giới 48 của tập đoàn quân xe tăng 4 và tập đoàn quân bộ binh 4 (Đức) đã tiến lên qua hai tuyến phòng thủ của các tập đoàn quân 5, 33 và 49; đánh chiếm các thành phố Dorokhovo, Mozaisk, Bobrovsk, Maloiaroslavesv và Kaluga. Tuy nhiên, đến tuyến Dedovsk - Naro Fominsk - Kubinka - Tarusha - Aleksina thì quân Đức bị chặn lại trước sức chống trả quyết liệt và các tập đoàn quân 5, 33 và 43 (Liên Xô). Sử dụng tất cả các vũ khí chống tăng có trong tay, kể cả mìn, thủ pháo và chai xăng, họ đã bắt tập đoàn quân xe tăng số 4 phải chịu những tổn thất rất nặng nề tại các thành phố này.

Kỵ binh Liên Xô bên một xe tăng Pz-III (Đức) bị tiêu diệt gần Kryukovo, Moskva, 20-12-1941
Kết thúc đợt tấn công thứ hai, Cụm tập đoàn quân Trung tâm (Đức) đẩy lùi Phương diện quân Tây (Liên Xô) thêm từ 15 đến 50 km về phía Moskva nhưng không chọc thủng được mặt trận. Quân đội Liên Xô vẫn giữ vững được mối liên kết bên sườn giữa các đơn vị và lùi dần về tuyến Turghinovo - Volokolamsk - Dorokho – Naro-fominsk (Наро-Фоминск) – Serpukhov (Серпухов) - Aleksina để cố thủ. Đến cuối tháng 10 năm 1941 tuyến phòng thủ dựa vào sông Nara (Нара) của Phương diện quân Tây đã ổn định. Thế trận phòng ngự của các phương diện quân Kalinin và Briansk cũng được thiết lập. Càng lùi về phía sau, mật độ phòng thủ của quân đội Xô Viết càng cao vì đã bố trí được tuyến phòng ngự với nhiều cứ điểm theo chiều sâu dày đặc. Sĩ quan chiến sĩ của Quân đội Liên Xô cũng đã sử dụng thành thạo chiến thuật tổng hợp chống xe tăng bằng súng, pháo chống tăng, mìn, thủ pháo, chai cháy. Các trung đoàn dân quân trực tiếp tham chiến lần lượt được bổ sung cho quân đội chính quy với những người lính đã qua trận mạc. Trong khi đó mật độ tấn công của Đức càng suy giảm. Qua 20 ngày tấn công với các kết quả hạn chế, theo phía Liên Xô thì Cụm tập đoàn quân Trung tâm đã bị tổn thất 155.000 sĩ quan và binh lính, gần 800 xe tăng, trên 300 pháo và khoảng 1.800 máy bay. Do đã sử dụng hết lực lượng dự bị, Cụm tập đoàn quân Trung tâm (Đức) đã không còn người và phương tiện để bổ sung. Điều kiện thời tiết bất lợi gây lầy lội đường xá là cản trở đáng kể đối với hậu cần cho quân đội Đức. Tuyến vận tải tiếp tế của quân đội Đức liên tục bị du kích Liên Xô đánh phá, hàng chục đoàn tàu bị nổ mìn lật nhào. Tuy quân Đức vẫn liên tục tấn công nhưng xung lực và độ nguy hiểm đã suy giảm trước tuyến phòng thủ rất rắn chắc của Quân đội Liên Xô. Cuộc chiến tạm kết thúc vào ngày 30 tháng 10. Với sức chiến đấu bị giảm sút nghiêm trọng do tổn thất và mệt mỏi, quân Đức phải ngừng tiến công để chuẩn bị cho những nỗ lực cuối cùng.

Đợt thứ ba, những nỗ lực cuối cùng của quân Đức


Các chiến sĩ phòng thủ Moskva ngày 10 tháng 10 năm 1941
Buổi tối ngày 6 tháng 11, tại nhà ga xe điện ngầm Mayakovsskaia đã diễn ra cuộc mít tinh kỷ niệm 24 năm Cách mạng tháng 10 Nga. Sáng ngày 7 tháng 11 năm 1941 để nâng cao tinh thần cho chiến sỹ và toàn dân Liên Xô trong cuộc đấu tranh một mất một còn với kẻ thù nguy hiểm, Hội đồng Quốc phòng Nhà nước và Bộ Tổng tư lệnh tối cao Quân đội Liên Xô vẫn tổ chức cuộc duyệt binh hàng năm theo truyền thống tại Quảng trường đỏ. Tại cuộc duyệt binh này, I. V. Stalin thay mặt Đảng Cộng sản và Nhà nước Xô Viết kêu gọi quân và dân Liên Xô tiếp tục anh dũng chiến đấu, tiêu diệt quân thù, bảo vệ Tổ quốc Liên Xô, giải phóng cho các dân tộc:
Toàn thế giới đang coi các đồng chí là lực lượng có thể tiêu diệt bè lũ xâm lược phát xít Đức. Nhân dân các nước bị nô dịch ở Châu Âu hiện đang sống dưới ách của bọn xâm lược Đức, đang coi các đồng chí là những người giải phóng cho họ. Các đồng chí được giao phó một sứ mệnh vĩ đại, sứ mệnh giải phóng. Các đồng chí hãy tỏ ra xứng đáng với sứ mệnh ấy! Hãy để hình tượng dũng cảm và vĩ đại của các danh tướng như Aleksandr Nevsky, Dmitry Donskoy, Kuzma Minin, Dmitry Pozharsky, Aleksandr Suvorov, Mikhail Kutuzov cổ vũ các đồng chí trong cuộc chiến tranh này. Mong các đồng chí hãy siết chặt hàng ngũ dưới ngọn cờ bách chiến bách thắng của Lenin vĩ đại.
—I.V.Stalin, .
Các đơn vị bộ binh, pháo binh, xe tăng Liên Xô sau khi diễu binh qua Lăng Lenin đã tiến thẳng ra mặt trận. Cuộc duyệt binh ấy có ý nghĩa quan trọng, gia tăng quân thanh sĩ khí của các chiến sĩ Liên Xô, đồng thời củng cố sự kiên quyết không đầu hàng của thị dân Moskva.
Trong hai tuần chiến sự tạm lắng, Bộ Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô đã củng cố các tuyến phòng ngự. Trong trường hợp không giữ được Moskva, họ đã có kế hoạch phòng ngự trên tuyến Vytegrad, Rybinsk, Gorky, Saratov, Stalingrad, Astrakhan. Tại tuyến này, 10 tập đoàn quân dự bị đang được xây dựng. Cũng trong hai tuần lễ này, Cụm tập đoàn quân Trung tâm (Đức) đã tổ chức xong hai cánh quân xung kích gồm 51 sư đoàn, trong đó có 13 sư đoàn xe tăng và 8 sư đoàn cơ giới ở hướng Klin, Iskra, Solnezhnogorsk (Bắc) và hướng Tula, Kasira (Nam). Từ 15 tháng 11 năm 1941 quân Đức huy động những lực lượng cuối cùng cho nỗ lực cuối cùng để đánh chiếm thủ đô Xô Viết. Các trận đánh diễn ra trong điều kiện rất bất lợi cho phía Đức, thời tiết lạnh giá tuyết rơi làm sức chiến đấu của bộ binh và sự cơ động của xe tăng giảm sút.Việc tiếp vận rất khó khăn, các lực lượng dự bị không còn. Sự hỗ trợ bởi không quân hầu như không thực hiện được. Pháo binh Hông quân thực tế đã đè bẹp pháo binh Đức gây tổn thất nặng cho các đơn vị quân Đức, hỗ trợ mạnh cho việc phòng thủ phản công tích cực của Hồng quân. Các đơn vị của Hồng quân cố thủ trong các tuyến phòng ngự có chiều sâu bố trí tầng lớp có các phương tiện chống tăng sẵn sàng gây tổn thất nặng cho quân Đức.

Trận đấu xe tăng ngày 25 tháng 11 tại Istra
  • Tại cánh Bắc: Ngày 15 tháng 11 tập đoàn quân xe tăng số 4 (Đức) tấn công tập đoàn quân 16 (Liên Xô) chiếm Ixtra (Истра). 400 xe tăng Đức của tập đoàn quân xe tăng 4 tấn công vào 150 xe tăng hạng nhẹ của các tập đoàn quân 16, đánh chiếm thành phố Volokolamsk. Đến ngày 28 tháng 11, các chi đội phái đi trước của sư đoàn xe tăng 20 (tập đoàn quân xe tăng 4 Đức) tiến đến kênh đào Moskva - Volga. Ngày 29 tháng 11, tập đoàn quân xung kích 1 do Trung tướng V. I. Kuznesov chỉ huy lấy từ lực lượng dự bị đã chặn đứng đoàn xe tăng Đức tại ở kênh đào gần Dmitrov (Дмитров) và Yakhroma (Яхрома). Ở phía cực Bắc của mặt trận, tập đoàn quân xe tăng 3 (Đức) đột phá qua dải phòng ngự của tập đoàn quân 30, tiến đến phía Nam hồ chứa nước Volga, bờ nam sông Shoshi và khu vực Teriaevaiya - Svoboda. Tại đây, hơn 300 xe tăng Đức đã nhanh chóng đánh tan lữ đoàn xe tăng của tập đoàn quân 30 (Liên Xô) chỉ có 56 xe tăng hạng nhẹ và chiếm thành phố Klin. Ngày 25 tháng 11 quân Đức chiếm Solnhechnogorsk (Солнечногорск) và cuối tháng 11 quân Đức đã xông đến được Krasnaia Poliana (Красная поляна) và Kriukovo (Крюково) cách Moskva 20 km, điểm gần Moskva nhất mà quân Đức đạt được trong suốt chiến dịch. Từ tháp chuông nhà thờ của hai thị trấn này, một số sĩ quan Đức đã nhìn thấy những mái vòm hình củ hành của Điện Kremli qua ống nhòm.
  • Ở giữa mặt trận: Lợi dụng sự thụ động và tấn công yếu ớt của tập đoàn quân 4 Đức, Bộ Tư lệnh Phương diện quân Tây đã rút bớt một phần lực lượng ở đây để tăng viện cho cánh Bắc và cánh Nam. Ngày 1 tháng 12, tập đoàn quân 4 Đức mới đột phá vào chỗ tiếp giáp giữa tập đoàn quân 5 và tập đoàn quân 33 (Liên Xô) và lao đến Kubilka thì vấp phải bãi mìn dày đặc. Hàng chục xe tăng Đức bị phá huỷ. Sử dụng các trận địa pháo chống tăng với mật độ cao, hai tập đoàn quân 5 và 33 (Liên Xô) đã chặn được cánh quân cơ giới Đức tại Alukovo, cách Moskva 25 km. Đến ngày 4 tháng 11, họ đẩy lùi và tiêu diệt cánh quân chủ lực của tập đoàn quân 4 (Đức) tại Golishyno, 50 xe tăng Đức vị phá huỷ, hơn 10.000 quân Đức thiệt mạng trong trận này.
  • Tại cánh Nam: Các sư đoàn xe tăng 3, 4, 17 của tập đoàn quân xe tăng 2 (Đức) chuyển sang tấn công vào ngày 18 tháng 11. Ngày 21 tháng 11, các đơn vị xe tăng Đức vòng qua Tula đánh chiếm Stalinogorsk (Сталиногорск), chiếm Venev (Венев) tiến về hướng Kashira (Кащира). Cùng ngày, quân đoàn cơ giới 47 (Đức) tiến đánh Reviakino (Ревякино) để bao vây Tula nhưng không thành. Bộ tư lệnh Phương diện quân Tây đã điều động tăng cường cho hướng này sư đoàn xe tăng 112 do đại tá A. L. Ghetman chỉ huy, các lữ đoàn xe tăng 9 và 11, các tiểu đoàn xe tăng 35 và 127, sư đoàn bộ binh 173, trung đoàn pháo phản lực 15, quân đoàn kỵ binh 3. Tập đoàn quân 49 từ cánh chính diện cũng chuyển hướng cùng các đơn vị tăng viện phản kích chặn đánh quyết liệt vào ngày 27 tháng 11 tại Kasira và đẩy các đơn vị xe tăng số 2 của Đức về Mordvec (Мордвес). Sau 12 ngày nỗ lực đột phá rất ác liệt về phía bắc hướng đến Kashira và gặp sự chống trả kiên quyết của Hồng quân, đến 30 tháng 11 năm 1941, tư lệnh tập đoàn quân xe tăng 2, tướng Guderian đã tự ý chuyển sang phòng ngự mà không cần mệnh lệnh của Hitler. Quyết định này của Guderian đã cứu cho tập đoàn quân xe tăng Đức khi chỉ vài ngày sau, Quân đội Liên Xô tổng phản công trên toàn mặt trận.

Cuộc duyệt binh tại Quảng trường Đỏ ngày 7 tháng 11 năm 1941.
Sau 20 ngày tấn công, quân Đức đã tiến được hàng chục km, có nơi chỉ cách Moskva 20 km. Những trận đánh ác liệt đã diễn ra trên một chiến tuyến trải dài từ Kalinin đến Tula. Dù bị tổn thất nặng, các đơn vị quân đội Liên Xô đã chiến đấu đến cùng để bảo vệ thủ đô. Trong trận đánh ngày 16 tháng 11 tại nhà ga Dubosekova và khu vực ngã ba Duboseskva, phía nam Volokolamsk, 28 sĩ quan và binh sỹ thuộc sư đoàn bộ binh 316 của tướng Panfilov đã chống chọi với 50 xe tăng Đức. Sau 4 giờ chiến đấu họ đã tiêu diệt 18 xe tăng và hàng trăm lính Đức và tử trận gần hết, chỉ còn lại 6 người. Chính trị viên đại đội V.G. Clotshcov đã đưa lời kêu gọi các đồng đội trong đơn vị mà sau này đã trở thành lời thề chung của tất cả các lực lượng quân đội Liên Xô đang chiến đấu trước cửa ngõ Moskva:
Nước Nga rộng lớn, nhưng chúng ta quyết không lùi. Vì sau lưng là Moskva!
—V.G. Kolotshcov, .
Đầu tháng 12 năm 1941 qua ba đợt tấn công bị tổn thất rất nặng nề, tăng viện và tiếp tế khó khăn, quân đội Đức đã bị chặn đứng tại cửa ngõ Moskva. Từ ngày 3 đến ngày 5 tháng 12, toàn bộ Cụm tập đoàn quân Trung tâm của Đức phải chuyển sang thế trận phòng ngự. Quân đội Liên Xô đã giành được thế chủ động. Những lực lượng dự bị của Đức về cơ bản đã được sử dụng hết. Các tập đoàn quân xe tăng Đức thuộc Cụm tập đoàn quân Trung tâm đã tổn thất quá nặng trước sức chống cự không mệt mỏi của quân đội Liên Xô. Ngày 29 tháng 11, tướng Zhukov đề nghị Tổng tư lệnh tối cao I. V. Stalin chuyển cho Phương diện quân Tây các tập đoàn quân xung kích 1 và 10 để tổ chức phản công, hất quân Đức ra xa thủ đô Moskva.

Quân đội Liên Xô phản công

Bố trí binh lực và kế hoạch phản công


Đại tướng G. K. Zhukov, Tư lệnh Phương diện quân Tây (Liên Xô) vạch kế hoạch phản công tại khu vực Moskva, tháng 10 năm 1941
Những ngày cuối tháng 11, đầu tháng 12 năm 1941 là thời điểm có tính bản lề của trận đánh trên vùng ngoại vi Moskva. Cụm tập đoàn quân Trung tâm của quân đội Đức quốc xã đã kiệt quệ về binh lực và phương tiện. Cuối tháng 11, tập đoàn quân xung kích 1 và tập đoàn quân 20 đã được điều động từ các quân khu Viễn ĐôngSiberi đến khu vực Yakhroma (Яхрома), Krasnaia Poliana (Красная поляна) và Kriukovo (Крюково) phía Bắc Moskva. Các tập đoàn quân dự bị 10 và 61 đã có mặt tại khu vực Magnitogorsk, Kashira (Кащира) và Reviakino (Ревякино). Bộ Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô đã điều động tăng cường cho Phương diện quân Kalinin hai trung đoàn pháo chiến dịch 1, 7 và trung đoàn pháo phản lực số 2; điều động cho Phương dịên quân Tây các trung đoàn pháo chiến dịch 3, 4 và trung đoàn pháo phản lực số 3. Cánh trái của Phương diện quân Tây còn được tăng cường quân đoàn kỵ binh cận vệ 1.
Đến ngày 1 tháng 12, Cụm tập đoàn quân Trung tâm (Đức) chỉ còn lại 800.000 quân, 10.400 pháo và súng cối, khoảng 1.000 xe tăng và hơn 600 máy bay. Quân đội Liên Xô đã huy động 760.000 quân, 5.200 pháo, 415 dàn pháo phản lực "Kachiusa", 670 xe tăng, 860 máy bay. Mặc dù xét toàn bộ so sánh lực lượng, Quân đội Liên Xô không chiếm được ưu thế nhưng với đà suy yếu của Cụm tập đoàn quân Trung tâm (Đức), Bộ Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô vẫn tin tưởng rằng cuộc tổng phản công tại Moskva sẽ thắng lợi. Theo phương án của Zhukov, Phương diện quân Kalinin sẽ bắt đầu tấn công ngày 5 tháng 12 với mũi đột kích sâu của kỵ binh dọc theo đường sắt Rzhev - Viazhma, chia cắt hậu phương của tập đoàn quân xe tăng 3 và tập đoàn quân 9 (Đức). Cùng ngày, cánh phải của Phương diện quân Tây cũng bắt đầu tấn công từ khu vực Dmitrov (Дмитров) và Yakhroma (Яхрома), dồn tập đoàn quân xe tăng 3 (Đức) về phía Tây. Ngày 6 tháng 12, cánh trái của Phương diện quân Tây bắt đầu phản công từ chỗ lõm Stalinogorsk (Сталиногорск), Kashira (Кащира) và Reviakino (Ревякино), đẩy lùi và chia cắt tập đoàn quân xe tăng 2 (Đức); cánh phải của Phương diện quân Tây Nam tiến công Elesh, kiềm chế tập đoàn quân 2 (Đức). Ở giữa mặt trận, các tập đoàn quân 5, 33, 49 hoạt động tích cực để kiềm chế tập đoàn quân xe tăng 4 và tập đoàn quân dã chiến 4 (Đức) và chuyển sang phản công ngày 7 tháng 12.

Đợt phản công thứ nhất


Pháo binh Liên Xô trong chiến dịch phòng ngự - phản công Moskva, ngày 3 tháng 12 năm 1941
Ngày 5 tháng 12, Phương diện quân Kalinin đã thọc sâu vào phía sau tiền duyên phòng ngự của tập đoàn quân dã chiến 9 tại phía Bắc Istra. Đến ngày 15 tháng 12, các tập đoàn quân 22 và 39 đã đánh chiếm Moloshino, các tập đoàn quân 29 và 31 đánh chiếm Starisha và tiến đến ngoại vi Rzhev. Tại cánh phải của Phương diện quân Tây, từ ngày 6 đến 15 tháng 12, tập đoàn quân 30 phối hợp với tập đoàn quân 31 đánh chiếm Turghinovo; tập đoàn quân xung kích 1 và tập đoàn quân 20 sau khi hợp vây và tiêu diệt các đơn vị phòng ngự phía trước của tập đoàn quân xe tăng 3 (Đức) tại khu vực Roggatshevo, Sonezhnogorsk và thành phố Klin đã tiến đến ngoại vi thành phố Volokolamsk. Ngày 8 tháng 12, tập đoàn quân 16 đã phát triển tấn công đến hồ chứa nước Istra, bao vây Volokolamsk từ hướng Tây Nam. Tại giữa mặt trận, ngày 11 tháng 12, tập đoàn quân 5 từ Kubinka đã tấn công đánh chiếm Dorokhov và Ruzha, yểm hộ sườn trái của tập đoàn quân 16. Trong trận đánh chiếm Ruzha, Thiếu tướng L. M. Dovator, Tư lệnh Quân đoàn kỵ binh 2 (Liên Xô) tử trận và được truy tặng danh hiệu Anh hùng Liên Xô.[52].
Mặc dù theo kế hoạch chung, ngày 6 tháng 12, cánh trái của Phương diện quân Tây mới triển khai tấn công; nhưng phát hiện thấy các đơn vị của tập đoàn quân xe tăng (Đức) đã chuyển sang phòng ngự từ ngày 30 tháng 11 nên tướng P. A. Belov, Tư lệnh Quân đoàn kỵ binh cận vệ 1 quyết định tấn công vào ngày 3 tháng 12. Cùng với tập đoàn quân 50 do Thiếu tướng V. X. Popov chỉ huy từ Tula đánh ra, tập đoàn quân 10 tấn công chính diện, các đơn vị này đã đánh thiệt hại nặng các sư đoàn xe tăng 3, 17 và sư đoàn cơ giới 29 của tập đoàn quân xe tăng 2 (Đức). Tập đoàn quân xe tăng 2 được ví như cơn lốc một thời tung hoành trên chiến trường Ba Lan, Pháp, Bỉ, Hà Lan đã phải bỏ lại hơn 70 xác xe tăng trước thành phố Stalinogorsk (Сталиногорск) và rút chạy về Venev (Венев). Cuộc tấn công ngày 18 tháng 12 của tập đoàn quân 61 vào Gorbachevo (Горбачево), Xukhinichi (Сухиничи) và Volovo hướng lên phía sau thành phố Venev (Венев) đã tiêu hao nặng các đơn vị sườn phải của tập đoàn quân xe tăng 2 (Đức), làm cho tập đoàn quân này có nguy cơ bị hợp vây ở khu vực Venev (Венев) - Mikhailovssk, buộc nó phải tiếp tục vội vã rút lui xa hơn nữa về phía Tây, bỏ lại Uzlovaya (Узловая).

Cuộc chiến trên cánh đồng tuyết gần Moskva, 1941
Ngày 15 tháng 12, Bộ Tổng tư lệnh tối cao Quân đội Liên Xô yêu cầu Tư lệnh Phương diện quân Tây Nam phải hành động tích cực hơn vì tập đoàn quân 3 của Phương diện quân này đã tụt lại 100 km, làm cho sườn phải của Phương diện quân Tây (các tập đoàn quân 10 và 61) bị hở sườn trái và có nguy cơ bị tập đoàn quân 2 (Đức) đột kích từ hướng Mostensk. Thi hành mệnh lệnh, ngày 21 tháng 12, cánh phải của Phương diện quân Tây Nam gồm các tập đoàn quân 3, 13, 40 đã hợp vây tiêu diệt 1 quân đoàn Đức tại Khomutovo (Хомутово). Bộ Tổng tư lệnh Liên Xô cũng điều chỉnh lại việc tập trung ba tập đoàn quân một cách không hợp lý trước Volokolamsk và điều tập đoàn quân 30 tiến chiếm Starisha, cắt đường giao thông và cô lập cánh trái của tập đoàn quân xe tăng 3 (Đức) tại Shokhovskaiya. Đến ngày 20 tháng 12 năm 1941, Phương diện quân Tây đã tiến đến tuyến mặt trận tại Oresky, Starisha, sông Lama, sông Ruzha, Malo-Yaloslaved, Tikhonova, Kaluga, Duvna, Suchinitshi, Beliov, Moshensk, Novosin. Tuy thành phố Volokolamsk vẫn nằm trong tay quân Đức nhưng về cơ bản, Quân đội Liên Xô đã khôi phục lại hình thế trước khi quân Đức mở chiến dịch "Typhoon". Các binh đoàn xe tăng và bộ binh dã chiến Đức đã bị đẩy lùi về phía Tây từ 25 đến 60 km. Riêng tập đoàn quân xe tăng 2 (Đức) phải rút ra xa đến 100 km. Nhận thấy Cụm tập đoàn quân Trung tâm (Đức) đã bị thiệt hại nặng và lực lượng dự bị của Liên Xô vẫn còn khá dồi dào; Bộ Tổng tư lệnh quân đội Xô Viết tiếp tục tấn công, không cho quân Đức tổ chức phòng thủ vững chắc trên tuyến mặt trận mới lui về.

Đợt phản công thứ hai

Tập tin:Soviet Offensive Moscow December 1941.jpg
Quân trượt tuyết Xô Viết phản công tại Moskva
Đợt phản công thứ hai của các phương diện quân Liên Xô tại khu vực Moskva và vùng phụ cận nằm trong ý đồ tổng tấn công của Bộ Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô trên ba hướng chủ yếu của mặt trận Xô-Đức. Ý đồ này do Stalin đưa ra tại cuộc họp của Đại bản doanh ngày 5 tháng 1 năm 1942 với sự ủng hộ của Nguyên soái S. K. Timoshenko, Tư lệnh Phương diện quân Tây Nam. Tại cuộc họp này, tướng Zhukov khuyến nghị chỉ nên tiếp tục tấn công ở khu vục phía Tây Moskva, thanh toán bàn đạp nguy hiểm của Cụm tập đoàn quân Trung tâm (Đức) tại Rzhev - Viazhma và giải vây cho Quân đoàn kỵ binh cận vệ 1 đang bị vây hãm tại đây. Việc mở các cuộc phản công trên các hướng khác chưa thể thực hiện vì lực lượng dự bị của Quân đội Liên Xô về cơ bản đã được sử dụng hết. Bộ trưởng dân ủy Công nhiệp quốc phòng N. A. Voznesensky cũng thừa nhận việc không đủ phương tiện vật chất để tấn công đồng loạt trên tất cả các mặt trận. Tuy nhiên Stalin đã dùng quyền Tổng tư lệnh tối cao để tự mình quyết định và ký chỉ lệnh của Đại bản doanh gửi các Phương diện quân yêu cầu chuyển sang tổng phản công trong thời gian ngắn nhất.

Bản đồ mô tả cuộc phản công mùa đông 1941-1942 của quân đội Liên Xô tại khu vực phía Tây Moskva.
Vạch đỏ đứt quãng: Trận tuyến ngày 5-12-1941.
Vạch đỏ liền: Trận tuyến ngày 10-2-1942
Thực hiện mệnh lệnh này, ngày 7 tháng 1 năm 1942, các phương diện quân Tây và Kalinin tiếp tục tấn công. Tại cánh bắc, Phương diện quân Kalinin phối hợp với Phương diện quân Tây Bắc mở chiến dịch hợp vây quân đoàn xung kích 2 (Đức) tại Spat - Demiyansk, đánh chiếm Kholm, Velikie Luki, Velizh và Belyi. Phương diện quân Tây sử dụng các tập đoàn quân 16, 20 và xung kích 1 tiếp tục vượt qua Volokolamsk tiến công tập đoàn quân xe tăng 3 (Đức) tại khu vực Sytshevka - Rzhev. Ở giữa mặt trận, các tập đoàn quân 5 và 33 tiếp tục tấn công theo hướng chung đến Mozhaisk và Gzhask; các tập đoàn quân 43, 49, 50 đánh chiếm Yukhnov, Kondrov và phát triển đến Viazhma. Ở cách nam, tập đoàn quân 10 tấn công vào Kirov. Cánh phải của Phương diện quân Tây Nam và Phương diện quân Briansk tiếp tục kiềm chế tập đoàn quân xe tăng 2 và tập đoàn quân 2 (Đức).
Sau một tháng giao chiến, các tập đoàn quân xung kích 3, 4 ở cánh trái Phương diện quân Tây Bắc và tập đoàn quân 22 ở cánh phải của Phương diện quân Kalinin đã tiến đến các cửa ngõ Velikie Luki, Demidov và Velizh nhưng phải dừng lại vì không còn lực lượng dự bị để tiếp tục tiến công. Các tập đoàn quân 29 và 39 ở cánh trái Phương diện quân Kalinin không chiếm được Rzhev, làm cho tập đoàn quân 33 tiếp tục bị rơi vào vòng vây tại Viazhma cùng với Quân đoàn kỵ binh cận vệ 1. Ngày 12 tháng 1, các tập đoàn quân 20, xung kích 1 và quân đoàn kỵ binh 2 đánh chiếm Volokolamsk. Đến ngày 17 tháng 1, cánh phải của Phương diện quân Tây đã cắt đứt đường sắt Moskva - Rzhev tại Sokhovskaiya. Trong khi cuộc tấn công đang tiến triển tốt thì ngày 19 tháng 1, Tổng tư lệnh Stalin chỉ thị cho tướng Zhukov trả Tập đoàn quân xung kích 1 về lực lượng dự bị của Bộ Tổng tư lệnh tối cao. Hành động này đã làm cho cánh phải của Phương diện quân Tây yếu hẳn đi, không còn đủ sức để đột phá đến tuyến Rzhev - Viazma. Đến ngày 10 tháng 2, Cụm tập đoàn quân Trung tâm (Đức) đã nhận được 15 sư đoàn rút từ Pháp và Nam Tư sang, bố trí trận địa phòng ngự vững chắc tại khu Rzhev - Viazhma. Các phương diện quân Kalinin, Tây và Briansk không còn lực lượng để phát triển tấn công và phải dừng lại trước tuyến phòng ngự sông Lama của quân Đức.

Kết quả và những ảnh hưởng của chiến dịch


Quân đội Liên Xô thu hồi thành phố Yukhnov, ngày 10 tháng 4 năm 1942. (Ảnh của RIA NOVOSSTI)
Với cả triệu binh sĩ và dân thường, cùng với hàng nghìn xe tăng, súng cối, đại bác và máy bay chiến đấu, trận đánh Moskva trở thành một trong những trận chiến quy mô lớn nhất của cuộc Đại chiến thế giới lần thứ hai. Trận chiến đã kéo dài đến bảy tháng. Trận này trở thành một thất bại của Hitler trong việc đánh chiếm ba địa bàn quan trọng của Liên Xô là Moskva, Leningrad và Stalingrad - cuối cùng dẫn đến chiến bại của ông trong cuộc xâm chiếm Liên Xô. Với cuộc phản công chiến lược của mình, quân đội Liên Xô đã kết liễu kế hoạch chấm dứt nhanh gọn cuộc chiến tranh của nền Đệ tam Đế chế Đức. Thắng lợi tại Moskva đã nêu bật sự kiên quyết của Liên Xô trong nỗ lực chiến tranh của mình, và sau thất bại này, nước Đức bước vào năm 1942 mà chưa thể chấm dứt cơn đại chiến trên cả hai mặt trận.

Kết quả


Một nhóm Quân đội Đức Quốc xã hạ vũ khí đầu hàng Quân đội Liên Xô tại khu vực Moskva ngày 20 tháng 12 năm 1941
Là một thắng lợi có ý nghĩa hết sức to lớn, Chiến dịch phòng ngự-phản công của Hồng quân Xô Viết tại khu vực Moskva mùa Đông 1941-1942 đã làm tiêu tan huyền thoại về sự bách chiến bách thắng của Quân đội Đức Quốc xã. Theo nguồn từ Nguyên soái Liên Xô Vasilievski thì đây là trận thua lớn nhất từ đầu Thế chiến thứ hai của quân đội Đức với hơn 50 vạn sĩ quan và binh sĩ bị tiêu diệt, hơn 70 vạn quân nhân bị thương, hơn 50 sư đoàn Đức bị đánh tan, 1.300 xe tăng, 2.500 đại bác, hơn 15.000 xe cơ giới khác bị Quân đội Liên Xô phá hủy hoặc thu giữ. Trong đó phải kể đến tổn thất rất cao của Quân đội Đức trong những đợt công kích ác liệt nhằm chiếm đoạt thành Moskva. Quân đội Liên Xô cũng chịu tổn thất lên đến gần 1.200.000 người, trong đó có hơn 662.000 quân nhân chết, bị thương hoặc bị bắt làm tù binh trong đợt tấn công đầu tiên của quân Đức tại khu vực Rzhev - Viazhma. Mặc dù ngày 3 tháng 1 năm 1942, Hitler đã ra chỉ lệnh cho quân Đức không được lùi một bước nhưng Cụm tập đoàn quân Trung tâm của Đức vẫn bị hất xa ra khỏi Moskva từ 150 đến 300 km. Tuy trận Moskva đến đầu tháng 1 năm 1942 được coi là hoàn thành nhưng cuộc tấn công của quân đội Xô Viết còn tiếp tục phát triển thành tổng tấn công trên toàn mặt trận Xô – Đức trong những tháng đông – xuân của năm 1942 với các cuộc tấn công tại Tikhville, Rostov, cuộc đổ bộ đánh chiếm căn bàn đạp Kerch - Feodosiya trên bán đảo Krym. Mặc dù bị chặn đứng trước chân tường thủ đô Liên Xô nhưng tiềm lực của nước Đức Quốc xã vẫn còn rất mạnh, hoàn toàn chưa thể đổ vỡ sau đại bại ấy. Quân đội Liên Xô tuy tạm thời giành lại quyền chủ động chiến lược nhưng vẫn chưa có đủ lực lượng dự bị mạnh để phát huy chiến quả, giành thắng lợi quyết định trong cuộc chiến. Song, dẫu sao đi nữa thì chiến thắng tại Moskva cũng trở thành một bước ngoặt cho cuộc Chiến tranh Xô - Đức. Toàn thắng tại trận Moskva cho thấy sức chiến đấu của quân đội Liên Xô càng quyết liệt khi quân đội Đức càng tiến sát đến mục tiêu của mình, khiến cho quân Đức hoàn toàn thất bại sau một loạt thắng lợi của họ.
Thắng lợi quan trọng của quân đội Liên Xô tại cổng thành Moskva cũng ghi dấu chiến công của lực lượng du kích Xô Viết hồi ấy, đã gây khó khăn cho quân lực Đức Quốc Xã. Sau chiến thắng của quân Liên Xô trong trận Moskva, tình hình thủ đô được cải thiện. Vào Mùa Xuân năm 1942, những công xưởng và cửa hàng bị rời bỏ đã trở lại hoạt động, cuộc sống của người dân Moskva trở lại bình thường. Chính trong những ngày ác chiến tại Moskva, nhân dân thủ đô, trong đó có cả nhiều phụ nữ, cũng đóng góp rất lớn cho chiến thắng, với việc xây dựng hệ thống phòng thủ trong đó có các chiến hào, hào chống tăng, v.v...

Đánh giá


Báo Sao đỏ của Quân đội Liên Xô ra ngày 10 tháng 5 năm 1942 tuyên truyền về thắng lợi của Chiến dịch phản công chiến lựoc tại khu vực Moskva mùa Đông 1941-1942. (Ảnh của RIA NOVOSSTI)
Đánh giá về ý nghĩa và nguyên nhân chiến thắng, Nguyên soái Zhukov viết trong bài viết "THẮNG LỢI CỦA LIÊN XÔ VÀ SỰ BẤT LỰC CỦA NHƯNG KẺ XUYÊN TẠC LỊCH SỬ đăng trên tập san "Người cộng sản" số 1, tháng Giêng, 1970" như sau:
Nhiều tướng lĩnh và nhà viết sử tư sản đổ lỗi tất cả cho bùn lầy và đường xấu. Họ đang cố tìm cách giải thích kế hoạch chiếm Mát-xcơ-va của Hít-le bị tan vỡ không phải vì các chiến sĩ Xô-viết có tinh thần anh dũng và các cán bộ chỉ huy của họ tài giỏi và quả cảm, mà vì thời tiết xấu, đường sá đi lại khó khăn và băng giá. Nhưng chính mắt tôi đã trông thấy trong bùn lầy và trên các con đường xấu đó hàng ngàn, hàng ngàn người Mát-xcơ-va, nói chung chưa quen làm đất, đá đã rời những gian nhà đầy đủ tiện nghi ở thành phố đi đào các hố chống tăng, hào giao thông, đắp những ụ đất làm các vật chặn đường, hàng rào dây thép gai, khuân vác những bao cát. Bùn đất bám vào chân họ, vào bánh các xe chở đất, bùn đất đã làm cho các lưỡi xẻng thêm nặng, mà ngay khi không có bùn đất bám, xẻng đó đã không phù hợp với bàn tay phụ nữ. Đối với những kẻ muốn lấy thời tiết xấu để che lấp nguyên nhân thực sự của các thất bại ở Mát-xcơ-va, cần nói thêm rằng, tháng 10-1941, đường sá chỉ lầy lội trong một thời gian tương đối ngắn. Đầu tháng 11 bắt đầu rét, tuyết rơi thì đất đai và đường sá đều dễ đi rồi.
Không phải! Mưa và tuyết không thể chặn được bước tiến của quân địch ở Mát-xcơ-va. Chính là đạo quân hơn 1 triệu tên lính phát-xít tinh nhuệ đã vấp phải tinh thần vững như thép, lòng dũng cảm và khí phách anh hùng của các chiến sĩ Xô-viết có sự hậu thuẫn của nhân dân, của Thủ đô và Tổ quốc...
Không, không phải là thời tiết, mà là con người, những người Xô-viết! Đó là những ngày đặc biệt không bao giờ quên được, những ngày mà hoài bão duy nhất là bảo vệ Tổ quốc và lòng yêu nước vĩ đại của toàn thể nhân dân Liên Xô đã thôi thúc mọi người xông lên lập chiến công.
Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng binh lính Đức bị tổn thất rất nhiều vì tê cóngbệnh dịch. Một số sư đoàn Đức rơi rụng chỉ còn 50% thực lực. Quân Đức đã thiếu chuẩn bị trang bị, chiến thuật tác chiến mùa đông, trong khi lực lượng Liên Xô thì đã chuẩn bị chu đáo và rất quen thuộc với tác chiến trong điều kiện băng giá. Tướng Erhard Raus – người nổi danh trong giới quân sự Đức với tư cách là một trong những nhà chiến thuật lỗi lạc trong chiến tranh thiết giáp đã ghi lại nhiệt độ trung bình hàng ngày gần Moscow trong suốt chặng đầu của tháng 12 năm 1941 như sau: ngày 1/12: -7 độ C, 2.12: -6 độ C, 3/12: -9 độ C, 4/12: -36 độ C, 5/12 -37 độ C, 6/12: -37 độ C, 7/12: -6 độ C, 8/12: -8 độ C. Những ngày sau đó trong tháng, nhiệt độ giảm không dưới – 45 độ C. Sư đoàn Thiết giáp số 6 của tướng Raus báo cáo mỗi ngày có khoảng 800 ca cóng lạnh. Nhiệt độ thấp nhất đo được trong toàn bộ kế hoạch này là -53 độ C (khu vực tây bắc Moscow vào ngày 26 tháng 1 năm 1942) trong khi trang thiết bị của Đức bắt đầu hỏng hóc khi nhiệt độ xuống -20 độ C. Các loại vũ khí không thể khởi động được, đặc biệt là các vũ khí chống tăng, chất lỏng giảm giật cho pháo đều đông cứng, dầu bôi trơn cho các vũ khí chính xác và súng máy cũng vậy. Tháp pháo của xe tăng thì không thể xoay được, và xe tăng thì phải hoạt động liên tục để tránh bị đông cứng. Trong khi đó, vũ khí của Hồng quân đều được thiết kế để vẫn đảm bảo độ tin cậy trong điều kiện lạnh khắc nghiệt như vậy, và quân Đức phải lui bước trước các đợt phản công dũng mãnh của bộ binh Nga. Hàng ngàn binh sĩ Đức đã bị đóng băng đến chết trong bộ đồng phục mùa hè vốn dành cho một chiến dịch ngắn ngủi.
Về mặt điều kiện khách quan, mùa đông khắc nghiệt và "công bằng" như nhau với cả hai bên, nhưng về mặt tự chuẩn bị, quân Nga đã làm chu đáo hơn quân Đức và đó cũng là một trong những yếu tố tạo nên thắng lợi của họ.

Một con tem năm 1975 của Liên Xô (cũ) ghi lại hình ảnh cuộc duyệt binh lịch sử ở Quảng trường Đỏ (Moskva) ngày 7 tháng 11 năm 1941
Đến trận Moskva năm 1941 thì chuỗi trận bất bại của Hitler chấm dứt. Lần đầu tiên kể từ sau hai năm chiến thắng liên tiếp, đoàn binh của Hitler đã phải triệt thóai trước một kẻ thù hùng mạnh. Cùng với chiến bại của lực lượng Không quân Đức trong trận không chiến tại Anh Quốc, thất bại hoàn toàn trong trận Moskva đánh dấu từ xuống dốc của nền Đệ tam Đế chế Đức ngay từ đỉnh cao vinh quang của nó. Nhiều nhà phân tích quân sự cho rằng giới cầm quyền và các tướng lĩnh Đức Quốc xã đã bị những thắng lợi nhanh chóng hồi mùa hè năm 1941 "ru ngủ" và đánh giá thấp sức kháng cự, tinh thần chiến đấu và khả năng tổ chức các chiến dịch phản công lớn của Liên Xô. Toàn bộ lực lượng mà quân đội Đức huy động tấn công Moskva chỉ đủ sức chọc thủng mặt trận Liên Xô ở Viazhma, Briansk và uy hiếp tuyến phòng thủ thứ ba của Liên Xô. Sau đợt tấn công thứ nhất, Bộ chỉ huy Cụm tập đoàn quân Trung tâm (Đức) vẫn tiếp tục chiến thuật cũ mà không hề biết rằng Bộ Tổng tư lệnh Liên Xô đã phát hiện ra hai cánh quân lớn của Đức tập trung ở phía Bắc và phía Nam Moskva. Do đó, Quân đội Liên Xô đã xây dựng tại hai khu vực này các trận địa phòng ngự có chiều sâu với nhiều tuyến, nhiều lớp; lấy xe tăng và pháo chống tăng làm chủ lực và lần lượt bẻ gãy những "quả đấm" xung kích của ba tập đoàn quân xe tăng 2, 3, 4, sức mạnh tấn công chính của quân đội Đức. Một trong các sai lầm khác của Bộ tư lệnh cụm tập đoàn quân Trung tâm là sử dụng xe tăng rộng rãi nhưng lại huy động ít bộ binh yểm hộ. Sự đơn độc của các đơn vị xe tăng Đức trên các hướng tấn công chính đã tạo điều kiện cho xe tăng và pháo chống tăng Liên Xô dàn trận phối hợp với bộ binh đánh những trận tiêu diệt lớn mặc dù quân Đức có nhiều xe tăng hơn. Do quá tin tưởng vào kế hoạch hợp vây của hai tập đoàn quân xe tăng và hai tập đoàn quân xung kích ở hai bên sườn, Bộ tư lệnh Cụm tập đoàn quân Trung tâm (Đức) cũng hành động "lừng chừng" ở tuyến giữa mặt trận mặc dù họ có đủ lực lượng; tạo điều kiện cho Phương diện quân Tây (Liên Xô) tự do rút bớt các lực lượng ở giữa mặt trận để điều sang hai cánh, chặn đứng các cánh quân xung kích của Đức.
Bộ Tổng tư lệnh tối cao Liên Xô và Bộ tư lệnh các phương diện quân Tây, Dự bị, Briansk, Kalinin và kể cả Bộ Tổng tư lệnh tối cao quân đội Liên Xô cũng mắc một số sai lầm, nhất là vào giai đoạn đầu của chiến dịch. Việc bố trí dàn trải và chồng chéo các lực lượng của Phương diện quân Tây và Phương diện quân Dự bị hồi tháng 9 năm 1941 đã làm cho việc chỉ huy bị rối loạn. Hai tập đoàn quân 24 và 43 phòng ngự trên tuyến đầu bên cánh trái của Phương diện quân Tây nhưng lại thuộc Phương diện quân Dự bị mà sở chỉ huy của nó lại đặt ở tận Viazhma cách đó gần 200 km. Đến khi tập đoàn quân xe tăng 4 tấn công thì các tập đoàn quân này bị cắt rời khỏi chủ lực Phương diện quân Dự bị và nhanh chóng bị bao vây. Trong đợt một, Bộ tư lệnh hai phương diện quân Tây và Dự bị cũng không xác định được hướng tấn công chính của hai cánh quân xe tăng Đức nên không thể bịt được các cửa mở mà xe tăng Đức đã đột phá. Vào giai đoạn cuối chiến dịch, khi Cụm tập đoàn quân Trung tâm (Đức) đã suy yếu và rút lui, lẽ ra phải tăng cường thêm 4 tập đoàn quân cho các phương diện quân Tây, Kalinin và Briansk để truy kích và đẩy quân Đức ra xa Moskva hơn nữa thì I. V. Stalin lại rút bớt Tập đoàn quân Xung kích 1 của Phương diện quân Tây, điều hai tập đoàn quân dự bị khác đến các hướng Tikhvill và Rostov để thực hiện tổng phản công một cách dàn trải trong khi tiềm lực của quân Đức ở cả hướng Tây, Tây Bắc và Tây Nam vẫn còn rất mạnh. Điều này đã làm cho cuộc tấn công vào "chỗ lồi" Rzhev - Viazhma của Quân đội Liên Xô phải thực hiện trong tình trạng không có lực lượng dự bị chiến dịch và do đó không thành công. Tập đoàn quân 33, quân đoàn kỵ binh cận vệ 1 và lữ đoàn đổ bộ đường không 8 phải tác chiến trong vòng vây của quân Đức tại đây đến cuối tháng 5 năm 1942 mới thoát vây với thiệt hại nặng nề

Ảnh hưởng


Kết thúc giai đoạn phòng thủ Moskva. Quân đoàn kỵ binh 2 Ukraina của tướng P. A. Belov được phong danh hiệu "Quân đoàn kỵ binh cận vệ 1", ngày 26 tháng 11 năm 1941
Vô cùng tức giận do thất bại ngay trước chân thành Moskva, Hitler lập tức phế truất chức vụ Tổng tư lệnh Lục quân Đức của Thống chế Walther von Brauchitsch và tự mình đứng vào chức vụ này. Ông ta cũng cách chức Tư lệnh Cụm Tập đoàn quân Trung tâm của Thống chế Fedor von Bock (mặc dầu khi ấy Von Bock không được khỏe); cách chức Tư lệnh Tập đoàn quân xe tăng 2 của tướng Heinz Wilhelm Guderian cùng hàng chục tướng khác. Chiến thắng của Liên Xô tại trận Moskva cũng làm phân hoá nội bộ phe Trục. Các nước Nhật Bản, Thổ Nhĩ Kỳ phải cân nhắc lại khả năng tham chiến chống Liên Xô. Người Đức cũng bắt đầu nghi ngờ vào thiên tài của Fuhrer, sự hoài nghi và phản đối trong lòng nước Đức được nhen nhóm cùng với tâm lý lo lắng và bi quan tăng lên khi họ nhớ đến thất bại của Napoleon trong cuộc chiến tranh năm 1812. Các nhà chiêm tinh học bắt đầu lao vào nghiên cứu số mệnh của Napoleon và của cả Hitler. Tướng Gluther Blumentritt, Tham mưu trưởng của Tập đoàn quân thứ tư của Đức, đã đọc lại Hồi ký của một viên tướng của Napoleon là Armand Augustin Louis de Caulaincourt, trong đó kể về Mùa Đông Nga khủng khiếp và sự thất bại hoàn toàn của Napoleon I. Việc nước Đức Quốc xã bắt đầu gây sức ép, đòi hỏi các nước chư hầu của mình phải đưa thêm nhiều binh đoàn mới sang mặt trận Xô-Đức để "chia xẻ" trách nhiệm với quân đội Đức đã làm cho tình hình chính trị bên trong những nước đó bắt đầu mất ổn định.

Huân chương phòng thủ Moskva 1941 của Nhà nước Liên Xô
Lần đầu tiên quân đội vô địch của Đức Quốc Xã đã bị thất bại trong một trận đánh có tầm chiến lược. Uy thế của quân đội Đức từng làm mưa làm gió trên chiến trường Châu Âu đã bị chôn vùi trong trận Moskva. Nó đánh dấu sự phá sản hoàn toàn của Kế hoạch Barbarossa, buộc giới cầm quyền phát xít Đức phải đưa ra một kế hoạch mới để tiếp tục cuộc chiến tại mặt trận Xô-Đức với những mục tiêu hạn chế hơn. Kể từ thời điểm này, nước Đức Quốc Xã phải chấp nhận kiểu chiến tranh lâu dài tiêu hao cường độ cao với Liên Xô – một cường quốc rộng lớn nhất thế giới có số dân đông, tiềm lực chiến tranh vô cùng to lớn đang ngày càng được huy động nhiều hơn. Chiến tranh càng kéo dài thì càng bất lợi cho Đức Quốc Xã vì nước này chưa sẵn sàng cho kiểu chiến tranh tiêu hao như thế và tiềm lực chiến lược của nước Đức Quốc xã kém xa tiềm lực của đối phương. Hơn nữa, các lợi thế về tư duy quân sự, khả năng tác chiến, ưu thế vũ khí của quân đội Đức Quốc xã chỉ có tính tạm thời. Chiến tranh càng kéo dài và nhất là khi các tiềm năng của Liên Xô được phát huy, các ưu thế đó sẽ về tay quân đội Xô Viết. Do đó chiến thắng của Hồng quân tại Moskva trong năm 1941 khắc nghiệt nhất của chiến tranh là điềm báo trước cho thất bại của Đức trong toàn bộ cuộc chiến.
Trong những ngày diễn ra cuộc phản công lớn của Quân đội Liên Xô trước cửa ngõ Moskva, Khối đồng minh toàn thế giới chống phát xít ra đời. Ngày 1 tháng 1 năm 1942, tại Washington, trên cơ sở "Hiến chương Đại Tây Dương" đã được các các cường quốc Hoa KỳAnh ký kết hồi tháng 8 năm 1940, Liên Xô và 23 nước khác đã ký thỏa ước tham gia Hiến chương này, mở đường cho việc toàn cầu hoá khối Đồng minh chống phát xít. Chính phủ các đồng minh Anh, Mỹ đã thực sự tin rằng Liên Xô hoàn toàn có khả năng tự mình chống chọi lại được sức mạnh khủng khiếp của nước Đức quốc xã. Sự tin tưởng ấy đã dẫn đến các hiệp ước hợp tác và giúp đỡ nhau trong chiến tranh giữa Liên Xô với Anh và Mỹ được ký kết trong nửa đầu năm 1942. Uy tín quốc tế của Liên Xô tăng mạnh, thiện cảm đối với Liên Xô lên cao trong dư luận các nước đồng minh tạo thuận lợi cho các nỗ lực chung chống phát xít. Các quốc gia, các vùng đất đang bị Đức Quốc xã chiếm đóng bắt đầu hy vọng vào tương lai được giải phóng và điều đó làm cho họ mạnh dạn xây dựng các tổ chức, các lực lượng kháng chiến, chống phát xít Đức ngay tại những vùng đất bị chiếm đóng của Liên Xô và các nước khác.
Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 08:13, ngày 2 tháng 10 năm 2014.

Trận Stalingrad

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Trận Stalingrad
Một phần của Chiến tranh Xô-Đức trong
Chiến tranh thế giới thứ hai
Stalingrad-250.jpg
Bộ binh Liên Xô tấn công trong đống đổ nát của thành phố Stalingrad.
.
Thời gian 17 tháng 7, 1942 - 2 tháng 2, 1943
Địa điểm Thành phố Stalingrad, Liên Xô
Kết quả Chiến thắng quyết định của Liên Xô
Binh lực Đức Quốc xã và chư hầu bị suy kiệt nghiêm trọng.
Tham chiến
Đức Quốc Xã Đức Quốc Xã
România Rumani
Ý Phát xít Ý
Hungary Hungary
Liên Xô Liên Xô
Chỉ huy
Đức Quốc Xã Erich von Manstein
Đức Quốc Xã Hermann Hoth
Đức Quốc Xã Friedrich Paulus Đầu hàng
Đức Quốc Xã Wolfram von Richthofen
România Petre Dumitrescu
România Constantin Constantinescu
Ý Italo Gariboldi
Hungary Gusztáv Vitéz Jány
Croatia Viktor Pavičić  
Liên Xô V. I. Chuikov
Liên Xô A. M. Vasilyevskiy
Liên Xô G. K. Zhukov
Liên Xô S. K. Timoshenko
Liên Xô K. K. Rokossovskiy
Liên Xô R. Ya. Malinovskiy
Liên Xô A. I. Yeryomenko
Liên Xô N.N. Voronov
Liên Xô N.F.Vatutin
Liên Xô V. N. Gordov
Liên Xô N. S. Khrushchyov
Liên Xô I. S. Koniev
Thành phần tham chiến
Tập đoàn quân số 6 Đức,
Tập đoàn quân xe tăng số 4 Đức,
Tập đoàn quân số 2 Hungary,
Tập đoàn quân số 8 Ý,
Tập đoàn quân số 3 và 4 Rumani
Phương diện quân Stalingrad,
Phương diện quân Sông Đông,
Phương diện quân Tây Nam
Lực lượng
Ban đầu:
270.000 quân
3.000 pháo
500 tăng
600 máy bay, 1.600 tới giữa tháng 9
Tới khi Hồng quân phản công (ngày 19/11/1942):
1.011.000 quân
10.250 pháo
675 tăng
732 máy bay
Toàn chiến dịch: Khoảng 1.600.000 quân
Ban đầu:
187.000 quân
2.200 pháo
400 tăng
300 máy bay,
Giai đoạn phản công: khoảng 1.100.000 quân
Toàn chiến dịch: Tổng cộng khoảng 1.700.000 quân
4.431 xe tăng
2.769 máy bay.
Tổn thất
Nguồn 1: Khoảng 1 triệu quân thương vong, trong đó:
Quân Đức
147.200-150.000 chết trên tổng số 285.000 chết, bị bắt, mất tích và bị thương trong khu vực nội đô Stalingrad.
300.000 thương vong khác
cho các Cụm Tập đoàn quân A, B và Sông Đông đến phá vây
Quân Ý, HungaryRumani: ~413.000 thương vong
Nguồn 2:
Tổng cộng 1,5 triệu thương vong
Hơn 250.000 súng các loại, 1.312 súng cối, 1.666 xe tăng, 261 xe thiết giáp, 744 máy bay, 10.722 xe tải, 10.679 xe môtô, 811 xe kéo, 3 tàu hỏa bọc thép bị Liên Xô thu giữ
478.741 chết
650.878 bị thương hoặc ốm
40.000+ dân thường chết
4.341 tăng
15.728 pháo và cối
2.769 máy bay chiến đấu
Tổng: 1.129.619
.
Trận Stalingrad là một trận đánh lớn diễn ra trong Chiến tranh Xô-Đức giữa một phe là quân đội phát xít Đức cùng với các chư hầu và phe kia là Hồng quân Liên Xô tại thành phố Stalingrad (nay là Volgograd) ở miền Tây Nam nước Nga. Trận đánh diễn ra từ ngày 17 tháng 7 năm 1942 đến ngày 2 tháng 2 năm 1943, và thường được đánh giá như một bước ngoặt quan trọng và bước đầu làm xoay chuyển cục diện trong chiến tranh thế giới thứ 2, thậm chí là một trong những bước ngoặt lớn nhất của nền quân sử thế giới vào thế kỷ 20. Đây cũng là một trong những trận đánh đẫm máu nhất lịch sử, với con số thương vong có thể lên đến hơn 2 triệu người.
Số binh sĩ tham gia trận đánh này nhiều hơn hẳn các chiến dịch lớn khác, và nó cũng nổi tiếng vì mức độ khốc liệt, tàn bạo cũng như thương vong cao về dân thường. Việc quân Đức thất bại trong việc đánh chiếm Stalingrad và việc Hồng quân Xô Viết phản công bao vây tiêu diệt 33 vạn quân của Tập đoàn quân số 6 (Đức) cùng với nhiều lực lượng khác của phe Trục xung quanh thành phố đã dẫn tới một trong những thất bại quan trọng nhất của phát xít Đức trong thế chiến thứ hai. Với chiến thắng điểm ngoặt này, Hồng quân đã cầm chắc lợi thế của cuộc Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại. Song, đây không chỉ là một bước ngoặt quyết định và quan trọng nhất trong cuộc chiến tranh vệ quốc mà còn cả của Thế chiến thứ hai vì nó cùng với các chiến thắng ở Tunisia đã mang lại lợi thế và củng cố niềm tin thắng lợi cho toàn khối Đồng Minh, và bắt đầu cho giai đoạn Hồng quân Xô Viết chủ động tổ chức phản công trên toàn mặt trận và đóng góp một phần đáng kể vào sự đầu hàng của phát xít Đức hai năm rưỡi sau đó.
Đợt tấn công Stalingrad của phát xít Đức tiến triển nhanh vào giai đoạn nửa sau năm 1942 dưới sự hỗ trợ mạnh mẽ của không quân Đức Luftwaffe, những trận oanh tạc của lực lượng này đã biến phần lớn thành phố trở thành đống gạch vụn. Tuy nhiên quân đội phát xít Đức nhanh chóng bị sa lầy trong những trận đánh đẫm máu trên đường phố và trong từng căn nhà; và mặc dù đã kiểm soát 90% thành phố nhưng người Đức đã hoàn toàn thất bại trong việc triệt tiêu những ổ đề kháng cuối cùng của Hồng quân Xô Viết vốn bám trụ một cách vững chắc và kiên cường bên bờ Tây sông Volga, trong lúc đó thì thời tiết khắc nghiệt của mùa Đông nước Nga đang đến gần.
Ngày 19 tháng 11 năm 1942, Hồng quân Liên Xô mở chiến dịch Sao Thiên Vương, một đợt tấn công vu hồi gồm hai gọng kìm đánh vào cạnh sườn của Tập đoàn quân số 6 (Đức) đóng tại Stalingrad. Đòn tấn công này đã hoàn toàn thay đổi cục diện của trận đánh: cạnh sườn yếu kém của quân Đức nhanh chóng sụp đổ tan tành và 33 vạn quân của Tập đoàn quân số 6 bị bao vây trong nội đô Stalingrad. Khi mùa đông đến, cái đói, cái lạnh khủng khiếp và những đợt tấn công liên tục của Hồng quân Xô Viết đã làm suy kiệt nhanh chóng lực lượng Đức, tuy nhiên mệnh lệnh không được đầu hàng của Hitler do niềm tin vào "sức mạnh ý chí", vấn đề danh dự nước Đức cùng các tính toán chiến lược khác đã buộc họ phải tiếp tục cố bám trụ mà không được tự ý phá vây. Vào tháng 12 năm 1942, phát xít Đức mở Chiến dịch Bão Mùa đông nhằm giải cứu đội quân bị vây nhưng thất bại, và theo sau đó là toàn bộ hệ thống tiếp vận cho khối quân bị vây cũng sụp đổ theo. Đầu tháng 2 năm 1943, sức kháng cự của khối quân này hoàn toàn bị dập tắt, và Tập đoàn quân số 6 bị tiêu diệt hoàn toàn vào ngày 2 tháng 2 năm 1943. Đối với nước Đức thất thế, trận thua này là tin xấu nhất của họ, và sau thất bại này họ sẽ còn thua trận Kursk với tầm quan trọng chẳng kém. Về phần minh, Hồng quân Liên Xô đã phải chịu tổn thất vô cùng lớn lao trong chiến thắng quyết định. Trận đánh diễn ra trong khoảng hơn nửa năm và thực chất là hai giai đoạn nối tiếp nhau:
  • Giai đoạn đầu là cuộc tiến công của quân đội Đức trong chiến cục mùa hè năm 1942 và kết thúc bằng việc quân Đức tiến được tới bờ sông Volga tấn công và bao vây thành phố Stalingrad mà không chiếm được (từ giữa tháng 7 đến 18 tháng 11 năm 1942), hay còn gọi là trận phòng thủ Stalingrad.
  • Giai đoạn hai là cuộc phản công của quân đội Xô viết bao vây và tiêu diệt quân Đức (từ 19 tháng 11 năm 1942 đến 2 tháng 2 năm 1943) với các chiến dịch Sao Thiên Vương, Sao ThổCái vòng (Кольцо).

Hoàn cảnh dẫn đến trận đánh Stalingrad

Ngày 6 tháng 12 năm 1941, sau khi chặn đứng đà tiến công của phát xít Đức vào thủ đô Moskva, Hồng quân Xô Viết mở đợt phản công nhằm vào các lực lượng của quân đội phát xít Đức (Wehrmacht) đang công kích thành phố và đã đánh họ bật ra khỏi ngoại vi của thủ đô Xô Viết. Tuy nhiên đến mùa xuân năm 1942, cơ bản quân Đức chặn được đà phản công của Hồng quân và ổn định mặt trận tại phòng tuyến mới kéo dài từ Leningrad ở phía Bắc đến the Rostov ở phía Nam. Có một số chỗ lồi trên mặt trận được hình thành do các đợt phản công của quân Đức, chủ yếu ở Tây Bắc của Moskva và phía Nam của Kharkov, tuy nhiên các vị trí này không đe dọa nhiều đến quân Đức. Ở phía Nam, phát xít Đức đã kiểm soát phần lớn lãnh thổ Ukraina và bán đảo Krym mặc dù lúc này Sevastopol và một phần bán đảo Kerch vẫn nằm trong tay Hồng quân Xô Viết.
Lúc này Bộ chỉ huy Đức, đứng đầu là Adolf Hitler, nhận thấy rằng không thể đánh thắng Liên bang Xô viết bằng một cuộc chiến tranh chớp nhoáng. Để đánh thắng phía Đức phải tính đến cách đánh tiêu hao: trước tiên phải thủ tiêu các nguồn lực vật chất để Liên Xô suy kiệt trước khi bị đánh bại hoàn toàn. Chiến cuộc mùa hè năm 1942 diễn ra với ý tưởng chỉ đạo chiến lược như vậy và với mục tiêu chiếm những nguồn cung cấp chiến lược quan trọng hàng đầu của Liên Xô - lúa mì, các nguyên liệu công nghiệp sống còn là điện, than, và đặc biệt là dầu mỏ. Tất cả những thứ đó đều nằm ở phía Nam nước Nga, ở dãy núi KavkazBaku - trung tâm công nghiệp khai thác dầu mỏ lớn nhất của Liên Xô - và đó là những mục tiêu tối thượng của chiến dịch.

Tầm quan trọng của thành phố Stalingrad

Việc chiếm được thành phố này có tầm quan trọng rất lớn đối với Hitler và cả Mussolini vì hai lý do chính. Thứ nhất, đây là một thành phố công nghiệp lớn nằm trên sông Volga - con đường giao thông vận tải mang tầm quan trọng chiến lược nối liền Biển Caspi và miền Bắc nước Nga. Vì vậy việc để mất Stalingrad vào tay phát xít Đức sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng vận chuyển hàng hóa đến phía Bắc của đất nước. Thứ hai, việc đánh chiếm Stalingrad sẽ củng cố sườn phía Đông của quân Đức vốn đang tiến nhanh về vựa dầu tại vùng Kavkaz với mục tiêu cắt đứt nguồn cung ứng dầu hỏa cho Hồng quân Xô Viết. Thêm nữa, thành phố này mang tên của lãnh tụ I. V. Stalin, việc đánh chiếm thành phố này cũng sẽ là một thắng lợi quan trọng về mặt tinh thần và tư tưởng.
Hồng quân Xô Viết nhận ra rằng họ đang chịu một sức ép nghiêm trọng về thời gian và nhân lực, vật lực, vì vậy tất cả những ai có thể cầm súng chiến đấu đều được điều về bảo vệ Stalingrad. Vào thời kỳ này của chiến tranh, khả năng tác chiến cơ động cao của Hồng quân vẫn còn kém hơn so với phát xít Đức, tuy nhiên việc chiến đấu trong thành phố đã giúp giảm thiểu những thiệt thòi của Hồng quân vì nơi đây là địa bàn của việc giao tranh bằng vũ khí cầm tay của bộ binh chiếm ưu thế chứ không phải là nơi dành cho việc giao chiến giữa các lực lượng tăng thiết giáp.

Chiến dịch Blau

Nếu tôi không chiếm được các mỏ dầu tại MaikopGrozny thì tôi đành phải kết thúc cuộc chiến này.
—Adolf Hitler, 
Cụm Tập đoàn quân Nam là lực lượng được chọn để mở mũi công kích hướng về những thảo nguyên miền Nam nước Nga sau đó tiến về khu vực Kavkaz để đánh chiếm những vựa dầu lớn của Liên Xô tại đây. Chiến dịch tấn công mùa hè nhằm vào miền Tây Nam Liên Xô mang mật danh Fall Blau ("Chiến dịch Blau"). Lực lượng thực thi chiến dịch này bao gồm các Tập đoàn quân số 6, số 17, Tập đoàn quân thiết giáp số 4số 1. Cụm Tập đoàn quân Nam đã chiếm đóng phần lớn lãnh thổ của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô Viết Ukraina ngay từ năm 1941. Tập trung chủ yếu ở miền Đông Ukraina, đây là lực lượng sẽ đảm nhiệm vai trò mở mũi tấn công vào các thảo nguyên Tây Nam nước Nga.

Thống chế Paulus
Tuy nhiên Hitler lại can thiệp vào kế hoạch hành quân, ông ta chia Cụm Tập đoàn quân Nam thành hai phần: Cụm Tập đoàn quân A và Cụm Tập đoàn quân B. Cụm A, do Siegmund Wilhelm List chỉ huy, sẽ tiến công vào khu vực Kavkaz đúng như kế hoạch ban đầu cùng với các tập đoàn quân số 11, 17, tập đoàn quân thiết giáp số 1, số 4 và tập đoàn quân số 8 của Ý. Cụm B, bao gồm các tập đoàn quân số 6 (Friedrich Paulus chỉ huy) và số 2 của Đức, số 2 của Hungary, số 8 của Ý (điều từ cụm A qua vào giữa tháng 9), tập đoàn quân thiết giáp số 4 của Hermann Hoth, có nhiệm vụ tiến về phía Đông đến sông Volga và thành phố Stalingrad. Chỉ huy của nhóm B là Thống chế Fedor von Bock, về sau được thay bằng Đại tướng Maximilian von Weichs. Cả hai cụm đều được yểm trợ bằng tập đoàn không quân số 4 của thống chế không quân Wolfram von Richthofen. Hitler đã vi phạm nguyên tắc tối quan trọng của nghệ thuật chiến tranh là nguyên tắc tập trung binh lực: quân Đức tiến công đồng thời theo hai hướng ngày càng xa rời nhau, đây là tiền đề cho việc bị đối phương bao vây tiêu diệt về sau. Ông đã bỏ qua sự cảnh báo của các tướng lĩnh có kinh nghiệm về việc này.
Đồng thời, trong việc lập kế hoạch chiến cuộc hè 1942, Bộ tư lệnh tối cao của phát xít Đức đã phạm sai lầm nghiêm trọng do đánh giá quá thấp đối thủ và quá cao chính mình. Người Đức tỏ ra rất tự tin về việc chế ngự được Hồng quân vì bây giờ mùa đông khắc nghiệt của nước Nga không còn ảnh hưởng nhiều đến sức chiến đấu của họ nữa. Thật ra thì họ có lý khi tin như thế: dù Cụm tập đoàn quân Trung tâm Đức (Heeresgruppe Mitte) phải chịu nhiều thiệt hại nặng nề, 65% quân số của họ đã không phải tham gia vào những trận chiến mùa đông khắc nghiệt, họ đã được nghỉ ngơi và được tái trang bị; còn các cụm Tập đoàn quân Bắc và Nam cũng không không phải chịu áp lực nào đặc biệt nghiêm trọng trong mùa đông vừa qua.
Kế hoạch tác chiến của Chiến dịch Blau đã được soạn thảo từ cuối tháng 5 năm 1942. Tuy nhiên, một phần lực lượng Đức và Rumani đáng nhẽ ra phải tham gia chiến dịch Blau thì hiện đang kẹt cứng tại Sevastopol. Phát xít Đức đã không thể chiếm được thành phố này cho đến tận tháng 6, và điều này đã làm trì hoãn việc thực thi kế hoạch Blau mấy lần. Tuy nhiên trong thời gian trì hoãn đó, phát xít Đức cũng tiến hành một đợt phản kích nhằm thanh toán một "chỗ lồi" của Hồng quân Xô Viết tại Kharkov và hợp vây một khối lớn quân Liên Xô tại đây.
Cuối cùng thì chiến dịch Blau cũng chính thức mở màn vào ngày 28 tháng 6 năm 1942 khi các lực lượng của Cụm Tập đoàn quân Nam tấn công vào miền Nam Nga. Khởi đầu của chiến dịch diễn ra rất thuận lợi cho quân Đức. Các lực lượng Hồng quân gần như không có bất cứ hành động kháng cự quyết liệt nào trên những vùng thảo nguyên trống trải, thay vào đó họ nhanh chóng tháo lui về phía Đông. Thật ra Hồng quân đã vài lần cố gắng thành lập một phòng tuyến để ngăn đà tiến công của quân Đức, tuy nhiên tất cả đều thất bại khi trước các đòn đánh bọc sườn của quân phát xít Đức. Quân Đức đã hai lần hợp vây và tiêu diệt hai khối lớn quân Liên Xô: một lần ở Tây Bắc Kharkov vào ngày 2 tháng 7 và lần thứ hai ở khu vực gần Millerovo thuộc tỉnh Rostov một tuần sau đó. Cùng lúc ấy, Tập đoàn quân số 2 (Hungary) và Tập đoàn quân thiết giáp số 4 (Đức) đánh tan quân Liên Xô tại Voronezh, và chiếm thành phố này vào ngày 5 tháng 7. Quân Đức đã đánh tan phòng tuyến Sông Đông của quân đội Xô Viết, đã tiến đến bờ sông Đông, loại bỏ được mối nguy hiểm bị Hồng quân đánh vào sườn từ bàn đạp này.
Những thành công ban đầu của Tập đoàn quân số 6 ấn tượng đến mức Hitler lại can thiệp vào kế hoạch và điều Tập đoàn quân Thiết giáp số 4 nhập vào phần A của Cụm Tập đoàn quân Nam. Tuy nhiên, hệ thống đường giao thông trong khu vực không đủ cho cả tập đoàn quân thiết giáp số 4 và tập đoàn quân số 6, vì vậy quyết định này đã khiến quân Đức kẹt cứng trên các con đường; họ phải chật vật giải quyết mớ hỗn độn của hàng nghìn chiếc xe cơ giới đang làm tắc nghẽn các tuyến giao thông. Điều này khiến tiến độ hành quân bị chậm lại đến cả tuần và thế là Hitler lại lật đật điều tập đoàn quân thiết giáp số 4 về vị trí cũ.

Bộ binh Đức cùng với pháo tự hành Sturmgeschütz III đang tiến quân về trung tâm thành phố.
Dầu sao đến cuối tháng 7, phát xít Đức đã dồn Hồng quân Xô Viết về bờ bên kia của sông Đông. Ở tại khu vực này thì sông Đông và sông Volga chỉ cách nhau có 40 cây số, và quân Đức bắt đầu bố trí các kho tàng của họ ở bên bờ Tây sông Đông, những kho tàng này sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc tiếp liệu cho quân Đức ở giai đoạn sau của chiến dịch. Lúc này, phát xít Đức cũng bắt đầu bố trí các lực lượng của các quốc gia chư hầu như Ý, Hungary và Rumani đế bảo vệ khu vực cánh trái (ở phía Bắc) của quân Đức. Quân đội phát xít Ý thường không được ghi nhận về tinh thần chiến đấu, dù vẫn nhiều lần được biểu dương trong cáo thông cáo chính thức của Đức. Họ không được quân Đức xem trọng và thường bị chỉ trích vì sự hèn nhát và tinh thần kém: thật ra thì khả năng chiến đấu kém của quân Ý chủ yếu là do trang bị vũ khí hết sức nghèo nàn và lạc hậu cùng với những chiến thuật cổ lổ sĩ do các tướng lĩnh Ý sử dụng, vì vậy quân Ý thường xuyên nhận được lệnh phải rút lui hay tháo chạy. Tuy nhiên người Ý cũng có dịp thể hiện khả năng tác chiến tốt như trong trận Nikolayevka. Lúc này Tập đoàn quân số 6 của Đức chỉ còn cách Stalingrad có vài chục cây số; còn tập đoàn quân thiết giáp số 4 - lúc này đang ở phía Nam - liền chuyển hướng quay lên phía Bắc để hỗ trợ cho Tập đoàn quân số 6.
Ở phía Nam, Cụm Tập đoàn quân A đã tiến sâu vào khu vực Kavkaz nhưng đà tiến quân của họ bị chậm lại nhanh chóng do các tuyến hậu cần và tiếp vận đã kéo quá dài. Hai tập đoàn quân phát xít Đức tại đây nằm ở vị trí quá xa nhau và vì vậy chúng khó có thể ứng cứu nhau kịp thời. Chiến dịch Kavkaz của Đức đã diễn ra không suôn sẻ. Rõ ràng Bộ tổng chỉ huy quân đội Đức đã đánh giá sai về tình hình của quân mình và của đối phương; họ cũng không thấy hết những khó khăn của việc tác chiến vùng núi - nơi chỉ một lượng nhỏ quân phòng thủ có thể chống lại rất đông quân tấn công và các lực lượng cơ động của Đức không thể phát huy hết tác dụng. Quân Đức, sau những thắng lợi ban đầu tại vùng đồng bằng, khi bắt đầu tiếp cận dãy núi lớn Kavkaz đã mất đà tiến công, dần dần bế tắc trên hướng chính và bị chặn lại tại tuyến sông Terech và các đèo ngang của dãy Kavkaz. Ngược lại, tại hướng tấn công thứ yếu của cụm quân B thì tình hình lại rất thuận lợi cho quân Đức, như đã nói ở trên. Trên địa hình đồng bằng quân Đức rất giỏi trong tiến công cơ động. Dường như không gì cản nổi cuộc tiến công của phía Đức về phía sông Volga. Bộ chỉ huy Đức liền chuyển hướng tiến công, lấy cụm B làm hướng tấn công chính và điều các đơn vị từ cụm A sang để phát triển thành quả tiến công. Mục tiêu chính bây giờ là thành phố Stalingrad trên sông Volga.

Trung tướng V. I. Chuikov, Tư lệnh Tập đoàn quân số 62.
Bộ chỉ huy Đức nhận thấy chỉ riêng tập đoàn quân Paulus chưa đủ sức để chiếm Stalingrad nên ngày 31 tháng 7 năm 1942 Hitler ra lệnh điều tập đoàn quân xe tăng số 4 từ cụm tập đoàn quân A sang cho cụm B để tăng cường tấn công Stalingrad và từ 2 tháng 8 tập đoàn quân xe tăng này bắt đầu tấn công phía tây nam thành phố. Từ nay trọng tâm chú ý của Bộ chỉ huy Đức dồn chủ yếu cho chiến trường Stalingrad. Càng ngày Stalingrad càng thu hút nhiều binh lực của Đức từ các chiến trường khác: từ chỗ ban đầu chỉ có 13 sư đoàn với khoảng 27 vạn quân, đến cuối tháng 9 năm 1942 tại hướng Stalingrad đã có 80 sư đoàn quân Đức và đồng minh Hungary, Ý và Rumani, chiếm tỷ trọng rất lớn trên toàn chiến tuyến Xô – Đức. Phía Đức có 1.260 xe tăng, 17.000 pháo và cối, 1.640 máy bay. Theo kế hoạch tấn công của phía Đức tập đoàn quân số 6 tấn công tại mặt bắc và tây bắc Stalingrad và tập đoàn quân xe tăng số 4 tại phía nam và tây nam. Sau khi đột phá đến bờ sông Volga hai cánh quân này sẽ đánh dọc theo bờ sông tiến ngược chiều nhau và hợp vây quân đội Xô Viết phòng thủ thành phố.
Lúc này ý đồ của phát xít Đức đã quá rõ ràng, và Hồng quân bắt đầu xúc tiến việc phòng thủ thành phố Stalingrad. Họ đã đưa các lực lượng dự bị chiến lược là tập đoàn quân 62, 63, 64, tập đoàn quân cận vệ số 1 và các tập đoàn quân xe tăng số 1 và số 4 và rất nhiều các đơn vị khác. Nơi đây thành khu vực tập trung binh lực lớn nhất của cả hai bên trận đánh có quy mô vượt cả trận Moskva năm 1941. Ngày 1 tháng 8 năm 1942 I. V. Stalin bổ nhiệm Thượng tướng A. I. Yeryomenko vào vị trí Tư lệnh Phương diện quân Tây Nam. Yeryomenko cùng với chính ủy N. I. Khrushchyov nhận nhiệm vụ phải bảo vệ bằng được Stalingrad. Ranh giới phía Đông của Stalingrad chính là dòng sông Volga rộng lớn, và ở bên kia sông Hồng quân cũng bố trí thêm các lực lượng phụ trợ. Các lực lượng này hình thành nên một tập đoàn quân mới mang số 62 do Trung tướng V. I. Chuikov chỉ huy vào ngày 11 tháng 9 năm 1942. Tình hình lúc này phải nói là cực kì nghiêm trọng. Khi được hỏi bằng cách nào mà ông có thể hoàn thành nhiệm vụ, vị tướng trả lời: "Chúng tôi sẽ chiến đấu đến chết để bảo vệ thành phố." Tức là nhiệm vụ của Tập đoàn quân số 62 là bảo vệ Stalingrad bằng bất cứ giá nào. Vai trò của Chuikov trong việc bảo vệ Stalingrad đã mang lại cho ông một trong hai danh hiệu Anh hùng Liên bang Xô Viết.

Giai đoạn phòng thủ Stalingrad


Kết quả của một trận không kích nhằm vào Stalingrad.
Hồng quân Xô Viết hiểu rõ mối đe dọa và ý đồ của quân Đức, vì vậy họ nhanh chóng chuyển toàn bộ số lương thực, gia súc và các đầu máy, toa xe lửa,... của thành phố Stalingrad sang bờ bên kia sông Volga để những thứ này không lọt vào tay phát xít Đức. Tuy nhiên việc này khiến thành phố lâm vào tình trạng thiếu lương thực ngay từ trước khi quân Đức tấn công. Một số nhà máy trong thành phố vẫn tiếp tục sản xuất, chủ yếu là các nhà máy xe tăng T-34. Trước khi lục quân Đức tiến tới Stalingrad, không quân phát xít Đức Luftwaffe đã tiến hành không kích các vị trí trên sông Volga - con đường tiếp vận quan trọng cho Stalingrad - nhằm phá hoại khả năng tiếp vận đường thủy của Hồng quân Xô Viết. Từ ngày 25 đến ngày 31 tháng 7 năm 1942 đã có 32 tàu thủy của Liên Xô bị phá hủy và 9 chiếc khác bị phá hỏng nặng nề.
Trận công kích Stalingrad mở đầu bằng một cuộc oanh kích của Tập đoàn quân Không quân số 4 (Luftflotte 4) do Thượng tướng Wolfram von Richthofen chỉ huy - đây là tập đoàn quân không quân mạnh nhất thế giới thời bấy giờ. Một nghìn tấn bom đã được dội xuống thành phố. Stalingrad nhanh chóng bị biến thành đống gạch vụn dưới trận cuồng phong bom đạn của quân Đức, mặc dù một số nhà máy vẫn còn hoạt động và các công nhân cũng trực tiếp tham gia chiến đấu. Trung đoàn viện binh Croatia số 369 là lực lượng quân chư hầu duy nhất được tung vào Stalingrad trong đợt công kích thành phố. Nó chiến đấu với vai trò như một phần của sư đoàn Jäger số 100.

Một binh sĩ Đức với khẩu súng tiểu liên chiến lợi phẩm PPSh 41 lấy được của Liên Xô.
I. V. Stalin lập tức điều động tất cả các lực lượng Hồng quân - mà ông có thể điều được - đến tác chiến tại khu vực bờ đông sông Volga, trong đó có một số vốn đóng ở xa tít tắp tận Xibia. Lúc đó thì toàn bộ số phà chở quân đã bị không quân Đức ném bom phá hủy, vì vậy binh lính được kéo bằng dây thừng từ bờ bên này sang bờ bên kia sông Volga. Nhiều thường dân cũng được di tản sang bên kia sông. Có tài liệu cho rằng Stalin đã cấm các thường dân rời thành phố vì ông tin rằng sự hiện diện của dân thường sẽ củng cố tinh thần chiến đấu cho các binh sĩ Hồng quân tại đây. Nhân dân trong thành phố, gồm cả phụ nữ và trẻ em tham gia vào việc đào hào và xây dựng công sự. Cùng thời gian đó, một trận không kích lớn của phát xít Đức vào ngày 23 tháng 8 đã cướp đi sinh mạng của hàng nghìn người và biến thành phố Stalingrad thành một mớ ngổn ngang những đống đổ nát cùng những ngôi nhà bị thiêu rụi. 90% của khu dân cư tại Voroshilovsky bị phá hủy. Từ ngày 23 đến 26 tháng 8, các báo cáo của Liên Xô cho rằng đã có 955 người bị giết và 1.181 người bị thương do hậu quả của các đợt mưa bom do quân Đức gây ra. Có ý kiến cho rằng con số 4 vạn dân thường thương vong là phóng đại, và kể từ sau ngày 25 tháng 8 thì Liên Xô không có bất cứ ghi chép nào về thương vong do các trận ném bom của Đức gây ra.
Lực lượng Không quân Xô Viết (Voenno-Vozdushnye Sily - VVS) lúc này hoàn toàn bị không quân Đức Luftwaffe áp đảo. Trong các ngày 23-31 tháng 8, Hồng quân đã mất đến 201 máy bay, và mặc dù họ nhận được 100 máy bay trong tháng đó nhưng số máy bay còn sử dụng được chỉ là 192 chiếc, trong số đó 57 chiếc là máy bay tiêm kích. Hồng quân tiếp tục tổ chức các đợt tiếp vận bằng đường không vào thành phố nhưng với việc quân Đức làm chủ bầu trời thì phải nói tổn thất của Hồng quân là không hề nhỏ. Tuy nhiên, nhờ việc các cơ sở sản xuất công nghiệp của Liên Xô đã được di dời an toàn về hậu phương, người dân Xô Viết đã có thể sản xuất được 15 nghìn 8 trăm máy bay trong nửa sau của năm 1942. Không quân Xô Viết lúc này đã có thể tích lũy một lực lượng dự bị mạnh để sau này họ hoàn toàn áp đảo đối thủ Luftwaffe.

Hồng quân đang chuẩn bị đối phó với một cuộc tấn công của quân Đức vào ngoại ô.
Vì vậy, vào đầu chiến dịch gánh nặng của việc bảo vệ thành phố nằm trong tay của Trung đoàn phòng không số 1077, một đơn vị tác chiến với quân lực chủ yếu là những nữ tình nguyện viên trẻ - do Hồng quân đang thiếu hụt nặng về binh lực - không có bất kỳ kinh nghiệm chiến đấu nào và cũng hầu như không nhận được bất kỳ sự hỗ trợ khả dụng nào từ các đơn vị khác. Mặc dù vậy, trung đoàn vẫn giữ vững vị trí và quả cảm đối đầu với các đoàn xe tăng dũng mãnh của Đức. Sư đoàn thiết giáp số 16 (Đức) báo cáo rằng họ phải đánh nhau kịch liệt với trung đoàn số 1077 cho đến khi toàn bộ lực lượng Xô Viết bị tiêu diệt hoặc áp đảo. Về sau, người Đức đã bị sốc nặng khi biết rằng họ vừa đánh nhau với một trung đoàn gồm phần lớn là phụ nữ. Vào đầu trận đánh, Hồng quân Xô Viết đã phải động viên những công nhân - hiện không tham gia trực tiếp vào công việc sản xuất của các nhà máy - vào các đội dân quân. Tại các công xưởng của Stalingrad xe tăng cũng được sản xuất lăn thẳng ra chiến tuyến mà còn chưa được quét sơn và lắp ráp các thiết bị phụ. Những thành viên kíp lái cũng là các công nhân tình nguyện gia nhập lực lượng dân quân bảo vệ thành phố
Cuối tháng 8, Cụm Tập đoàn quân B đã tiến tới bờ sông Volga tại khu vực phía Bắc Stalingrad. Tiếp đó là một nỗ lực nhằm tiến tới bờ sông ở phía Nam thành phố. Tới ngày 1 tháng 9 Hồng quân chỉ còn có thể tăng viện cho các đơn vị cố thủ trong nội đô bằng cách mạo hiểm tính mạng băng qua sông Volga dưới làn mưa bom đạn dày đặc của phát xít Đức.

Chỉ huy phương diện quân Stalingrad, tướng K. K. Rokossovsky
Ngày 5 tháng 9 năm 1942, Tập đoàn quân số 24 và 66 của Liên Xô mở một đợt công kích nhằm vào Quân đoàn thiết giáp số 14 của Đức. Tuy nhiên không quân Đức đã oanh kích dữ dội các trận địa pháo và phòng tuyến của Hồng quân và buộc họ phải thoái lui mấy giờ sau đó. Thiệt hại của Hồng quân là 30 trong số 120 xe tăng tham gia trận đánh. Thật vậy, các chiến dịch của Hồng quân Xô Viết bị đe dọa nặng nề bởi lực lượng không quân Đức. Ngày 18 tháng 9 năm 1942, Tập đoàn quân cận vệ số 1 và Tập đoàn quân số 24 mở đợt tấn công vào lực lượng của Quân đoàn bộ binh số 7 của Đức tại Kotluban. Quân đoàn không quân số 8 (Đức) đã điều các máy bay ném bom bổ nhào Stuka oanh kích các lực lượng Hồng quân và đẩy lui được họ. Phát xít Đức khẳng định rằng 41 trong số 106 xe tăng Liên Xô trong cuộc tấn công đó đã bị phá hủy, trong khi đó các máy bay tiêm kích Bf 109 đi theo hộ tống đã bắn hạ 77 máy bay Liên Xô. Tập đoàn quân 62 và 64 buộc phải rút lui và bị ép chặt vào thành phố lúc này đã biến thành một pháo đài khổng lồ. Lúc này, ở giữa những đống gạch vụn của một thành phố đổ nát, các tập đoàn quân số 62, 64 và sư đoàn cận vệ số 13 tiếp tục củng cố các vị trí phòng ngự của họ trong từng ngôi nhà, từng công xưởng.
Để chống lại tập đoàn quân xe tăng số 4 của Đức, Hồng quân thành lập phương diện quân Đông Nam (từ sau 28 tháng 9 phương diện quân này đổi tên thành phương diện quân Stalingrad), tư lệnh là thượng tướng A. I. Yeryomenko gồm các tập đoàn quân 64, 57, 51 và tập đoàn quân cận vệ số 1 với tập đoàn quân 64 ở trung tâm phòng ngự. Phương diện quân này phòng ngự tại hướng nam và tây nam Stalingrad. Phương diện quân Đông Nam đã phòng thủ thắng lợi ngày 9 và 10 tháng 8 và phản công mãnh liệt buộc tập đoàn quân xe tăng Đức chuyển sang phòng ngự. Đến 17 tháng 8 tập đoàn quân xe tăng số 4 của Đức đã bị chặn lại tại tuyến phòng ngự vành đai thành phố và đến ngày cuối cùng cũng không thể đột phá được tới sông Volga.

Lính Đức trong trận Stalingrad
Chiến sự diễn ra mãnh liệt và căng thẳng và quyết định nhất là tại cánh bắc và tây bắc nơi đối đầu với tập đoàn quân Đức số 6. Để phòng thủ hướng này Liên Xô thành lập phương diện quân Stalingrad, tư lệnh đầu tiên là nguyên soái Semyon Konstantinovich Timoshenko, từ ngày 23 tháng 7 là trung tướng Vasili Nikolaevich Gordov và sau đó là trung tướng Konstantin Konstantinovich Rokossovsky (từ 28 tháng 9 phương diện quân này đổi tên thành phương diện quân Sông Đông). Trong đó tập đoàn quân 62 là lực lượng chịu áp lực trực tiếp mạnh nhất của quân Đức. Tại đây tập đoàn quân dã chiến số 6 Đức cố gắng đánh tách tập đoàn quân 62 Xô Viết ra khỏi khối quân còn lại hòng tiêu diệt tập đoàn quân này.
Các trận đánh trong nội đô diễn ra cực kỳ ác liệt và đẫm máu. Cuộc chiến này điển hình của tính chất không khoan nhượng khi cả hai bên không chấp nhận bắt tù binh. Quân Đức một mặt theo lệnh của Führer ("Lãnh tụ", tức Hitler) phải chiếm bằng được thành phố mang tên Stalin biểu tượng của quân thù, mặt khác họ hiểu được tầm quan trọng phải chiếm thành phố làm chỗ trú chân cho mùa đông đang đến gần. Quân Đức tiến công rất mãnh liệt và dũng cảm. Quân đội Xô Viết cũng tử thủ rất anh hùng và kiên cường, họ đã bị bao vây tất cả các phía, mà sau lưng là sông lớn Volga không còn lùi đi đâu được nữa. Để chặn đứng sự rút lui I. V. Stalin ra mệnh lệnh số 227 vào ngày 27 tháng 7 năm 1942 quy định những binh sĩ và sĩ quan nào tự ý rút lui mà không có mệnh lệnh văn bản sẽ bị đưa ra toà án binh. Các công tác đảng, chính trị được tiến hành tại chiến hào để nâng cao tinh thần binh sỹ mặt khác biện pháp kỷ luật khắt khe nhất được thi hành. Các câu nói như "không lùi một bước", "không có đất cho chúng ta ở bên kia bờ sông Volga" trở thành khẩu hiệu. Trước sức kháng cự kiên cường của Hồng quân, người Đức đã chịu những thiệt hại rất nặng nề khi tiến sâu vào nội đô Stalingrad. Trong trận đánh phòng thủ Stalingrad, nổi bật nhất là tập đoàn quân 62 của Tư lệnh Trung tướng V. I. Chuikov. Đơn vị này đã đứng vững trong thành phố bảo vệ từng thước đất thực sự theo đúng khẩu hiệu "không lùi một bước".

Hải quân đánh bộ Xô Viết đổ bộ lên bờ tây sông Volga.
Học thuyết quân sự của phát xít Đức lúc đó dựa trên nguyên tắc hợp đồng tác chiến chặt chẽ giữa các binh chủng tăng thiết giáp, bộ binh, pháo binh, công binh và lực lượng máy bay cường kích. Đối phó lại, Hồng quân quyết định sử dụng chiến thuật "đánh áp sát" mà tướng Chuikov gọi là "ôm" lấy quân Đức. Điều này khiến phòng tuyến của quân Đức và của Hồng quân nằm ở các vị trí gần sát nhau, vì vậy nguy cơ quân Đức bị vạ lây bởi hỏa lực của pháo binh và không quân của đồng đội là rất cao - điều này khiến phát xít Đức tỏ ra ngần ngại khi sử dụng pháo binh và không quân, tiến tới vô hiệu hóa ưu thế không quân và làm giảm đáng kể ưu thế của pháo binh Đức. Đồng thời Hồng quân cũng hiểu rõ: kế hoạch phòng ngự tốt nhất là bám trị vững chắc trong các tòa nhà nằm tại các vị trí chiến lược như các quảng trường và các con đường quan trọng, điều này có thể giúp họ bám trụ lâu dài trong thành phố. Vì vậy tất cả các tòa nhà cao tầng, công xưởng, nhà kho, nhà ở góc phố và các tòa nhà công sở đều bị biến thành những lô cốt được trang bị súng máy, súng chống tăng, pháo cối, súng bắn tỉa, được bao bọc bởi các bãi mìn, hàng rào kẽm gai cùng một lực lượng dự bị gồm 5-10 binh sĩ trang bị súng tiểu liênlựu đạn để chiến đấu chống lại những nhóm lính Đức đột kích được vào trong các ngôi nhà. Chiến sự bùng nổ ác liệt trong toàn thành phố: từng đống đổ nát, từng con đường, từng nhà máy, công xưởng, nhà kho, từng lầu gác đều phải đánh nhau đẫm máu giành đi giật lại nhiều lần. Các cống rãnh cũng là một chiến địa ác liệt nơi các binh sĩ quần nhau trong một mê hồn trận gồm những đường ống cống chằng chịt như mê cung. Phát xít Đức gọi kiểu chiến tranh trong thành thị (urban warfare) này là "chiến tranh chuột cống" (Rattenkrieg), nói một cách nửa đùa nửa thật rằng họ đã đánh chiếm xong nhà bếp trong khi đang phải vất vả giành giật phòng khách với quân địch. Trong một mớ bòng bong như vậy, tất cả các quy tắc của một trận đánh quy ước đều bị phá vỡ; lối tấn công quen thuộc của lính Đức - huy động một lượng lớn các binh đoàn cơ động hỗ trợ bởi tăng thiết giáp - bị thay thế bởi các trận đấu súng không kém phần ác liệt giữa các nhóm nhỏ binh sĩ giữa những đống gạch vụn ngổn ngang của những ngôi nhà, tòa công sở, tầng hầm và những tòa nhà nhiều tầng. Một số tòa nhà cao tầng - bị không quân Đức ném bom tơi tả - trở thành nơi xảy ra các trận giao chiến ác liệt kéo từ tầng này qua tầng khác: quân phát xít Đức và Hồng quân Xô Viết gần như trú đóng trong các tầng xen kẽ nhau và họ bắn nhau qua các lỗ hổng trên sàn và trần nhà.

Ảnh chụp Ngôi nhà Pavlov vào năm 1943
Chiến sự tại đồi Mamayev Kurgan, một cao điểm trong thành phố, diễn ra cực kỳ khốc liệt. Vị trí này đã "đổi chủ" không biết bao nhiêu lần. Đến ngày 12 tháng 9 năm 1942, Tập đoàn quân số 62 của Liên Xô chỉ còn 90 xe tăng, 700 pháo cối và 2 vạn binh sĩ.
Sư đoàn cận vệ số 13 của Hồng quân, đơn vị nhận nhiệm vụ giải phóng đồi Mamayev Kurgan và Nhà ga số 1 trong ngày 13 tháng 9 năm 1942, chịu nhiều thương vong hết sức khủng khiếp. Hơn 30 phần trăm quân số của họ bị tử trận trong 24 tiếng đồng hồ đầu tiên và chỉ có 320 người trong số 1 vạn sĩ quan, binh sĩ của sư đoàn còn sống sót sau trận đánh. Sư đoàn đã hoàn thành nhiệm vụ được giao trong ngày 13 tháng 9, nhưng chỉ là tạm thời. Thật vậy, nhà ga xe lửa đã "đổi chủ" suốt 14 lần chỉ trong 6 giờ đồng hồ. Đến chiều tối hôm sau, toàn bộ sư đoàn cận vệ số 13 nằm lại trận địa, bên cạnh đó là ngổn ngang xác chết của một số lượng tương đương lính Đức. Chiến sự cũng bùng nổ ác liệt tại kho thóc lớn trong thành phố suốt nhiều tuần liên tiếp. Sau khi vị trí này thất thủ, phát xít Đức chỉ tìm thấy thi thể của bốn mươi chiến sĩ Hồng quân - trong khi họ cho rằng phải có rất nhiều binh lính đóng trong kho thóc vì người Đức đã vấp phải sức kháng cự hết sức quyết liệt. Những đống thóc lúa lớn đã bị đốt sạch để không lọt vào tay quân xâm lược. Ở một nơi khác trong thành phố, một trung đội Hồng quân dưới sự chỉ huy của Y. F. Pavlov đã biến một căn hộ chung cư nhìn ra quảng trường mùng 9 tháng 1 thành một pháo đài kiên cố mang tên "ngôi nhà Pavlov". Ngôi nhà được bao bọc bởi hàng rào kẽm gai, mìn cùng với các ụ súng máy trên cửa sổ. Hồng quân cũng đục thủng các bức tường trong tầng hầm nhằm tiện cho việc liên lạc. Mười thường dân đã được Hồng quân tìm thấy ẩn nấp trong tầng hầm này. Suốt hai tuần liền đội quân của Pavlov liên tục bị quân phát xít Đức công kích và nhận được sự tiếp viện rất hạn chế do bị kẻ thù phong tỏa. Sau trận đánh, Tư lênh V. I. Chuikov thường đùa rằng quân Đức chịu nhiều thương vong để đánh chiếm căn nhà của Pavlov hơn là để chiếm Paris. Theo Beevor, trong suốt tháng thứ hai, sau mỗi lần đẩy lui các đợt tấn công của lính Đức, đội quân của Pavlov buộc phải tất tả chạy ra "dọn dẹp" hàng đống xác chết ngổn ngang của quân xâm lược nằm chắn tầm nhìn của các binh sĩ súng máy và pháo thủ pháo chống tăng. Trên bản đồ của quân phát xít Đức, ngôi nhà vốn để ở này được đánh dấu như một Pháo đài (Festung). Y. F. Pavlov đã được phong tặng danh hiệu Anh hùng Liên bang Xô Viết do công lao chỉ huy các binh sĩ bảo vệ cứ điểm này.
Với tình hình bế tắc trước mắt, quân Đức bắt đầu chuyển những khẩu pháo hạng nặng vào nội đô thành phố, trong đó bao gồm cả khẩu siêu pháo Dora cỡ nòng 800 ly to đến mức phải được đặt trên một toa xe lửa. Tuy nhiên họ không dự định đem quân vượt sông Volga, tạo điều kiện cho Hồng quân bố trí một số lớn pháo binh ở bờ đông dòng sông và từ đó oanh kích các trận địa của quân Đức. Các đoàn xe tăng dũng mãnh của Đức trở nên vô tác dụng trong những đường phố chật chội với hàng đống gạch đá ngổn ngang có khi cao đến 8 mét.
Những binh sĩ bắn tỉa của cả hai phe cũng gây nhiều thiệt hại cho quân địch. Chiến sĩ bắn tỉa thành công nhất và cũng nổi tiếng nhất của cuộc chiến tranh là V. G. Zaytsev với thành tích bắn hạ 242 đến 400 binh sĩ và sĩ quan (đã được kiểm chứng) Đức trong trận đánh. Ông cũng là một trong những binh sĩ bắn tỉa đã đào tạo hơn 30 học viên với tổng thành tích bắn hạ 3 nghìn lính Đức. Tương truyền, ông cũng là người đã bắn hạ người lính bắn tỉa lừng danh Erwin König của phát xít Đức, dù nhiều ý kiến cho rằng đây chỉ là một nhân vật hư cấu. Về sau Zaytsev cũng được phong tặng danh hiệu Anh hùng Liên bang Xô Viết vì kỳ công của ông trong trận này.
Đối với cả Stalin và Hitler, Stalingrad nhiều khi trở thành một trận đánh mang ý nghĩa tinh thần và danh dự nhiều hơn là một trận chiến giành lấy một thành phố có vị trí chiến lược. Bộ Tổng tư lệnh tối cao STAVKA đã điều động rất nhiều đơn vị dự bị chiến lược từ khu vực Moskva về hạ lưu sông Volga và tập trung một lượng lớn máy bay từ toàn đất nước về khu vực chung quanh Stalingrad.
Các chỉ huy cấp cao của hai phe cũng chịu nhiều áp lực nặng nề: mắt của Paulus bắt đầu mắc phải tật máy giật khiến phần bên trái của mặt ông chịu nhiều đau đớn, còn Chuikov thì bị chàm bội nhiễm khiển đôi bàn tay của ông luôn luôn bị băng bó kín mít. Các binh sĩ của hai phe thì ngày nào cũng phải trải qua những trận cận chiến cực kì ác liệt và căng thẳng.
Với quyết tâm hủy diệt toàn bộ sức kháng cự của Hồng quân, các phi đội máy bay Stuka của Tập đoàn quân Không quân số 4 đã thực hiện tổng cộng 900 lần bay nhằm không kích các cứ điểm của Hồng quân tại Nhà máy máy kéo Felix Dzerzhinskiy vào ngày 5 tháng 10 năm 1942. Một vài trung đoàn Xô Viết bị đánh tan, riêng toàn bộ binh sĩ và sĩ quan của Trung đoàn bộ binh số 339 đã vĩnh viễn nằm lại trận địa sau đợt không kích vào sáng ngày 6 tháng 10.

Xe tăng Đức bị tiêu diệt trong giai đoạn phòng thủ Stalingrad. Tháng 10 năm 1942
Đến trung tuần tháng 10, Không quân phát xít Đức càng lúc càng tăng cường các hoạt động oanh tạc các đơn vị Hồng quân đang tử thủ tại bờ Tây sông Volga. Đến lúc này, các lực lượng phòng không và không quân Xô Viết đã hoàn toàn bị áp đảo. Tập đoàn quân Không quân số 4 đã thực hiện 2 nghìn lượt bay trong ngày 14 tháng 10 và dội 600 tấn bom vào các vị trí của Hồng quân xung quanh ba nhà máy ở phía Bắc Stalingrad. Các đơn vị máy bay ném bom Stuka số 1, 2, và 77 đã dập tắt hỏa lực của các khẩu đội pháo Hồng quân tại bờ Đông sông Volga trước khi chuyển sang "thanh toán" các đội tàu đang vượt sông để tiếp viện cho số Hồng quân ở phía Bắc thành phố. Tập đoàn quân số 62 đã bị cắt làm đôi và - do hệ thống tiếp vận qua sông Volga bị không quân Đức phá hoại nghiêm trọng - gần như bị tê liệt.
Lúc này, Hồng quân Xô Viết đã bị dồn vào một dải đất dài 1.000 thước Anh (910 m) dọc bờ sông Volga. Các đội bay Stuka của không quân Đức đã thực thi 1.208 lượt ném bom với quyết tâm thanh toán ổ kháng cự cuối cùng của Hồng quân trong thành phố. Tuy nhiên, bất chấp những trận mưa bom mà phát xít Đức trút lên đầu họ (Stalingrad đã chịu sự oanh tạc dữ dội hơn cả Sedan hay Sevastopol), Tập đoàn quân số 62 với 47 nghìn binh sĩ và 19 vẫn đứng vững và quyết không để bất cứ binh sĩ nào của các tập đoàn quân số 6 và tập đoàn quân thiết giáp số 4 (Đức) chạm được tới bờ sông Volga.

Máy bay ném bom bổ nhào Junkers Ju 87 Stuka đang oanh tạc Stalingrad.
Không quân đức vẫn chiếm ưu thế trên không cho đến tận đầu tháng 11 năm 1942 và sức kháng cự của không quân Xô Viết tại đây gần như là không đáng kể, tuy nhiên sau khi thực hiện gần 2 vạn lượt bay thì số máy bay của Đức cũng bị thiệt hại đáng kể: giảm từ 1.600 chiếc xuống còn 950 chiếc; đặc biệt lực lượng máy bay ném bom (Kampfwaffe) bị thiệt hại nặng nhất, chỉ còn 232 chiếc phi cơ so với 480 chiếc lúc đầu. Người Đức đã nắm giữ ưu thế về chất lượng so với đối thủ Không quân Xô Viết và 80% sức mạnh không quân Đức đã được tập trung ở mặt trận Xô-Đức; có điều Tập đoàn quân Không quân số 4 đã không thể ngăn chặn nổi đà phát triển của không quân Xô Viết: đến đầu trận phản công Stalingrad, không quân Xô Viết đã áp đảo không quân Đức về số lượng.
Các lực lượng máy bay ném bom của không quân Xô Viết (Aviatsiya Dal'nego Deystviya - ADD), đã chịu nhiều thiệt hại suốt 18 tháng vừa qua, vì vậy họ chủ yếu chỉ thực hiện các đợt oanh tạc vào ban đêm. Tổng cộng Hồng quân đã thực hiện 11.317 đợt oanh kích (đêm) vào khu vực giữa Stalingrad và sông Đông từ ngày 17 tháng 7 đến 19 tháng 11. Các đợt không kích này chủ yếu nhằm gây hoảng loạn chứ không đem lại thiệt hại gì nhiều cho quân Đức.
Tình thế của không quân Đức dần trở nên tồi tệ vào giữa tháng 11. Ngày 8 tháng 11 nắm 1942, một lượng lớn máy bay Đức thuộc Tập đoàn quân Không quân số 4 bị điều tới Bắc Phi khi quân Anh-Mỹ đổ bộ lên Bắc Phi. Lúc này không quân phát xít Đức bị dàn quá mỏng trên toàn châu Âu và phải vất vả duy trì sức mạnh của họ ở khu vực phía Nam của mặt trận Xô-Đức. Trong khi đó, Hồng quân lại nhận được viện trợ của Hoa Kỳ theo chương trình Cho vay-Cho thuê. Trong quý 4/1942, Hoa Kỳ đã viện trợ 6 vạn xe tải, 11 nghìn xe jeep, 2 triệu đôi ủng, 5 vạn tấn thuốc nổ, 45 vạn tấn thép và 25 vạn tấn nhiên liệu dành cho hàng không. Tuy nhiên, do sự phá hoại của các tàu ngầm Đức (ví dụ như trong trận Convoy PQ-17), một phần lớn số hàng này đã làm mồi cho cá.
Cuối cùng, sau 3 tháng chiến đấu ác liệt, ngày 15 tháng 10 quân Đức ngay trong thành phố đột phá được tới bờ sông Volga tại phía nam nhà máy Barrikada, chiếm đóng 90% thành phố và cắt lực lượng Hồng quân trong nội đô làm hai "cái túi" lớn. Lúc này, mùa đông của nước Nga đã làm dòng sông Volga đóng băng và ngăn cản việc tiếp vận đường thủy của Hồng quân, tuy nhiên ở đồi Mamayev Kurgan và trong các nhà máy ở phía Bắc của thành phố, chiến sự vẫn diễn ra với cường độ và sự ác liệt không hề suy giảm, Những trận đánh tại Nhà máy thép Tháng Mười Đỏ, Nhà máy máy kéo Felix Dzerzhinsky, công xưởng vũ khí Barrikady trở nên lừng tiếng. Và việc tiến tới bờ sông Volga đã là nỗ lực cuối cùng của phát xít Đức: cũng chính vào lúc này sức mạnh tiến công của quân đội Đức đã cạn kiệt. Chiến sự đi vào ổn định - quân Đức đã đi quá xa nguồn tiếp ứng của mình và việc đánh nhau trong thành phố không phải là lợi thế của quân tấn công: quân Đức đã mất hết lợi thế hoả lực và tấn công cơ động. Tổng cộng tính từ tháng 7 đến tháng 11 năm 1942, tại các mặt trận sông Đông, sông Volga và Stalingrad, quân Đức đã mất 60 vạn người, 1 nghìn xe tăng cùng nhiều trang thiết bị khác và lâm vào tình thế hết sức khó khăn.
Trong giai đoạn này, Stalingrad đã trở thành một "Verdun" của Thế chiến thứ hai.

Chiến dịch phản công chiến lược Stalingrad

Nhận ra rằng quân Đức tỏ ra thiếu chuẩn bị để đối phó với một đợt phản công và phần lớn binh lực của họ thì đang nằm đâu đó tại phía Nam của mặt trận, Bộ Tổng tư lệnh tối cao Stavka quyết định mở một số đợt phản công, trong đó có một chiến dịch nhằm thanh toán Tập đoàn quân số 6 đang nằm ở Stalingrad.
Đây là giai đoạn được đánh giá là then chốt về mặt chiến lược trong cuộc chiến, nó mở đầu cho giai đoạn thứ hai của cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại (19 tháng 12 năm 1942 – 31 tháng 12 năm 1943) nói chung và của Chiến dịch mùa Đông 1942-1943 (19 tháng 11 năm 1942 – 3 tháng 3 năm 1943) nói riêng, lôi kéo sự tham gia của 15 Tập đoàn quân trên nhiều mặt trận cùng một lúc.

Chiến dịch Sao Thiên Vương

Tình hình của quân Đức


Các chuyến bay Ju-52 tiếp tế cho quân Đức tại Stalingrad
Việc đánh chiếm thành phố vẫn tiếp tục cho đến ngày 18 tháng 11 nhưng không thành công trước sức kháng cự mạnh mẽ của Hồng quân. Mùa đông khắc nghiệt của nước Nga đã đến, quân Đức đã bị sa lầy - họ không thể chiếm thành phố mà mùa đông đã tới, với lại họ ở quá xa các lực lượng tiếp vận của mình. Tình hình quân Đức thực sự đã nguy ngập chí ít thì cũng báo hiệu cái gì đó như mùa đông năm 1941. Quân Đức và các chư hầu Ý, HungaryRumani - những lực lượng bảo vệ cạnh sườn của Tập đoàn quân số 6 đã liên tục yêu cầu tổng hành dinh tăng viện. Đoạn chiến tuyến dài 200 cây số ở phía Bắc Stalingrad nằm giữa quân Ý và Voronezh - tức cạnh sườn Bắc của Tập đoàn quân số 6 - được bảo vệ bởi Tập đoàn quân Hungary số 2; mà trang bị, tinh thần chiến đấu và khả năng chỉ huy của các sĩ quan quân chư hầu hoàn toàn kém hơn quân Đức. Việc này khiến chiến tuyến của quân phát xít trở nên rất mỏng và yếu tại khu vực này - có nơi một trung đội phải căng mình ra bảo vệ một chiến tuyến dài tới 1-2 cây số. Thêm vào đó, việc Hồng quân vẫn còn làm chủ một số bàn đạp trên bờ Tây sông Volga - ngay tại khu vực này - tạo thành một mối đe dọa lớn cho quân phát xít. Tương tự, cạnh sườn phía Nam của Tập đoàn quân số 6, ở Tây Nam Kotelnikovo chỉ do Quân đoàn số 7 (Rumani)Sư đoàn bộ binh cơ giới số 16 (Đức) phòng ngự.
Tuy nhiên, Hitler lại quá quan tâm đến việc đánh chiếm Stalingrad nên phớt lờ yêu cầu củng cố các lực lượng cạnh sườn tại Stalingrad. Tổng tham mưu trưởng của quân đội phát xít Đức, tướng Franz Halder bày tỏ lo ngại về mối quan tâm quá mức của Hitler về việc đánh chiếm thành phố và chỉ ra rằng nếu như cạnh sườn yếu kém của Tập đoàn quân số 6 không được củng cố thì quân Đức sẽ gặp thảm họa tại Stalingrad. Nhưng Hitler bảo Halder rằng Stalingrad sẽ bị đánh chiếm và cạnh sườn yếu kém của Tập đoàn quân số 6 sẽ được bảo vệ bởi "lửa nhiệt tình của chủ nghĩa quốc xã, rõ ràng đây là cái mà ta không thể trông chờ ở ông (Halder)" rồi thay ông bằng tướng Kurt Zeitzler vào giữa tháng 10. Mặt khác, Hitler tin rằng Hồng quân không còn đủ lực lượng để tung ra một đợt phản công đủ lớn để đảo ngược tình thế, khi mà ở quanh khu vực Stalingrad giờ đây đã tập trung hơn 1 triệu quân Đức và chư hầu.

Kế hoạch của Hồng quân Xô Viết


Quân đội Liên Xô phản kích trên các đường phố Stalingrad
Trong khi phía Đức đang sa lầy trong việc chiếm thành phố thì quân đội Xô Viết đã tập trung một lực lượng lớn sẵn sàng phản công. Mùa thu năm 1942, hai Đại tướng của Hồng quân Liên Xô là A. M. VasilyevskiyG. K. Zhukov - nhữnh người phụ trách việc hoạch định chiến lược cho khu vực Stalingrad - bắt đầu tập trung một lượng lớn binh lực ở khu vực thảo nguyên phía Bắc và phía Nam thành phố. Điểm yếu tại hai cạnh sườn của quân Đức đã được khai thác triệt để vì Hồng quân Xô Viết chủ trương công kích các đơn vị quân chư hầu yếu kém và né tránh quân Đức những khi có cơ hội - giống như những gì người Anh đã làm tại Bắc Phi. Kế hoạch phản công của Hồng quân là cố gắng kiềm chế và giữ chân lực lượng Đức ở chính diện trong thành phố trong khi đó mở các đòn vu hồi vào hai cánh của quân phát xít vốn đã bị kéo dài và được bố phòng yếu kém và sau cùng khóa chặt vòng vây đối với khối quân phát xít trong nội đô Stalingrad. Những nơi bị công kích có khoảng cách đủ xa so với nội đô Stalingrad để Tập đoàn quân số 6 của Đức đóng tại đây không có đủ thì giờ để điều quân đến ứng cứu. Kế hoạch phản công của Liên Xô sử dụng đến nhiều biện pháp đánh lừa đối phương mà rốt cục đã bao vây và tiêu diệt được tập đoàn quân số 6 Đức cùng với nhiều lực lượng phát xít khác xung quanh thành phố, đã dẫn đến thất bại quy mô lớn thứ hai của Quân đội Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai.
Trong quá trình chuẩn bị chiến dịch, Đại tướng Zhukov đã đích thân đến thị sát mặt trận - một điều hiếm thấy đối với các sĩ quan cao cấp như ông. Chiến dịch phản công mang mật danh "Sao Thiên Vương" (Уран) và được phát động đồng thời với Chiến dịch Sao Hỏa nhằm vào Cụm Tập đoàn quân Trung Tâm. Kế hoạch phản công của Hồng quân Xô Viết gần giống như những gì đã diễn ra tại bờ sông Halhin 3 năm về trước, lúc đó hai đòn đánh vu hồi liên tiếp của Zhukov đã bao vây sư đoàn số 23 của phát xít Nhật và tiêu diệt chúng. Kế hoạch tấn công đã được Bộ tổng tư lệnh quân đội Xô Viết soạn thảo hết sức kỹ lưỡng, tính đến cả những kinh nghiệm xương máu của hơn một năm thất thế của quân đội Xô Viết. Dĩ nhiên, dấu ấn cá nhân của Đại tướng Zhukov và Vasilevsky rất lớn trong công việc này. Hai ông đã được phong danh hiệu Anh hùng Liên bang Xô Viết nhờ công lao này. Và lần này, cũng như mùa đông 1941 trong trận phản công tại Moskva, các lực lượng nòng cốt để phản công lại là các sư đoàn mới tinh, trang bị tốt, giàu sức sống của các quân khu XibiaViễn Đông được điều tới.

Trận phản công bắt đầu


Tập đoàn quân xe tăng 5 (Liên Xô) xuất phát tấn công
Ngày 19 tháng 11 năm 1942 tại cánh bắc mặt trận Stalingrad, lúc 7h30 Chiến dịch Sao Thiên Vương chính thức mở màn, theo kiểu vận động kinh điển của trận Cannae. Phương diện quân Tây Nam của tư lệnh trung tướng N. F. Vatutin gồm các ba tập đoàn quân với quân số nguyên vẹn (2, 5, 17), tập đoàn quân xe tăng số 5, tập đoàn quân cận vệ số 1 và tập đoàn quân số 21 (tổng cộng gồm 18 sư đoàn bộ binh, 8 lữ đoàn xe tăng, hai lữ đoàn bộ binh cơ giới, 6 sư đoàn kỵ binh và 1 lữ đoàn pháo chống tăng từ bàn đạp Seraphimovich đánh vào sườn phía Bắc của tập đoàn quân số 6 Đức, mục tiêu là khu vực bố phòng của tập đoàn quân Rumani số 3. Tổng binh lực Liên Xô được huy động cho chiến dịch phản công lên tới 1,1 triệu quân và 900 xe tăng, đối diện là lực lượng Đức và chư hầu với hơn 1 triệu quân.
Tuy tổng binh lực của hai bên xấp xỉ nhau, nhưng Hồng Quân có trong tay lợi thế lớn là yếu tố bất ngờ, cho phép họ tập trung binh lực áp đảo tại những mũi nhọn đột phá, trong khi quân Đức thì đang bị dàn mỏng. Quân Rumani đã nhận thấy những hành động chuẩn bị tấn công của Hồng quân Xô Viết và yêu cầu tăng viện nhưng bị từ chối. Bị dàn mỏng trên một chiến tuyến quá rộng, bị áp đảo về quân số cùng trang thiết bị, phòng tuyến của quân Rumani ngay lập tức bị cắt tan nát thành những mảnh vụn. Sau một ngày tấn công, phương diện quân của Vatutin đã tiến sâu được 25–35 km. Ngày 20 tại cánh nam Stalingrad, phương diên quân Stalingrad của tư lệnh thượng tướng A. I. Yeryomenko gồm tập đoàn quân 51, 57 và 64 tấn công vào sườn phải tập đoàn quân xe tăng số 4 Đức, mục tiêu là vị trí bố phòng của tập đoàn quân Rumani số 4 tại khu vực hồ Shasha. Lực lượng Rumani tại đây - vốn chủ yếu là các đơn vị bộ binh - cũng nhanh chóng sụp đổ. Sau khi chọc thủng tuyến phòng ngự đối phương các đơn vị cơ động của hai phương diện quân Xô Viết bằng hai mũi vu hồi, thọc sâu bằng xe tăng kết hợp cùng bộ binh cơ giới với tốc độ rất cao tiến tới hợp vây tại khu vực Kalach khoảng 30 km về phía tây Stalingrad.
Chỉ sau 3 đến 4 ngày tiến công, các lực lượng tiến công Xô viết đã gặp nhau tại Kalach và đã hợp vây hoàn toàn 22 sư đoàn đối phương, một bộ phận của tập đoàn quân xe tăng số 4 và toàn bộ tập đoàn quân số 6 Đức. Tổng cộng khoảng 33 vạn quân Đức đã rơi vào vòng vây siết chặt. Về sau, toàn bộ cảnh này đã được phục dựng lại trong một bộ phim chiến tranh lừng tiếng của Liên Xô.

Liên Xô bao vây Tập đoàn quân số 6 và nỗ lực của phát xít Đức trong việc tiếp vận cho số quân bị vây


Thống chế Paulus tại mặt trận Nam Nga
Theo Manstein, khoảng 29 vạn quân Đức và chư hầu Rumani cùng với Trung đoàn bộ binh tăng viện Croatia số 369 và một số lực lượng bộ binh phụ trợ khác đã lọt trọn trong vòng vây. Trong "cái túi" (người Đức gọi là "cái vạc", tiếng Đức: Kessel) ở Stalingrad cũng có 1 vạn thường dân cùng với một số binh sĩ Xô Viết bị bắt làm tù binh. Có khoảng 5 vạn quân của Tập đoàn quân số 6 không nằm trong vòng vây. Hồng quân nhanh chóng dựng nên hai phòng tuyến xung quanh khối quân bị vây: một chiến lũy (circumvallation) hướng vào phía trong và một chiến hào bao vây (contravallation) hướng ra phía ngoài.
Tại một hội nghị ngay sau cuộc bao vây của Liên Xô, các lãnh đạo quân sự Đức đã thúc giục mở một cuộc phá vây tại Stalingrad để rút về một phòng tuyến mới trên bờ Tây sông Đông. Nhưng lúc đó Hitler đang ở tại khu nghỉ riêng của mình ở sườn núi Obersalzberg, thị trấn Berchtesgaden, Bavaria cùng Hermann Göring, người đứng đầu Không quân Đức Luftwaffe. Khi được Hitler hỏi, Göring trả lời rằng Không quân Đức có thể tiếp tế cho tập đoàn quân số 6 bằng một cầu hàng không. Điều này sẽ cho phép quân Đức trong thành phố tiếp tục chiến đấu trong khi một lực lượng giải cứu được thành lập. Một năm trước đó, một kế hoạch tương tự cũng đã được sử dụng thành công ở "cái túi" Demyansk, dù với một quy mô nhỏ hơn nhiều: chỉ có một quân đoàn với 50 ngàn quân bị vây ở Demyansk, trong khi bị vây tại Stalingrad là cả một tập đoàn quân với hơn 300 ngàn quân. Hơn nữa, lực lượng chiến đấu của Liên Xô đã tiến bộ rõ rệt cả về số lượng và chất lượng trong một năm qua. Nhưng việc đề cập đến sự thành công của chiến dịch hỗ trợ hàng không tại Demyansk đã củng cố quan điểm riêng của Hitler, và vài ngày sau kế hoạch đã được Hermann Göring tán thành. Trước đó, ngày 30 tháng 9 năm 1942 ông ta đã tuyên bố tại Cung văn hóa thể thao Berlin rằng quân Đức sẽ không bao giờ rời bỏ thành phố.

Quân đội Liên Xô đánh chiếm thị trấn Kalach, khép vòng vây quanh Tập đoàn quan 6 (Đức)
Người đứng đầu tập đoàn không quân số 4 Đức, thống chế Wolfram von Richthofen đã cố gắng ngăn quyết định này lại nhưng không thành công. Rõ ràng rằng việc tiếp viện cho "cái túi" bằng không quân là không thể được. Tập đoàn quân số 6 có quân số gấp đôi các tập đoàn quân thông thường, thêm vào đó 1 quân đoàn của Tập đoàn quân thiết giáp số 4 cũng đang bị vây. Khả năng vận chuyển của Không quân Đức sau trận Crete không hề được củng cố, và con số 117 tấn rưỡi họ có thể vận chuyển mỗi ngày sẽ là quá ít so với nhu cầu 800 tấn của lực lượng Đức đang bị vây. Bản thân Paulus thông báo qua điện đàm rằng số quân bị vây cần tới 750 tấn hàng tiếp viện mỗi ngày và khi Goering khoác lác về việc không quân Đức có thể vận chuyển đầy đủ quân nhu cho lực lượng bị vây, tướng Zeitzler đã vặn lại: "Ông có biết rằng số quân ở Stalingrad cần bao nhiêu quân nhu hàng ngày không ?... Bảy trăm tấn ! Mỗi ngày !" Để bổ sung cho số lượng có hạn các máy bay vận tải Junkers Ju 52, các máy bay ném bom với các trang thiết bị không hề thích hợp đã được đem ra để làm nhiệm vụ vận tải, như những chiếc Heinkel He-117 (thật ra cũng có vài loại tỏ ra thích hợp hơn Ju 52, ví dụ như He-111). Nhưng Hitler đã ủng hộ kế hoạch của Goring và nhắc lại mệnh lệnh của mình rằng những tập đoàn quân đang mắc kẹt không được phép đầu hàng.
Với việc ra lệnh cho lực lượng bị bao vây không được phép đầu hàng hoặc phá vây, số phận quân Đức trong vòng vây trở nên nguy kịch, dù binh sĩ Đức có dũng cảm tới đâu thì cũng không thể tồn tại mà không cần tiếp tế lương thực, đạn dược. Nhiều tướng lĩnh Đức sau này đã chỉ trích quyết định của Hitler, coi đó là sự liều lĩnh đến điên rồ, không bao giờ chịu chấp nhận rút lui của ông ta. Tuy nhiên, quyết định của Hitler cũng một phần xuất phát từ sự toan tính chiến lược chứ không hẳn chỉ là liều lĩnh. Để bao vây quân Đức tại Stalingrad, Hồng quân Liên Xô cũng phải tập trung về đây 7 tập đoàn quân với hơn 400 ngàn quân. Nếu quân Đức đầu hàng hoặc tháo lui sớm, Hồng quân sẽ rút lực lượng này tấn công về phía Đông nhằm chiếm Rostov, nếu họ thành công thì không chỉ Tập đoàn quân 6 mà cả Cụm Tập đoàn quân A và B của Đức (với hơn 500 ngàn quân) đang chiến đấu ở vùng Caucasus cũng sẽ bị cắt đường tiếp tế và sẽ bị tiêu diệt, thất bại của Đức khi đó sẽ còn lớn hơn rất nhiều. Nói cách khác, Tập đoàn quân 6 phải chấp nhận hy sinh để các lực lượng khác của Đức có thời giam rút khỏi cái bẫy càng nhanh càng tốt.
Sự tiếp tế bằng không quân đã thất bại gần như ngay lập tức. Hỏa lực phòng không hạng nặng và các máy bay tiêm kích của Liên Xô đã khiến không quân Đức tổn thất nặng. 266 máy bay Junker Ju 52 đã bị phá hủy, tương đương 1/3 số chuyển vận cơ của Đức trên mặt trận Xô-Đức. Ngoài ra còn có 165 máy bay ném bom He-111 làm nhiệm vụ vận chuyển, 42 chiếc Junker Ju 86, 9 chiếc Fw 200, 5 chiếc He 177, 1 chiếc Ju 290 cùng gần 1.000 phi công nhiều kinh nghiệm. Bốn phi đội vận tải của tập đoàn quân không quân số 4 (KGrzbV 700, KGrzbV 900, I./KGrzbV 1 and II./KGzbV 1) đã bị giải tán do không còn lực lượng. Thời tiết mùa đông và hỏng hóc kỹ thuật cũng làm giảm hiệu quả của cuộc tiếp tế. Không quân Đức chỉ có thể vận chuyển 94 tấn/ngày, thậm chí đã không thể đạt chỉ tiêu 117 tấn/ngày như thực lực hiện có của nó. Ngày 19 tháng 12 họ đưa được nhiều hàng nhất: 289 tấn trong 154 chuyến bay. Thêm vào đó, hầu hết những hàng hóa chuyển được cho các đơn vị bị vây hầu như là không phù hợp: ví dụ một máy bay đáp xuống được chỉ chở toàn rượu vodka và binh phục mùa hè, một cái khác chở tiêu đen và kinh giới ô. Sự nhùng nhằng của Hitler trong việc xác định mục tiêu của Chiến dịch Bão Mùa đông (để cho quân Đức thoát vây hay để đánh khai thông đến thành phố) làm cho một số lượng lớn nhiên liệu dành cho cuộc phá vây được chuyến đến trong khi thức ăn và đạn dược cần thiết hơn nhiều..
Các máy bay vận tải hạ cánh an toàn đã được sử dụng để di tản những chuyên gia kĩ thuật, những người bị ốm và bị thương ra khỏi vùng bị vây hãm. Khoảng 42 nghìn người tất cả đã được di tản. Nhiều phi công Đức đã bị sốc khi thấy những binh lính được lệnh gỡ hàng đã quá đói và mệt để có thể thực hiện nhiệm vụ. Tại Đức, tướng Kurt Zeitzler xúc động trước thảm cảnh của quân lính tại Stalingrad nên bắt đầu giới hạn khẩu phần ăn của chính mình về mức cả ngày chỉ ăn một bữa đạm bạc vào buổi trưa giống như họ. Sau vài tuần như vậy, ông sụt 26 cân Anh và trở nên hốc hác đến nỗi Hitler tức giận và đích thân ra lệnh cho Zeitzler phải ăn uống lại như bình thường.
Ban đầu, các máy bay tiếp vận cất cánh từ sân bay Tatsinskaya (phi công Đức hay gọi là 'Tazi'). Tuy nhiên sân bay này đã bị quân đoàn xe tăng số 24 của Trung tướng V. M. Badanov tấn công vào ngày 23-24 tháng 12 năm 1942. Do thiếu sự phòng bị, sân bay nhanh chóng ngập chìm trong biển lửa. 108 chiếc Ju-52 và 16 chiếc Ju-86 chạy thoát đến Novocherkassk - bỏ lại 72 chiếc Ju-52 cùng nhiều máy bay khác cho Hồng quân Xô Viết mặc sức phá hủy. Một căn cứ không quân khác được thành lập ở Salsk cách Stalingrad đến 200 dặm, khoảng cách xa như vậy càng cản trở việc tiếp vận đường không. Đến giữa tháng 1 quân Đức bỏ Salsk đến đóng tại Zverevo, gần Shakhty. Zverevo chịu số phận của Tatsinskaya vào ngày 18 tháng 1, lúc này có thêm 50 chiếc Ju-52 bị phá hủy.
Cuối cùng, tổng số tổn thất của không quân Đức trong việc tiếp vận cho số quân bị vây là:
Số lượng bị phá hủy Loại máy bay
269 Junkers Ju 52
169 Heinkel He 111
42 Junkers Ju 86
9 Focke-Wulf Fw 200
5 Heinkel He 177
1 Junkers Ju 290
Tổng cộng có 495 máy bay bị phá hủy, tương đương với 5 phi đội và hơn một quân đoàn không quân, như vậy là một nửa lực lượng không quân Đức dùng cho nhiệm vụ tiếp vận đã làm mồi cho hỏa lực Liên Xô. Thêm vào đó, hoạt động của không quân phát xít Đức ở các mặt trận khác cũng bị giới hạn nghiêm trọng để dồn sức cho việc tiếp vận Stalingrad. Cuối cùng việc tiếp vận bị đình lại để phục vụ cho việc huấn luyện không quân Đức.

Nỗ lực giải vây của người Đức


Thống chế Erich von Manstein
Đầu tháng 12 1942, để giải cứu quân Đức ở Stalingrad, 3 sư đoàn thiết giáp, 2 sư đoàn bộ binh, 3 sư đoàn lính dù thuộc tập đoàn quân tăng thiết giáp số 4 do tướng Hermann Hoth chỉ huy đã được điều từ Kavkaz đến khu vực hạ lưu sông Đông. Nhưng các đơn vị này dù đã cố hết sức vẫn đều bị Hồng quân Xô Viết đẩy lùi ra xa, cách Stalingrad ít nhất 100 cây số nên không có cách nào để cứu tập đoàn quân số 6 đang bị vây. Chỉ riêng quân đoàn 48 là tiến sát Stalingrad nhất, chỉ còn cách 40 cây số.
Các tướng lĩnh dưới quyền đã đề nghị phương án vượt sông Đông ở khu vực đối diện Stalingrad nhưng Thống chế Erich von Manstein phản đối vì cho rằng làm như thế là vô cùng mạo hiểm và khó thực hiện. Ông quyết định chọn khu vực Kotelnikovo nằm ở phía Đông Nam sông Đông làm bàn đạp tấn công Stalingrad. Ngày 10 tháng 12, tướng Hermann Hoth đưa tập đoàn quân thiết giáp số 4 của mình vào trận. Quân đoàn 48 có nhiệm vụ vượt sông Đông để phối hợp tác chiến với cánh quân của Hoth. Quân đoàn thiết giáp 57 thuộc tập đoàn quân thiết giáp số 4 được giao trọng trách thực hiện mũi tấn công chính. Yểm trợ cho mũi tấn công này là sư đoàn cơ giới số 23 ở sườn phải, sư đoàn thiết giáp số 17 ở sườn trái và sư đoàn thiết giáp số 6 là lực lượng hậu bị.
Vừa tham gia trận đánh, các đơn vị này đã ngay lập tức gặp sự kháng cự ác liệt của thiết giáp và bộ binh Liên Xô do thượng tướng A. I. Yeryomenko chỉ huy. Quân Đức trước đòn phủ đầu đã gần như bị chặn đứng, trong suốt 1 tuần lễ chỉ tiến lên chưa được 50 cây số. Nhưng đến ngày 17, sư đoàn bộ binh cơ giới số 23 đã liều lĩnh tổ chức 1 đợt tấn công quyết liệt và chiếm được 2 cây cầu bắc qua sông Aksai-Esaulov. Như vậy trở ngại tự nhiên lớn nhất là con sông đã bị người Đức khắc phục và giờ đây khoảng cách giữa 2 tập đoàn quân số 6 và số 4 của Đức chỉ còn 70 cây số.
Tuy nhiên, vào cùng thời điểm quân Đức tổ chức giải vây, Hồng quân đã quyết định mở chiến dịch Sao Thổ vào ngày 11 tháng 12 nhằm tiêu diệt các lực lượng Ý, Hungary, Rumani và Đức dọc sông Đông. Mục tiêu ban đầu của chiến dịch là nhằm vào tập đoàn quân số 8 của Ý ở vùng trung lưu sông Đông. Mở đầu chiến dịch, tập đoàn quân 63 của Liên Xô, bằng các xe tăng T-34 và máy bay đã tổ chức tấn công vào các vị trí phòng thủ yếu nhất của người Ý. Các vị trí này được bảo vệ bởi 2 sư đoàn bộ binh từ RavennaCosseria đã nhanh chóng bị đánh tan. Ngày 17 tháng 12, tập đoàn quân 21 và tập đoàn quân thiết giáp số 5 của Liên Xô đã tấn công vào các vị trí của quân Rumani ở cánh phải người Ý. Cũng cùng thời gian này, cánh trái người Ý, do các lực lượng Hungary trấn giữ cũng bị tập đoàn quân thiết giáp số 3 và 1 phần tập đoàn quân 40 Liên Xô tấn công. Tập đoàn quân cận vệ số 1 Liên Xô thì tấn công vào giữa các vị trí của quân Ý. Sau 11 ngày giao tranh, các lực lượng Ý đã bị áp đảo về số lượng, bị bao vây và sau cùng đã bị đánh bại. Tướng Paolo Tarnassi, tổng chỉ huy các lực lượng thiết giáp Ý tại Liên Xô cũng chết trận.
Tập đoàn quân số 8 Ý bị xóa sổ đã tạo một lỗ hổng lớn trên tuyến phòng thủ của người Đức và điều này đã tạo điều kiện cho Hồng quân tiến về hướng Rostov. Nếu chiếm được Rostov, Hồng quân sẽ kiểm soát toàn bộ miền Nam nước Nga, chia cắt các lực lượng của quân Đức. Manstein trước việc Rostov bị đe doạ đã buộc phải rút sư đoàn xe tăng số 6 của tướng Hoth để điều lên hướng Tây Bắc cản đòn tấn công của Hồng quân. Đây là lực lượng hậu bị cho cuộc tấn công của Hoth với đầy đủ quân số và vũ khí nên quyết định này đã ảnh hưởng rất nhiều đến nỗ lực giải vây.

Quân đội Liên Xô và quân đội Đức Quốc xã giành giật từng căn nhà ở Stalingrad
Tuy không còn lực lượng hậu bị, tướng Hoth vẫn cho quân tiến về phía trước để giải cứu Paulus và tập đoàn quân số 6. Sáng ngày 17 tháng 12, trung đoàn mô tô-súng máy số 128 thuộc sư đoàn cơ giới số 23 của Đức phòng thủ bờ bắc sông Aksai-Esaulov, ở đoạn giữa cầu đường sắt và cầu đường bộ qua sông. Sư đoàn 17 với 35 xe tăng tập trung bên cánh trái. Ngày hôm đó, lực lượng bộ binh Liên Xô với sự yểm trợ của xe tăng đã tấn công vào mạnh vào các căn cứ của quân Đức tại tại nhà ga Krugliakovo; ngoài ra 15 xe tăng Liên Xô khác cũng tổ chức tấn công cứ điểm Shestakovo do tiểu đoàn công binh thuộc sư đoàn cơ giới 23 chiếm giữ. Quân Đức chịu thiệt hại nặng nhưng đã chặn đứng được các đợt tấn công của Hồng quân đồng thời cũng xác định được các đơn vị Hồng quân tham gia đợt tấn công này gồm sư đoàn bộ binh 87 và lữ đoàn tăng thiết giáp số 13.
Đêm ngày 17 tháng 12, trung đoàn môtô-súng máy số 128 của Đức đã tổ chức tấn công thành công bên cánh phải. Nhân cơ hội đó, tướng Hoth quyết định tiếp tục tấn công về hướng Stalingrad. Ngày 18 tháng 12, Hitler đã từ chối cho tập đoàn quân số 6 đánh ra hướng tiến của tập đoàn quân tăng thiết giáp số 4 bất chấp thỉnh cầu của Manstein. 8 giờ sáng ngày 19 tháng 12, sư đoàn xe tăng số 17 bên cánh trái tổ chức vượt sông tiến về phía trước. Trinh sát cho biết trong vòng 1 ngày đêm trước đó, Liên Xô đã điều thêm rất nhiều quân đến khu vực này. Trưa ngày hôm đó, với sự yểm trợ của không quân và xe tăng, một trung đoàn bộ binh Liên Xô đã tổ chức tấn công quân Đức dọc tuyến đường sắt dẫn đến Stalingrad; một trung đoàn khác từ dưới khe hẻm bất ngờ tấn công lực lượng bộ binh cơ giới Đức. Phía sau lưng bộ binh Liên Xô có khoảng 70 xe tăng yểm trợ. Sau 9 tiếng đồng hồ phản công với hỏa lực mạnh, quân Đức đã đẩy lùi được Hồng quân Xô Viết. Ngày 20 tháng 12, quân đoàn tăng thiết giáp số 57 của Đức trở lại với nhiệm vụ tấn công Stalingrad giải vây cho tập đoàn quân 6. Nhưng hỏa lực cực mạnh của Hồng quân đã ngăn không cho quân Đức tiến về phía trước. Hai ngày tiếp theo đó, ở khu vực dọc tuyến đường sắt đã diễn ra những trận đánh vô cùng ác liệt, cả 2 bên đều chịu những tổn thất nặng nề. Tuy nhiên, sau mỗi tổn thất, Hồng quân lại được bổ sung lực lượng kịp thời trong khi quân Đức thì không thể. Điều này khiến quân Đức dần dần bị tiêu hao sinh lực. Ngày 23 tháng 12, đoàn xe tăng Đức đang tiến dọc theo tuyến đường sắt bỗng chạm trán đội hình gồm 80 xe tăng Liên Xô. Sau 4 tiếng chiến đấu quyết liệt, người Đức đã đẩy lùi được xe tăng Liên Xô.

Quân đội Liên Xô liên tục phản kích
Ngay trước đêm Giáng sinh, Hồng quân đã tập trung một lực lượng lớn và tổ chức tấn công. Quân Đức bị đánh bật khỏi khu vực tuyến đường sắt, trung đoàn môtô-súng máy số 128 bị đẩy lùi đến tận bờ sông. Bên cánh trái, trung đoàn hỗn hợp của Đức cũng bị thiệt hại nặng, phải rút lui về làng Romashki, nằm ở hậu tuyến của quân Đức. Chập tối, khoảng 20 chiếc xe tăng Liên Xô tấn công khu vực cầu đường sắt Shestakov trên sông Aksai-Esaulov, một nhóm xe tăng khác kết hợp với pháo binh tấn công căn cứ Romashkin. Một cuộc đấu pháo ác liệt đã diễn ra. Cuối cùng, pháo Liên Xô im tiếng khiến quân Đức lầm tưởng Hồng quân đã rút binh. Tuy nhiên vào rạng sáng, 30 chiếc xe tăng Liên Xô đã bất ngờ áp sát cầu Shestakov, đánh tan tiểu đoàn công binh Đức đang chiếm giữ cây cầu. Dưới sự yểm trợ của pháo binh, xe tăng Liên Xô chuẩn bị vượt sông bằng cầu đường bộ. Nhưng chỉ có một chiếc qua được còn đến chiếc thứ hai thì cây cầu không chịu nổi sức nặng nên đã sập.
Trons suốt ngày 24 tháng 12, Hồng quân nỗ lực vượt sông để tiêu diệt các đơn vị quân Đức đã quá mỏi mệt sau những trận đánh vừa qua. Tuy nhiên, những nỗ lực của Hồng quân ở bờ Nam sông Aksai-Esaulov ngày hôm đó đã không đạt được kết quả như mong đợi. Pháo chống tăng 88 li của Đức đã ngăn chặn hiệu quả xe tăng Liên Xô. Ngoài ra, bộ binh Liên Xô dù được sự yểm trợ của không quân và pháo binh cũng không thể chiếm được cây cầu đường sắt.
Ngày 25 tháng 12, bộ binh Hồng quân đã sửa chữa sơ bộ cây cầu đường bộ bị sập rồi dưới sự yểm trợ của 50 xe tăng đã kéo sang bờ nam sông Aksai-Eseulov, tiến thẳng đến căn cứ Romashkin, đánh tan trung đoàn môtô-súng máy số 128 và chiếm được cây cầu đường sắt ở gần ga Krugliakovo. Chỉ trong một buổi sáng, Hồng quân đã bắc được câu cầu khá vững chắc trên lưng 2 chiếc xe tăng bị rơi xuống sông. Xe tăng Liên Xô theo cây cầu này đã ào ạt vượt sông, đè bẹp mọi sự kháng cự của quân Đức. Tàn binh của quân đoàn tăng thiết giáp Đức số 57 cũng không thoát khỏi sự truy kích ráo riết của Hồng quân. Không lâu sau đó, quân đoàn này đã bị xóa sổ hoàn toàn. Như vậy là kế hoạch đột phá vòng vây của tập đoàn quân sông Đông do thống chế Manstein chỉ huy nhằm giải vây cho Paulus đã hoàn toàn phá sản.
Bây giờ mọi hy vọng giải vây đều tan thành mây khói, nhưng số quân ở Stalingrad vẫn không biết điều này và vẫn tin tưởng rằng "viện binh đang đến". Một số sĩ quan Đức yêu đề nghị Paulus bỏ qua lệnh của Hitler mà tổ chức phá vòng vây, tuy nhiên ông từ chối vì ông rất ghét việc bất tuân thượng lệnh. Thêm vào đó, nếu mấy tuần đầu việc phá vây bằng các lực lượng cơ giới là khả thi thì bây giờ Tập đoàn quân số 6 đã lâm vào tình trạng thiếu nhiên liệu, đồng thời mùa đông khắc nghiệt của nước Nga cũng là một rào cản lớn cho việc này.

Trận đánh kết thúc


Thống chế Friedrich Paulus (phải) và các sĩ quan phụ tá Arthur Schmidt, Wilhelm Adam sau khi đầu hàng Quân đội Liên Xô.
Số phận tập đoàn quân số 6 xem như đã an bài. Gần 2 vạn lính Đức lang thang giữa những đống gạch vụn và 2 vạn thương binh phải nằm trong các tòa nhà đổ nát. Việc chỉ đạo các hoạt động của quân Đức trong vòng vây ở Stalingrad giờ đây do đích thân Adolf Hitler thực hiện. Từ Đông Phổ cách xa hơn 2.000 km, ông đã đưa ra những mệnh lệnh, những lời động viên, thăm hỏi tới Friedrich Paulus cùng sĩ quan, binh lính của tập đoàn quân số 6.
Sau chiến dịch tấn công quy mô lớn ở khu vực sông Đông, Hồng quân đã chiếm được 2 sân bay dã chiến của quân Đức nằm gần Stalingrad - ở MorozovskTatsinskaya. Trước đây, từ 2 sân bay này, mỗi ngày quân Đức có khả năng thực hiện 3 chuyến không vận tiếp tế cho tập đoàn quân số 6. Tuy nhiên giờ đây, từ sân bay dã chiến gần nhất đến Stalingrad cũng phải mất 2 đến 3 tiếng đồng hồ, tốn rất nhiều nhiên liệu và khả năng bị phòng không Liên Xô bắn hạ rất cao. Ngoài ra, do điều kiện thời tiết khắc nghiệt của mùa đông nên không phải lúc nào các máy bay cũng có thể cất cánh được. Do đó, từ đầu tháng 1 năm 1943, mỗi ngày quân Đức chỉ thực hiện được 1 chuyến không vận tiếp tế.
Tình hình thương binh Đức tại Stalingrad ngày càng tồi tệ. Thuốc men, phương tiện y tế và cả phương tiện vận chuyển thiếu thốn. Trước đây, các thương binh thường được chở bằng xe đến đến sân bay Pitomnik để đưa về tuyến sau bằng máy bay. Nhưng khi mà nhiên liệu ngày càng khan hiếm thì thương binh buộc phải nằm lại. Con số thương binh tăng lên nhanh chóng. Sân bay Pitomnik liên tục bị vây hãm và pháo kích nên các phi công chở hàng tiếp tế thường không dám hạ cánh mà thả hàng xuống bằng dù.
Nhiệm vụ tiêu diệt lực lượng Đức bị vây được giao cho phương diện quân sông Đông của tư lệnh trung tướng K. K. Rokossovsky. Sáng 8 tháng 1 1943, ba sĩ quan trẻ của Hồng quân, với một lá cờ trắng, đi vào phòng tuyến của quân Đức trên chu vi phía bắc của Stalingrad, trao cho tướng Paulus tối hậu thư của tướng Rokossovsky và nguyên soái pháo binh N.N. Voronov:
Gửi Tư lệnh của Tập đoàn quân 6 và các chỉ huy cao cấp của tập đoàn quân xe tăng 4 (Đức) đang bị bao vây tại Stalingrad.
Các ông tưởng rằng quân Đức sẽ đến cứu các ông nhưng ngược lại, họ đang bị đuổi khỏi Rostov. Các ông đang đuợc cung cấp một khẩu phần ăn chết đói, thiếu đạn dược và nhiên liệu vì các máy bay Đức đã bị thiệt hại nặng bởi không quân của chúng tôi.
Tình cảnh binh lính của các ông rất nặng nề, họ phải đối mặt với bệnh tật, cái đói, cái rét và cái chết... Các ông, những chỉ huy đạo quân bị vây hoàn toàn có thể hiểu được rằng không còn hy vọng gì để phá vỡ vòng vây. Tình trạng của các ông là tuyệt vọng, việc tiếp tục chống cự là vô ích. Để tránh đổ máu không cần thiết, chúng tôi đề nghị các ông đầu hàng theo các điều kiện sau đây:
1- Tất cả quân Đức trong vòng vây dưới quyền ông và các sĩ quan của ông trong vòng vây phải chấm dứt kháng cự.
2- Các ông phải giao nộp toàn bộ vũ khí, trang thiết bị quân sự đang sử dụng.
Chúng tôi bảo đảm cuộc sống an toàn cho các cấp chỉ huy, sĩ quan không phải là cấp chỉ huy và binh sĩ đã ngừng kháng cự. Họ sẽ được tổ chức cho ăn uống và đối đãi tử tế. Sau chiến tranh, họ sẽ được trả về nước Đức hoặc bất cứ nước nào sẵn sàng nhận tù binh chiến tranh.
Tất cả những người bị thương, bị ốm đau và bị rét cóng sẽ được điều trị. Tất cả các quân nhân đầu hàng vẫn được giữ đồng phục đang sử dụng, phù hiệu, quân hiệu, đồ dùng cá nhân, vật trang sức có giá trị. Các sỹ quan cao cấp được giữ lại vũ khí cá nhân được tặng.
Chúng tôi sẽ thông qua một đại diện được chỉ định trao cho các ông văn bản chính thức về việc này lúc 15 giờ 00 ngày 9 tháng 1 năm 1943 trên một chiếc xe tại ngã ba đường Konnyi - Kotluban. Các ông phải cử một đại diện tin cậy, biết tiếng Nga, đến khu vực nói trên, đỗ xe cách chỗ giao nhau với đường 564 0,5 km lúc 15 giờ 00 cùng ngày.
Nếu các ông từ chối lời đề nghị đầu hàng, chúng tôi báo trước rằng lục quân và không quân Liên Xô sẽ thực thi các biện pháp để tiêu diệt các lực lượng Đức trong vòng vây và khi đó, các ông sẽ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm.
—Đại diện Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh tối cao Liên Xô: Đại tướng N. N. Voronov.
Tư lệnh Phương diện quân Sông Đông: Trung tướng. K.K.Rokossovsky
Paulus lập tức gọi cho Hitler về nội dung tối hậu thư và yêu cầu được tự do hành động nhưng bị bác bỏ. Ngoài ra 1 nguyên nhân khác khiến quân Đức không muốn đầu hàng là việc tập đoàn quân Phương Nam của thống chế Paul Ludwig Ewald von Kleist đang rút khỏi Kavkaz. Hiện tại đang có 3 tập đoàn quân Xô Viết bao vây Stalingrad và nếu quân Đức đầu hàng, Hồng quân sẽ tung những lực lượng này đến các chiến trường khác, mà khả năng lớn nhất là chặn đường rút của Kleist. Do đó, Paulus quyết định cầm cự để Kleist có thể rút lui an toàn.

Xác xe tăng Đức bị tiêu diệt trên chiến trường Stalingrad
Sau khi quân Đức tại Stalingrad từ chối đầu hàng, ngày 10 tháng 1 năm 1943, Hồng quân Liên Xô đã giáng cho quân Đức 2 mũi tấn công vô cùng hùng hậu từ hướng Tây và hướng Nam. Mũi tấn công ở hướng Nam gặp phải sự kháng cự quyết liệt nhưng ở mũi hướng tây Hồng quân tiến như chẻ tre. Sư đoàn tăng thiết giáp số 3 Đức ở tuyến trước bị đánh tan. Sáng ngày 11 tháng 1, Hồng quân tiếp tục tấn công. Ở hướng Tây, họ tiếp tục thắng lớn. Sư đoàn cơ giới số 29 và sư đoàn bộ binh số 376 của Đức bị tiêu diệt hoàn toàn. Các đơn vị khác bị đẩy sâu vào trong, lính Đức bị chết cóng rất nhiều.
Sau vài ngày nghỉ ngơi, ngày 16 tháng 1, Hồng quân lại tấn công dữ dội và tiến gần đến sân bay Gumrak, sân bay dã chiến duy nhất còn sót lại của tập đoàn quân số 6. Chiến thuật của người Nga giờ đây có sự thay đổi: hễ gặp kháng cự mạnh là họ chuyển sang tấn công vị trí khác. Paulus triệu tập cuộc họp cấp chỉ huy các quân đoàn, đưa ra đề nghị các đơn vị liều chết phá vòng vây. Nhưng các chỉ huy từ chối vì cho rằng hành động đó là tự sát.
Chiều ngày 19 tháng 1, các sĩ quan cao cấp và sĩ quan tham mưu được lệnh rời bỏ đơn vị để di tản bằng máy bay. Các sĩ quan tham mưu được đưa ra sân bay bằng xe máy - phương tiện vận chuyển duy nhất còn hoạt động được. Xác lính Đức ngổn ngang trong khu vực sân bay. Dù trong tình thế nguy kịch nhưng lính Đức vẫn giữ kỷ luật nghiêm, chỉ ai có giấy chứng nhận có chữ ký của tham mưu trưởng tập đoàn quân và thương binh nặng mới được ưu tiên lên máy bay. Vì Hồng quân đã tiến sát nơi đây và vì sân bay bị pháo kích liên tục, chỉ có 4 chiếc máy bay Đức hạ cánh trong ngày 19. Ngày 22 tháng 1, chiếc máy bay He 111 rời sân bay với 19 thương binh và đây là chuyến bay di tản cuối cùng của tập đoàn quân 6 tại Stalingrad.
Ngày 23 tháng 1, Hồng quân chiếm được sân bay Gumrak. Hi vọng giải thoát cho cho các sĩ quan cao cấp của tập đoàn quân 6 cũng chấm dứt. Ngoài ra, việc tiếp tế cho quân Đức giờ đây chỉ còn có thể thực hiện được bằng cách thả dù. Đại diện phía Liên Xô đi đến phòng tuyến của Đức ngày 24 tháng 1 với lời đề nghị mới với những yêu cầu và lời hứa như cũ nhưng Paulus, nhận lệnh của Adolf Hitler không đầu hàng đã không hồi âm.

Tù binh Đức, Ý, Rumani và Hungary bị bắt trong trận Stalingrad
Khi ấy, thấy quân Đức đang đến hồi nguy kịch trong trận Stalingrad đẫm máu, Hitler ví von Tập đoàn quân thứ 6 của Đức với 300 người lính thành Sparta dưới quyền vua Leonidas I đã kiên dũng chiến đấu trước quân xâm lược Ba Tư trong trận Thermopylae năm xưa. Đến ngày 28 tháng 1, một đại đoàn có thời hùng mạnh bị cắt ra làm 3 mảnh nhỏ, mảnh phía nam là nơi Paulus đặt tổng hành dinh trong một trung tâm bách hóa một thời phát đạt Univermag. Tình hình thiếu hụt quân lương và đạn dược đã trở nên vô cùng tồi tệ, lúc này Paulus hiểu rõ nỗ lực tiếp vận của không quân Đức đã phá sản hoàn toàn - tức số phận của Stalingrad đã được định đoạt. Ông cầu xin Hitler cho phép ông đầu hàng để giữ tính mạng cho các binh sĩ, tuy nhiên vào ngày 30 tháng 1 năm 1943, nhân kỷ niệm 10 năm Đảng Quốc xã lên cầm quyền, Hitler đã phong cho Paulus quân hàm Thống chế vì từ trước tới nay chưa có một Thống chế Đức nào đầu hàng quân địch. Hitler cho rằng Paulus sẽ chọn cái chết để bảo toàn danh dự cho mình, vì nếu ông đầu hàng thì ông sẽ trở thành sĩ quan cao cấp nhất của Đức bị Hồng quân bắt làm tù binh. Tuy nhiên, Paulus vốn là người theo Công giáo vì vậy ông cực lực phản đối việc tự sát. Ngày 31 tháng 1 năm 1942 Paulus quyết định đầu hàng, đây là lần đầu tiên trong chiến dịch ông chống lại lệnh "tử thủ" của Hitler:
Tôi không hề có ý định phí phạm mạng sống của mình vì cái thứ danh hiệu đó.
—Friedrich Wilhelm Ernst Paulus, 

Một tù binh Đức đang bị một binh sĩ Hồng quân áp giải.
Ngày 2 tháng 2 năm 1943, các lực lượng quân Đức còn ở Stalingrad cũng đã đầu hàng. Số tù binh Hồng quân bắt được trong trận này lên đến 91 nghìn người, bao gồm cả 3 nghìn lính Rumani, bộ phận còn lại của sư đoàn bộ binh số 20, sư đoàn kỵ binh số 1 và Cụm tác chiến "Đại tá Voicu". Các tù binh Đức – kể cả 24 tướng lĩnh – đói khát, cóng lạnh, nhiều người mang thương tích, tất cả đều mê mụ, đau khổ, níu lấy tấm chăn lấm máu phủ lên đầu chống lại giá lạnh ở -24 °C, đi khập khiễng trên lớp băng tuyết hướng đến các trại tù binh ở Xibia. Nghe tin về sự đầu hàng của Paulus, Hitler đã nói với các sĩ quan của mình:
Tại Đức trong thời bình, có khoảng 18 đến 20 nghìn người tự sát mỗi năm mặc dù không ở trong tình huống như vậy. Thế mà một người như ông ta sao lại có thể đầu hàng bọn Bolshevik khi đã chứng kiến 5 đến 6 vạn binh lính dưới quyền mình chiến đấu đến chết ?!
—Adolf Hitler, 
Tôi rất hối hận khi phong ông ta quân hàm thống chế. Nếu tự tử, ông ta đã có thể trở thành bất diệt và anh hùng dân tộc nhưng ông ta lại muốn đến Moskva.
—Adolf Hitler, 

Hồng quân vẫy cờ sau chiến thắng
Hitler cũng cảm thấy tức giận do quân đội của ông ta đã đầu hàng chứ không thể làm nên một "Thermopylae" hào hùng cho ông ta. Trong đợt tổng tấn công của Liên Xô từ ngày 19 tháng 11 năm 1942 đến 2 tháng 2 năm 1943, theo ghi nhận của Nguyên soái G. K. Zhukov tại hồi ký của ông thì trong toàn bộ chiến dịch, đã có 32 sư đoàn và 3 lữ đoàn Đức đã bị tiêu diệt; 16 sư đoàn bị thiệt hại từ 1/2 đến 3/4 quân số. Như vậy đã có hơn 14 vạn sĩ quan và lính Đức bỏ mạng trong những ngày cuối tại Stalingrad. Khoảng 34.000 thương binh và sĩ quan đã được di tản bằng hàng không. Trận Stalingrad kết thúc với thắng lợi hoàn toàn của Hồng quân Liên Xô.
Sau này, Hitler có đề nghị Stalin giao trả bại tướng Paulus, đổi lại Hitler sẽ trao lại người con của Stalin là Yakov cho vị lãnh tụ Liên Xô. Tuy nhiên, Stalin không chấp thuận và sau này Yakov đã chết trong trại tù binh của Đức Quốc Xã.

Thương vong

Phát xít Đức và các chư hầu

Phe Trục thua với tổng số quân Đức, Hungary, và Ý thiệt hại gần 1 triệu người. Trong đó, tổng số quân Đức trong thành phố có 285.000 chết, bị bắt, mất tích và bị thương. 300.000 thương vong khác hứng chịu bởi các Tập đoàn quân A, B và Sông Don đến giải vây. Quân Ý thương vong 110 nghìn người, quân Rumani thiệt hại 160 nghìn, và quân Hungary là 143 nghìn. Thiệt hại này khiến quân Hungary chỉ có thể phục hồi lại cho đến tận năm 1944. Nhiều nguồn khác cho rằng con số thương vòng này là 85 vạn người chết, bị thương, bị bắt; trong đó phần nhiều tù binh Đức đã bỏ mạng trong các trại tù binh từ năm 1943 đến 1955. Cụ thể, họ cho rằng 40 vạn quân Đức, 12 vạn quân Rumani, 12 vạn quân Hungary và 12 vạn quân Ý bị giết, bị thương, bị bắt sống. Trong thời gian bị vây hãm cuối chiến dịch, có khoảng 5 nghìn thương binh Đức được di tản khỏi trận địa bằng máy bay, khoảng 14 vạn chết tại trận, 91 nghìn bị bắt làm tù binh. Trong số 91 nghìn tù binh, có 27 nghìn chết trong tuần đầu tiên và chỉ có 5 nghìn sống sót trở về Đức trong năm 1955. Tính ra trong số 91 nghìn tù binh chỉ còn khoảng 6% sống sót. Nếu không kể 5 nghìn người đuợc di tản bằng đuờng hàng không, trong số 28,5 vạn quân bị hợp vây chỉ có khoảng 2% còn sống sót.
Trong khi đó, trong hồi ký Nhớ lại và suy nghĩ của mình, nguyên soái Liên Xô G.K.Zhukov đưa ra con số tổn thất của quân Đức trong cả Mặt trận Volga (bao gồm Stalingrad và phụ cận) là gần 1,5 triệu người, khoảng 3.500 xe tăngpháo tiến công, 12.000 khẩu đại báccối, gần 3.000 máy bay, một số lớn khí tài quân sự. Báo Nước Nga ngày nay cũng đưa ra con số 1,5 triệu người chết, bị thương và bị bắt trên toàn khu vực Stalingrad. 5 vạn lính Hiwi, tức những công dân Liên Xô hợp tác với kẻ địch đã bị bắt hoặc bị xử tử.

Hồng quân Xô Viết

Còn Hồng quân tuy chiến thắng nhưng cũng chịu thiệt hại tới 1,1 triệu người. Một nguồn khác cho con số tương tự 1.129.169 thương vong trong đó 478.741 chết/mất tích và 650.878 bị thương. Trong số đó, ở nội đô Stalingrad con số thương vong là 75 vạn người. Có 278 binh sĩ Liên Xô bị bắn hạ vì tội bỏ chạy khi quân thù tấn công. Thiệt hại về thường dân là 4 vạn người chết trong nội đô Stalingrad do các cuộc không kích của phát xít Đức, khi tập đoàn quân thiết giáp số 4 và tập đoàn quân số 6 tiến vào thành phố. Số dân thường bỏ mạng ngoài thành phố không được thống kê.
Tính chung thiệt hại của cả hai bên từ 2 đến 2,5 triệu người, khiến Trận Stalingrad trở thành trận đánh đẫm máu nhất trong lịch sử thế giới. 

Kết quả, đánh giá và ảnh hưởng

Kết quả

Tập tin:Sword of Stalingrad.jpg
Phiên bản thanh gươm báu của Hoàng gia Anh tặng nhân dân Liên Xô để ghi nhận chiến thắng Stalingrad 1942-1943
Đại thắng Stalingrad của Liên Xô đã đe dọa đến cả Cụm Tập đoàn quân Nam của Đức. Đây được xem là bước ngoặt quyết định về chính trị, quân sự và tâm lý của Chiến tranh thế giới thứ hai vì đây là lần đầu tiên quân đội vô địch của nước phát xít Đức bị đánh bại trong một trận đánh tiêu diệt lớn, với gần 1/4 quân số toàn chiến trường Xô-Đức bị tiêu diệt. Không chỉ vậy, rất nhiều trong số những đơn vị Đức bị tiêu diệt là những đơn vị tinh nhuệ, dày dạn kinh nghiệm chiến đấu (ví dụ như Tập đoàn quân số 6 từng là chủ công trong chiến dịch đánh bại Pháp năm 1940), dù có động viên tân binh thì quân Đức cũng không thể thay thế những đơn vị này được. Số tổn thất về lực lượng và phương tiện ấy đã ảnh hưởng tai hại đến tình hình chiến lược chung và làm rung chuyển tận gốc toàn bộ bộ máy chiến tranh của nước Đức. Vì cả quân Đức, Ý, Hungary, Rumani đều bị tiêu diệt trên sông Volgasông Đông nên uy tín của Đức với các nước đồng minh đã giảm đi rõ rệt. Bắt đầu có bất đồng, tranh cãi vì mất lòng tin vào bộ máy thống trị của Hitler, các nước bắt đầu mong làm thế nào thoát khỏi mạng lưới chiến tranh mà Hitler đã đẩy họ vào. Theo Nguyên soái Zhukov, chiến thắng tại Stalingrad đã tạo thành một làn sóng vui mừng trên khắp thế giới cũng là một cổ vũ lớn đối với các dân tộc ở châu Âu đang nằm dưới sự chiếm đóng của Phát xít Đức.
Thảm bại ở Stalingrad - một điểm ngoặt khiến cho Liên Xô nắm chắc lợi thế của mình - đã trở thành tin dữ nhất của nước Đức đang lúc thất thế. Thậm chí, thắng lợi này còn được xem là một trong những bước ngoặt quyết định hơn cả của nền quân sử thế giới trong thế kỷ 20. Cùng với những chiến thắng của quân lực Đồng Minh tại Tunisia, chiến thắng Stalingrad đã mang lại lợi thế và củng cố niềm tin thắng lợi cho toàn khối Đồng Minh.[18] Về phía Đức, tuy thất bại ở Stalingrad nhưng quân đội phát xít Đức còn rất mạnh và nhiều tiềm lực. Sau đó chừng 6 tháng vào mùa hè năm 1943, quân Đức tổ chức một trận đánh lớn tại vòng cung Kursk như một nỗ lực cuối cùng nhằm giành lại thế chủ động tiến công chiến lược. Nhưng một lần nữa quân Đức lại thua trận và từ đó họ lún sâu vào thế bị động chống đỡ cho đến khi đầu hàng vào tháng 5 năm 1945. Trận Kursk cũng được xem là một bước ngoặt như trận thắng của Liên Xô tại Stalingrad vậy. Quân Liên Xô đang thắng thế, lại hừng hừng khí thế báo thù, với đỉnh cao là trận Berlin vào năm 1945.

Đánh giá


Một góc thành phố Stalingrad sau trận đánh
Chiến bại quyết định tại Stalingrad được xem là trận thua thảm nhất của các chiến binh Đức kể từ sau trận Jena (1806) trong những cuộc chiến tranh của Napoléon, và có thể còn nghiêm trọng hơn cả trận NormandieTây Âu vào năm 1944 Mặc dù phát xít Đức đã chiếm 90% thành phố nhưng những lực lượng Hồng quân còn lại vẫn tử thủ một cách kiên cường và quyết liệt. Đến cuối trận đánh, Hồng quân đã bao vây và tiêu diệt Tập đoàn quân số 6. Một số lực lượng của Tập đoàn quân số 4 cũng bị thương vong trong trận phản công của Hồng quân tại đây.
Khả năng cơ động của quân Đức là một nguyên nhân quan trọng cho thành quả mà họ đạt được trong đầu trận đánh. Trước Stalingrad, Hồng quân chỉ có thể huy động một lượng lớn binh sĩ và giành được chiến thắng trong một trường hợp duy nhất: Moskva. Đáng nhẽ ra quân Đức đã có thể đi vòng qua Stalingrad, vốn có giá trị không lớn về mặt quân sự và những cơ sở vật chất đã được di dời, và tập trung lực lượng hướng xuống phía Nam tới dãy Kavkaz. Tuy nhiên, Hitler lại chọn cách ngược lại, phung phí không biết bao nhiêu binh sĩ thiện chiến trong những trận đánh đẫm máu trong một thành phố tan hoang; điều này mang lại nhiều lợi thế cho các lực lượng Hồng quân đồn trú và giúp Hồng quân có thời gian huy động một lực lượng khổng lồ để thực hiện đòn vu hồi bao vây Tập đoàn quân số 6. Một vài tướng lĩnh Đức cho rằng Hitler đã phung phí một trong những đơn vị quân tinh nhuệ nhất chỉ vì danh dự cá nhân. Tập đoàn quân số 6 được tái lập trong Trận Kursk, tuy nhiên thành phần của nó chủ yếu là những binh sĩ mới được động viên và sức mạnh của nó rõ ràng không thể bằng như trước kia được nữa.
Việc Hitler theo đuổi cùng một lúc quá nhiều mục tiêu cũng là một nhân tố quan trọng đóng góp vào sự bại trận của phát xít Đức ở Stalingrad. Ở phía cực Nam, Cụm Tập đoàn quân A nhận nhiệm vụ đánh chiếm vựa dầu của Liên Xô tại Kavkaz - đặc biệt là tại vùng Baku của Azerbaijan. Đó mới là mục đích ban đầu của chiến dịch và cũng được đánh giá là yếu tố quyết định để nhanh chóng đánh bại Liên Xô. Việc này lẽ ra đã có thể thực hiện được nếu Cụm Tập đoàn quân B không bị thu hút quá nhiều vào Stalingrad - và vì vậy phát xít Đức không có đủ quân lực để đe dọa đến Baku. Ngược lại, nếu Hitler từ bỏ việc đánh Kavkaz thì Đức cũng có thể dồn quân từ Cụm Tập đoàn quân A lên Stalingrad để củng cố cạnh sườn yếu của Cụm Tập đoàn quân B và thậm chí cũng có thể giúp đỡ lực lượng này trong việc tác chiến trong thành phố. Rõ ràng tham vọng của Hitler đã vượt quá khả năng của quân Đức.
Stalingrad cũng là nơi thể hiện ý chí và tính kỉ luật của cả hai phe tham chiến. Trong giai đoạn đầu, Hồng quân phải bảo vệ thành phố trước sự tấn công dữ dội của phát xít Đức. Tổn thất của họ lúc đó thật là khủng khiếp, ước tính rằng một tân binh tham chiến tại đây sẽ không sống sót quá một ngày, còn đối với một sĩ quan là ba ngày. Sự hi sinh của các chiến sĩ Hồng quân được bất tử hóa bởi dòng chữ khắc trên bức tường nhà ga xe lửa - vị trí đã "đổi chủ" đến 15 lần trong suốt chiến dịch - của một binh sĩ Hồng quân thuộc Sư đoàn Cận vệ số 13 (nguyên là Sư đoàn bộ binh số 100) của tướng Rodimtsev khi anh bị thương nặng và đang hấp hối:
Các binh sĩ Cận vệ của Rodimtsev đã chiến đấu và chết tại đây vì Mẹ Tổ quốc.
Các binh sĩ Đức cũng thể hiện tính kỉ luật cao độ của họ trong thời gian họ bị Hồng quân bao vây. Đâu là lần đầu tiên việc này được thể hiện khi một lực lượng quy mô khổng lồ của phát xít Đức nằm trong một tình thế hết sức khó khăn. Đặc biệt vào giai đoạn cuối của chiến dịch khi thực phẩm và quần áo bị thiếu hụt, nhiều lính Đức bị chết đói, chết rét nhưng kỷ luật của Tập đoàn quân số 6 vẫn được giữ nghiêm minh cho đến tận giờ phút cuối cùng, khi mọi người đều nhận thấy rằng kháng cự là vô ích. Bản thân Tư lệnh Friedrich Paulus cũng tuân thủ nghiêm ngặt mệnh lệnh của Hitler bất chấp các tướng lĩnh Đức khác - kể các Von Manstein - khẩn khoản yêu cầu ông nhanh chóng mở một cuộc phá vây thoát ra ngoài.

Vinh danh


759.560 binh sĩ, sĩ quan Liên Xô được trao tặng huân chương vì đã lập công trong chiến dịch Stalingrad từ 17 tháng 7, 1942 đến 2 tháng 2, 1943
Trong trận Stalingrad này, dù đã hứng chịu tổn thất to lớn (hơn cả thiệt hại của quân Đức) mà Hồng quân hoàn toàn đánh bại một lực lượng tinh nhuệ hạng nhất trong quân lực Đức trên Mặt trận Nga - Tập đoàn quân thứ sáu của Paulus, chứ không phải là những đội hình yếu ớt và tuyệt vọng như ở trận Berlin vào năm 1945. Vì sự dũng cảm và anh hùng của các chiến sĩ Hồng quân bảo vệ thành phố, năm 1945 Stalingrad được phong danh hiệu Thành phố Anh hùng. Tháng 10 năm 1967, 24 năm sau ngày diễn ra trận đánh, tượng đài Mẹ Tổ quốc kêu gọi được dựng lên ngọn đồi Mamayev Kurgan, đỉnh cao của thành phố. Đây cũng là nơi xây dựng khu tượng đài nổi tiếng rất to lớn để ghi nhớ trận đánh và tên của hơn một triệu chiến sĩ Hồng quân Xô Viết đã hi sinh tại Stalingrad. Khu phức hợp nhằm kỷ niệm các liệt sĩ trận vong tại Stalingrad bao gồm cả những ngôi nhà đổ nát trong thành phố được mọi người giữ nguyên trạng nhằm kỷ niệm trận đánh. Những chứng tích về các trận đánh ở Kho thóc Lớn, ở ngôi nhà Pavlov vẫn được bảo tồn để mọi người tham quan. Khoảng 50 năm sau trận ác chiến, những đống xương khô hãy còn phủ đầy các ngọn đồi gần thành phố. Và đến tận bây giờ hài cốt của các liệt sĩ và những mảnh sắt thép vụn vẫn được tìm thấy trên đồi Mamayev như một biểu tượng của sự hi sinh to lớn của các chiến sĩ cũng như của thắng lợi rực rỡ của Hồng quân tại trận đánh mang tính bước ngoặt này.
Huân chương Suvorov hạng nhất đã được trao tặng cho G.K.Zhukov, A.M.Vasilevsky, N.N. Voronov, N.F.Vatutin, A.I.Yeryomenko, K.K.Rokossovsky vì có thành tích góp phần vào công tác lãnh đạo chung đưa cuộc phản công ở Stalingrad đến thắng lợi to lớn. Rất nhiều tướng lĩnh, sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ cũng được khen thưởng. Trung tướng Aleksandr Rodimtsev, Tư lệnh sư đoàn cận vệ số 13 được phong tặng danh hiệu Anh hùng Liên bang Xô Viết. Còn, thống chế Đức Friedrich Paulus bị bắt làm tù binh, ông tham gia vào một tổ chức của các tướng lĩnh Đức bị bắt làm tù binh, với mục đích kêu gọi chế độ Hitler chấm dứt chiến tranh và đàm phán với Liên Xô. Ông được thả vào năm 1953 và trở thành thanh tra công an ở Đông Đức vào cuối đời. Ông qua đời tại đây vào năm 1957.
Sau khi I. V. Stalin chết (1953), cùng với trào lưu chống sùng bái cá nhân Stalin, ban lãnh đạo Liên Xô đã đổi tên thành phố Stalingrad thành Volgograd nhưng trận chiến vĩ đại ở đây vẫn mang tên là trận Stalingrad.

Trong văn hóa đại chúng

Các điều kiện khắc nghiệt của trận chiến bao gồm mùa đông Nga khủng khiếp gây ra cái lạnh và cái đói cho quân Đức đã được thể hiện trong một số bộ phim của Đức, Nga, Anh và Hoa Kỳ. Trận đánh cũng được thể hiện trong một số tác phẩm văn học vì tầm quan trọng của nó trong việc đẩy lui quân xâm lược Đức và cả về sự khốc liệt và tàn bạo của chiến trường, nơi con số binh sĩ thương vong thuộc dạng kinh hoàng đến mức chưa từng có trước đây.

Vũ khí được sử dụng trong trận Stalingrad

Hồng quân Xô Viết: súng ngắn Tokarev TT-33, súng ngắn ổ quay Nagant 1895; súng tiểu liên PPSh-41, PPS-42 và PPS-43, PPD-40; súng trường Mosin Nagant M91/30 (phiên bản bình thường lẫn phiên bản bắn tỉa), Mosin Nagant M38 Carbine, súng trường bán tự động SVT-40; trung liên Degtyarov DP-28; súng máy Maxim M1910, súng máy hạng nặng DShK; lựu đạn F1, RPG-40RGD-33; xe tăng T-34, súng trường chống tăng PTRS-41 và PTRD, chai xăng.
Phát xít Đức: súng ngắn Luger P08, Walther P38, Walther PPK, súng tiểu liên MP-38MP-40, súng trường Karabiner 98k, súng trường bán tự động Gewehr 43Gewehr 41, trung liên FG-42, súng máy MG-34, súng máy MG-42, lựu đạn M24, súng chống tăng Panzerschreck, Panzerfaust, súng phòng không Flak-38, xe tăng Panzer II và III, xe tăng Tiger I.
Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 12:48, ngày 6 tháng 10 năm 2014.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét