Thứ Năm, 23 tháng 10, 2014

VIỆT NAM HIỀN HÒA 48 (Nghề làm muối)

(ĐC sưu tầm trên NET)

Natri clorua

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Natri clorua
Tinh thể clorua natri
Tinh thể clorua natri
Tổng quan
Danh pháp IUPAC natri clorua
Tên khác halua
muối (thường)
muối ăn
Công thức phân tử NaCl
Phân tử gam 58,4 g/mol
Biểu hiện Chất rắn kết tinh màu
trắng hay không màu
Số CAS [7647-14-5]
Thuộc tính
Tỷ trọngpha 2,16 g/cm3, rắn
Độ hòa tan trong nước 35,9 g/100 ml (25°C)
Điểm nóng chảy 801°C (1074 K)
Điểm sôi 1465°C (1738 K)
pKa
pKb
Độ nhớt  ? cP ở 20 °C
Nguy hiểm
MSDS MSDS ngoài
Các nguy hiểm chính Chất kích thích
NFPA 704 Nfpa h1.pngNfpa f0.pngNfpa r0.png
Điểm bắt lửa Không cháy
Rủi ro/An toàn R: Không có
S: Không có
Số RTECS VZ4725000
Trang dữ liệu bổ sung
Cấu trúc & thuộc tính n εr, v.v.
Dữ liệu nhiệt động lực Các trạng thái
rắn, lỏng, khí
Dữ liệu quang phổ UV, IR, NMR, MS
Các hợp chất liên quan
Các hợp chất tương tự Natri florua
Natri bromua
Natri iođua
Các hợp chất liên quan Clorua liti
Clorua kali
Clorua rubiđi
Clorua xêzi
Clorua magiê
Clorua canxi
Natri axetat
Ngoại trừ có thông báo khác, các dữ liệu
được lấy ở 25°C, 100 kPa
Thông tin về sự phủ nhận và tham chiếu
Đối với hợp chất này của natri dùng trong khẩu phần ăn uống, xem bài Muối ăn.
Clorua natri, còn gọi là natri clorua, muối ăn, muối, muối mỏ, hay halua, là hợp chất hóa học với công thức hóa học NaCl. Clorua natri là muối chủ yếu tạo ra độ mặn trong các đại dương và của chất lỏng ngoại bào của nhiều cơ thể đa bào. Là thành phần chính trong muối ăn, nó được sử dụng phổ biến như là đồ gia vị và chất bảo quản thực phẩm.

Cấu trúc tinh thể


Cấu trúc tinh thể clorua natri. Mỗi nguyên tử có 6 nguyên tử cận kề tạo ra cấu trúc bát diện. Sự phân bổ này được gọi là khối lập phương kín (ccp).
Lục sẫm = Na+
Lam nhạt = Cl-
Clorua natri tạo thành các tinh thể có cấu trúc cân đối lập phương. Trong các tinh thể này, các ion clorua lớn hơn được sắp xếp trong khối khép kín lập phương, trong khi các ion natri nhỏ hơn điền vào các lỗ hổng bát diện giữa chúng. Mỗi ion được bao quanh bởi 6 ion khác loại. Cấu trúc cơ bản như thế này cũng được tìm thấy trong nhiều khoáng chất khác và được biết đến như là cấu trúc halua.

Vai trò sinh học

Clorua natri là khoáng chất thiết yếu cho sự sống trên Trái Đất. Phần lớn các mô sinh họcchất lỏng trong cơ thể chứa các lượng khác nhau của clorua natri. Nồng độ các ion natri trong máu có mối liên quan trực tiếp với sự điều chỉnh các mức an toàn của hệ cơ thể-chất lỏng. Sự truyền các xung thần kinh bởi sự truyền tính trạng tín hiệu được điều chỉnh bởi các ion natri. (Các ion kali- một kim loại có các thuộc tính rất giống natri, cũng là thành phần chính trong cùng các hệ cơ thể).
Dung dịch 0,9% clorua natri trong nước được gọi là nước đẳng trương hay dung dịch sinh lý học do nó là đẳng trương với huyết tương. Nó được biết đến trong y học như là normal saline. Sung dịch nước đẳng trương là cơ sở chính của phẫu thuật thay thế chất lỏng được sử dụng rộng rãi trong y học để ngăn chặn hay xử lý sự mất nước, hay để truyền ven để ngăn sốc do mất máu.
Người là dị thường trong số các loài linh trưởng do có sự tiết ra mồ hôi chứa một lượng lớn clorua natri.

Muối trong lịch sử


Các tinh thể muối được hình thành một cách tự nhiên
Khả năng bảo quản của muối là cơ sở của các nền văn minh. Nó góp phần loại bỏ sự phụ thuộc vào khả năng cung ứng thực phẩm theo mùa và cho phép con người có thể đi xa khỏi nơi cư trú mà không lo sợ thiếu thực phẩm. Vào thời Trung cổ, các đoàn lữ hành cùng với khoảng 40.000 lạc đà đã đi tới 4.000 dặm xuyên qua Sahara có chở theo muối, đôi khi để trao đổi lấy nô lệ.
Cho đến những năm đầu thế kỷ 20, muối vẫn còn là một trong các động cơ chủ yếu của các nền kinh tế và các cuộc chiến tranh. Muối đóng một vai trò nổi bật trong việc xác định quyền lực và sự phân bổ vị trí của các thành phố lớn nhất trên thế giới. Timbuktu đã từng là một trong các thị trường muối lớn nhất. Liverpool phát triển từ một cảng nhỏ của Anh để trở thành hải cảng xuất khẩu chủ yếu đối với các loại muối mỏ được khai thác từ mỏ muối lớn Cheshire và vì thế trở thành nguồn của muối thế giới trong những năm thế kỷ 19.
Muối đã tạo ra và hủy diệt các vương quốc. Các mỏ muối ở Ba Lan đã dẫn tới sự ra đời của hoàng loạt các vương quốc trong thế kỷ 16, và chỉ bị tiêu diệt khi người Đức đưa ra loại muối biển (thông thường, đối với phần lớn trên thế giới, được coi là 'hơn hẳn' muối mỏ). Người Venezia đã đánh nhau và giành thắng lợi trong cuộc chiến với người Genova về vấn đề muối. Tuy nhiên, người Genova mới là người giành thắng lợi cuối cùng. Những công dân Genova như Christopher ColumbusGiovanni Caboto đã "phá hủy" thương mại ở Địa Trung Hải bằng việc giới thiệu Tân Thế Giới đối với thị trường.
Muối đã từng là một trong số các hàng hóa có giá trị nhất đối với loài người. Muối đã từng bị đánh thuế có lẽ từ thế kỷ 20 TCNTrung Quốc. Trong thời kỳ Đế chế La Mã, muối đôi khi được sử dụng như là đơn vị tiền tệ, và có lẽ là nguồn gốc của từ salary ("salt money"-tức tiền muối, xem dưới đây từ nguyên học). Cộng hòa La MãĐế chế La Mã đã kiểm soát giá muối, tăng nó để có tiền cho các cuộc chiến hay giảm nó để đảm bảo cho các công dân nghèo nhất cũng có thể dễ dàng có được phần quan trọng trong khẩu phần thức ăn này. Trong tiến trình lịch sử, muối ăn đã có ảnh hưởng tới diễn biến các cuộc chiến, chính sách tài chính của các nhà nước và thậm chí là sự khởi đầu của các cuộc cách mạng.
Tại đế chế Mali, các thương nhân ở Timbuktu thế kỷ 12-cánh cửa tới sa mạc Sahara và trung tâm văn học-đánh giá muối có giá trị đến mức chỉ có thể mua nó theo trọng lượng tính đúng bằng trọng lượng của vàng; việc kinh doanh này dẫn tới truyền thuyết về sự giàu có khó tưởng tượng nổi của Timbuktu và là nguyên nhân dẫn tới lạm phátchâu Âu, là nơi mà muối được xuất khẩu tới.
Thời gian sau này, ví dụ trong thời kỳ đô hộ của người Anh thì việc sản xuất và vận chuyển muối đã được kiểm soát ở Ấn Độ như là các biện pháp để thu được nhiều tiền thuế. Điều này cuối cùng đã dẫn tới cuộc biểu tình muối ở Dandi, do Mahatma Gandhi dẫn đầu vào năm 1930 trong đó hàng nghìn người Ấn Độ đã ra biển để sản xuất muối cho chính họ nhằm phản đối chính sách thuế của người Anh.
Việc buôn bán muối dựa trên một thực tế — nó đem lại nhiều lợi nhuận hơn khi bán các thực phẩm có chứa muối chứ không phải chính muối. Trước khi các mỏ muối ở Cheshire được phát hiện thì việc kinh doanh khổng lồ các loại của người Anh đối với muối của người Pháp đã từng tồn tại. Điều này không phải là sự hòa hợp tốt đẹp cho mỗi quốc gia khi họ không muốn phụ thuộc vào nhau. Cuộc tìm kiếm cá và muối đã dẫn tới cuộc chiến tranh bảy năm giữa hai nước. Với sự kiểm soát của người Anh đối với nghề muối ở Bahamascá tuyết Bắc Mỹ thì tầm ảnh hưởng của họ đã tăng lên nhanh chóng trên thế giới. Việc tìm kiếm các mỏ dầu vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 đã sử dụng các công nghệ và phương thức mà những người khai thác muối đã dùng, thậm chí đến mức mà họ tìm kiếm dầu ở những nơi có các mỏ muối.


Trong tôn giáo

Có 32 chỉ dẫn liên quan tới muối trong Kinh Thánh, quen thuộc nhất có lẽ là câu chuyện về vợ của Lot, là người đã trở thành cột muối sau khi bà đã không tuân lệnh các thiên sứ và quay lại nhìn thành phố độc ác Sodom (Chúa sáng tạo ra thế giới 19:26). Giê-su cũng được nói đến đối với các tín đồ của ông như là "muối của đất" (Matthew 5:13), một minh chứng cho giá trị lớn của muối trong thế giới cổ đại.
Trong tín ngưỡng shinto của người Nhật, muối được coi là "tinh khiết" và có thể sử dụng để làm tinh khiết (ban phúc) cho con người và các địa điểm.

Sản xuất và sử dụng


Các ruộng muối để làm bay hơi nước biển của người JordanIsrael ở phía nam biển Chết.
Ngày nay, muối được sản xuất bằng cách cho bay hơi nước biển hay nước muối từ các nguồn khác, chẳng hạn các giếng nước muối và hồ muối, và bằng khai thác muối mỏ.
Trong khi phần lớn mọi người là quen thuộc với việc sử dụng nhiều muối trong nấu ăn, thì họ có thể lại không biết là muối được sử dụng quá nhiều trong các ứng dụng khác, từ sản xuất bột giấy và giấy tới cố định thuốc nhuộm trong công nghiệp dệt may và sản xuất vải, trong sản xuất xà phòngbột giặt. Tại phần lớn các khu vực của Canada và miền bắc Hoa Kỳ thì một lượng lớn muối mỏ được sử dụng để giúp làm sạch băng ra khỏi các đường cao tốc trong mùa đông, mặc dù "Road Salt" mất khả năng làm chảy băng ở nhiệt độ dưới -15 °C tới -20 °C (5 °F tới -4 °F).
Muối cũng là nguyên liệu để sản xuất clo là chất cần thiết để sản xuất nhiều vật liệu ngày nay như PVC và một số thuốc trừ sâu.
Độ hòa tan của NaCl trong các dung môi khác nhau
(g NaCl / 100 g dung môi ở 25 °C)
H2O 36
Dung dịch amôniắc 3,02
Mêtanol 1,4
Axít formic 5,2
Sulfolan 0,005
Axêtônitril 0,0003
Axêtôn 0,000042
Formamid 9,4
Đimêtyl formamid 0,04
Tham khảo:
Burgess, J. Metal Ions in Solution
(Ellis Horwood, New York, 1978)
ISBN 0-85312-027-7

Chất điều vị

Muối được sử dụng chủ yếu như là chất điều vị cho thực phẩm và được xác định như là một trong số các vị cơ bản. Thật không may là nhiều khi người ta ăn quá nhiều muối vượt quá định lượng cần thiết, cụ thể là ở các vùng có khí hậu lạnh. Điều này dẫn đến sự tăng cao huyết áp ở một số người, mà trong nhiều trường hợp là nguyên nhân của chứng nhồi máu cơ tim.

Sử dụng trong sinh học

Nhiều loại vi sinh vật không thể sống trong các môi trường quá mặn: nước bị thẩm thấu ra khỏi các tế bào của chúng. Vì lý do này muối được sử dụng để bảo quản một số thực phẩm, chẳng hạn thịt/cá xông khói. Nó cũng được sử dụng để khử trùng các vết thương.

Đống muối

Khử băng

Trong khi muối là mặt hàng khan hiếm trong lịch sử thì sản xuất công nghiệp ngày nay đã làm cho nó trở thành mặt hàng rẻ tiền. Khoảng 51% tổng sản lượng muối toàn thế giới hiện nay được các nước có khí hậu lạnh dùng để khử băng các con đường trong mùa đông. Điều này là do muối và nước tạo ra một hỗn hợp eutectiđiểm đóng băng thấp hơn khoảng 10°C so với nước nguyên chất: các ion ngăn cản không cho các tinh thể nước đá thông thường được tạo ra (dưới −10 °C thì muối không ngăn được nước đóng băng). Các e ngại là việc sử dụng muối như thế có thể bất lợi cho môi trường. Vì thế tại Canada thì người ta đã đề ra các định mức để giảm thiểu việc sử dụng muối trong việc khử băng.

Các phụ gia

Muối ăn mà ngày nay người ta mua về dùng không phải là clorua natri nguyên chất như nhiều người vẫn tưởng. Năm 1911 cacbonat magiê đã lần đầu tiên được thêm vào muối để làm cho nó ít vón cục. Năm 1924 các lượng nhỏ iốt trong dạng natri iođua, kali iođua hay kali iođat đã được thêm vào, tạo ra muối iốt nhằm giảm thiểu tỷ lệ mắc bệnh bướu cổ.

Từ nguyên học

Muối có ảnh hưởng tới tiếng Anh. Nhiều hiệu ứng của nó vẫn có thể thấy được cho đến tận ngày nay. Các từ và thành ngữ liên quan đến muối chủ yếu đến từ các nền văn minh cổ đại của La MãHy Lạp khi muối còn là mặt hàng có giá trị lớn.
Binh lính La Mã đã được trợ cấp để mua muối (tiếng Latinh: sal), salarium argentum, mà từ đó có từ tiếng Anh ngày nay salary. Người La Mã cũng thích cho muối vào rau xanh của họ, điều này dẫn đến từ Latinh cho muối được tích hợp lại trong từ salad (trong tiếng Latinh bản xứ thì salata có nghĩa là "ướp muối").

Các dữ liệu khác

  • Đất mặn nói chung không thích hợp cho nông nghiệp, vì thế đã có thực tế của làm mặn đất.
  • Niềm tin mê tín là muối bị rớt xuống đem lại sự không may mắn được cho là có nguồn gốc từ lọ muối bị lật đổ trước mặt Giu-đa tại Bữa ăn tối cuối cùng, được thể hiện trong bức họa nổi tiếng của Leonardo da VinciBữa ăn tối cuối cùng.
  • Do nồng độ muối cao của mình nên nước của biển Chết có tỷ trọng riêng cao đến mức một số vật thể mà thông thường không nổi trong nước vẫn có khả năng nổi trong nước của biển này. Người có thể nổi dễ dàng trong nước của biển này, do có tỷ trọng riêng chỉ cao hơn một chút so với nước tinh khiết. (Chỉ có 8% muối trong nước biển Chết là clorua natri; 53% là clorua magiê, 37% là clorua kali.)
  • Các thành phố Cincinnati, DetroitHutchinson là các thành phố có nhiều mỏ muối đang khai thác nhất.
  • Đệ tam Quốc xã lưu trữ phần lớn tiền, các bức tranh và các công trình nghệ thuật khác trong các mỏ muối và nhiều tài liệu, vật phẩm quan trọng vẫn tiếp tục được lưu trữ trong các mỏ muối cũ cho đến nay. Chúng cũng được sử dụng để lưu trữ chất thải hạt nhân.

Muối ăn

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Tinh thể muối.
Muối ăn hay trong dân gian còn gọi đơn giản là muối (tuy rằng theo đúng thuật ngữ khoa học thì không phải muối nào cũng là muối ăn) là một khoáng chất, được con người sử dụng như một thứ gia vị tra vào thức ăn. Có rất nhiều dạng muối ăn: muối thô, muối tinh, muối iốt. Đó là một chất rắn có dạng tinh thể, có màu từ trắng tới có vết của màu hồng hay xám rất nhạt, thu được từ nước biển hay các mỏ muối. Muối thu được từ nước biển có các tinh thể nhỏ hoặc lớn hơn muối mỏ. Trong tự nhiên, muối ăn bao gồm chủ yếu là clorua nátri (NaCl), nhưng cũng có một ít các khoáng chất khác (khoáng chất vi lượng). Muối ăn thu từ muối mỏ có thể có màu xám hơn vì dấu vết của các khoáng chất vi lượng. Muối ăn là cần thiết cho sự sống của mọi cơ thể sống, bao gồm cả con người. Muối ăn tham gia vào việc điều chỉnh độ chứa nước của cơ thể (cân bằng lỏng). Vị của muối là một trong những vị cơ bản. Sự thèm muối có thể phát sinh do sự thiếu hụt khoáng chất vi lượng cũng như do thiếu clorua nátri.
Muối ăn là tối thiết cho sự sống, nhưng việc sử dụng quá mức có thể làm tăng độ nguy hiểm của các vấn đề sức khỏe, chẳng hạn như bệnh cao huyết áp. Trong việc nấu ăn, muối ăn được sử dụng như là chất bảo quản cũng như là gia vị.

Lịch sử

Khả năng bảo quản của muối là cơ sở của các nền văn minh. Nó góp phần loại bỏ sự phụ thuộc vào khả năng cung ứng thực phẩm theo mùa và cho phép con người có thể đi xa khỏi nơi cư trú mà không lo sợ thiếu thực phẩm. Vào thời Trung cổ, các đoàn lữ hành cùng với khoảng 40.000 lạc đà đã đi tới 4.000 dặm xuyên qua Sahara có chở theo muối, đôi khi để trao đổi lấy nô lệ. Cho đến những năm đầu thế kỷ 20, muối vẫn còn là một trong các động cơ chủ yếu của các nền kinh tế và các cuộc chiến tranh. Muối đóng một vai trò nổi bật trong việc xác định quyền lực và sự phân bổ vị trí của các thành phố lớn nhất trên thế giới. Timbuktu đã từng là một trong các thị trường muối lớn nhất. Liverpool phát triển từ một cảng nhỏ của Anh để trở thành hải cảng xuất khẩu chủ yếu đối với các loại muối mỏ được khai thác từ mỏ muối lớn Cheshire và vì thế trở thành nguồn của muối thế giới trong những năm thế kỷ 19. Muối đã tạo ra và hủy diệt các vương quốc. Các mỏ muối ở Ba Lan đã dẫn tới sự ra đời của hoàng loạt các vương quốc trong thế kỷ 16, và chỉ bị tiêu diệt khi người Đức đưa ra loại muối biển (thông thường, đối với phần lớn trên thế giới, được coi là 'hơn hẳn' muối mỏ). Người Venezia đã đánh nhau và giành thắng lợi trong cuộc chiến với người Genova về vấn đề muối. Tuy nhiên, người Genova mới là người giành thắng lợi cuối cùng. Những công dân Genova như Christopher Columbus và Giovanni Caboto đã "phá hủy" thương mại ở Địa Trung Hải bằng việc giới thiệu Tân Thế Giới đối với thị trường. Muối đã từng là một trong số các hàng hóa có giá trị nhất đối với loài người. Muối đã từng bị đánh thuế có lẽ từ thế kỷ 20 TCN ở Trung Quốc. Trong thời kỳ Đế chế La Mã, muối đôi khi được sử dụng như là đơn vị tiền tệ, và có lẽ là nguồn gốc của từ salary ("salt money"-tức tiền muối, xem dưới đây từ nguyên học). Cộng hòa La Mã và Đế chế La Mã đã kiểm soát giá muối, tăng nó để có tiền cho các cuộc chiến hay giảm nó để đảm bảo cho các công dân nghèo nhất cũng có thể dễ dàng có được phần quan trọng trong khẩu phần thức ăn này. Trong tiến trình lịch sử, muối ăn đã có ảnh hưởng tới diễn biến các cuộc chiến, chính sách tài chính của các nhà nước và thậm chí là sự khởi đầu của các cuộc cách mạng. Tại đế chế Mali, các thương nhân ở Timbuktu thế kỷ 12-cánh cửa tới sa mạc Sahara và trung tâm văn học-đánh giá muối có giá trị đến mức chỉ có thể mua nó theo trọng lượng tính đúng bằng trọng lượng của vàng; việc kinh doanh này dẫn tới truyền thuyết về sự giàu có khó tưởng tượng nổi của Timbuktu và là nguyên nhân dẫn tới lạm phát ở châu Âu, là nơi mà muối được xuất khẩu tới. Thời gian sau này, ví dụ trong thời kỳ đô hộ của người Anh thì việc sản xuất và vận chuyển muối đã được kiểm soát ở Ấn Độ như là các biện pháp để thu được nhiều tiền thuế. Điều này cuối cùng đã dẫn tới cuộc biểu tình muối ở Dandi, do Mahatma Gandhi dẫn đầu vào năm 1930 trong đó hàng nghìn người Ấn Độ đã ra biển để sản xuất muối cho chính họ nhằm phản đối chính sách thuế của người Anh. Việc buôn bán muối dựa trên một thực tế — nó đem lại nhiều lợi nhuận hơn khi bán các thực phẩm có chứa muối chứ không phải chính muối. Trước khi các mỏ muối ở Cheshire được phát hiện thì việc kinh doanh khổng lồ các loại cá của người Anh đối với muối của người Pháp đã từng tồn tại. Điều này không phải là sự hòa hợp tốt đẹp cho mỗi quốc gia khi họ không muốn phụ thuộc vào nhau. Cuộc tìm kiếm cá và muối đã dẫn tới cuộc chiến tranh bảy năm giữa hai nước. Với sự kiểm soát của người Anh đối với nghề muối ở Bahamas và cá tuyết Bắc Mỹ thì tầm ảnh hưởng của họ đã tăng lên nhanh chóng trên thế giới. Việc tìm kiếm các mỏ dầu vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 đã sử dụng các công nghệ và phương thức mà những người khai thác muối đã dùng, thậm chí đến mức mà họ tìm kiếm dầu ở những nơi có các mỏ muối.

Các dạng muối ăn

Muối thô

Một số người cho rằng muối thô tốt hơn cho sức khỏe hay tự nhiên hơn. Tuy nhiên muối thô có thể chứa không đủ lượng i-ốt cần thiết để phòng ngừa một số bệnh do thiếu i-ốt như bệnh bướu cổ.

Muối tinh


Đá muối (Halit)
Muối tinh, được sử dụng rộng rãi hiện nay, chủ yếu là chứa clorua nátri (NaCl). Tuy nhiên, chỉ có khoảng 7% lượng muối tinh được sử dụng trong đời sống hàng ngày như là chất thêm vào thức ăn. Phần lớn muối tinh được sử dụng cho các mục đích công nghiệp, từ sản xuất bột giấy và giấy tới việc hãm màu trong công nghệ nhuộm vải hay trong sản xuất xà phòng và chất tẩy rửa và nó có một giá trị thương mại lớn.
Việc sản xuất và sử dụng muối là một trong những ngành công nghiệp hóa chất lâu đời nhất. Muối có thể thu được bằng cách cho bay hơi nước biển dưới ánh nắng trong các ruộng muối. Muối thu được từ nước biển đôi khi còn được gọi là muối biển. Ở những nước có mỏ muối thì việc khai thác muối từ các mỏ này có thể có giá thành thấp hơn. Các mỏ muối có lẽ được hình thành do việc bay hơi nước của các hồ nước mặn cổ. Việc khai thác các mỏ muối này có thể theo các tập quán thông thường hay bằng cách bơm nước vào mỏ muối để thu được nước muối có độ bão hòa về muối.
Sau khi thu được muối thô, người ta sẽ tiến hành các công nghệ làm tinh để nâng cao độ tinh khiết cũng như các đặc tính để dễ dàng vận chuyển, lưu giữ. Việc làm tinh muối chủ yếu là tái kết tinh muối. Trong quá trình này người ta sẽ làm kết tủa các tạp chất (chủ yếu là các hợp chất của magiê và canxi). Quá trình bay hơi nhiều công đoạn sau đó sẽ được sử dụng để thu được clorua nátri tinh khiết và nó được làm khô.
Các chất chống đóng bánh hoặc iốtua kali (KI) (nếu làm muối iốt) sẽ được thêm vào trong giai đoạn này. Các chất chống đóng bánh là các hóa chất chống ẩm để giữ cho các tinh thể muối không dính vào nhau. Một số chất chống ẩm được sử dụng là tricanxi phốtphát, cacbonat canxi hay magiê, muối của các axít béo, ôxít magiê, điôxít silic, silicat nátri-nhôm, hay silicat canxi-nhôm. Cũng lưu ý rằng có thể có độc tính của nhôm trong hai hóa chất sau cùng, tuy nhiên cả liên minh châu Âu (EU) và FDA của Mỹ vẫn cho phép sử dụng chúng với một liều lượng có điều chỉnh.
Muối tinh sau đó được đóng gói và phân phối theo các kênh thương mại.

Muối iốt

Muối ăn ngày nay là muối tinh, chứa chủ yếu là clorua nátri nguyên chất (95% hay nhiều hơn). Nó cũng chứa các chất chống ẩm. Thông thường nó được bổ sung thêm iốt dưới dạng của một lượng nhỏ iốtua kali. Nó được sử dụng trong nấu ăn và làm gia vị. Muối ăn chứa iốt làm tăng khả năng loại trừ các bệnh có liên quan đến thiếu hụt iốt. Iốt là chất quan trọng trong việc ngăn chặn việc sản xuất không đủ của các hoóc môn tuyến giáp, thiếu iốt là nguyên nhân của bệnh bướu cổ hay chứng đần ở trẻ em và chứng phù niêm ở người lớn.

Các hiệu ứng sức khỏe

Natri là một trong những chất điện giải cơ bản trong cơ thể. Quá nhiều hay quá ít muối ăn trong ăn uống có thể dẫn đến rối loạn điện giải, có thể dẫn tới các vấn đề về thần kinh rất nguy hiểm, thậm chí có thể gây chết người. Việc sử dụng quá nhiều muối ăn còn liên quan đến bệnh cao huyết áp.
Các chất thay thế cho muối ăn (với mùi vị tương tự như muối ăn thông thường) cho những người cần thiết phải hạn chế ion natri Na+ trong cơ thể, chủ yếu là chứa clorua kali (KCl).

Lợi ích khác của muối

Muối dùng để ướp các thực phẩm tươi sống như cá, tôm, cua, thịt trước khi chế biến để tránh bị ươn, hư, dùng làm chất bảo quản cho các thực phẩm, để làm một số món ăn như muối dưa, muối cà, làm nước mắm,... Do có tính sát trùng nên muối ăn còn được pha loãng làm nước súc miệng hay rửa vết thương ngoài da.
Muối ăn không chỉ dùng để ăn mà còn dùng cho các việc khác trong ngành công nghiệp đặc biệt là ngành hóa chất:
2NaCl + 2H2O (điện phân dung dịch có màng ngăn)-> 2NaOH + H2 + Cl2
  • NaOH dùng làm điều chế xà phòng, công nghiệp giấy. H2 làm nhiên liệu, bơ nhân tạo, sản xuất axit. Cl2 sản xuất chất dẻo, chất diệt trùng và sản xuất HCl
NaCl (điện phân nóng chảy) -> Na + 1/2Cl2
  • Na điều chế hợp kim, chất trao đổi nhiệt
2NaOH + Cl2 -> NaCl + NaClO + H2O
  • NaClO là chất sản xuất tẩy rửa, diệt trùng
NaClO + H2O + CO2 -> NaHCO3 + HClO
  • NaHCO3 dùng để sản xuất thủy tinh, xà phòng, chất tẩy rửa tổng hợp

Triết lý của khẩu vị

(Thethaovanhoa.vn) - Nếu như cái lưỡi (nếm vị) của con người rất tinh, thì cái mũi ngửi hương (mùi) lại rất xoàng.
1. Lần trước chúng ta đã nói nhiều về khẩu vị, và những thực phẩm đem lại vị chua. Ăn có vị do lưỡi nếm là một phần của đời sống cảm giác được nâng cao, trong đó ăn muối mặn, là tập quán chỉ có ở người. Động vật hoàn toàn không biết đến ăn muối, trừ phi là gia súc quen ăn với người.
Vị mặn quan trọng đến nỗi, thiếu muối người ta có thể bị bệnh gì đó, mà nhà văn Nguyên Ngọc đã từng mô tả trong Đất nước đứng lên về thời kỳ đói muối của người Tây Nguyên. Trong các tiểu thuyết về các vùng dân tộc thiếu muối xưa, nhà văn mô tả, người dân khó khăn lắm mới có một cục muối mỏ bằng viên cuội, mỗi lần nấu canh, người ta buộc viên muối nhúng qua xuống nồi.
Song ăn muối nhiều, cũng bị bệnh, nó làm cho thận phải hoạt động nhiều hơn. Người Mỹ chẳng hạn, giảm ăn muối đến mức tối thiểu, họ chỉ dùng những lọ muối xay nhỏ, để trên bàn, ai ăn thì tự cho vào thức ăn.

Ăn muối vừa khỏe vừa làm hại thận, thật là mâu thuẫn!
Người Việt thời chiến tranh cũng ăn rất mặn, nhưng đến nay khả năng ăn mặn cũng giảm đi. Công thức mà Hồ Chủ tịch nêu ra trong những cuộc hành quân và đi hoạt động trong rừng là 1 kg thịt, 1 kg muối, 1 kg ớt, xào lên với nhau, bỏ vào ống nứa làm thức ăn lâu dài, rất hiệu quả về dinh dưỡng và tạo ra năng lượng. Ở các vùng lạnh khô, như Nga và phía tây bắc Trung Quốc, thì phần lớn thực phẩm (chủ yếu thịt) người ta ướp muối lâu dài, do vừa lạnh vừa khô lâu, thịt cứng đến nỗi không thể thái, mà chỉ có thể chặt bằng rìu, hoặc bào mỏng. Người ta có thể ăn sống thịt ướp muối đó và rất bổ sinh lực, sau khi ăn thịt muối, có thể tắm nước lạnh vào mùa đông.
Nhà văn Bùi Bình Thi kể rằng nhà văn Lev Tolstoy có cả hầm thịt muối, cạnh đó có cài những con dao, rìu, thỉnh thoảng đại văn hào lại xẻo một miếng chén sống, nên cái "khoản kia" của ngài rất kinh khủng. Những người thợ lặn mò ngọc trai biển xưa, thường phải uống hàng bát nước mắm mỗi khi xuống nước. Vậy là ăn muối vừa khỏe vừa làm hại thận, thật là mâu thuẫn, vì chúng ta chẳng biết ăn bao nhiêu là vừa độ, bao nhiêu là quá độ, cứ thấy ngon miệng là được.
2. Giữa vị và hương có một khoảng cách rất gần, ta ăn thức ăn và ngửi thấy chúng có mùi như thế nào. Nếu như cái lưỡi (nếm vị) của con người rất tinh, thì cái mũi ngửi hương (mùi) lại rất xoàng, trong khi ngửi mùi là cảm giác sống còn của động vật. Nhờ mùi mà động vật phân biệt được các loài xung quanh mình, và con cái của nó trong bầy đàn. Động vật nuôi cũng chủ yếu xác định chủ qua mùi. Nếu như con người thường nhớ bạn mình qua hình ảnh, thì hình ảnh không đóng vai trò ký ức với động vật, vì hình ảnh luôn thay đổi, ví dụ con chó không tài nào phân biệt được chủ nếu cứ thay quần áo xoành xoạch và son phấn hàng ngày, nhưng chúng không bao giờ quên mùi gốc của chủ, và có thể ngửi mùi này với khoảng cách vài cây số.
Động vật về căn bản không tắm rửa, cũng ít loài ra mồ hôi, nên bản thân mỗi loài có một mùi đặc trưng. Voi và trâu thi thoảng cũng dùng mỹ phẩm bằng bùn chát lên người, và chúng quá to để mất mùi khi lẫn bùn. Xưa kia, khi rừng còn nhiều muông thú, thì người ta xác định hổ qua sự phản ứng của các loài, loài nào cũng sợ hổ. Ngửi thấy mùi hổ từ ba dặm, ngựa đã rúc đầu vào bụi đá lung tung chân sau ra ngoài, chó thì từ năm đến chín dặm ngửi thấy mùi hổ đã rít lên và chạy chui vào gậm gường, nhưng hổ thì có thể ngửi xa đến ba mươi dặm, nhưng đây lại là yếu điểm để người ta dụ nó vào cái bẫy, vì nó cũng như động vật nói chung xác định rất tốt vị trí con mồi, kể cả tình trạng không gian. Người ta cho rằng một con chó nghiệp vụ có khả năng ngửi xa đến 20km, và độ chính xác gấp tới một triệu lần so với mũi người.
Nếu như con người kém về mùi thì các cảm giác khác từ xúc giác sờ mó, nhìn hình ảnh mầu sắc và nghe âm thanh lại phát triển theo một hướng khác có tính văn hóa so với động vật. Như triết học nói rằng lịch sử hình thành con người là lịch sử đào luyện các giác quan. Không loại vật nào có nghệ thuật ẩm thực, hội họa và âm nhạc.
Theo chú giải của thiền sư Cưu Ma La Thập về kinh Kim Cương, cấu tạo của con người hay sự vật nói chung gồm các loại tính từ thấp lên cao: Địa – Thủy – Hỏa – Phong – Không. Địa sẽ sinh ra xúc (cảm giác vật chất, da thịt ). Thủy sẽ sinh ra vị. Hỏa sẽ sinh ra hương. Phong sẽ sinh ra thanh. Không sẽ sinh ra sắc.

Tóm lại là Địa – Thủy – Hỏa – Phong – Không/ Xúc – Vị - Hương – Thanh – Sắc. Không là một khái niệm vừa là vật chất, vừa vô hình, vừa quan niệm được là một trạng thái, vừa không quan niệm được. Sắc có thể là hình tướng, có thể là tinh thần. Hai khái niệm sắc và không thực ra là không dịch được mang tính trừu tượng.
3. Con người sờ mó, vuốt ve, làm tình, tiếp xúc bằng vật chất là trạng thái thấp nhất. Nếm chua cay mặn nhạt bằng lưỡi cao hơn một chút, giống như ta uống vị chát của trà. Ngửi hương vị của hoa cỏ, thực phẩm, thưởng ngoạn hương thơm của trà cao hơn chút nữa. Rồi nghe tiếng nói, âm thanh, âm nhạc, nhìn mầu sắc, hình khối, ánh sáng trong tự nhiên và nghệ thuật và thăng hoa lên dạng tinh thần.
Các trạng thái cao vốn có đủ các yếu tố cảm giác của trạng thái thấp, nhưng vì người ta không tin, không xa rời được cái hiện thực cụ thể, nên lúc nào cũng đòi "tiền tươi thóc thật" và tự kéo mình xuống mức thấp. Từ một một hòn đá cho đến một cô gái đẹp cũng chỉ là sự kết hợp khác nhau của năm loại trên và nó liên tục chuyển hóa, quay đi quay lại giữa cái tri giác được và không tri giác được, cái hiện hữu và cái không hiện hữu.
(*) Xem kỳ 1 với tiêu đề "Chua cay ngọt bùi"
Phan Cẩm Thượng, 2013
Thể thao & Văn hóa Cuối tuần

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét