Thứ Năm, 16 tháng 10, 2014

CÂU CHUYỆN LỊCH SỬ 33/c (Vệ quốc vĩ đại ở Liên Xô)

(ĐC sưu tầm trên NET)

Trận Leningrad

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Trận Leningrad
Một phần của Chiến tranh Xô-Đức trong
Chiến tranh thế giới thứ hai
RIAN archive 306 Tanks going to the front.jpg
Xe tăng KV của quân đội Liên Xô được sản xuất tại Leningrad tiến ra mặt trận, ngày 1 tháng 5 năm 1942.
.
Thời gian 8 tháng 9, 194127 tháng 1, 1944
Địa điểm Leningrad, Liên Xô
Tọa độ 59°57′B 30°19′ĐTọa độ: 59°57′B 30°19′Đ
Kết quả Liên Xô chiến thắng
Tham chiến
Đức Quốc Xã Đức Quốc Xã
Phần Lan Phần Lan
Ý Phát xít Ý
Tây Ban Nha Tây Ban Nha
Liên Xô Liên Xô
Chỉ huy
Đức Quốc Xã Wilhelm von Leeb
Đức Quốc Xã Georg von Küchler
Đức Quốc Xã Georg-Hans Reinhardt
Tây Ban Nha Agustín Muñoz Grandes
Phần Lan Carl Gustaf Emil Mannerheim
Liên Xô K. E. Voroshilov
Liên Xô G. K. Zhukov
Liên Xô L. A. Govorov
Liên Xô M. M. Popov
Liên Xô I. S. Isakov
Liên Xô V. F. Tributs


Lực lượng
725.000 (ban đầu) 930.000 (ban đầu)
Tổn thất
Đức Quốc Xã Đức Quốc xã
Theo Liên Xô:
Khoảng 500.000 chết và bị thương.
Theo Đức:
Khoảng 130.000 chết
480.000 bị thương
230.000 bị bắt hoặc mất tích
Phần Lan Phần Lan
Không rõ thương vong, ước tính khoảng vài chục ngàn
Quân nhân:
1,017,881 chết, bị bắt hoặc mất tích (nhiều người chết vì đói hoặc bệnh)
2,418,185 bị thương hoặc bị ốm
Tổng cộng: 3.436.066 người
Thường dân: 1 triệu thường dân chết,
trong đó có 632.253 người chết vì đói và rét.
16.747 công trình xây dựng
bị phá hủy vì bom, pháo.
.

Trận Leningrad là cuộc phong tỏa quân sự của quân đội Đức Quốc xã đối với thành phố Leningrad (hiện nay là Sankt-Peterburg), đồng thời là cuộc phòng thủ dài ngày nhất trong Chiến tranh thế giới thứ hai của Quân đội Liên Xô. Đây là một trong các trận đánh có tỉ lệ tử vong cao trong lịch sử thế giới và là trận đánh có số dân thường thiệt mạng cao nhất trong toàn bộ Chiến tranh Xô-Đức. Từ khi bị quân đội Đức Quốc xã bao vây cho đến khi được quân đội Liên Xô giải phóng, cuộc phong tỏa Leningrad kéo dài 871 ngày; bắt đầu từ tháng 9 năm 1941 và kết thúc vào ngày 27 tháng 1 năm 1944. Trận Leningrad là một trong các biểu tượng lớn nhất của cuộc đọ sức cả về quân sự cũng như về sức chịu đựng của con người giữa chế độ Xô Viết và chế độ Quốc Xã. Như dự kiến của Kế hoạch Barbarossa thì Leningrad là một mục tiêu chiến lược mà nếu chiếm được nó, nước Đức Quốc xã sẽ làm giảm sút đáng kể khả năng phòng thủ của Liên Xô, mở đường tiến tới Arkhangelsk. Việc chiếm Leningrad không chỉ là chiếm đóng một thành phố bình thường mà còn là việc chiếm đóng nơi đã nổ ra cuộc Cách mạng tháng 10 Nga, một biểu tượng chính trị quan trọng của Liên Xô. Đồng thời, chiếm Leningrad cũng là chiếm được một căn cứ hải quân quan trọng để phục vụ cuộc đối đầu trên biển giữa hải quân Đức Quốc xãHải quân Anh trên biển Baltic.

Bối cảnh mặt trận

Theo kế hoạch Barbarossa, mặt trận Tây Bắc Liên Xô bao gồm lãnh thổ của ba nước cộng hòa vùng Đông Baltic: Litva, LatviaEstonia, vùng Tây Bắc nước Nga từ eo đất Karelia đến tuyến Tikhvin - Novgorod với thành phố Leningrad là mục tiêu cực kỳ quan trọng. Không gian chiến dịch còn bao gồm cả vùng phía Đông biển Baltic, phía nam vịnh Bosni và Vịnh Phần Lan. Trên đất liền, chiến sự còn diễn ra tại eo đất Karelia, nơi đã từng là mặt trận chính của cuộc chiến tranh Liên Xô - Phần Lan từ mùa đông đến mùa hè năm 1940. Khác với các vùng trung tâm và phía Nam Liên Xô, đây là vùng đất nằm sát vòng Bắc cực, có khí hậu giá lạnh, mùa hè ngắn ngủi với những đêm trắng. Các hoạt động quân sự tại đây đòi hỏi phải có những trang thiết bị phù hợp cho con người và phương tiện.
Với địa hình vùng đồng bằng ven biển Baltic tương đối bằng phẳng. Các con sông Neman, Tây Dvina, Velikaiya, Luga chủ yếu chảy theo hướng Đông Nam - Tây Bắc không phải là các con sông lớn. Do đó, đây là vùng đất có thể phát huy được ưu thế của xe tăng, pháo binh và không quân. Ngoài ra, vùng địa bàn ven biển tuy gần vòng Bắc cực nhưng biển Baltic không đóng băng nên đây cũng là nơi dễ dàng sử dụng hải quân để phối hợp với lực lượng trên bộ.
Tham gia chiến dịch tấn công Leningrad còn có quân đội Phần Lan do tướng Carl Gustaf Emil Mannerheim chỉ huy. Tuy nhiên, mục tiêu của Phần Lan chỉ là để giành lại eo đất Karelia đã phải cắt nhượng cho Liên Xô sau cuộc chiến tranh Liên Xô-Phần Lan năm 1940 nên sự phối hợp giữa quân đội Đức và quân đội Phần Lan là hạn chế do mục đích không gặp nhau. Ngoài ra, còn có hơn 3.000 quân Tây Ban Nha của chế độ độc tài Franco do viên tướng Agustín Muñoz Grandes chỉ huy. Nhưng trên mặt trận Xô-Đức khổng lồ với tổng quân số hai bên hàng chục triệu người thì đội quân của Tây Ban Nha mang tính chất tượng trưng hơn là có hiệu lực chiến đấu trên thực tế.

Binh lực và ý đồ tác chiến của hai bên

Quân đội Đức Quốc xã và đồng minh Phần Lan


Thống chế Wilhelm von Leeb (tư lệnh Cụm tập đoàn quân Bắc), tướng Erich Hoepner, tướng Beaulieu-Marconnay và tướng Angern xem xét kế hoạch tấn công

Quân đội Đức Quốc xã

Cụm tập đoàn quân Bắc của Quân đội Đức Quốc xã tại mặt trận Xô-Đức được giao nhiệm vụ tấn công về hướng Leningrad và vùng Tây Bắc Liên Xô có tổng quân số trên một triệu người với 20 sư đoàn bộ binh Đức, 4 sư đoàn xe tăng Đức, 2 sư đoàn cơ giới Đức, 7 sư đoàn quân Phần Lan và một trung đoàn quân của Franco. Số quân này được biên chế như sau:
  • Tập đoàn quân xe tăng 4 gồm quân đoàn xe tăng 38, 46, 47 và quân đoàn cơ giới 41 do tướng Erich Hoepner chỉ huy
  • Tập đoàn quân dã chiến 16 gồm các quân đoàn bộ binh 1, 2, 10, 28 và quân đoàn 50 thuộc tập đoàn quân 9 do tướng Ernst Busch chỉ huy
  • Tập đoàn quân dã chiến 18 gồm quân đoàn bộ binh 26 và quân đoàn cơ giới 42 do tướng Georg von Küchler chỉ huy
  • Quân đoàn xe tăng 56.
  • Tập đoàn quân không quân 1.

Quân đội Phần Lan

  • Quân đoàn bộ binh 1 (2 sư đoàn bộ binh).
  • Quân đoàn bộ binh 2 (2 sư đoàn bộ binh).
  • Quân đoàn bộ binh 4 (3 sư đoàn bộ binh).
Do địa bàn vùng Pribaltic tương đối quen thuộc với người Đức nên Thống chế Wilhelm Ritter von Leeb, tư lệnh Cụm tập đoàn quân Bắc có thể đưa ra những giải pháp quân sự mà nước Đức Quốc xã đã áp dụng năm 1940 tại các nước Hà Lan, Bỉ, LuxemburgPháp. Đó là việc sử dụng những mũi đột kích mạnh của ba quân đoàn xe tăng để chia cắt và đẩy lùi ba tập đoàn quân Liên Xô phòng ngự tại vùng biên giới. Sau đó, khép chặt sườn phải với Cụm tập đoàn quân Trung tâm hợp vây các tập đoàn quân phía sau của Liên Xô trên vùng cửa ngõ phía Nam Leningrad, cắt đứt các tuyến giao thông từ Moskva đi Leningrad, hội quân với quân Phần Lan tại vùng hồ Ladoga, cô lập Leningrad trên bộ. Tại hướng ven biển, sử dụng quân đoàn cơ giới 57 phối hợp với tập đoàn quân 18 dồn quân đội Liên Xô ra biển ở hướng Riga - Tallinn, bao vây và tiêu diệt các binh đoàn này. Hướng phát triển tấn công của Cụm quân được hoạch định đến Arkhangelsk.

Quân đội Liên Xô

Sát trước chiến tranh, tại vùng Leningrad, Bộ Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô bố trí tại đây Quân khu Leningrad chỉ với 21 sư đoàn được biên chế trong các tập đoàn quân 7, 23, 42 và 54. Ngoài ra còn có tập đoàn quân 14 phòng thủ khu vực Murmansk trong vòng Bắc Cực. Tại các nước cộng hòa Litva, LatviaEstonia, Quân khu Pribaltic có trong biên chế 25 sư đoàn bộ binh, 4 sư đoàn xe tăng, 2 sư đoàn cơ giới, được biên chế trong các tập đoàn quân 8, 11 và 27; các quân đoàn cơ giới 7 và 10.
Chỉ 10 ngày sau khi nước Đức Quốc xã tấn công Liên Xô, Phương diện quân Pribaltic đã để mất toàn bộ phần đất tại các nước cộng hòa ven biển Baltic; bị tổn thất 2/3 tập đoàn quân, bị mất phần lớn xe tăng, xe thiết giáp của các quân đoàn cơ giới và phải lui sâu vào nội địa đến tuyến Tikhvin, Staraiya - Russa và chuyển thành Phương diện quân Volkhov. Quân khu Leningrad phải chuyển nhiệm vụ chiến lược và chủ lực của mình từ hướng Bắc (để đối phó với Phần Lan), sang hướng Đông, Nam và Tây Nam (để đối phó với quân Đức). Khi Leningrad bị bao vây và phải tách một phần binh lực cho Phương diện quân Karelia, biên chế của nó chỉ còn các tập đoàn quân 23, 42 và 54 cùng một quân đoàn cơ giới với vẻn vẹn một sư đoàn xe tăng 46. Tập đoàn quân 27 do bị tách rời khỏi chủ lực Phương diện quân nên được chuyển giao cho Phương diện quân Volkhov.
Ý đồ phòng thủ ban đầu của Phương diện quân Leningrad là dựa vào tuyến sông Luga để lập một tuyến phòng ngự dài 250 km từ vịnh Phần Lan đến hồ Inmen. Phía sau tuyến này là các khu phòng thủ kiên cố tại tuyến Oranienbaum, Petrodvoresh, Ropsha, Krasnaia Selo, Krasnaia Vardeisk, Tosno. Phương thức phòng thủ theo tuyến ban đầu đã không ngăn được sức tấn công của tập đoàn quân 18 và tập đoàn quân xe tăng 4 của Đức. Đến tháng 9 và tháng 10 năm 1941, Bộ Tư lệnh Phương diện quân phải từ bỏ phương thức này và tập trung binh lực giữ các con đường chính đi vào Leningrad từ các hướng Tây, Tây Nam và Nam.

Leningrad trở thành thành phố - mặt trận

Chiến sự vùng Pribaltic và khu vực Leningrad cuối năm 1941


Tuyến mặt trận Xô-Đức tại vùng Pribaltic và khu vực Tây Bắc Liên Xô từ ngày 9 tháng 7 qua ngày 1 tháng 9 đến ngày 6 tháng 12
Đến ngày thứ ba của cuộc Chiến tranh Xô-Đức, Cụm tập đoàn quân Bắc (Đức) do Thống chế Wilhelm von Leeb chỉ huy đã đẩy lùi các tập đoàn quân 8, 11 và quân đoàn cơ giới 3 của Phương diện quân Pribaltic vào sâu nội địa Liên Xô có nơi từ 80 đến 100 km. Ngày 24 tháng 6, Bộ Tổng tư lệnh tối cao quân đội Liên Xô điều động quân đoàn cơ giới 21 do tướng D. D. Leliushenko chỉ huy từ Quân khu Moskva kéo ra phản kích vào tập đoàn quân xe tăng 4 đang tiến công vào hai bên sườn tập đoàn quân 27 do tướng N. E. Berdarin chỉ huy tại khu vực Daugapinsk (Daugava). Tuy nhiên, tướng Erich Höpner đã đi trước một bước. Quân đoàn cơ giới 56 do tướng Erich von Manstein chỉ huy thuộc tập đoàn quân này đã chiếm các bến vượt quan trọng trên sông Tây Dvina và đánh chiếm Daugapinsk. Quân đoàn cơ giới 21 chỉ chặn được tập đoàn quân xe tăng Đức đến ngày 2 tháng 7. Ngày 11 tháng 7, tập đoàn quân xe tăng 4 của tướng Erich Höpner chỉ huy tiếp tục đẩy lùi các cuộc phản kích quân đội Liên Xô và tiến đến vùng Đông Nam Leningrad. Tại cánh Nam của mặt trận, tập đoàn quân 16 (Đức) đã đánh chiếm thành phố Pskov. Tại cánh Bắc mặt trận, tập đoàn quân 18 (Đức) đã bao vây số quân còn lại của tập đoàn quân 8 (Liên Xô) và Bộ tư lệnh tiền phương Phương diện quân Tây Bắc tại Tallinn. Đến ngày 11 tháng 7, Cụm tập đoàn quân Bắc (Đức) đã chiếm được Litva, Latvia, Estonia (trừ khu vực xung quanh Tallinn), một phần lãnh thổ Nga. Leningrad bắt đầu bị uy hiếp với nguy cơ quân Đức vượt sông Luga trên địa đoạn phòng ngự mỏng nhất của quân đội Liên Xô. Cũng như ở Kiev, ngay trong những ngày mùa hè năm 1941, người dân Leningrad cũng tự coi như mình đã được động viên.
Ngày 27 tháng 6 năm 1941, Cùng với việc động viên 96.000 tân binh, Hội đồng thành phố Leningrad quyết định huy động hơn nửa triệu người cho việc thiết lập các công sự phòng thủ quanh thành phố. Một trong các công sự kéo dài từ cửa sông Luga đến Chudovo, Gatchina, Uritsk, Pulkovo và cuối cùng là sông Neva. Các công sự khác kéo dài từ Petergof đến Gatchina, Pulkovo, KolpinoKoltushy. Trên thực tế, một hệ thống công sự phòng thủ khác chống lại quân Phần Lan đã được xây dựng trong suốt thập niên 1930 nhưng chủ yếu là ở phía Bắc. Hệ thống phòng thủ mới kéo dài từ phần ngoại ô phía bắc của thành phố, và đến thời điểm này được trưng dụng và xây mới thêm. Công sự phòng thủ sau khi hoàn thành bao gồm 190 km bằng gỗ, 630 km hàng rào thép, 700 km hào chống tăng, 5000 công sự bằng gỗ và bê tông, hơn 25.000 km hào đã được công nhân thành phố xây dựng. Các loại súng trang bị cho chiến hạm Rạng Đông (Aurora) được dời lên cụm điểm cao Pulkovskiye ở phía Nam của Leningrad.

Quân đội Liên Xô cơ động pháo binh bảo vệ Leningrad ngày 1 tháng 11 năm 1941. (Ảnh của RIA NOVOSSTI)
Đầu tháng 7 năm 1941, quân Đức đã khóa chặt con đường đến thành phố OstrovPskov. Ngày 11 tháng 7, Cụm tập đoàn quân Bắc (Đức) tiếp tục tấn công. Cánh phải của tập đoàn quân xe tăng 4 của tướng Erich Höpner phối hợp với cánh trái của tập đoàn quân 16 tấn công và đánh chiếm thành phố Pskov. Mặc dù không quân Liên Xô đã ném bom vào các bến vượt tại sông Tây Dvina nhưng quân đội Đức Quốc xã vẫn chiếm được một số đầu cầu quan trọng. Ngày 12 tháng 7, quân Đức tiếp tục tiến đến KundaKingishep. Tuy nhiên, những nỗ lực của quân Đức tấn công Leningrad bằng đường biển đều bị Hạm đội Baltic của Liên Xô chặn đứng trước tuyến thủy lôi chặn ngang vịnh Phần Lan từ phía Đông Helsinky đến khu Oranielburg. Ngày 20 tháng 7, Cụm tập đoàn quân Bắc lại một lần nữa phải tạm dừng cuộc tấn công để đối phó với cuộc phản công của tập đoàn quân 42 (Liên Xô) vào Narva. Đến cuối tháng 8 năm 1941, tập đoàn quân 16 cắt đứt con đường sắt Moskva - Lenigrad tại tuyến Tosno, Liuban, Chudovo và tiến đến phía Nam hồ Ilmen, đe doạ cô lập Leningrad từ phía Tây Nam và dự kiến hội quân với quân đội Phần Lan tại bờ Đông hồ Ladoga. Tuyến đường sắt cuối cùng đến Leningrad chấm dứt hoạt động đến ngày 30 tháng 8. Ngày 23 tháng 8, Bộ Tổng tư lệnh tối cao quân đội Liên Xô quyết định chia Phương diện quân Bắc thành Phương diện quân Leningrad và Phương diện quân Karelia.
Đến ngày 8 tháng 9, con đường cuối cùng liên lạc với thành phố bị cắt đứt khi quân Đức tiến tới hồ Lagoda ở Orekhovets và Shlishenburg. Các trận pháo kích bắt đầu từ ngày 8 tháng 9 vói sự tham gia của 178 khẩu pháo. Ngày 7 tháng 9, do phải điều tập đoàn quân xe tăng 4 về hướng Moskva, theo chỉ thị của Hitler, quân Đức đã chuyển từ tấn công sang bao vây cô lập thành phố và không chấp nhận bất cứ một sự đầu hàng nào. Ý đồ của quân đội Đức là: "Sau khi tính đến những nhu cầu của con người tại mặt trận Leningrad, nơi đối phương tập trung một khối lượng lớn người và phương tiện vật chất thì tình hình ở đây căng thẳng cho tới lúc mà người đồng minh của chúng ta là nạn đói sẽ đến". Bên cạnh việc cô lập thành phố, Bộ chỉ huy Cụm tập đoàn quân Bắc (Đức) còn vạch một kế hoạch phá hủy thành phố một cách có hệ thống bằng không quân oanh tạc và pháo tầm xa cỡ lớn.

Phong tỏa và chống phong tỏa

Kế hoạch phòng thủ mới


Một khẩu đội pháo phòng không trên đường phố Leningrad
Ngay sau khi đến Leningrad ngày 9 tháng 9 nhận chức vụ tư lệnh Phương diện quân thay cho nguyên soái K. E. Voroshilov được điều động đi xây dựng các đơn vị dự bị chiến lược, đại tướng G. K. Zhukov đã yêu cầu thực hiện ngay các biện pháp phòng thủ mới:
  • Rút ra một bộ phận pháo phòng không làm pháo bắn thẳng để tăng cường vũ khí cho các tuyến chống tăng;
  • Tập trung hỏa lực của tất cả các pháo hạm để yểm hộ cho tập đoàn quân 42 đang phòng ngự trên dãy cao điểm Urisk - Punkovsky, hướng hiểm yếu nhất trên tuyến phòng thủ phía Tây Nam thành phố;
  • Xây dựng hệ thống phòng ngự có chiều sâu gồm súng chống tăng, cao xạ, mìn chống tăng, các chướng ngại vật và hào chống tăng.
  • Do quân Phần Lan chưa có hành động tấn công, điều chuyển một phần lực lượng của tập đoàn quân 23 tăng cường cho tập đoàn quân 42;
  • Thành lập từ 5 đến 6 lữ đoàn bộ binh độc lập lấy từ lính hải quân của Hạm đội Baltic và học viên các trường quân sự. Động viên 9 sư đoàn dân quân với quân số khoảng 96.000 người.
Ngày 10 tháng 9, tập đoàn quân 18 (Đức) được sự yểm hộ của máy bay ném bom và pháo binh hạng nặng tiếp tục công kích khu phòng ngự Urisk - Punkovsky. Việc Bộ Tư lệnh Phương diện quân điều động tập đoàn quân 23 tăng cường cho tập đoàn quân 42 đã kịp thời đẩy lùi các đợt công kích của quân Đức. Ngày 17 tháng 9, trước nguy cơ thành phố bị đánh chiếm, Bộ tư lệnh Phương diện quân Leningrad đã phải tung sư đoàn bộ binh 10 là lực lượng dự bị cuối cùng mà họ có trong tay vào cuộc phản kích. Hầu hết pháo cao xạ được rút ra khỏi nội thành và được điều đến các tuyến phòng thủ để chống lại bộ binh và xe tăng Đức. Tại địa đoạn Punkovsky, hơn 500 khẩu pháo các cỡ đã được đưa vào trận và chủ yếu sử dụng phương pháp bắn thẳng vào đội hình tấn công của quân Đức. Ngày 18 tháng 9, tập đoàn quân 54 (Liên Xô) tổ chức phản kích tại khu vực Kolpin - Puskin, buộc quân Đức phải ngừng cuộc tấn công vào khu phòng thủ Urisk - Punkovsky. Ngày 6 tháng 10 năm 1941, Thống chế Wilhelm von Leeb chuyển quân đoàn xe tăng 56 và chủ lực của Cụm tập đoàn quân Bắc về hướng Tikhvin và tiến công vào khu vực "cổ chai" Shlishenburg, phía Nam hồ Ladoga. Tập đoàn quân 54 bị tách khỏi chủ lực Phương diện quân. Mặc dù Tập đoàn quân 4 (tái lập) đã mở ngay các cuộc công kích vào sườn cánh quân chủ lực của tập đoàn quân 16 (Đức) để thủ tiêu nguy cơ bao vây Leningrad nhưng do không đủ binh lực và phương tiện nên đến ngày 18 tháng 10, tập đoàn quân 16 (Đức) đã chiếm Tikhvin, tiến đến cửa ngõ thành phố Volkhov, cắt đứt tuyến đường sắt chính từ Volkhov đi Leningrad. Chỉ có hành động kiên quyết của các tập đoàn quân 4 và độc lập 7 (Liên Xô) dưới sự chỉ huy của đại tướng Kiril Mereskov mới chặn đứng được tập đoàn quân 16 (Đức) trên tuyến Mga, Volkhov, Tikhvin, Novgorod.

Leningrad trong vòng phong toả
Trong khi đó thì tập đoàn quân 54 dưới quyền chỉ huy của nguyên soái G. I. Kulik (do bị tách rời nên chuyển thuộc Phương diện quân Volkhov) đã hoàn toàn thụ động ngồi chờ quân Đức mặc dù họ có thể tấn công vào sườn phải quân đoàn cơ giới 41 (Đức). Động thái này của chỉ huy tập đoàn quân 54 đã dẫn đến hậu quả tai hại cho Phương diện quân Leningrad. Không bị đe dọa từ bên sườn, quân đoàn cơ giới 41 (Đức) tấn công thẳng vào Shlisselburg và siết chặt "chiếc thòng lọng" bao vây Leningrad. Ngày 19 tháng 9, không quân Đức Quốc xã mở một cuộc không kích lớn trong suốt 18 giờ liền vào Leningrad. Có đến 275 máy bay Đức tiến hành 6 đợt ném bom rải thảm liên tục từ 1 giờ 05 phút sáng đến 19 giờ tối, mở đầu cho chiến dịch bao vây, phá hoại và bóp chết Leningrad trong nạn đói và rét.

"Tồn tại hay không tồn tại"

http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/b/b3/Bronzewar.jpg
Locot bằng gỗ được người dân Leningrad xây dựng để bảo vệ bức tượng đồng Piotr Đại đế tại Leningrad trong những ngày bị phong toả
Bảo vệ các công trình của thành phố
Ngày 8 tháng 9 năm 1941, bằng đòn tấn công chia cắt đoạn tiếp giáp giữa tập đoàn quân xung kích 4 và tập đoàn quân 54 của Liên Xô tại phía Nam hồ Ladoga, tập đoàn quân 16 (Đức) đánh chiếm đầu mối đường sắt Mga và khu vực "cổ chai" Shlisselburg. Ở phía Bắc, quân đội Phần Lan vẫn giữ phòng tuyến từ Lembolovo, vòng qua phía Bắc hồ Ladoga đến sông Svir ở phía Đông. Cụm chiến dịch ven biển của quân đội Liên Xô tại "mỏm Oranielbaum" cũng phải lùi về tuyến Petergov, Ust, Rudina. Leningrad hoàn toàn bị cắt đứt liên lạc trên bộ với đất nước Liên Xô. Tuyến đường thủy qua hồ Ladoga thường xuyên bị máy bay và pháo binh Đức quốc xã uy hiếp. Ngày 2 tháng 9 năm 1941, Adolf Hitler ra chỉ thị cho Bộ tư lệnh hải quân Đức: "Cần phải tiến đến gần thành phố này và phá hủy nó bằng một dàn pháo binh của tất cả các cỡ đại bác và máy bay ném bom tầm xa". Do bị hạm đội Baltic ngăn chặn bằng tuyến thuỷ lôi trên vịnh Phần Lan, Hải quân Đức phải dùng đường sắt vận chuyển các loại pháo hạm, trong đó, nhiều khẩu có cỡ nòng từ 180 mm đến 420 mm đến vùng phụ cận Tây Nam và Nam Leningrad để bắn phá thành phố. Từ các trận địa pháo hạng nặng đặt tại Krasnoiye Selo, Krasnoiye Vardeisk, Sluck, quân đội Đức Quốc xã tiếp tục gia tăng các cuộc pháo kích vào Leningrad. Máy bay ném bom của Đức hầu như làm chủ không phận Leningrad. Trong thời gian vây hãm Leningrad, quân đội Đức Quốc xã đã sử dụng khoảng 150.000 quả đạn đại bác, hơn 100.000 quả bom cháy, khoảng 4.600 quả bom phá để hủy hoại thành phố. Nhiều công trình quan trọng trong thành phố sập đổ. Người dân Leningrad đã dựng những locot (Блокада) để bảo vệ các công trình kiến trúc và nghệ thuật quan trọng của thành phố.
Vấn đề lương thực thực phẩm

Tem phiếu cấp phát thực phẩm của thành phố Leningrad trong những ngày bị phong toả
Đến ngày 2 tháng 9, khẩu phần ăn của người dân Leningrad bắt đầu bị cắt giảm: một công nhân được cung cấp 600 g bánh mì một ngày, lao động bình thường được 400 g, trẻ em và các thành phần khác được 300 g một ngày. Một lượng lớn ngũ cốc, bột và đường bị phá hủy vào ngày 8 tháng 9. Một vài sau khi cuộc bao vây bắt đầu, người ta vẫn có thể ăn trong một vài nhà hàng nên chỉ trong một thời gian ngắn như vậy, các nhà hàng này đã tiêu thụ hết 12% mỡ và 10% thịt dự trữ của thành phố. Đầu mùa đông năm 1941, những khó khăn lớn về lương thực thực phẩm đã xuất hiện. Do mặt hồ Ladoga bắt đầu đóng băng, các trận bão tuyết hoành hành khiến cho tuyến tiếp tế đường thủy phải ngừng hoạt động. Nạn đói bắt đầu đe doạ. Từ ngày 20 tháng 11, khẩu phần thực phẩm của quân đội và dân thường đã phải rút xuống vài lần: Mỗi công nhân chỉ được 250 g bánh mỳ/ngày; người sống nương nhờ và trẻ em được 125 g bánh mỳ/ngày; những người lính trên tuyến 1 và trên các tàu chiến được nhận mỗi ngày 300 g bánh mỳ và 100 g bánh bicote. Tại nhiều điểm phân phát lương thực trong thành phố, người ta đã phải dùng đến cân tiểu ly để cân chính xác từ gam cho một khẩu phần bánh mỳ mà giờ đây đã trở nên quý hơn vàng.

Khẩu phần bánh mỳ trộn mùn cưa của quân nhân và thường dân Leningrad trong những ngày bị quân đội Đức Quốc xã bao vây (hiện vật tại Bảo tàng Sankt-Peterburg)
Một đội tàu nhỏ của hồ Lagoda được trang bị thô sơ và dễ dàng bị máy bay Đức ném bom phá hủy, mấy chiếc xà lan chở ngũ cốc bị chìm vào tháng 9. Một số được trục vớt lên bằng các đội thợ lặn và ngũ cốc bị ẩm này được sử dụng để làm bánh mì nướng. Khi tất cả các nguồn dự trữ bột mì đã hết một số nguồn khác như cellulose và bán khô dầu cho súc vật được tận dụng. Yến mạch cho ngựa cũng được trưng dụng làm thực phẩm, còn ngựa thì được nuôi bằng lá cây. Khi 2000 tấn lòng cừu được tìm thấy ở bến cảng, một món giò đã được làm từ số lòng cừu này. Sau đó, thịt cũng được thay thế bằng giò và da bê thối. Trong suốt cuộc bao vây, có tổng cộng năm đợt giảm khẩu phần: ngày 2 tháng 9, 10 tháng 9, 1 tháng 10, 13 tháng 11 và lần cuối cùng vào ngày 20 tháng 11 năm 1941. Mức độ thiếu ăn được khắc phục phần nào nhờ những vườn cây tự trồng trong các vùng đất của thành phố vào năm 1943.
Vấn đề năng lượng
Cuối tháng 9, nguồn cung cấp dầu và than đá bắt đầu cạn kiệt. Nguồn năng lượng duy nhất vào lúc này là các loại củi. Ngày 8 tháng 10, Ban chỉ huy quân quản và hội đồng thành phố Leningrad (Ленгорисполком) quyết định chặt toàn bộ cây tại các quận PargolovoVsevolzhskiy ở phía Bắc thành phố. Đến ngày 24 tháng 10, hầu như tất cả các loại cây đã bị đốn bỏ để lấy củi. Đến đầu tháng 11, Leningrad đã sử dụng hết những dự trữ nhiên liệu cuối cùng. Do sự thiếu thốn năng lượng, nhiều nhà máy phải đóng cửa vào tháng 11 và tất cả các dịch vụ vận chuyển công cộng đều không thực hiện được. Hệ thống cấp nước của thành phố bị bom và đạn pháo phá hủy. Nguồn nước sử dụng chủ yếu lấy từ sông Neva dưới làn đạn đại liên của quân Đức ở bên kia bờ sông quét sang. Vào mùa hè năm 1942, một số đường ray trong nội bộ thành phố được khôi phục, nhưng các loại xe điện, xe buýt chạy trên đường ray và xe goòng đẩy tay vẫn không thể tới thành phố cho đến khi vòng phong tỏa bị phá vỡ. Việc sử dụng năng lượng bị hạn chế ở nhiều nơi, ngoại trừ căn cứ trung tâm chỉ huy đặt tại điện Smolny, hội đồng thành phố, các căn cứ phòng thủ và một số trung tâm khác.

Tanya Savicheva và những trang nhật ký mùa đông năm 1941-1942
Việc thiếu chất đốt cũng ảnh hưởng nghiêm trọng đến thường dân còn mắc kẹt tại thành phố không kém gì sự thiếu thốn lương thực, thực phẩm. Họ đã phải chịu đựng hai mùa đông khắc nghiệt nhất của vùng Vòng Bắc cực lạnh giá từ năm 1941 đến năm 1943. Nhiều người đã chết trong hoàn cảnh vừa đói, vừa rét. Tại Nhà lưu niệm của nghĩa trang Piskarevskoye, nơi chôn cất hơn 600.000 người dân Leningrad chết vì đói và rét trong gần 900 ngày bị phong tỏa còn lưu trữ những trang nhật ký của Tanya Shavicheva, một thiếu nhi 11 tuổi với những dòng chữ to ghi lại thời điểm những người thân của em qua đời:
"Zhenia chết lúc 12 giờ 30 phút chiều ngày 28 tháng 12 năm 1941
Granny chết lúc 3 giờ chiều ngày 25 tháng 1 năm 1942
Lyoka chết lúc 5 giờ sáng ngày 17 tháng 3 năm 1942
Bác Vasia chết lúc 2 giờ sáng ngày 13 tháng 4 năm 1942
Bác Liosa chết lúc 5 giờ chiều ngày 10 tháng 5 năm 1942
Mẹ chết lúc 7 giờ 30 phút ngày 13 tháng 5 năm 1942
Shavichev đã chết.
Tất cả mọi người đã chết"
Bỏ lại mình cô đơn"
Cuối cùng, chính Tanya Shavicheva cũng không tránh khỏi cái chết. Mặc dù được đưa đến nơi sơ tán nhưng em đã chết năm 1943 vì kiệt sức.

Hậu phương tại chỗ của mặt trận


Nữ công nhân Liên Xô tại xưởng đúc thép duy sản xuất trong thời gian thành phố Leningrad bị vây hãm. tháng 1 năm 1942
Cuộc tấn công và phong tỏa kéo dài của quân đội Đức Quốc xã đã không thể bóp chết được Leningrad. Trong những ngày chiến đấu để bảo vệ Leningrad, hơn nửa triệu thường dân đã tham gia xây dựng hàng trăm km chiến hào, hàng trăm km hào chống tăng, hàng rào dây thép gai, vật cản chống tăng, hàng nghìn hỏa điểm kiên cố bằng bê tông và ụ súng bằng gỗ đắp đất. Các nhà máy được lệnh sản xuất hàng nghìn chướng ngại vật bằng thép và bê tông cốt thép, có trọng lượng từ 0,5 đế 3 tấn dùng để ngăn cản xe tăng. Nhiều ngôi nhà bằng đá được kết cấu lại thành những pháo đài nhỏ. Mặc dù bị thu hẹp sản xuất do phải sơ tán về hậu phương và thiếu hụt nghiêm trọng về nguyên liệu, nhiên liệu nhưng các nhà máy tại Leningrad vẫn cố gắng duy trì hoạt động, vẫn sản xuất được xe tăng, đại bác, súng cối, súng máy, tiểu liên, súng trường, các loại đạn dược. Việc sửa chữa lại vũ khí, phương tiện quân sự bị hư hỏng cũng được tiến hành song song với sản xuất. Các nhà máy quân sự ở Leningrad là một trong những cơ sở đầu tiên sản xuất loại pháo phản lực Katyusha BM-13.
Kể từ khi bị cắt đứt giao thông trên bộ với bên ngoài, Phương diện quân Leningrad chỉ còn có thể nhận được súng bộ binh, đạn và pháo hạng nhẹ từ nội địa Liên Xô. Việc bù đắp hiệt hại về vũ khí nặng, nhất là xe tăng phải trông cậy vào các nhà máy tại thành phố, trong đó có nhà máy Kirov chuyên sản xuất xe tăng hạng nặng KV. Các nhà máy cơ khí khác cũng được huy động vào việc bảo đảm vũ khí, đạn dược và các loại quân trang, quân dụng cho mặt trận. Chỉ trong 6 tháng cuối năm 1941, các nhà máy này đã sản xuất được 713 xe tăng, 480 xe bọc thép, 58 tàu hỏa bọc thép, hơn 3.000 súng chống tăng, gần 10.000 pháo, súng cối các cỡ và hơn 3 triệu viên đạn pháo. Số vũ khí khí tài này đã góp phần bù đắp những thiệt hại về vật chất cho Phương diện quân trong tình trạng bị bao vây.

"Con đường sống"


Đoàn tàu vận tải 310 chở lương thực qua hồ Ladoga tiếp tế cho Leningrad ngày 1 tháng 9 năm 1942. (Ảnh của RIA NOVOSSTI)
Trong những ngày bị phong toả, hồ Ladoga trở thành "con đường sống" (Дорога жизни) của thành phố Leningrad. Đầu năm 1942, khi mặt băng trên hồ Ladoga đã rắn chắc, Liên Xô đã tổ chức vận chuyển cho mặt trận Leningrad súng đạn, lương thực, thực phẩm, thuốc men và nhiên liệu. Tuy với số lượng hạn chế do các đoàn xe ô tô có trọng tải không lớn chạy theo các tuyến đường đã được xe dọn tuyết mở ra trên mặt băng nhưng đã giảm bớt nhiều khó khăn cho thành phố. Mặc dù hoạt động dưới những trận không kích thường xuyên của không quân Đức Quốc xã, đoàn xe vẫn đến được Leningrad và khi quay về, họ chở theo thương binh, những người ốm, phụ nữ, người già và trẻ em. Từ tháng 6 năm 1941 đến tháng 3 năm 1943, đã có 1,7 triệu/3,1 triệu người dân Leningdad đã được sơ tán về phía đông, trong đó có 414.000 trẻ em. Tuy nhiên, đã có 632.253 người chết vì đói và rét, trong đó ngay mùa đông năm đầu tiên bị phong tỏa (1941-1942) đã có hơn 263.000 người chết.
Trong mùa hè năm 1942, mặc dù phải bận đối phó với cuộc tổng tấn công dữ dội của quân đội Đức Quốc xã tại cánh Nam mặt trận Xô-Đức; Nhà nước và Bổ tổng tư lệnh tối cao quân đội Liên Xô vẫn không từ bỏ ý định bảo vệ bằng được thành phố Leningrad. Đầu tháng 6 năm 1942, thành phố đã nhận được những tấn dầu hỏa đầu tiên qua một đường ống dài 25 km đặt ngầm dưới đáy hồ Ladoga. cuối tháng 7 năm 1942, nguồn điện của nhà máy thủy điện Volkhov vừa được khôi phục đã đến được với Leningrad qua một đường cáp điện cũng được đặt ngầm dưới hồ. Hai nguồn năng lượng quan trọng được tiếp tế đã giúp khôi phục hoạt động của một số nhà mày, xí nghiệp, trong đó có các nhà máy sản xuất vũ khí, đạn dược và các thiết bị quân sự. Các tuyến đường thủy đã được khôi phục ngay khi mặt hồ Ladoga tan băng và vận chuyển đến thành phố những nhu yếu phẩm cần thiết; trong đó, ưu tiên số một vẫn là lương thực, thực phẩm và than đá.

"Con đường chiến thắng"


Chuyến xe lửa đầu tiên của Liên Xô chở bột mỳ qua con đường sắt dã chiến đến với Leningrad, tháng 2 năm 1943
Sau khi hợp vây tập đoàn quân đoàn quân 6 và một phần tập đoàn quân xe tăng 4 tại Stalingrad và chắc chắn sẽ đánh tan đạo quân Đức này, Bộ Tổng tư lệnh tối cao quân đội Liên Xô vạch kế hoạch chiến dịch "Tia lửa" ("Искра") nhằm chọc thủng vòng phong tỏa của quân đội Đức để tiếp tế cho Leningrad. Đêm 11 rạng ngày 12 tháng 1 năm 1943, Quân đội Liên Xô thuộc hai phương diện quân Volkhov và Leningrad đã đẩy lùi quân Đức ra khỏi khu vực "cổ chai" Shlisselburg, chiếm được một đoạn hành lang rộng từ 15 đến 30 km phía Nam hồ Ladoga. Đêm 18 rạng ngày 19 tháng 1 năm 1943, sau khi hai cánh quân tiên phong của hai phương diện quân gặp nhau, Đài phát thanh Liên Xô loan tin: "vòng phong tỏa Leningrad đã bị phá vỡ". Ngay sau khi chiếm được khu vực Shlisselburg, Hội đồng quốc phòng Nhà nước Liên xô đã quyết định xây dựng cấp bách một tuyến đường sắt dài 36 km từ ga Zhikharevo đến Shlisselburg. Mặc dù trong khu vực mới chiếm lại được vẫn còn đầy mìn, bom và đạn pháo chưa nổ; mặc dù dưới thời tiết giá buốt dưới 0 độ với những trận tuyết rơi liên tiếp, chỉ sau 15 ngày, tuyến đường sắt này đã đi vào hoạt động. Cùng với con đường sắt dã chiến, người dân Leningrad còn xây dựng một chiếc cầu tạm qua sông Neva. Ngày 11 tháng 2 năm 1943, những chuyến tàu chở bột mỳ, than đá, dầu, quặng kim loại, vũ khí đầu tiên đã đến được Leningrad. Người dân Leningrad gọi đây là "con đường chiến thắng" (Дорога победы). Cùng với "con đường sống", "con đường chiến thắng" cũng đã đi vào lịch sử như một biểu tượng của thành phố. Nó góp phần đẩy lùi những ngày sống trong đói rét của người dân Liên Xô tại thành phố này mặc dù bom đạn vẫn chưa ngưng nổ trên các đường phố. "Con đường chiến thắng" đánh dấu bước tiếp theo sự phá sản đối với các kế hoạch của quân đội Đức Quốc xã định bóp chết thành phố trong lửa đạn, giá rét và nạn đói.

Diễn biến chiến sự

Trận phản công Sinyavino lần thứ nhất


Binh sĩ Liên Xô ngụy trang một chiếc T-34
Trong khi các sư đoàn của Tập đoàn quân 18 (Đức) đang triển khai vòng vây tại sườn phía Nam của Leningrad và Tập đoàn quân 16 phối hợp với Tập đoàn quân và xe tăng 4 (Đức) tiếp tục đột kích về hướng Volkhov - Tikhvil thì những chỉ huy của Phương diện quân Leningrad cho rằng cần phải mỏ một đồn đột kích để nới rộng vòng vây. Trận phản công Sinyavino lần thứ nhất được quân đội Liên Xô tổ chức diễn ra từ ngày 10 đến ngày 26 tháng 9 trên khu vực mở đầu cuộc chiến chống phong tỏa của quân đội Liên Xô tại khu vực Leningrad.
Chiến dịch này được mở với mục tiêu "chặt đứt" khu vực "cổ chai" Shlissenburg để nối thông thành phố Laningrad với "đất lớn" của quân đội Liên Xô. Quyết tâm của Bộ tư lệnh hướng Tây Bắc là rất cao, song binh lực của quân đội Liên Xô trên hướng này khá hạn chế. Các tập đoàn quân 42 và 55 đang phải phòng thủ kịch liệt ở phía Nam sông Neva từ Uritsky qua Punkovo, Pushkin đến phía Đông Kolpino để ngăn chặn Tập đoàn quân 18 (Đức) đang tấn công thành phố. Phòng thủ khu vực dọc sông Neva phía Đông Leningrad chỉ có Cụm phòng ngự Neva với binh lực vỏn vẹn 3 sư đoàn bộ binh và một số cụm pháo. Các tập đoàn quân 4 và 52 đang phải chống đỡ cuộc tấn công của quân Đức tại khu vực Novgorod - Chudovo để cố giữ con đường sắt Moskva - Leningrad. Trong số các lực lượng còn lại chỉ có Tập đoàn quân 54 do Nguyên soái pháo binh G. I. Kulik chỉ huy mới được thành lập ngày 5 tháng 9 năm 1941 gồm các sư đoàn bộ binh 285, 286, 310, 314, Lữ đoàn xe tăng 122 và Tiểu đoàn xe tăng 119 còn tương đối sung sức. Bộ Tổng tư lệnh hướng Tây Bắc (Liên Xô) hy vọng vào sự bất ngờ của cuộc phản công khi quân đội Đức Quốc xã chưa kịp củng cố các vị trí phòng thủ tại khu vực Sinyavino, nơi có ngõ cụt của con đường sắt từ Mga lên. Trước khi cuộc tấn công diễn ra, STAVKA ra chỉ thị giải thể Bộ Tổng tư lệnh hướng Tây Bắc. Nguyên soái K. E Voroshilov trở thành tư lệnh Phương diện quân Leningrad.
Ngày 10 tháng 9, sau khi cuộc tấn công của Quân đoàn xe tăng 41 (Đức) bị chặn lại trên khu vực Pushkin - Punkovo, Tập đoàn quân 54 phát động cuộc phản công vào Sinyavino. Các đòn phản công của Tập đoàn quân 54 tiến triển rất chậm chạp do thiếu pháo binh bắn phá dọn đường và lực lượng thiết giáp khá mỏng, chỉ đủ để yểm hộ cho bộ binh tấn công mà không thể tạo thành một mũi khoan thép. Trong ba ngày đầu từ 10 đến 12 tháng 9, các sư đoàn bộ binh của Tập đoàn quân 54 chỉ có thể tiến lên với tốc độ từ 2 đến 3 km ngày trên hướng Turyshkino, Muya, Voronovo. Riêng Sư đoàn bộ binh 286 thu được nhiều thành công hơn cả khi ngày 12 tháng 9, họ đột nhập được vào thị trấn Voronovo.
Cuộc tấn công của Sư đoàn bộ binh 310 trên cánh trái của Tập đoàn quan 54 (Liên Xô) gặp nhiều tổn thất hơn cả. Ngày 10 tháng 9, Trung đoàn bộ binh 1080 của sư đoàn này kéo quân vượt sông Chernaya, dễ dàng đánh chiếm làng Gontovaya Lipka và phát triển tấn công dọc theo Quốc lộ số 7. Tuy nhiên, đến ngày 12 tháng 9, trung đoàn này đã rơi vào ổ phục kích của pháo binh Đức, bị thương vong nặng và buộc phải rút lui. Trung đoàn bộ binh 1082 sau khi tiêu diệt tiền đồn của quân Đức tại làng Gaitalovo, khi tiến công về hướng Tây nhằm cắt đứt con đường sắt Mga - Sinyavino đã bị quân Đức phản kích vào hai bên sườn, buộc phải lùi về vị trí xuất phát. Trung đoàn bộ binh 1084 cũng thất bại khi công kích vượt đường sắt sang hướng Porechi. Phát hiện cuộc phản công của quân đội Liên Xô, tướng Ernst Busch điều động Sư đoàn xe tăng 12 thuộc Quân đoàn xe tăng 3 (được phối thuộc cho Tập đoàn quân 16) từ khu vực Tosno - Lyuban kéo lên Sinyavino hợp lực với Sư đoàn cơ giới 36 chặn kích. Từ ngày 14 tháng 9 đến ngày 17 tháng 9, các trận đánh giằng co giữa bộ binh Liên Xô và xe tăng Đức diễn ra ác liệt quanh khu vực Turyshkino, Muya và Voronovo. Ngày 18 tháng 9, có thêm Sư đoàn bộ binh 126 (Đức) đến tăng viện. Tương quan lực lượng nghiêng về phía quân đội Đức Quốc xã.
Ngày 19 tháng 9, quân Đức bắt đầu phản công dưới sự yểm hộ của pháo binh, xe tăng và không quân. Không đủ sức tiếp tục chiến dịch, Tập đoàn quân 54 (Liên Xô) buộc phải dừng tấn công tại tuyến Turyshkino, Muya, Voronovo, Porechi, Khandrovo, Mikhalevo. Thậm chí, họ còn không thể giữ được tuyến xuất phát tấn công bên cánh trái. Quân đoàn bộ binh 1 Đức tràn qua khu phòng thủ Memino và công kích Volkhov, mở đầu cho các đòn tấn công trên hướng Volkhov - Tikhvil, buộc Tập đoàn quân 54 (Liên Xô) phải tựa lưng vào hồ Ladoga mà phòng ngự. Để tăng cường cho hướng Volkhov, STAVKA buộc phải điều Tập đoàn quân 4 do Trung tướng V. F. Yakovlev chỉ huy gồm các sư đoàn bộ binh 285, 292, 311 và Sư đoàn kỵ binh 7 từ lực lượng dự bị chiến lược ra bịt lỗ thủng rộng đến 60 km trên hướng Volkhov.

Chiến dịch phòng ngự Tikhvin

Trên hướng Tikhvin


Đội mô tô cơ giới của Sư đoàn SS "Totenkopf" tấn công
Cuộc tấn công của Tập đoàn quân 54 (Liên Xô) tại Sinyavino không nối được liên lạc với Phương diện quân Leningrad và cũng chỉ buộc Tập đoàn quân xe tăng 4 (Đức) hoãn cuộc tấn công lên hướng Volkhov - Tikhvin được mấy ngày. Thượng tuần tháng 10 năm 1941, Cụm tập đoàn quân Bắc (Đức) điều chỉnh lại lực lượng chuẩn bị tấn công. Sư đoàn cơ giới 36 và Sư đoàn xe tăng 1 được trả lại cho Quân đoàn bộ binh 1 và Quân đoàn xe tăng 39. Quân đoàn bộ binh 38 cũng được huy động cho cuộc tấn công. Ý đồ của Bộ chỉ huy Tập đoàn quân "Bắc" (Đức) là cùng lúc giáng hai đòn đột kích vào hai hướng Volkhov và Tikhvil. Quân đoàn bộ binh 1 (Đức) gồm các sư đoàn bộ binh 11, 21, 126 và 254 có nhiệm vụ đánh chiếm Volkhov và tiến ra hồ Ladoga ở Novo Ladoga, bao vây Tập đoàn quân 54 (Liên Xô) trên khu vực tam giác Volkhov - Novoladoga - Voronovo. Quân đoàn xe tăng 39 gồm các sư đoàn xe tăng 8, 12 và các sư đoàn cơ giới 18, 20 được giao nhiệm vụ tấn công vào Tikhvin, chiếm đầu mối đường sắt quan trọng này, sau đó phát triển lên phía Bắc, đánh vào sau lưng Tập đoàn quân 7 (Liên Xô) đang phòng thủ trên bờ Nam sông Svir tại khu vực Lodeynoye Polye và nối liên lạc với quân Phần Lan. Quân đoàn bộ binh 38 có nhiệm vụ tấn công ra tuyến sông Syas, che chắn sườn phải cho Quân đoàn xe tăng 39. Quân đoàn bộ binh 28 được giao nhiệm vụ chốt chặt khu vực cổ chai Mga - Shlissenburg.
Đối diện với Tập đoàn quân xe tăng 4 (Đức) là Tập đoàn quân 52 đã suy yếu sau các trận phòng thủ tại khu vực Chudovo, Tập đoàn quân 54 cũng đã tổn thất sau chiến dịch phản công Sinyavino lần thứ nhất và Tập đoàn quân độc lập 4. Tập đoàn quân 54 gồm các sư đoàn bộ binh 3, 128, 286, 294 và Lữ đoàn sơn chiến 1 phòng thủ trên địa đoạn từ Voronovo đến đầm lầy Maluksinsky dài 35 km. Tuyến phòng thủ của Tập đoàn quân độc lập 4 gồm các sư đoàn bộ binh 44, 92, 191, 285, 292, 310, 311 và Sư đoàn kỵ binh 27 kéo từ đầm lầy Maluksinsky đến Kirishy có chiều dài 50 km. Tập đoàn quân 52 gồm các sư đoàn bộ binh 111, 259, 267 và 288 bố trí phòng thủ dọc sông Volkhov từ Kirichi đến phía Bắc Novgorod trên một trận tuyến dài đến 80 km. Khởi đầu chiến dịch, cả ba tập đoàn quân Liên Xô chỉ có quân số 135.000 người, 475 khẩu pháo và 59 xe tăng còn hoạt động được. Quân đoàn xe tăng 39 và các quân đoàn bộ binh 1, 38 (Đức) có 140.000 quân, khoảng trên 1.000 pháo và súng cối và trên 200 xe tăng. Tuy không chiếm ưu thế lớn về người nhưng quân Đức có ưu thế vượt trội về xe tăng và pháo binh.
Ngày 16 tháng 10, các sư đoàn bộ binh 11 và 21 (Đức) vượt qua tuyến phòng thủ của của quân đội Liên Xô ở phía Nam Volkhov. Sư đoàn bộ binh 21 (Đức) đánh chiếm một bàn đạp tấn công phía Nam Volkhov. Bất chấp sức kháng cự của các sư đoàn bộ binh 267 và 288, Sư đoàn bộ binh 21 (Đức) đánh chiếm Kirichi và tấn công lên hướng Goroditse. Ngày 18 tháng 10, Sư đoàn xe tăng 12 và Sư đoàn cơ giới 20 vượt sông Volkhov, đánh chiếm đầu cầu Grozino và mở cuộc tấn công chính trên hướng Budogoshch. Sư đoàn xe tăng 8 và Sư đoàn cơ giới 18 cùng một bộ phận Sư đoàn bộ binh 254 cơ động tiến công theo hướng chung đến Malaya Vishera. Ngày 20 tháng 10, Tập đoàn quân 52 (Liên Xô) buộc phải rút lui về phía Đông và Đông Nam, bỏ lại cả hai vị trí Malaya Vishera và Bolshoy Vishera. Hành động này đã tạo ra một chỗ hở giữa Tập đoàn quân 52 và Tập đoàn quân 4 (Liên Xô) tại khu vực Budogoshch, Ngfay 22 tháng 10, quân Đức, không để mất thời gian, đã giáng đòn công kích rất mạnh bằng xe tăng và cơ giới vào chỗ hở đó.
Trước tình hình nghiêm trọng dọc bờ Đông sông Volkhov, ngày 24 tháng 10, Bộ tư lệnh Phương diện quân Tây Bắc (tái lập) phải điều động Sư đoàn bộ binh 259 và Sư đoàn kỵ binh 25 từ khu vực Demyansk lên củng cố tuyến phòng thủ của Tập đoàn quân 52. Cuối tháng 10, Tập đoàn quân 52 đã chặn được cuộc tấn công của Quân đoàn bộ binh 38 (Đức) trên tuyến sông Vishera. Sau khi loại trừ mối đe dọa từ sườn phía Đông của cánh quân chủ lực đang tấn công lên Tikhvil, tướng Ernst Busch để lại Sư đoàn bộ binh 126 phòng thủ tại khu vực Malaya Vishera - Bolshoy Vishera, Sư đoàn bộ binh 254 được điều lên phía Bắc phối hợp với Sư đoàn xe tăng 8 và Sư đoàn cơ giới 18 tấn công vào cánh trái của Tập đoàn quân độc lập 4 trên hướng Taltsy, Khortitsa, Sitomlya. Bộ Tổng tư lệnh tối cao Liên Xô lại một lần nữa phải tăng viện cho Tập đoàn quân độc lập 4. Sư đoàn bộ binh 92 lấy từ lực lượng dự bị của STAVKA được điều đến giữ Taltsy. Sư đoàn xe tăng 60 và Sư đoàn bộ binh 65 cũng được điều động ra lập tuyến phòng thủ trên tuyến sông Syas, phía Tây Nam Tikhvil.
Quân Đức không từ bỏ mục tiêu của cuộc tấn công. Ngày 31 tháng 10, Sư đoàn xe tăng 8 và Sư đoàn cơ giới 18 (Đức) được lệnh phối hợp với Sư đoàn xe tăng 12 và Sư đoàn bộ binh 254 tấn công vào phòng tuyến Sitomlya của Tập đoàn quân độc lập 4 (Liên Xô). Ngày 2 tháng 11, Sư đoàn xe tăng 60 (chỉ có 61 xe tăng hoạt động được) cùng các sư đoàn bộ binh 65 và 92 mở cuộc công kích vào sườn phải của cánh quân Đức đang tấn công Sitomlya, buộc Sư đoàn xe tăng 8 và Sư đoàn cơ giới 18 (Đức) phải tạm dừng tấn công để phản kích sang hướng Khortitsa. Ngày 4 tháng 11, cuộc phản công của quân đội Liên Xo bị chặn đứng. Các sư đoàn bộ binh avf xe tăng Liên Xô buộc phải rút lui. Ngày 5 tháng 11, quân Đức nối lại cuộc tấn công và đến ngày 8 tháng 11, Tikhvil rơi vào tay quân Đức. Mặc dù đang phải căng hết lực lượng ra chống lại cuộc tấn công của Tập đoàn quân 18 và cánh trái của Tập đoàn quân xe tăng 4 (Đức) nhưng theo lệnh của STAVKA, Phương diện quân Leningrad vẫn phải điều các sư đoàn bộ binh 44 và 191 vượt qua hồ Ladoga, sang tăng cường cho khu vực Tikhvil đang bị uy hiếp nghiêm trọng.
Ngày 9 tháng 11, Tập đoàn quân độc lập 7 (Liên Xô) đang phòng thủ chống lại quân Phần Lan trên tuyến sông Svir cũng phải điều động Lữ đoàn xe tăng 46 và Trung đoàn lựu pháo 1061 xuống hướng Volkhov - Tikhvin để phối hợp với các tập đoàn quân 4 và 54 loại trừ mối đe dọa trên hướng này. Có thêm quân tăng viện, Bộ tư lệnh Phương diện quân Tây Bắc thành lập 3 cụm quân xung kích xung quanh Tikhvin. Cụm Bắc gồm Sư đoàn bộ binh 44 (thiếu 1 trung đoàn), Trung đoàn bộ binh 1067 và Lữ đoàn xe tăng 46 bao vây Bắc và Tây Bắc Tikhvin. Cụm phía Đông gồm các sư đoàn bộ binh 65, 191, Sư đoàn kỵ binh 27, một trung đoàn của Sư đoàn bộ binh 44 và các trung đoàn xe tăng 121, 128 của Sư đoàn xe tăng 60 trấn giữ phía Đông và Đông Nam Tikhvin. Cụm phía Nam gồm Sư đoàn bộ binh cận vệ 4, các sư đoàn bộ binh 92, 292, Trung đoàn xe tăng 120 của Sư đoàn xe tăng 60 trấn giữa phía Nam và Tây Nam Tikhvin. Binh lực tại mặt trận đã tương đối cân bằng. Quân Đức buộc phải ngừng cuộc tấn công và thiết lập các tuyến phòng thủ tại Tikhvil. Ngày 19 tháng 11, giai đoạn phòng ngự trên hướng Tikhvin của quân đội Liên Xô kết thúc.

Trên hướng Volkhov


Quân đội Liên Xô rút lui
Tại cánh Bắc của chiến dịch, Quân đoàn bộ binh 1 (Đức) phối hợp với Sư đoàn cơ giới 36 phát triển các đòn tấn công vào Tập đoàn quân 54 (Liên Xô) tại khu vực Voybokalo - Volkhov. Chiến sự chủ yếu diễn ra dọc theo bờ Tây sông Volkhov. Ngày 20 tháng 10, Sư đoàn bộ binh 11 (Đức) tập trung giáng đòn công kích vào Sư đoàn bộ binh 285 (Liên Xô) đang phòng thủ tại khu vực Posadnikov Ostrov, buộc sư đoàn 285 (Liên Xô phải rút lui 5 đến 10 km về phía Bắc. Bị hở sườn, Sư đoàn bộ binh 311 (Liên Xô cũng buộc phải rút lui. Sư đoàn bộ binh 21 (Đức) chiếm giữ đầu cầu ở bờ phải sông Volkhov và bắt đầu chia cắt sư đoàn bộ binh 292 khỏi đội hình chính của Tập đoàn quân 54 (Liên Xô). Ngày 30 tháng 10, quân Đức xâm nhập địa bàn tỉnh Volkhov.
Sư đoàn bộ binh 310 (Liên Xô) đang thực hiện chiến dịch Sinyavino đã bị buộc phải rút ra trong tình trạng tổn thất đáng kể và được ném ra mặt trận phía Nam Volkhov để giữ thị trấn Memino. Lữ đoàn hải quân đánh bộ 6 cũng được điều động từ Syasstroy đến để chêm vào khoảng cách giữa Sư đoàn bộ binh 285 và Sư đoàn bộ binh 311 (Liên Xô) đang ngày một rộng ra. Nhưng chừng đó lực lượng vẫn không đủ để ngăn chặn cuộc tấn công của Quân đoàn bộ binh 1 (Đức). Trong nửa đầu tháng 11 năm 1941, quân Đức tiến công chậm lại nhưng chắc chắn hơn, buộc các đơn vị Liên Xô phải lui về lập vành đai phòng thủ phía Nam Volkhov. Từ ngày 5 đến ngày 12 tháng 11, Sư đoàn bộ binh 21 (Đức) tiếp tục tấn công vào tuyến phòng thủ của Lữ đoàn hải quân đánh bộ 6 (Liên Xô) tại làng Veltsa nhưng không thể đột phá đến Volkhov. Sư đoàn bộ binh 11 (Đức) mặc dù đã chiếm Olomne và vượt qua phía Bắc khu vực Glazevo nhưng không thể chiếm được Prusyn, cứ điểm cuối cùng của Sư đoàn bộ binh 311 ở phía Tây Volkhov. Mặc dù đang rất thiếu xe tăng nhưng Bộ tư lệnh Phương diện Leningrad vẫn buộc phải điều Lữ đoàn xe tăng 16 lấy từ Cụm phòng thủ Narva cho Tập đoàn quân 54.
Sau khi tạm dừng 2 ngày để bố trí lại binh lực, ngày 14 tháng 11 quân Đức tiếp tục tấn công với lực luwojng đặc nhiệm được đặt tên là Cụm tác chiến "Beckmann". Cụm này bao gồm Sư đoàn bộ binh 123, 223 và một trung đoàn xe tăng của Sư đoàn xe tăng 8. Chính trong ngày này, Sư đoàn bộ binh 311 (Liên Xô) đã được thay thế bởi Sư đoàn bộ binh cận vệ 3 và Lữ đoàn xe tăng 122. Các đơn vị này đã chặn đứng được cuộc tấn công của Cụm tác chiến Beckmann (Đức) cách Volkhov 6 km về phía Nam vào ngày 24 tháng 11. Ngày 28 tháng 11, Tập đoàn quân 54 đã nối được liên lạc với Tập đoàn quân 4. 6 km phía Nam Volkhov là điểm đến xa nhất của quân đội Đức Quốc xã tại cánh Bắc của chiến dịch. Từ ngày 29 tháng 11 đến ngày 3 tháng 12, các sư đoàn bộ binh 11, 21 (Đức) tiếp tục công kích ra tuyến sông Syas nhưng đòn đánh "với tầm" của quân Đức vẫn không thể tiến đến con đường sắt Volkhov - Petrozavodsk.

Trận phản công Sinyavino lần thứ hai


Cuộc tấn công của quân đội Liên Xô từ khu vực đầu cầu Moskovskaya Dubrovka
Nhằm giảm bớt sức ép của quân đội Đức Quốc xã lên tuyến phòng thủ của Tập đoàn quân 54 (Liên Xô) đang giữ khu vực Volkhov, trong khi Tập đoàn quân xe tăng 4 (Đức) đang tấn công thọc sâu trên hướng Tikhvil, Bộ tư lệnh Phương diện quân Leningrad và Bộ tư lệnh Phương diện quân Tây Bắc quyết định nối lại cuộc tấn công trên hướng Sinyavino với hai mục đích: Kéo Quân đoàn bộ binh 1 (Đức) trở lại và nếu có điều kiện thì xóa bỏ khu vực "cổ chai" Shlissenburg, nối liên lạc giữa hai phương diện quân và mở lại tuyến giao thông trên bộ để tiếp tế cho Leningrad.
STAVKA muốn chặn trước cuộc tấn công tiếp theo của quân đội Đức Quốc xã trên hướng Volkhov và đã ra Chỉ lệnh số 002.984 ngày 14 tháng 10 yêu cầu Phương diện quân Leningrad và Phương diện quân Tây Bắc phối hợp tấn công để tiêu diệt cụm quân Shlissenburg - Sinyavino trên cánh phải của Tập đoàn quân 18 (Đức). Kế hoạch dự kiến sử dụng Tập đoàn quân 55 (mới thành lập ngày 1-9-1941) do thiếu tướng I. G. Lazarev chỉ huy gồm các sư đoàn bộ binh 70, 90, 168 và 237 cùng các sư đoàn dân quân 1 và 4 Leningrad tấn công từ khu vực đầu cầu Ivanovo, kéo Sư đoàn cơ giới 36 (Đức) khỏi Cụm cứ điểm Mga, làm dãn đội hình phòng ngự của quân Đức tại khu vực Sinyavino. Cụm tác chiến Neva gồm các sư đoàn bộ binh 86, 115 và 265 được tăng cường Lữ đoàn xe tăng hạng nặng 123 sẽ tấn công vượt sông Neva tại khu vực Moskovsky Dubrovka đánh vào phía Tây Cụm cứ điểm Sinyavino của quân Đức. Tuy nhiên, sau khi xét thấy chiếc cầu phao yếu ở khu vực Dubrovka không thể chịu được trọng lượng của các xe tăng KV-1, Lữ đoàn xe tăng 123 được phối thuộc cho Tập đoàn quân 55.
Từ hướng Gaytolovo, Tập đoàn quân 54 gồm các sư đoàn bộ binh cận vệ 3, cận vệ 4, 128, 286, 294 và 310 được tăng cường Lữ đoàn xe tăng 122 và Tiểu đoàn xe tăng 16 có nhiệm vụ tấn công vào phía Đông các cụm phòng ngự của quân Đức. Cánh quân chủ yếu gồm các sư đoàn bộ binh cận vệ 3, 128, 310 cùng Lữ đoàn xe tăng 122 và Tiểu đoàn xe tăng 16 sẽ tấn công dọc theo Quốc lộ số 7 đánh vào Sinyavino. Cánh quân thứ yếu gồm các sư đoàn bộ binh 286 và cận vệ 4 sẽ tiến công về Mga. Sư đoàn bộ binh 294 làm nhiệm vụ phòng ngự ở khu vực giữa mặt trận. Quân đội Liên Xô huy động vào chiến dịch này khoảng 63.000 quân, 475 pháo và 97 xe tăng. Quân Đức có khoảng 54.000 sĩ quan và binh lính, 450 pháo và trên 120 xe tăng.
Sáng 20 tháng 10, Tập đoàn quân 54 bắt đầu tấn công nhưng cũng như chiến dịch Sinyavino lần thứ nhất, các sư đoàn bộ binh tiến lên rất chậm chạp. Chỉ có Sư đoàn bộ binh cận vệ 4 và Tiếu đoàn xe tăng 16 là đạt được chiều sâu đáng kể khi ngày 23 tháng 10, họ tiến đến Tortolova. Trên các hướng Estolsky đi Mga, các trung đàn bộ binh Liên Xô tiếp tục bị quân Đức đánh bật về tuyến xuất phát và tổn thất khá nặng, có trung đoàn chỉ còn lại 300 tay súng. Trên hướng Dubrovka, Sư đoàn bộ binh 86 (Liên Xô) dã chiếm được một đầu cầu nhỏ trên bờ Đông sông Neva nhưng không thể phát triển được trước các đòn phản kích liên tục của Sư đoàn bộ binh 28 (Đức) có một trung đoàn xe tăng kéo từ Mga lên trợ chiến. Tại đầu cầu Ivanovo, chỉ sau hai ngày phản kích, Sư đoàn SS Polizei và Sư đoàn bộ binh 121 (Đức) đã chặn đứng cuộc tấn công của các sư đoàn bộ binh 168 và 237 (Liên Xô), đánh bật các sư đoàn này về bờ Tây sông Tosna. Vì để thất lợi ngay trong những ngày đầu tấn công, ngày 26 tháng 10, STAVKA ra lệnh cách chức Tư lệnh Phương diện quân Leningrad của tướng I. I. Fedyuninsky, giáng xuống là Tư lệnh tập đoàn quân 54. Tướng M. S. Khozin được bổ nhiệm là tư lệnh phương diện quân này. Ngày 28 tháng 10, tình hình mặt trận trên hướng Tikhvil - Volkhov xấu đi đã buộc STAVKA phải ra lệnh dừng cuộc tấn công để bố trí lại lực lượng.
Ngày 31 tháng 10, tướng M. S. Khozin trình lên nguyên soái B. M. Shposnikov, Tổng tham mưu trưởng quân đội Liên Xô một kế hoạch tấn công mới. Theo đó, Phuwong diện quân Leningrad sẽ tăng cường lực lượng cho khu vực đầu cầu Moskovsky Dubrovka. Ngoài các sư doàn bộ binh 86, 115 và 265 đã có mặt tại đây, các sư đoàn bộ binh 10, 11, 168, 177, Sư đoàn 20 của NKVD và Lữ đoàn hải quân đánh bộ 4 cũng được huy động. Ngày 1 tháng 11, quân đội Liên Xô tiếp tục tấn công. Tuy nhiên, quân Đức đã đợi sẵn của tấn công của Phương diện quân Leningrad tại khu vực đầu cầu này. Các sư đoàn bộ binh sơ chiến 5, 28, 227 và Sư đoàn cơ giới 36 (Đức) được huy động ra chặn kích. Hỏa lực pháo binh Liên Xô khá mỏng và không đủ đạn nên đã không chế áp đựoc các hỏa điểm sung máy và cáctraajn địa pháo của quân Đức trên khu vực từ Gorodozh đến Anzhensky. Bộ binh Liên Xô bị thiệt hại nặng bởi hỏa lực súng máy, súng cối và pháo của quân Đức. Bất chấp thiệt hại, các sư đoàn bộ binh 86, 115 và 168 vẫn tiếp tục tấn công nhưng không thể ra khỏi khu vực đầu cầu Dubrovka nhỏ hẹp phía Tây con đường đê dọc bờ Đông sông Neva.
Cuộc chiến tại khu vực đầu cầu Dubrovka tiếp tục kéo dài, giằng co ác liệt đến cuối tháng 12 năm 1941. Theo só liệu của quân đội Đức Quốc xã, từ 15 tháng 11 đến 27 tháng 12 năm 1941, tại khu vực đầu cầu này, quân đội Liên Xô đã tổ chức 79 trận đánh cấp đại đội, hơn 60 trận đánh cấp tiểu đoàn, 50 trận đánh cấp trung đoàn và 16 trận đánh cấp sư đoàn, trong số đó, có 61 trận đánh có xe tăng tham gia.
Trên hướng đầu cầu Ivanovo, cuộc tấn công từ khu vực Kolpino của các sư đoàn bộ binh 70, 90, 125, 268 có sự yểm hộ của 2 tiểu đoàn xe tăng nhằm tiến ra tuyến sông Tosno cũng không thành công. Các sư đoàn bộ binh 43, 85 và lữ đoàn xe tăng 123 cũng không thể bám trụ được trên bờ Đông sông Tosna. Mọi cuộc đột kích đều bị các sư đoàn bộ binh 121 và 122 (Đức) đánh bật trở lại. Trên cánh Đông của chiến dịch, các sư đoàn bộ binh cận vệ 3, 128 và 310 cùng Lữ đoàn xe tăng 122 và Tiểu đoàn xe tăng 16 không thể tiến ra đến Sinyavino trước sức phòng thủ quyết liệt của Sư đoàn bộ binh 223 (Đức). Các sư đoàn bộ binh 286 và 294 hầu như phải chuyển sang phòng ngự. Còn sư đoàn bộ binh cận vệ 4 sau khi cố gắng tiến đến Novo Mikhailovsky đã bị đánh bật về Tortolovo, nơi họ bắt đầu cuộc tấn công. Cuối tháng 12, quân đội Liên Xô dừng tấn công trên khu vực Sinyavino - Mga.

Chiến dịch phản công Tikhvin


Bản đồ Chiến dịch phản công Tikhvin
Để tăng cường chỉ huy quân đội Liên Xô tại khu vực Tây Bắc lãnh thổ trong điều kiện Phương diện quân Leningrad bị bao vây hoàn toàn, ngày 17 tháng 12 năm 1941, Bộ Tổng tư lệnh tối cao quân đội Liên Xô thành lập Phương diện quân Volkhov gồm các tập đoàn quân xung kích 2, 52, 59 và 26 do đại tướng K. A. Mereskov làm tư lệnh với nhiệm vụ ngăn chặn quân Đức tiến về hướng biển Barents và hỗ trợ cho cuộc phòng thủ của Phương diện quân Leningrad. Nếu điều kiện thuận lợi, Phương diện quân này sẽ phối hợp với Phương diện quân Leningrad tổ chức phá vây.
Sau khi ngăn chặn được cuộc phản công của quân đội Liên Xô tại khu vực Mga - Sinysvino, quân đội Đức Quốc xã vẫn tiếp tục thực hiện các đòn tấn công trên khu vực Tikhvin để đạt mục tiêu kết nối liên lạc với quân Phần Lan trên eo đất Karelia. Ngày 10 tháng 11, Sư đoàn xe tăng 12 và một phần Sư đoàn xe tăng 8 (Đức) mở cuộc tấn công dọc theo con dường bộ từ Tikhvin lên Khomushka. Cùng ngày, các sư đoàn cơ giới 18 và 20 (Đức) tấn công từ Tikhvin sang phía Đông theo hướng Staryi Galichno. Sau một ngày tấn công, cả hai cánh quân này đã tiến lên được từ 6 đến 8 km. Phần còn lại của Sư đoàn xe tăng 8 (Đức) làm nhiệm vụ yểm hộ bên sườn phải của các sư đoàn cơ giới 18 và 20. Sư đoàn bộ binh 61 được điều động từ Lipnaya Gorka lên Tikhvin thế chỗ cho Sư đoàn xe tăng 12. Tuy nhiên, đòn tấn công với tầm của Quân đoàn xe tăng 39 (Đức) không còn mạnh như trước do nó đã bị thiệt hại khá lớn trong quá trình tấn công lên Tikhvin. Các sư đoàn xe tăng chỉ còn lại khoảng 30% số xe tăng hoạt động được. Sư đoàn xe tăng 12 chỉ còn lại 52 xe tăng trong số 71 xe tăng khi bắt đầu tấn công. Riêng Sư đoàn xe tăng 8 chỉ còn lại 38 xe tăng hoạt động được so với 91 xe tăng lúc ban đầu.
Quân đội Liên Xô không để cho quân đội Đức Quốc xã tiến sâu hơn trên hướng Tây Bắc bằng một phần lực lượng dự bị chiến lược được gửi đến tham chiến tại khu vực Tikhvin mặc dù Chiến dịch phòng thủ Moskva đang bước vào giai đoạn quyết định. Ngày 12 tháng 11, Lữ đoàn xe tăng 46 và Trung đoàn pháo tự hành 1061 được điều từ Tập đoàn quân 7 xuống Khomushka phối hợp với Sư đoàn bộ binh 191 đã chặn đứng Sư đoàn xe tăng 12 (Đức) ở phía Bắc Tikhvin 8 km. Ngày 18 tháng 11, Sư đoàn xe tăng 12 (Đức) bị đánh bật về Tikhvin. Trên hướng Staryi Galichno, ngày 19 tháng 11, Sư đoàn bộ binh 65 và một trung đoàn xe tăng được điều đến phối hợp với các sư đoàn bộ binh 44 và 49 có mặt tại đây từ đầu chiến dịch cũng buộc các sư đoàn cơ giới 18 và 20 (Đức) phải bỏ mục tiêu Astracha vừa chiếm được và lùi về phòng thủ tại khu vực tổ hợp công nghiệp "1 tháng 5".

Các xe bọc thép BA-10 được lắp tháp pháo xe tăng T-34 tham gia chiến dịch
Sau khi Tập đoàn quân 4 (Liên Xô) đánh bật Quân đoàn xe tăng 39 (Đức) về Tikhvin, các tập đoàn quân 52, 54 và Cụm chiến dịch Nam Tikhvin (thuộc Tập đoàn quân 4) cũng chuyển sang phản công. Trên cánh Bắc, các sư đoàn bộ binh 80, 115, 198 và 311 (Liên Xô) tấn công từ hai bên sườn đã bao vây và tiêu diệt phần lớn các sư đoàn bộ binh 254 và 291 (Đức) tại khu vực Podrila và Vloya. Lo sợ bị tấn công từ sau lưng, các sư đoàn bộ binh 11 và 21 trên cánh phải của Quân đoàn bộ binh 1 (Đức) đang tấn công Volkhov buộc phải rút chạy dọc theo sông Volkhov về Gorodishe. Ở cánh Đông, các sư đoàn bộ binh 27, 44, 65, 92, 191, 292, cận vệ 4 phối hợp với Sư đoàn xe tăng 60 và Tiểu đoàn xe tăng độc lập 128 mở hai đòn đột kích mạnh từ Khortitsa lên phía Bắc và từ sông Syas xuống phía Nam, hợp điểm tại Sitomlya. Hai trung đoàn cơ giới của Sư đoàn cơ giới 18 và 1 trung đoàn xe tăng của Sư đoàn xe tăng 8 (Đức) đã bị lọt vào vòng vây ở phía Đông Sitomlya. Trước nguy cơ bị bao vây và tiếu diệt tại khu vực Tikhvin, tướng Kuno-Hans von Both buộc phải rút Sư đoàn xe tăng 12, Sư đoàn cơ giới 20, phần còn lại của Qua đoàn xe tăng 8, Sư đoàn cơ giới 18 và Sư đoàn bộ binh 61 khỏi Tikhvin. Trên suốt tuyến đuwofng rút lui từ Tikhvin đến Budogosh, quân Đức luôn bị chặn đánh và tập kích từ trên mặt đất và trên không.
Trên hướng Novgorod, các sư đoàn bộ binh 25, 111, 259, 267, 288 thuộc Tập đoàn quân 52 và các sư đoàn bộ binh 186, 305 cùng Sư đoàn xe tăng 3 của Cụm phòng thủ Novgorod cũng phát động tấn công vượt sông Vishera. Toàn bộ sư đoàn bộ binh 126 (Đức) bị bao vây và tiêu diệt tại Bolshoy Vishera. Quân Đức cố gắng lập tuyến phòng thủ từ Posad đến Muratovo nhưng đến ngfay 11 tháng 12, tuyến phòng thủ này cũng bị đập vỡ. Ở giữa mặt trận, tàn quân của các sư đoàn xe tăng 8, 12, các sư đoàn cơ giới 18, 20 và Sư đoàn bộ binh 61 (Đức) định bám trụ lại xung quanh đầu mối đường sắt Bugorosh nhưng ý đồ này cũng thất bại. Sư đoàn bộ binh cận vệ 4 và Sư đoàn xe tăng 60 được điều đến phía Nam Bugorosh, chặn con đường rút của cụm quân Đức về Gruzino. Tàn quan của các sư đoàn Đức phải bỏ lại hầu như tất cả các vũ khí nặng và luồn qua vòng vây bị hở của quân đội Liên Xô giữa hai con sông Pchevzha và Oskuya để rút về bờ Tây song Volkhov.
Tại cánh Bắc, ngày 25 tháng 12, các sư đoàn bộ binh cận vệ 3, 115, 198 và 258 (Liên Xô) đã bao vây và tiêu diệt phần lớn Cụm tác chiến "Bekman" (Đức) ở khu vực Olomna và tiếp tục tấn công sang phía Tây, đánh chiếm nhà ga Staryi Zharok, cắt đứt con đường sắt từ Kirishi đi Mga. Bộ Tổng tư lệnh quan đội Đức Quốc xã buộc phải tăng viện cho Tập đoàn quân 16 các sư đoàn bộ binh 215, 23, 250 và Sư đoàn xe tăng 203. Nhờ các lực lượng mới này cộng với những trung đoàn còn lại các sư đoàn bộ binh 11, 21, 61 và Sư đoàn cơ giới 20, Tập đoàn quân 16 (Đức) đã lập được tuyến phòng thủ mới dọc theo sông Volkhov từ Novgorod đến Kirishi và dọc theo con đường sắt từ Kirishi đến Lodva. Quân đội Liên Xô chiếm được một dải đầu cầu từ phía Nam Kirishi đến Dmitrovka rộng hơn 20 km, sâu từ 3 đến 8 km trong khi quân Đức vẫn giữ được đầu mối đường sắt Kirishi. Ngfay 30 tháng 12, quân đội Liên Xô ngừng tấn công.
Chiến dịch phản công Tikhvin đã đem lại những thiệt hại lớn cho quân đội Đức Quốc xã cả về nguwofi và phương tiện, 3 sư đoàn bộ binh, 1 sư đoàn cơ giới và 2 sư đoàn xe tăng bị đánh tan, các sư đoàn xe tăng và cơ giới còn lại bị thiệt hại nặng. Tướng Đức Dietmar viết:
Đây là sự khởi đầu của cuộc khủng hoảng về sức mạnh của quân đội Đức trên mặt trận phía Đông. Như ở tất cả các mặt trận, khả năng tấn công trên cánh phía bắc của quân đội Đức đã cạn kiệt. Giấc mơ về một chiến thắng cũng nhanh chóng tan biến thành mây khói
—Dietmar

Quân đội Liên Xô cũng chịu những thiệt hại không nhỏ. Trong toàn bộ chiến dịch, họ mất 17.924 người chết, 30.977 người bị thương trong tổng số 192.950 quân tham gia chiến dịch.

Chiến dịch Lyuban


Chiến dịch Lyuban, xuân hè 1942
Đầu tháng 1 năm 1942, Bộ Tổng tư lệnh tối cao quân đội Liên Xô dự kiến tổ chức một chiến dịch cục bộ tại khu vực Lyuban; sử dụng đòn tấn công phối hợp của các phương diện quân Volkhov đánh từ bên ngoài vào và phương diện quân Leningrad đánh từ phía trong ra nhằm tiêu diệt các quân Đức đã tiến đến hồ Ladoga ở khu vực Shlisselburg để giải tỏa cho Leningrad. Trọng điểm của chiến dịch là chiếm lại khu vực Lyuban, nơi có các nhà ga đầu mối Lyuban và Chudovo trên con đường sắt Moskva - Leningrad đã bị quân đội Đức Quốc xã chiếm đóng từ tháng 8 năm 1941. Theo kế hoạch, Phương diện quân Volkhov sử dụng tập đoàn quân xung kích 2 (nguyên là tập đoàn quân 20) có trong biên chế 8 sư đoàn bộ binh và một sư đoàn xe tăng tấn công từ tuyến Spaskaia Polist - Mosiky - Myasnoi Bory về hướng Lyuban và sông Oredesh, đánh chiếm Chudovo và tiến đến Lyuban. Phương diện quân Leningrad chỉ còn tập đoàn quân 54 có trong biên chế 5 sư đoàn bộ binh đang bị cắt rời khỏi chủ lực Phương diện quân đóng tại Tây Nam hồ Ladoga là có thể tham chiến. Theo kế hoạch, tập đoàn quân này phải tiến công trên chính diện từ Lodva đến sông Volkhov về Lyuban và Chudovo. Chiều sâu nhiệm vụ của tập đoàn quân xung kích 2 dài gần gấp đôi chiều sâu nhiệm vụ của tập đoàn quân 54. Bộ Tổng tư lệnh tối cao Liên Xô cho rằng với binh lực mạnh hơn, tập đoàn quân này sẽ hoàn thành nhiệm vụ. Phó Tổng tư lệnh G. K. Zhukov cho rằng hệ thống phòng thủ của quân Đức tại đây khá nghiêm mật, cứng rắn, địa hình lại bao gồm nhiều vùng hồ và đầm lầy, rất khó phát triển tấn công nếu không có các binh đoàn cơ giới đủ mạnh.

Xe tăng Liên Xô tấn công qua mặt hồ Ladoga đóng băng
Quyết định tấn công vẫn được I. V. Stalin thông qua do tư lệnh Phương diện quân Leningrad, tướng M. S. Khozin bảo đảm sẽ huy động đầy đủ tập đoàn quân 54 vào hướng thứ yếu. Ngày 22 tháng 3 năm 1942, tập đoàn quân xung kích 2 do thiếu tướng A. A. Vlasov tấn công trên hướng chủ yếu đã chọc thủng trận tuyến Spaskaia Polist - Mosiky - Myasnoi Bory của quân Đức, vừa tiến nhanh về phía sông Oredesh vừa phát triển đến Lyuban. Do hành động không dứt khoát, tập đoàn quân 54 của nguyên soái G. I. Kulik tiến rất chậm, không những không đến được Lyuban mà còn không hỗ trợ được tập đoàn quân xung kích 2 chiếm Chudovo. Do không bị đe dọa từ sau lưng, quân đoàn 1 phối hợp với quân đoàn 28 (Đức) tấn công vào hai bên sườn, bịt được cửa mở và bao vây Tập đoàn quân xung kích 2 trong vùng đầm lầy. Trong khi phải hành động tích cực hơn để cứu tập đoàn quân xung kích 2 thì trung tướng M. S. Khozin lại cho rằng cần sáp nhập hai phương diện quân lại để dễ chỉ huy. Tuy bị Tổng tham mưu trưởng B. M. Shaposnikov phản đối nhưng I. V. Stalin vẫn đồng ý với đề nghị này. Mặc dù biết rằng tập đoàn quân xung kích 2 không còn sức tấn công nhưng M. S. Khozin vẫn không chịu rút tập đoàn quân này ra và hậu quả nghiêm trọng đã đến. Cuối tháng 5 năm 1942, tướng A. A. Vlasov, tư lệnh tập đoàn quân xung kích 2 chạy sang đầu hàng và nhận làm việc cho quân Đức. Ngày 8 tháng 6 năm 1942, Phương diện quân Volkhov được tái lập, vẫn do đại tướng Mereskov chỉ huy đã sử dụng các tập đoàn quân 4, 52 và 59 liên tục công kích vào phía sau các quân đoàn bộ binh 1 và 28 của quân Đức và giải cứu được phần lớn tập đoàn quân xung kích 2. Chiến dịch Lyuban nhằm phá vây cho Leningrad thất bại. Vì những sai lầm nghiêm trọng này, nguyên soái G. I. Kulic bị giáng cấp xuống đại tướng và được điều về phụ trách Tổng cục pháo binh, trung tướng M. S. Khozin bị cách chức tư lệnh phương diện quân Leningrad, bị giáng cấp quân hàm xuống thiếu tướng và điều về Bộ Tổng tham mưu làm trợ lý. Trung tướng L. A. Govorov được chỉ định làm tư lệnh Phương diện quân Leningrad. Năm 1945, tướng A. A. Vlasov và quân đoàn giải phóng nước Nga của ông ta chiến đấu trong đội hình Cụm tập đoàn quân Trung tâm của quân đội Đức Quốc xã bị quân đội Liên Xô bắt sống gần Plezel (Tiệp Khắc). Năm 1946, Vlasov và các tướng X. N. Krasnov, Skuro, Suntal Ghirey trong các đội quân Nga chiến đấu cho Đức Quốc xã bị Toà án Liên Xô kết án tử hình vì tội phản bội Tổ quốc.

Chiến dịch bao vây Demyansk


Bản đồ chiến dịch bao vây Demyansk (1942)
Nhằm phát huy kết quả khả quan của các chiến dịch phòng ngự-phản công của quân đội liên xô trên các hướng Moskva, TikhvinRostov, Bộ chỉ huy Phương diện quân Tây Bắc do tướng P. A. Kurochkin làm tư lệnh được lệnh của STAVKA đã phục hồi và đệ trình STAVKA một kế hoạch tấn công nhằm bao vây và tiêu diệt Quân đoàn bộ binh 2 (Đức) do tướng Walter Graf von Brockdorff-Ahlefeldt chỉ huy và các đơn vị tăng cường của Tập đoàn quân 16 (Đức) đang tác chiến trong khu vực Demyansk. Mục tiêu tiếp theo của chiến dịch này là loại trừ nguy cơ quân Đức mở một đòn tấn công từ Demiansk qua vùng đồi Valdai và dọc theo bờ Đông hồ Ilmen lên phía Bắc, bảo vệ phía sau Phương diện quân Volkhov lúc này đã hoàn thành chiến dịch phản công Tikhvin đánh bật quân Đức về bờ Tây sông Volkhov. Mục tiêu trực tiếp của chiến dịch là chiếm lại Staraya Russa, Demyansk, Toropets Kholm, chiếm lấy tuyến sông Polista, đẩy lùi quân Đức về phía Tây để loại trừ nguy cơ đe dọa đầu mối giao thông Valdai lúc này đang đóng một vai trò rất quan trọng trong việc vận chuyển người, vũ khí và hàng hóa tiếp tế cho các phương diện quân Leningrad và Volkhov. Mặc dù kế hoạch tấn công này được vạch ra từ tháng 9 năm 1941 và được phê chuẩn bởi mệnh lệnh số 002.265 của Bộ Tổng tư lệnh tối cao nhưng do phải đối phó với các cuộc tấn công của quân Dức trong nửa đầu mùa đông 1941-1942 nên đến tháng 1 năm 1942, nó mới được thi hành.
Đồng thời với kế hoạch này, ngày 18 tháng 12 năm 1941, STAVKA còn ra mệnh lệnh số 005.868, yêu cầu Tập đoàn quân xung kích 4 trên cánh phải của Phương diện quân Kalinin phối hợp tấn công trên hướng Toropets Kholm để tạo lập một bàn đạp từ phía Bắc Smolensk, uy hiếp chủ lực Cụm tập đoàn quân Trung tâm (Đức) trên hướng này. Quân đội Liên Xô huy động vào chiến dịch này các tập đoàn quân 11, 34 và Xung kích 3 của Phương diện quân Tây Bắc. Binh lực tổng cộng gồm 14 sư đoàn và 8 lữ đoàn bộ binh, 5 lữ đoàn và 4 tiểu đoàn xe tăng. Ở giai đoạn sau của chiến dịch, Tập đoàn quân xung kích 4 của Phương diện quân Kalinin và Tập đoàn quân xung kích 1 lấy từ Phương diện quân Tây lên cũng bước vào tham chiến.Quân đội Đức Quốc xã trên mặt trận vào giai đoạn đầu chiến dịch có sư đoàn cơ giới SS "Totenkopf", các sư đoàn bộ binh 12, 30, 32, 123 và 290. Sau khi cụm quân này bị vây, Bộ tư lệnh Cụm tập đoàn quân Bắc (Đức) đã huy động đến tuyến sông Polist và khu vực Staraya Russa các sư đoàn bộ binh 5, 8, 81, 122 và Sư đoàn cơ giới 18 tăng cường cho Quân đoàn bộ binh 10 do tướng Walther von Seydlitz-Kurtzbakh chỉ huy để phá vây, nối liên lạc với cánh quân bị vây. Chiến dịch diễn ra trong thời tiếp mùa đông phương Bắc hết sức khắc nghiệt. Hồ Ilmen và các con sông bị đóng băng. Nhiệt độ ban ngày xuống thấp đến âm 44 độ, có đêm xuống đến âm 53 độ. Nhiều nơi, tuyết phủ dày đến 80 cm.
Ngày 7 tháng 1 năm 1942, Tập đoàn quân 11 (Liên Xô) mở đầu chiến dịch bằng cuộc tấn công trên hướng Staraya Russa. Mũi tấn công cánh phải từ cửa sông Pola phía Nam hồ Ilmen tấn công vào Sư đoàn bộ binh 290 (Đức) ở phía Bắc Staraya Russa và đánh chiếm cứ điểm Voronovo phía Tây sông Polist. Mũi tấn công cánh phải từ Vershika đánh vào tuyến phòng thủ của Sư đoàn bộ binh 30 (Đức). Cuộc tấn công phát triển rất chậm chạp trong tuyết phủ và đồng lầy đóng băng. Đến ngày thứ 6 của chiến dịch, Tập đoàn quân 11 mới chiếm được các thị trấn Beglovo, Seknoroy và nhà ga Beglovo, cắt đứt đường sắt từ Lychkovo đi Staraya Russa. Ba sư đoàn bộ binh trên cánh phải của Tập đoàn quân 11 ra sức đột phá nhưng vẫn không thể đột nhập vào Staraya Russa.

Máy bay vận tải Ju-52 tiếp tế cho quân Đức trong vòng vây ở Demyansk
Ở phía Nam, Tập đoàn quân xung kích 3 mở đầu bằng đòn tấn công vượt qua hồ Selige đóng băng. Bất ngờ trước đòn tấn công này, Sư đoàn bộ binh 123 và Trung đoàn bộ binh 20 của Sư đoàn bộ binh 12 (Đức) đã phải bỏ các thị trấn Moshenska, Terekhozshina và Sysoyev rút chạy lên phía Bắc. Trung đoàn bộ binh 415 thuộc Sư đoàn bộ binh 123 (Đức) bị Sư đoàn bộ binh 241 (Liên Xô) bao vây và tiêu diệt tại làng Monakovo. Đến ngày 15 tháng 1, Tập đoàn quân xung kích 3 đã tiến ra tuyến Maryevo - Lipye - Novo Russa, bao vây ba mặt thị trấn Molvotitsy. Tập đoàn quân 34 tăng cường gây sức ép để giam chân Sư đoàn cơ giới SS "Totenkopf" và các sư đoàn bộ binh 12, 32 Đức trên tuyến Lychkovo - Kipino - Sukhya Niva - hồ Velye. Phối hợp với cánh trái của Phương diện quân Tây Bắc, Tập đoàn quân xung kích 4 trên cánh phải của Phương diện quân Kalinin cũng bắt đầu phát động tấn công cùng ngày 6 tháng 1 năm 1942 trên hướng Toropest Kholm.

Xe tăng Đức yểm hộ cho bộ binh trong các trận đánh phá vòng vây của quân đội Liên Xô tại khu vực Ramushevo, gần Demyansk, tháng 3 năm 1942
Trước nguy cơ bị mất khoảng 95.000 quân trong vòng vây ở khu vực Demyansk, Bộ tư lệnh Cụm tập đoàn quân Bắc (Đức) gấp rút thành lập hai cụm tác chiến. Cụm "Seydlitz" do tướng Walther von Seydlitz-Kurtzbakh chỉ huy gồm các sư đoàn bộ binh 5, 8, 122, 329 và Sư đoàn cơ giới 18 tập rung tại khu vực Staraya Russa. Cụm "Meindl" gồm cánh trái của Quân đoàn bộ binh 39 đóng đối diện với căn cứ đầu cầu của Quân đoàn bộ binh cận vệ 2 (Liên Xô) phía Tây sông Kholynaya. Không quân Đức Quốc xã đã lập cầu hàng không gồm các máy bay vận tải Ju-52He-111 kéo theo các tàu lượn vận tải DFS-230 và Go-242 để tiếp tế cho Quân đoàn bộ binh 2. Quân Đức sử dụng sân bay chính ở Demyansk có diện tích 800 x 50 m có thể chứa 20 đến 30 máy bay và sân bay phụ tại làng Pesky có thể chứa từ 3 đến 10 máy bay. Hàng ngày, có khoảng từ 100 đến 150 chuyến bay chở đến khoảng 250 tấn hàng tiếp tế, mỗi máy bay vận tải Ju-52 có thể chở được 22 quân tiếp viện hoặc sơ tán 22 người khỏi vòng vây. Trong ba tháng tồn tại của cầu hàng không này (19-2 đến 18-5-1942), không quân Đức Quốc xã đã thực hiện 24.303 chuyến bay, vận chuyển 15.446 tấn hàng (trung bình 273 tấn/ngày) và vận chuyển 22.903 người bị thương. Tổng số máy bay vận tải bị không quân và cao xạ Liên Xô bắn rơi là 265 chiếc.
Ngày 25 tháng 2, STAVKA ra chỉ lệnh số 170.123 yêu cầu Phương diện quân Tây Bắc phải thanh toán số quân Đức bị vây tại khu vực Demyansk trong vòng không quá 4 đến 5 ngày. Tuy nhiên, lực lượng quân đội Liên Xô được huy động gồm Tập đoàn quân 34 của tướng M. A. Purkayev gồm các sư đoàn bộ binh 23, 130, các lữ đoàn bộ binh 20, 27, 86 cùng Quân đoàn bộ binh cận vệ 1 được tăng cường Sư đoàn bộ binh 154 và Lữ đoàn bộ binh 42 từ Tập đoàn quân xung kích 3 là không đủ để thực hiện mục tiêu này. Các sư đoàn Đức bố trí phòng ngự vòng tròn gồm 5 sư đoàn bộ binh và 1 cụm tác chiến sư đoàn, lấy Sư đoàn cơ giới SS "Totenkopf" là lực lượng phòng ngự cơ động đã chặn đứng các đòn tấn công của quân đội Liên Xô. Ngày 20 tháng 3, Cụm tác chiến "Seydlit" (Đức) huy động 5 sư đoàn bộ binh, 1 sư đoàn cơ giới, 1 trung đoàn bộ binh sơn chiến mở cuộc tấn công vượt sông Lovat tại khu vực Ramushevo, đến ngày 1 tháng 4, cánh quân này đã tạo ra một hành lang sâu 12 km, rộng 8 km trên hướng Ramushevo. Từ trong vòng vây, Cụm tác chiến "Eicke" gồm Sư đoàn cơ giới SS "Totenkopf" và Sư đoàn bộ binh 290 do tướng SS Theodor Eicke chỉ huy từ Byankovo đánh ra. Ngày 7 tháng 4, hai cánh quân xe tăng Đức gặp nhau tại khu vực Kolyshkino, đánh thông hành lang trên bộ nối 6 sư đoàn Đức trong "cái túi" Demyansk với bên ngoài. Từ ngày 2 tháng 5, quân Đức tăng cường cho cụm quân của Quân đoàn 2 và Quân đoàn 10 đóng tại đây Sư đoàn SS Đan Mạch, các sư đoàn bộ binh 58, 81 và 126, bám giữ chỗ lồi Demyansk đến cuối tháng 2 năm 1943.

Chiến dịch tấn công Sinyavino lần thứ ba


Lữ đoàn công nhân nhà máy "Kirov", Leningrad hành quân ra mặt trận
Sau hai lần thất bại trong các hoạt động nhằm xóa bỏ "cái cổ chai" Shlissenburg, STAVKA vẫn không từ bỏ chủ trương nối thông đường liên lạc trên bộ giữa Phương diện quân Volkhov với Phương diện quân Leningrad bằng cách đánh bật cánh phải của Tập đoàn quân 18 (Đức) ra khỏi khu vực Sinyavino. Mặc dù chỗ hẹp nhất của khu vực này nằm bờ Nam hồ Ladoga từ Gaitolovo đến đầu cầu Dubrovka chỉ dài 16 km nhưng đến cuối mùa thu năm 1942, quân đội Liên Xô vẫn không thể đột phá được qua hệ thống phòng thủ cứng rắn của Quân đoàn bộ binh 26 (Đức) qua 2 chiến dịch Sinyavino. Đầu mùa đông năm 1942, STAVKA coi nhiệm vụ tiếp tục tấn công trên hướng Sinyavino là mục tiêu hàng đầu của cả Phương diện quân Liên Xô trên hướng này.
Tháng 7 năm 1942 Trong khi Bộ Tổng tham mưu Liên Xô và Bộ tham mưu các phương diện quân Volkhov và Leningrad đang hoàn chỉnh kế hoạch tấn công trên hướng Sinyavino lần thứ ba thì Bộ Tổng tư lệnh Đức Quốc xã cũng có một kế hoạch nhằm giải quyết dứt điểm mục tiêu Leningrad trước mùa đông năm 1942, sau này được biết đến với tên mã "Nordlicht" ("Bắc cực quang"). Cụm tập đoàn quân Bắc (Đức) được tăng cường một phần Tập đoàn quân 11 rút từ Krym lên được huy động để thực hiện kế hoạch này. Cả hai bên đều không biết đến các kế hoạch của nhau. Bộ Tổng tư lệnh Đức Quốc xã và Bộ tham mưu Cụm tập đoàn quân "Bắc" (Đức) không biết được việc quân đội Liên Xô chuẩn bị phản công ở Sinyavino. Bộ Tổng tham mưu và Bộ tham mưu các phương diện quân Liên Xô cũng không biết đến kế hoạch "Nordlicht" của quân Đức. Chiến thuật của quân đội Liên Xô đã có sự khác biệt đối với hai chiến dịch trước đó. Thay vì việc cho cả hai phương diện quân đều phát động tấn công cùng một thời điểm, STAVKA yêu cầu Phương diện quân Leningrad mở màn chiến dịch trên hướng sông Neva. Sau khi đã thu hút được phòng thủ tại thê đội 2 rất mạnh của quân Đức tại Mga và Siniavino kéo sang hướng này, Phương diện quân Volkhov sẽ từ phía Đông giáng đòn quyết định vào Sinyavino.
Phương diện quân Volkhov được giao nhiệm vụ chủ công của chiến dịch huy động vào chiến dịch này Tập đoàn quân 8 của thiếu tướng F. N. Starikov gồm 6 sư đoàn bộ binh, được tăng cường Lữ đoàn xe tăng 7 và Lữ đoàn cơ giới 73. Tập đoàn quân xung kích 2 vừa được phục hồi sau thất bại nặng nề trên hướng Lyuban do thiếu tướng N. K. Krykov chỉ huy gồm các quân đoàn bộ binh cận vệ 4, 6, các sư đoàn bộ binh 191, 374, các lữ đoàn xe tăng 16, 122 và 5 tiểu đoàn xe tăng độc lập đóng vai trò thê đội 2 của chiến dịch trên Gaitolovo - Sinyavino. Phương diện quân Leningrad được giao nhiệm vụ hộ công của chiến dịch huy động cánh trái của Tập đoàn quân 55 gồm các sư đoàn bộ binh 43, 85, 136 và 268 được tăng cường tiểu đoàn xe tăng độc lập 86; dự kiến sẽ tấn công từ đầu cầu Ivanovo dọc theo đường sắt đi Mga. Cụm tác chiến đặc nhiệm Neva sử dụng các sư đoàn bộ binh 46, 70, 86 và Lữ đoàn bộ binh 11 tấn công từ đầu cầu Dubrovka sang Sinyavino.
Lực lượng Đức Quốc xã phòng thủ tại hai bên tuyến đường sắt Mga - Sinyavino - Trại công nhân số 5 là Quân đoàn bộ binh 26 và một phần Quân đoàn bộ binh 54 gồm 7 sư đoàn bộ binh và 1 sư đoàn xe tăng. Hướng Tây đối diện với Leningrad qua sông Neva có các sư đoàn bộ binh 5, 28 và Sư đoàn cảnh sát SS dã chiến. Hướng Tây đối diện với cánh phải của Phương diện quân Volkhov có các sư đoàn bộ binh 96, 223 và 227. Sư đoàn xe tăng 12 và Sư đoàn bộ binh 170 giữ Mga, Sinyavino và tuyến đường sắt nối hai mục tiêu này. Từ ngày 10 tháng 9, lực lượng quân Đức trong khu vực chiến dịch được tăng cường các sư đoàn bộ binh 24, 121, 132 và Sư đoàn bộ binh sơn chiến 3 thuộc Quân đoàn bộ binh 30 của Tập đoàn quân 11 (Đức) rút từ Krym lên sau khi hoàn thành chiến dịch "Săn đại bàng" và đánh chiếm Sevastopol. Trên phòng tuyến, quân Đức đã thiết lập các cụm phòng thủ cấp trung đoàn. Tại hướng sông Neva có các cứ điểm Shlissenburg, Marino, các thị trấn số 1, số 2, Arbozovo, Annensk và Ivanovo. Hướng đối diện với Phuwong diện quân Volkhov có các cứ điểm Lipka, Trại công nhân số 4, các thị trấn Tortolovo, Mishkino, Voronovo và Lodva. Ở tung thâm có ba trung tâm phòng ngự mạnh gồm Trại công nhân số 5, Siniavino và Mga.
Ngày 19 tháng 8, Phương diện quân Leningrad phát động tấn công. Cũng vẫn như lần trước, hỏa lực pháo binh của quân đọi Liên Xô không đủ chế áp các hỏa điểm pháo binh và súng máy tại các cứ điểm phòng thủ của quân Đức. Tại dải tấn công của Tập đoàn quân 55, cuộc tấn công ban đầu diễn ra khá thuận lợi. Sư đoàn bộ binh 268 có tiểu đoàn xe tăng độc lập 86 mở đường đã nhanh chóng đánh chiếm thị trấn Ivanovo và đột kích lên hướng Mga. Ngày 23 tháng 8, Sư đoàn bộ binh 136 cũng vượt qua cầu Ivanovo và cả hai sư đoàn đã tiến đến nhà ga Pella, đánh chiếm thị trấn Otrana, cách cầu Ivanovo 7 km về phía Đông. Quân Đức lập tức phản ứng, một trung đoàn của Sư doàn xe tăng 12 được đưa từ Mga ra hợp lực với Sư đoàn cảnh sát SS dã chiến đã chặn đứng cuộc tấn công của các sư đoàn bộ binh 136 và 268 (Liên Xô) tại khu vực Pella. Ngày 26 tháng 8, quân Đức đánh bật các sư đoàn bộ binh Liên Xô về đầu cầu Ivanovo. Trước nguy cơ bị quân Đức vượt sông Tosna đánh bọc sườn, tướng V. P. Sviridov, tư lệnh tập đoàn quân 55 buộc phải tung các sư đoàn bộ binh 43 và 58 dự kiến sử dụng để tăng sức ép tấn công ra bịt cửa mở trên ngã ba sông Tosna - Neva tại Ivanovo nhưng không thể chiếm lại được đầu cầu Ivanovo.
Ngày 23 tháng 8, Cụm tác chiến đặc nhiệm Neva (Liên Xô) cũng bắt đầu tấn công từ căn cứ đầu cầu Dubrovka. Cuộc tiến công của các sư đoàn bộ binh 46 và 86 tại đây diễn ra rất chậm chạp. Đến ngày thứ ba của chiến dịch, Sư đoàn bị binh 86 bị 2 trung đoàn xe tăng của Sư đoàn xe tăng 12 và Sư đoàn bộ binh 28 tập kích vào bên sườn và đánh bật về vị trí xuất phát. Sư đoàn bộ binh 46 bị mắc kẹt trong dải đầm lầy giữa Dubrovka và thị trấn số 1, không thể nhích lên dù chỉ vài trăm m.

Xe tăng Tiger-I của quân đội Đức Quốc xã được sử dụng tại chiến dịch Sinyavino
Tướng K. A. Mereskov chờ đến ngày 27 tháng 8 mới phát động tấn công, khi ông cho rằng chủ lực của Quân đoàn 26 (Đức) đã bị hút sang hướng Leningrad. Sau loạt pháo bắn chuẩn bị kéo dài 2 giờ 10 phút, Tập đoàn quân 8 bắt đầu tràn lên phía trước. Trưa ngày 27 tháng 8, hai cửa đột phá rộng từ 1 đến 2 km đã được mở ra ở Mishkino và Trại công nhân số 8. Các mũi tấn công của các sư đoàn bộ binh 11, 128, 265 và 286 đã giam chân các sư đoàn bộ binh 223 và 227 (Đức) tại các khu vực này. Tuy nhiên, đó là tấy cả những gì mà cánh phải và cánh trái của Tập đoàn quân 8 (Liên Xô) đạt được sau ba ngày tấn công. Trên hướng Gaitolovo, Quân doàn bộ binh cận vệ 4 đã mở được một cửa đột phá lớn rộng 8 km từ Gontovaya Lipka đến Tortolovo sau hai ngày tấn công. Ngày 29 tháng 8, Tập đoàn quân xung kích 2 được tung vào cửa mở và ngay trong hai ngày đầu tiên đã tiến lên hơn 8 km, áp sát thị trấn Sinyavino. Ngày 5 tháng 9, Sư đoàn bộ binh cận vệ 24 thậm chí đã vượt sông Moyka và chiếm được một đầu cầu nhỏ cách Đông Bắc Mga 3 km. Các sư đoàn bộ binh 191 và 274 cũng tiến ra sông Moyka nhưng không thể với tới cây cầu bắc qua con sông này, một trong các mục tiêu để cô lập Sinyavino với Mga.
Ngày 3 tháng 9, Cụm tác chiến đặc nhiệm Neva (Liên Xô) lại chuyển sang tấn công. Hai cánh quân liên Xô chỉ còn cách nhau gần 6 km tính từ đầu cầu Dubrovka đến cây cầu đường sắt bắc qua sông Moyka nhưng dó là khoảng cách mà họ không thể vượt nổi, cho dù cả hai cánh quân dã nghe thấy tiếng đại bác vọng đến từ hai phía đối diện. Tướng K. A. Mereskov không hề biết rằng từ ngày 27 đến ngày 30 tháng 8, Quân đoàn 26 (Đức) đã di chuyển Sư đoàn bộ binh 170 lên phía Bắc Mga, kéo sư đoàn bộ binh 28 về phối hợp với Sư đoàn sơn chiến 5 giữ Sinyavino cùng Trung đoàn xe tăng 60 của Sư đoàn xe tăng 12 chặn được cuộc tấn công của Quân đoàn bộ binh cận vệ 6 (Liên Xô) tại sát phía Đông Nam thị trấn Sinyavino. Ngày 4 tháng 9, khi đang trên tàu hỏa hành quân đến Mga cùng với các sư đoàn bộ binh 24, 121, 132 và Sư đoàn bộ binh sơn chiến 5 từ Krym di chuyển đến, thống chế Erich von Manstein nhận được điện thoại vô tuyến trực tiếp từ Hitler. Erich von Manstein viết:
Vào buổi tối ngày 4 tháng 9, tôi nhận được điện thoại của Hitler. Ông nói rằng tôi cần ngay lập tức can thiệp vào tình hình trên mặt trận Volkhov để tránh một thảm họa. Tôi đã phải ngay lập tức nắm quyền chỉ huy tại khu vực này và áp dụng những biện pháp mạnh mẽ để khôi phục lại tình hình mặt trận. Thật vậy, trong ngày này, kẻ thù trong khu vực phía nam của hồ Ladoga đã tạo ra một sự thâm nhập sâu vào phòng tuyến của Tập đoàn quân 18... Và thế là thay vì các cuộc tấn công vào Leningrad theo kế hoạch, chúng tôi phải bước vào một cuộc chiến ở phía nam hồ Ladoga
—Erich von Mastein.
Ngày 10 tháng 9, Quân đoàn bộ binh 30 (Đức) đổ quân ở Mga và các cân lực lượng trên mặt trận đã thay đổi. Nắm trong tay quyền chỉ huy hai quân đoàn bộ binh 26 và 30, thống chế Erich von Manstein lập tức triển khai lực lượng xung quanh chỗ lồi Sinyavino. Ở phía Nam, Sư đoàn bộ binh 132 và Sư đoàn sơn chiến 3 được bố trí ở Mikhailovsky. Sư đoàn bộ binh 24 và 1 trung đoàn của Sư đoàn xe tăng 12 được đưa đến phía Nam Tortolovo. Ở hướng Tây Nam, Sư đoàn bộ binh 170 được kéo về phía Bắc Mga. Sư đoàn bộ binh 28 được bố trí phía Tây Sinyavino. Sư đoàn bộ binh 5 cùng ở phía Đông Sinyavino. Sư đoàn bộ binh 121 và 2 trung đoàn xe tăng của Sư doàn xe tăng 12 bố trí ở Trại công nhân số 7. Sư đoàn bộ binh 227 được giao nhiệm vụ xóa một chỗ lồi nhỏ do Sư đoàn bộ binh 128 (Liên Xô) chiếm giữ ở Trại công nhân số 8. Các sư đoàn bộ binh 96 và 223 được lệnh ghìm chặt các sư đoàn cánh trái của Tập đoàn quân 8 (Liên Xô) tại Voronovo. Lần đầu tiên trong Chiến tranh Xô-Đức, 4 xe tăng Tiger-I được đưa vào trận đánh như một cuộc thử nghiệm khả năng chiến đấu trên chiến trường. Thời điểm tấn công được thống chế Erich von Mastein ấn định nhằm ngày 21 tháng 9.

Tân binh Liên Xô tăng viện cho mặt trận Leningrad
Các cuộc tấn công của quân Đức ngày 21 tháng 9 diễn ra không suôn sẻ. Do tiếp cận chiến trường vội vã và lẻ tẻ nên cánh Nam phát động tiến công lúc 12 giờ nhưng cánh Bắc lại bị chậm đến 14 giờ. Tổn thất trong hai ngày đầu tiên của Sư đoàn bộ binh 132 (Đức) lên đến 30% quân số. Ngfay 23 tháng 9, thống chế Erich von Manstein thực hiện một cuộc tấn công mới được khởi sự lúc 10 giờ sáng với sự yểm hộ của pháo binh với mật độ cao. Ngày 25 tháng 9, Sư đoàn bộ binh 132 và Sư đoàn sơn chiến 3 (Đức) đã chiếm một đầu cầu phía Đông sông Cherno, Sư đoàn bộ binh 24 và 1 trung đoàn của Sư đoàn xe tăng 12 đã chiếm Tortolovo và Mishkino, đánh bật Sư đoàn bộ binh 11 và Lữ doàn cơ giới 73 (Liên Xô) về phía Đông Nam Gaitolovo.
Trên cánh Bắc, Sư đoàn bộ binh 121 và 2 trung đoàn của Sư đoàn xe tăng 12 (Đức) tấn công qua Gontovaya xuống phía Bắc Gaitolovo. Hành lang tiếp tế cho Tập đoàn quân xung kích 2 (Liên Xô) bị thu hẹp dần, mỗi bên chỉ còn không quá 2 km tính từ Gaitolovo. Trên các hướng Tây, Tây Bắc và Tây Nam, các sư đoàn bộ binh 28, 5 và 170 liên tục dồn ép các sư đoàn bộ binh Liên Xô đang dần dần kiệt sức. Quân đoàn không quân 8 (Đức) được đến từ mặt trận Stalingrad liên tục dội bom xuống đội hình của quân đội Liên xô trong khu vực bị vây. Riêng trong ngày 26 tháng 9 đã có 17 máy bay ném bom và 45 máy bay cường kích hoạt độngTrước nguy cơ Tập đoàn quân xung kích 2 một lần nữa bị bao vây và tiêu diệt, ngày 27 tháng 9, Bộ Tư lệnh Phương diện quân Volkhov cấp tốc thực hiện mọi biện pháp để rút tập đoàn quân này khỏi vòng vây còn đang bị hở tại Gaitolovo. Các sư đoàn bộ binh 265, 372 và Lữ đoàn xe tăng 7 (Liên Xô) được đưa đến giữ cửa mở Gaitolovo. Đến ngày 30 tháng 9, phần lớn Tập đoàn quân xung kích 2 và các quân đoàn bộ binh cận vệ 4 và 6 đã ra khỏi vòng vây. Ngày 6 tháng 10, Quân đoàn bộ binh 30 (Đức) chiếm Gaitolovo. Ngày 10 tháng 10, Cụm tác chiến đặc nhiệm Neva (Liên Xô) cũng phải rút quân về bờ Tây sống Neva, bỏ lại căn cứ đầu cầu Dubrovka. Chiến dịch Sinyavino lần thứ ba của quân đội Liên Xô thất bại.
Thống chế Erich von Manstein tuyên bố đã tiêu diệt 1 sư đoàn và 6 lữ doàn trong số 16 sư đoàn và 9 lữ đoàn bộ binh Liên Xô, đánh thiệt hại nặng 4 trong dố 5 lữ đoàn thiết giáp Liên Xô; quân Đức bắt 12.000 tù binh, phá hủy 300 pháo, 500 súng cối và 244 Liên Xô. Tuy nhiên, các quân đoàn bộ binh 26, 30 (Đức cũng bị thiệt hại đáng kể và từ ngày 11 tháng 10 đã phải chuyển sang tư thế phòng ngự. Trả lời câu hỏi của Adolf Hitler về việc Tập đoàn quân 11 còn có thể tiếp tục thực hiện kế hoạch "Bắc cực quang" được không, Thống chế Erich von Mastein đã nói rằng điều đó là không thể vì tất cả các sư đoàn Đức cũng bị tổn thất khá nặng, phương tiện thiếu và đạn dược không còn đủ.
Quân đội Liên Xô thất bại trong cuộc giải vây cho Leningrad nhưng một cách ngẫu nhiên, họ đã làm phá sản vĩnh viễn kế hoạch "Bắc cực quang" của quân đội Đức Quốc xã. Từ tháng 10 trở đi, vấn đề đánh chiếm Leningrad không bao giờ dược đặt ra tại Tổng hành dinh của Hitler nữa. Phòng thông tin Liên Xô tuyên bố Phương diện quân Volkhov đã tiêu diệt và bắt sống 60.000 quân Đức, phá hủy 200 xe tăng, 600 pháo và súng cối, bắn rơi 260 máy bay Đức. Theo nghiên cứu mới nhất của I. A. Isayev, quân đội Liên Xô mất 40.085 người chết, 73.589 người bị thương. Từ ngày 28 tháng 8 đến 30 tháng 9, Quân đội Đức Quốc xã tổn thất 25.936 người chết và bị thương.

Chiến dịch Tia Lửa


Các phương diện quân Leningrad và Volkhov gặp nhau tại khu vực Slishenburg ngày 18 tháng 1 năm 1943. Vòng phong tỏa của quân đội Đức Quốc xã ở phía Đông Leningrad bị phá vỡ
Ngày 28 tháng 12 năm 1942, phát hiện các tập đoàn quân 16 và 18 của Đức chuyển sang phòng thủ mùa đông, Bộ Tổng tư lệnh tối cao Liên Xô phê duyệt kế hoạch chiến dịch "Iskra" ("Tia lửa") nhằm giải vây cơ bản cho Leningrad, thủ tiêu sự uy hiếp của tập đoàn quân 16 (Đức) trên tuyến Shernaia Reska, Shlissenburg, Livka, Siniavino phía nam hồ Ladoga, khôi phục hoàn toàn và chắc chắn tuyến giao thông giữa Leningrad với nội địa Liên Xô. Về chiến thuật, quân đội Liên Xô vẫn sử dụng cánh trái của Phương diện quân Leningrad và cánh phải của Phương diện quân Volkhov. Tại cánh trái Phương diện quân Leningrad, tập đoàn quân 67 do tướng M. P. Dukhanov chỉ huy vượt sông Neva đánh vào tuyến phòng thủ của cánh trái tập đoàn quân 18 (Đức) trên tuyến Moskovskaia - Dubrovka - Shlissenburrg và hợp điểm với cánh phải của Phương diện quân Volkhov. Yểm hộ sườn phải cho tập đoàn quân 67 có tập đoàn quân 55 do tướng V. P. Sviridov chỉ huy. Chủ lực cánh phải của Phương diện quân Volkhov vẫn là tập đoàn quân xung kích 2 do tướng B. Z. Romanovssky chỉ huy, yểm hộ sườn trái cho tập đoàn quân này có tập đoàn quân 8 do tướng F. N. Starikov chỉ huy. Quân đội Đức phòng thủ tại mặt trận có các quân đoàn bộ binh 170 và 227, các sư đoàn bộ binh 21, 61, 96 và sư đoàn cơ giới SS "Polisha".

Chiến dịch Tia lửa (Iskra), tháng 1 năm 1943
Đêm 11 rạng ngày 12 tháng 1 năm 1943, sau cuộc tập kích đường không với hàng trăm máy bay ném bom thuộc không đoàn 14, hơn 4.500 khẩu pháo từ phía sau trận tuyến của quân đội Liên Xô pháo kích trong 2 giờ 20 phút dọn đường cho cuộc tấn công. Tham gia phối hợp còn có các chiến hạm và máy bay của Hạm đội Baltic. Ngày 18 tháng 1 năm 1943, tập đoàn quân 67 của Phương diện quân Leningrad và tập đoàn quân xung kích 2 đã gặp nhau tại các khu công nhân số 1 và số 5, phía Nam Shlisselburg, chọc thủng vòng phong tỏa của quân Đức. Hitler la lối, khiển trách tướng Georg Lindemann (tư lệnh tập đoàn quân 18) về thất bại này. Ông ta yêu cầu: "Tập đoàn quân 18 không được lùi một bước, phải giữ Leningrad trong vòng phong toả". Tuy nhiên, do đã điều động quá nhiều xe tăng, thiết giáp cho phía Nam mặt trận Xô- Đức, quân đội Đức Quốc xã không còn các binh đoàn cơ giới đủ mạnh để phản kích lấy lại khu vực "cổ chai" Shlisselburg. Mặc dù vẫn còn sử dụng được pháo binh từ cứ điểm Siniavinsk để bắn phá thành phố nhưng về cơ bản, kế hoạch bóp chết Leningrad trong vòng phong tỏa của quân đội Đức Quốc xã đã hoàn toàn thất bại. Vòng phong tỏa Leningrad đã bị phá vỡ sau 871 ngày đêm tồn tại.
Nhằm ngăn chặn quân đội Đức Quốc xã rút thêm các binh đoàn cơ giới còn lại để ném vào trận Kursk, từ ngày 21 tháng 7 đến ngày 22 tháng 8 năm 1943, các Phương diện quân Leningrad và Volkhov tiếp tục mở các trận đánh tại khu vực Siniavino - Mga. Tham gia trận đánh có các tập đoàn quân 8, 67 và quân đoàn cơ giới 30. Chống lại cuộc tấn công này có quân đoàn bộ binh 24 (Đức) gồm 5 sư đoàn bộ binh 1, 11, 23, 132, 290 và sư đoàn cơ giới 5. Mặc dù không thực hiện được ý định hội quân tại Mga để hợp vây quân đoàn 24 tại khu phòng thủ kiên cố Siniavino nhưng tập đoàn quân 8 và quân đoàn cơ giới 30 đã chiếm được hai bàn đạp quan trọng tại Anenskoie và Porecy, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho cuộc tổng phản công của quân đội Liên Xô tại mặt trận Leningrad trong chiến dịch Narva.

Chiến dịch Krasnoye Selo-Ropshinkaia


Chiến dịch Krasnoye Selo-Ropshinkaia giải tỏa hoàn toàn tỉnh Leningrad
Ngày 12 tháng 10 năm 1943, Bộ Tổng tư lệnh tối cao quân đội Liên Xô phê chuẩn kế hoạch chiến dịch Krasnoye Selo-Ropshinkaia nhằm đẩy lùi tập đoàn quân 18 ra khỏi tỉnh Leningrad, chiếm lĩnh một số bàn đạp để phát triển tấn công, chia cắt Cụm tập đoàn quân Bắc của quân đội Đức Quốc xã với Cụm tập đoàn quân Trung tâm và cô lập cụm quân này tại vùng Pribaltic. Nhận thấy không đủ lực lựợng để phòng ngự trên một trận tuyến dài hơn 200 km bao quanh Leningrad từ Phía Tây và phía Nam, Thống chế Wilhelm Ritter von Leeb đề nghị rút quân về giữ tuyến biên giới của các nước cộng hòa vùng Baltic và Belorussia để thu hẹp chính diện mặt và rút ngắn tuyến vận tải hậu cần đã quá dài. Tuy nhiên, ngày 9 tháng 1 năm 1943, Hitler cách chức ông ta và đưa viên tướng Walter Model kế nhiệm với mệnh lệnh cấm rút quân. Với 44 sư đoàn và 4 lữ đoàn, trấn giữ tuyến phòng thủ từ Leningrad đến Velikie Luky có chiều sâu phòng ngự từ 250 đến 300 km được cấu trúc kiên cố, Führer cho rằng quân Đức có thể trụ lại được.
Để chuẩn bị cho chiến dịch, từ ngày 9 tháng 1 năm 1944, tập đoàn quân xung kích 2 (Liên Xô) đã sử dụng tàu chiến và tàu vận tải của Hạm đội Baltic đổ bộ lên "mỏm Oranielbaum", hình thành một bàn đạp tấn công ngay sau lưng quân đoàn bộ binh 50 và quân đoàn cơ giới 3 SS (Đức). Ngày 14 tháng 1 năm 1944, tập đoàn quân xung kích 2 và tập đoàn quân 42 (Liên Xô) tấn công hợp điểm vào Krasnoye Selo-Ropshinkaia, hợp vây và tiêu diệt quân đoàn bộ binh 50 (Đức). Quân đoàn cơ giới 3 SS (Đức) rút được một bộ phận ra khỏi "cái túi" Ropshinkaia nhưng phải bỏ lại hầu hết vũ khí nặng. Thất bại trên cánh trái tập đoàn quân 18 đã đặt quân đoàn bộ binh 54 và quân đoàn bộ binh 28 của tập đoàn quân này đang hoạt động tại khu vực Mga vào thế bị hở sườn. Ngày 16 tháng 1, tập đoàn quân 67 (Phương diện quân Leningrad) và tập đoàn quân 8 (Phương diện quân Volkhov) đã đánh bật các quân đoàn bộ binh 28 và 54 (Đức) khỏi khu vực Mga, Toxno. Ngày 22 tháng 1, tập đoàn quân 42 chiếm lại các thị trấn Puskino, Krasno Gvardeisk và phát triển tấn công đến Kiginsev và Bolshoi Sabsk trên bờ Đông sông Luga. Sau hai ngày, tập đoàn quân xung kích 2 cũng chiến được các thị trấn Sista Palkino và Kotly trên bờ đông sông Narva. Ở cánh trái của mặt trận, ngày 24 tháng 1, tập đoàn quân 67 vượt sông Orodezh tiêu diệt cụm phòng thủ Siversky của quân Đức và tiến đến sát cửa ngõ Novinka. Ngày 26 tháng 1, Phương diện quân Volkhov cũng chiếm được thành phố cổ Novgorod, khép chặt sườn phải của họ với sườn trái của Phương diện quân Leningrad. Ngày 27 tháng 1, Moskva bắn pháo hoa chào mừng thành phố Leningrad đã được giải thoát hoàn toàn khỏi vòng phong toả. Vì thất bại này, ngày 31 tháng 3 năm 1944, Hitler lại cách chức tướng Georg Lindemann và cử tướng Johannes Frießner kế nhiệm chức vụ tư lệnh Cụm tập đoàn quân Bắc.

Kết quả của trận đánh


Người dân Leningrad suy kiệt trong vòng phong tỏa (ảnh trưng bày tại nhà tưởng niệm trong nghĩa trang Piskarevskoye

Thiệt hại về nhân mạng

Cuộc bao vây phong tỏa Leningrad đã đưa lại thiệt hại lớn về quân sự cho cả hai bên. Phía Liên Xô có 332.059 quân nhân tử trận, 24.324 người bị quân Đức bắt làm tù binh, 111.142 quân nhân bị thương tật. Phía quân đội Đức Quốc xã cũng có hơn 500.000 người chết và bị thương. Mặc dù Liên Xô đã sơ tán khoảng 1.700.000 người nhưng vẫn còn hơn 1.400.000 dân bị kẹt lại tại Leningrad. Sau 871 ngày bị bao vây hoàn toàn, (nếu tính cả những ngày bị phong tỏa đến 27 tháng 1 năm 1944 là hơn 900 ngày), số dân thường bị thiệt mạng vì đói rét lên đến 632.253 người, trong đó có khoảng 234.000 người chết đói và chết rét ngay trong mùa đông đầu tiên của cuộc phong tỏa (1941-1942). Nếu tính cả số người chết vì bom đạn thì con số này lên trên 1 triệu người. Nhiều gia đình bị thiệt mạng từ 6 đến 7 người. Hầu hết các nạn nhân được chôn tại nghĩa trang Piskarevskoye.

Thiệt hại vật chất


Từ ngày 27 tháng 1 năm 1944, người dân Leningrad bắt đầu xóa dòng chữ trên tường: "Các công dân! Đây là một tuyến đường phố rất nguy hiểm do pháo kích".
Ngoài máy bay, xe tăng, đại bác, tàu thủy và các chiến cụ của hai bên bị phá hủy trong các trận đánh, Leningrad còn bị thiệt hại đáng kể về vật chất. Các thống kê sau chiến tranh cho thấy có đến 16.747 công trình xây dựng đã bị phá hủy hoặc hư hại nặng nề. Trong số đó có khu trang trại của gia đình Pushkin, bảo tàng tu viện gia đình Pushkin, tu viện Sviatogorsky, trang viên Mikhailovskoie nằm trong vùng bị quân Đức chiếm đóng. Vì không chiếm được thành phố nên quân đội Đức Quốc xã đã phá hủy các công trình xây dựng một cách có hệ thống bằng máy bay ném bom và các khẩu siêu đại bác. Tất cả các mục tiêu đều được lập danh sách, được đánh số mục tiêu trên bản đồ và thực hiện ngắm bắn, ném bom theo tọa độ. Trong số đó có các mục tiêu quan trọng như: Viện bảo tàng Hermitage (có tầm cỡ sánh ngang với Bảo tàng Anh Quốc, Bảo tàng Louvrre, Bảo tàng mỹ thuật quốc gia Washington, Bảo tàng Germangalery Dresdel) được đánh số 9; số 192 là Cung Văn hóa thanh thiêu niên; số 708 là bệnh viện chăm sóc bà mẹ và trẻ sơ sinh, số 736 là Trường Đại học Leningrad (nay là Đại học Sankt Peterburg)...
Ngay từ những ngày đầu chiến tranh, người dân Leningrad đã kịp sơ tán các hiện vật quý khỏi thành phố nhưng Viện bảo tàng Hermitage vẫn bị thiệt hại nặng nề trong các trận ném bom. Trong số những hiện vật có giá trị cao được cứu ra khỏi bảo tàng có bức tranh Đức Mẹ của Leonar de Vinci, bức tranh Đức Mẹ của Rafael. Đến tháng 7 năm 1941, ngay trước khi vòng phong tỏa bị khép chặt, một chuyến xe lửa gồm 20 toa chở 1.422 thùng hàng trong đó chứa đựng hơn 700.000 hiện vật đã khởi hành từ Leningrad chạy thẳng đến Siberi. Những tác phẩm nghệ thuật quý giá nhất được chứa trong các toa bọc thép. Tuy nhiên, cũng vẫn còn nhiều tác phẩm chưa kịp sơ tán và vẫn "sống sót" qua gần 900 ngày bị phong tỏa.

Cuộc phong tỏa Leningrad trong văn hóa nghệ thuật

Năm 1945, ngay sau khi chiến tranh kết thúc, cùng với Moskva, Stalingrad, Kiev, Odessa, Rostov on Don, Sevastopol, thành phố Leningrad được phong tặng danh hiệu thành phố anh hùng. Tính chất bi hùng của cuộc chống phong tỏa và phá vỡ vòng phong tỏa đã được các thế hệ người Xô Viết trước đây và người Nga hiện nay phản ánh trong nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật. Những tác phẩm này thậm chí ra đời ngay khi thành phố vẫn đang bị bao vây và tàn phá nặng nề.

Tác động về văn hóa và kiến trúc


Biểu tượng kỷ niệm con đường sống vượt qua vòng phong tỏa trên dốc Vaganovo dẫn đến hồ Ladoga
Trên hình là biểu tượng kỷ niệm "con đường sống" của Leningrad. Cuộc bao vây này đã để lại những ấn tượng khó phai trong lòng các cư dân của thành phố, ít nhất là một thế hệ sau cuộc chiến. Thành phố Leningrad luôn tự hào về văn hóa của thành phố, cho dù một thư viện hai trăm năm tuổi hoặc những cái chết vì băng giá. Những điều kiện sống trong thành phố bị bao vây và nạn đói luôn là nỗi ám ảnh qua nhiều thế hệ. Mặt khác, thành phố đã kháng cự lại cuộc bao vây trong gần 3 năm, vì thế sự tự hào của người dân thành phố là vô cùng hiển nhiên: "Troia và Roma có thể sụp đổ, nhưng Leningrad vĩnh viễn không bao giờ thất bại." Vào năm 2000, một tòa nhà nằm ở ngoại ô của Sankt-Peterburg được xây trước cuộc bao vây vẫn còn được giữ lại.
Cuộc bao vây thành phố được tưởng niệm vào cuối những năm 1950 bởi Green belt of Glory, một vòng bằng cây và đài tưởng niệm đã được xây dựng trên chiến tuyến lịch sử. Một bảng cảnh báo của thành phố thôn báo cho người dân tránh các cuộc oanh kích của quân Đức vẫn còn được giữ lại. Các hướng dẫn viên du lịch thông báo cho du khách biết rằng không nên đi bộ trong vườn khi có sấm sét, vì các mảnh đạn còn sót trong các thân cây có thể thu hút sét dễ dàng.

Tác động đối với nghệ thuật âm nhạc

Dmitri Dmitrievich Shostakovich đã viết bản giao hưởng số 7, một số được viết trong điều kiện bị bao vây. Theo Solomon Volkov, Shostakovich nói rằng "bản nhạc này không phải viết về cuộc bao vây Leningrad mà viết về sự phá hủy thành phố do Stalin gây ra và Hitler là người kết thúc nó"
Ca sỹ Mỹ Billy Joel đã viết một bài hát có tên gọi "Leningrad" như là một minh chứng cho cuộc bao vây này. Bài hát nói về một chàng trai trẻ người Nga, Viktor, người đã mất cha trong cuộc bao vây.

Tác động đối với nghệ thuật văn chương


Huân chương Bảo vệ Leningrad của Liên Xô

Kỷ niệm chương Công dân 900 ngày của Leningrad
  • Nhà văn Mỹ Elise Blackwell đã xuất bản cuốn sách "Hunger" vào năm 2003, nói về những sự kiện lịch sử trong suốt cuộc bao vây.
  • Nhà văn Anh Helen Dummore viết một tác phẩm văn chương đạt giải thưởng cho tiểu thuyết. Cuốn sách kể về những sự kiện chính trong cuộc bao vây và cho thấy những ảnh hưởng của nó lên những người không trực tiếp tham gia cuộc chiến.
  • Vào năm 1982, Daniil GranilAles Adamovich xuất bản cuốn "The Blockede Book", cuốn sách này tập hợp các lời kể và hồi kí của các nhân chứng trong cuộc chiến. Cuốn sách đã chịu sự kiểm duyệt gắt gao của nhà cầm quyền Xô Viết do sự miêu tả chân thực tâm trạng con người một điều ảnh hưởng đến "chủ nghĩa anh hùng" mà chính quyền Xô Viết đã xây dựng.
  • Một tác giả người Israel gốc Ả Rập Emil Habibi đã đề cập đến cuộc bao vây trong truyện ngắn "The Love in my Heart". Nhân vật chính trong truyện của tác giả đã viếng thăm nghĩa địa của các nạn nhân trong cuộc chiến và bị kẹt lại trong một khung cảnh mà anh ta nhìn thấy trong tâm tưởng của nhân vật này.

Tác động đối với nghệ thuật điện ảnh

  • Đạo diễn phim, Andrei Arsenyevich Tarkovsky, đã thực hiện một bộ phim bao gồm nhiều cảnh quay trong bộ phim bán tự truyện của anh ta - The Mirror.
  • Năm 1989, Sergio Leone đã dự định quay một bộ phim có tựa đề "900 ngày", tuy nhiên vị đạo diễn này mất 1 tuần trước khi phim được sản xuất vì bệnh tim.

Các diễn biến quốc tế trước, trong và sau cuộc phong tỏa

Thái độ của quân đội Phần Lan

Vào tháng 8, quân Phần Lan chiếm lại được eo đất Karelia, đe dọa Leningrad từ phía Bắc và nhanh chóng phát triển sang phía Đông Karelia của hồ Lagoda, tiến tới đe dọa Leningrad từ phía Đông. Thực tế, quân đội Phần Lan đã dừng tấn công tại biên giới cũ năm 1939. Trung tâm chỉ huy quân đội Phần Lan đã từ chối yêu cầu của quân Đức tấn công bằng không quân vào Leningrad và không có thêm bất cứ một sự đe dọa nào xuống phía Nam sông Svir trong việc chiếm lấy khu vực phía đông Karelia. Đến ngày 7 tháng 9, quân Phần Lan tiến tới cách Leningrad 160 km về phía Đông Bắc. Ở phía Nam, quân Đức đã chiếm được Tikhvin vào ngày 8 tháng 11, nhưng những nỗ lực của quân Đức trong tiến xa hơn về phía Bắc để hội quân với quân đội Phần Lan tại sông Svir đều thất bại.
Đến ngày 4 tháng 9, Thống chế Đức Quốc xã Alfred Jodl cố gắng thuyết phục tướng Carl Gustaf Emil Mannerheim tiếp tục cuộc chiến, nhưng nỗ lực này đã bị tướng Mannerheim từ chối. Sau chiến tranh cựu tổng thống của Phần Lan, Risto Ryti, đã phát biểu: "Vào ngày 24 tháng 8 năm 1941, tôi đã đến trung tâm chỉ huy của Thống chế Mannerheim. Người Đức đã yêu cầu chúng tôi băng qua biên giới cũ và tiếp tục tiến đến bao vây Leningrad. Tôi nói rằng Leningrad không phải là mục tiêu của chúng tôi và chúng tôi sẽ không tham gia vào cuộc chiến này. Mannerheim và bộ trưởng quốc phòng Waden đồng ý với tôi và từ chối yêu cầu của người Đức. Kết quả của sự từ chối này là quân Đức không thể tiến đến Leningrad từ phía Bắc..."
Tuy nhiên, quân đội Xô Viết không biết việc từ chối tham chiến mà Ryti và Mannerheim đã thông báo cho Đức Quốc Xã. Vì thế, trong bất kỳ trường hợp nào, sự đe dọa về một cuộc tấn công của Phần Lan luôn làm khả năng phòng thủ của quân Xô Viết tại Leningrad bị phân tán. Chẳng hạn như vào thời đầu của cuộc phong toả, tư lệnh Phương diện quân M. M. Popov đã không thể chuyển lực lượng dự bị chống lại quân Đức vì phải duy trì Tập đoàn quân 23 tại vùng đệm phòng thủ eo đất Karelia. Mannerheim đã ra lệnh cho quân đội Phần Lan dừng tấn công vào ngày 31 tháng 8 khi họ tiến tới vùng đất ngang bằng với biên giới năm 1939 ở vị trí bờ biển của vịnh Phần Lanhồ Lagoda. Khi quân Phần Lan tiến tới vị trí này trong những ngày đầu tháng 9, tướng Popov nhận thấy rằng áp lực của quân Phần Lan đã giảm bớt nhanh chóng và đến ngày 5 tháng 9 thì 2 quân đoàn thuộc tập đoàn quân 23 được điều tới vùng giao chiến của quân Đức. Vào mùa hè năm 1942, một đơn vị hải quân của Phần Lan được thành lập và có nhiệm vụ tấn công vào các đơn vị tiếp viện hậu cần ở phía Nam hồ Lagoda với sự trợ giúp của quân ĐứcÝ. Sau sự kiện này, quân đội Phần Lan gần như không tham gia vào cuộc chiến Leningrad. Đến cuối năm 1944, Phần Lan đơn phương tuyên bố chấm dứt chiến tranh với Liên Xô.

Thái độ của các đồng minh chống phát xít

Dư luận các đồng minh của Liên Xô, đặc biệt là Anh và Mỹ đã tỏ ra lo lắng cho số phận của Leningrad khi nó bị bao vây cũng giống như khi Moskva bị quân đội Đức Quốc xã uy hiếp. Ngày 20 tháng 1 năm 1943, khi được tin phòng phong tỏa đã bị phá vỡ, báo chí Canada bình luận: "Bằng việc phá vỡ vòng phong toả, Hồng quân Xô viết lại ghi thêm một trang vinh quang mới cho lịch sử quân đội Nga. Những người bảo vệ Leningrad trải qua mọi khó khăn và thử thách đã đứng vững với ý chí sắt đá. Đó là nét đặc trưng cho toàn bộ cuộc phòng thủ của Nga ngay từ khi bắt đầu chiến tranh".
Ngày 28 tháng 1 năm 1944, khi cuộc phong tỏa gần 900 ngày của quân đội Đức tại Leningrad hoàn toàn bị thất bại, các báo chí Anh đã đăng những bài bình luận nhân sự kiên này trên trang nhất. Đây là một trong những đoạn bình luận đó: "Tất cả các dân tộc tự do và tất cả các dân tộc bị chế độ Hitler nô dịch đều hiểu rõ rằng việc tiêu diệt quân đội Đức ở vùng Leningrad có vai trò quan trọng như thế nào đối với việc làm suy yếu sức mạnh của nước Đức Quốc xã. Leningrad đã tỏ ra là một thành phố anh hùng trong cuộc chiến tranh hiện nay. Trận đánh ở Leningrad gây nhiều nỗi lo âu trong người Đức. Nó làm cho họ cảm thấy rằng họ chỉ là người chủ tạm thời ở Paris, Bruxel, Amsterdam, Warsava, Oslo".
Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 22:10, ngày 3 tháng 7 năm 2014.

Trận Vòng cung Kursk

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Trận vòng cung Kursk
Một phần của Chiến tranh Xô-Đức trong
Chiến tranh thế giới thứ hai
Destroyed German tanks at Kursk.gif
Xe tăng Đức bị phá hủy trong trận Kursk
.
Thời gian 4 tháng 723 tháng 8 năm 1943
Địa điểm Khu vực Oryol, Kursk, Belgorod, Kharkov thuộc miền trung Nga hiện nay.
Kết quả Thắng lợi quyết định của Hồng quân Liên Xô, quân Đức thiệt hại nặng và hoàn toàn mất quyền chủ động.[1][2]
Tham chiến
Flag of the NSDAP (1920–1945).svg
Đức Quốc Xã
Flag of the Soviet Union.svg
Liên Xô
Chỉ huy
Cờ của Đức Quốc XãErich von Manstein,
Cờ của Đức Quốc XãGünther von Kluge,
Cờ của Đức Quốc XãHermann Hoth
Cờ của Đức Quốc XãWerner Kempf
Cờ của Đức Quốc XãWalther Model
Cờ của Đức Quốc XãJosef Harpe
Cờ của Đức Quốc XãWalter Weiss
Cờ của Liên XôGeorgi Zhukov
Cờ của Liên XôAleksandr Mikhailovich Vasilevsky
Cờ của Liên XôKonstantin Rokossovskiy,
Cờ của Liên XôNikolai Vatutin
Cờ của Liên XôV. D. Sokolovsky
Cờ của Liên XôM.M. Popov
Cờ của Liên XôIvan Konev


Lực lượng
950.000 người
9.467 pháo
2.528 xe tăng và pháo tự hành (trong đó có khoảng 600 xe tăng hạng nặng, còn lại hầu hết là hạng trung),
2.110 máy bay
1.880.000 người
29.000 pháo và súng cối,
4.938 xe tăng và pháo tự hành (trong đó có khoảng 55% là xe tăng hạng nhẹ, 40% là xe tăng hạng trung và khoản 200 xe tăng hạng nặng)
2.650 máy bay
Tổn thất
537.532 chết và bị thương
1.612 xe tăng và pháo tự hành (bao gồm 412 xe tăng hạng nặng bị phá hủy hoàn toàn)
1.696 máy bay
863.303 chết, bị thương hoặc bị ốm (có 254.469 chết)
6.064 xe tăng và pháo tự hành bị phá hủy hoặc hư hại (trong số đó, khoảng 3.000 xe bị hỏng đã được sửa chữa lại, 3.000 chiếc còn lại bị phá hủy hầu hết là xe hạng nhẹ và hạng trung)
1.626 máy bay,
5.244 pháo và súng cối
.
Trận vòng cung Kursk (lịch sử Nga gọi là Chiến dịch phòng ngự - phản công Kursk) là một trong những chiến dịch lớn nhất trên chiến trường Xô-Đức trong Thế chiến thứ hai, kéo dài từ ngày 5 tháng 7 đến 23 tháng 8 năm 1943 giữa quân đội Liên Xôquân đội Đức Quốc xã tại vùng đồng bằng giữa các thành phố Kursk (tiếng Nga: Курск), Oryol (Орёл), Belgorod (Белгород) và Kharkov (Харьков) thuộc Liên Xô (cũ), nay thuộc miền trung tây nước Nga và đông Ukraina. Trong chiến dịch này, có trận đánh này nổi tiếng là trận đấu xe tăng lớn nhất trong lịch sử các cuộc chiến tranh bắt đầu từ ngày 10 tháng 7 tại Pokrovka (Покровка) và lên đến đến đỉnh điểm là ngày 12 tháng 7 tại cánh đồng Prokhorovka (Прохоровка). Trong ba ngày, hai bên đã tung vào trận đánh những binh đoàn xe tăng hùng mạnh nhất với tổng số lên đến trên 1.200 xe tăng và pháo chống tăng tự hành.
Chiến dịch Kursk gồm hai giai đoạn:
  • Giai đoạn Đức Quốc xã tấn công từ ngày 4 tháng 7 đến ngày 19 tháng 7:
Ở cánh Nam, Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) dưới quyền chỉ huy của thống chế Erich von Manstein huy động Tập đoàn quân xe tăng 4 và Cụm tác chiến Kemf, tập trung 19 sư đoàn, trong đó có 7 sư đoàn xe tăng, 2 sư đoàn cơ giới tấn công trên chính diện hơn 80 km từ Dmitryevka qua Belgorod đến Shebekino phía bắc Volchansk. Toàn bộ 7 sư đoàn xe tăng và 2 sư đoàn cơ giới Đức tập trung vào các đòn tấn công tại tuyến mặt trận từ phía nam Belgorod đến phía tây bắc Tomarovka. Ở cánh Bắc, Cụm tập đoàn quân Trung tâm dưới quyền chỉ huy của thống chế Günther von Kluge huy động Tập đoàn quân xe tăng 2 và Tập đoàn quân 9 với 6 sư đoàn xe tăng, 8 sư đoàn bộ binh tấn công trên một địa đoạn trận tuyến hẹp chỉ dài 40 km từ Tureika, phía nam Varonyets đến Trosna, phía tây bắc Maloarkhangensk. Tập đoàn quân 2 thuộc Cụm tập đoàn quân Trung tâm có 3 quân đoàn bộ binh được giao nhiệm vụ kiềm chế chính diện từ Sevsk qua Rynsk đến Sumy. Sau một tuần tấn công, đến ngày 12 tháng 7, cánh Nam của Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) tiến được 36 km trên hướng Velenikhino - Gotishevo. Cánh Bắc của Cụm tập đoàn quân quân Trung tâm chỉ tiến được không quá 12 km trên hướng Ponyri - Olkhovatka. Vấp phải sức chống trả quyết liệt của Phương diện quân Trung Tâm do thượng tướng K. K. Rokossovsky và Phương diện quân Voronezh do đại tướng N. F. Vatutin chỉ huy, cả hai cách quân xe tăng của quân đội Đức Quốc xã đã bị chặn lại trong suốt một tuần sau đó, bị tiêu hao nhiều sinh lực và phương tiện trên tuyến phòng ngự vững chắc của quân đội Liên Xô. Ngày 20 tháng 7, vốn đã không thể làm nên bước tiên 1lo7n1 nào, quân đội Đức Quốc xã buộc phải rút lui, quân đội Liên Xô chuyển sang phản công.
  • Giai đoạn Liên Xô phản công từ ngày 20 tháng 7 đến ngày 23 tháng 8:
Trên hướng Oryol - Bryansk, Quân đội Liên Xô huy động Phương diện quân Trung Tâm, Phương diện quân Bryansk do thượng tướng M. M. Popov chỉ huy và cánh trái của Phương diện quân Tây do thượng tướng Vasily Danilovich Sokolovsky chỉ huy giáng đòn tấn công hợp điểm vào trung tâm phòng ngự Oryol của quân đội Đức Quốc xã và sau một tháng đã đẩy lùi quân đội Đức Quốc xã đến tuyến Lyudinovo, Zhysdra, Frolovka và Dmitrobsk - Orlovsky, nắn thẳng tuyến mặt trận, xóa bỏ chỗ lõm Oryol được quân Đức gọi là "cái chèn sắt Oryol - Mtsensk".
Tại cánh Nam, Phương diện quân Thảo nguyên do đại tướng I. S. Konev, một lực lượng dự bị lớn của quân đội Liên Xô được giao nhiệm vụ phòng thủ ở thê đội 2 đã được điều ra tuyến đầu, cùng với Phương diện quân Voronezh và cánh trái của Phương diện quân tây nam do thượng tướng R. Ya. Malinovsky chỉ huy mở chiến dịch phản công đồng loạt vào Tập đoàn quân xe tăng 4 và Cụm tác chiến Kemf (Đức), phát triển đến tuyến Sumy, Lebedino, Gadyachi, Zenkov, Akhtyrka, Konstantanovka, phía bắc Lyubotina và Chuguyevsk. Giai đoạn phản công của quân đội Liên Xô kết thúc bằng việc đánh chiếm lại thành phố Kharkov lần thứ hai và cũng là lần cuối cùng ngày 23 tháng 8.
Với thắng lợi thuộc về phía quân đội Xô Viết, trận vòng cung Kursk trở thành một trong những chiến thắng bước ngoặt quan trọng của họ trong cuộc chiến này, đánh dấu sự "xuống dốc" của quân đội Đức Quốc xã trên chiến trường Xô-Đức cũng như trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Sau trận tấn công cuối cùng của Hitler trên Mặt trận phía đông này, quân đội Đức Quốc xã đã mất hẳn quyền chủ động tấn công chiến lược và rơi vào thế phòng thủ bị động. Mặc dù vẫn còn những tiềm lực không nhỏ nhưng nhìn chung, quân đội Đức Quốc xã chịu tổn hại to lớn và sức chiến đấu của họ đã bước vào thời kỳ suy sụp và chỉ còn có thể phòng ngự kết hợp một số trận phản công không lớn và hầu hết đều không thành công cho đến khi đầu hàng toàn bộ vào tháng 5 năm 1945. Chiến thắng này được xem là do lòng quả cảm của các chiến sĩ, và sự triển khai đúng đắn của Bộ Chỉ huy Liên Xô, cũng như sự phát triển của nghệ thuật quân sự Liên Xô khi ấy, đã giáng cho quân Thiết giáp Đức một thảm bại lớn nhất của họ. Không những là một thắng lợi quyết định này hoàn toàn đem lại quyền chủ động chiến lược cho Liên Xô, đại thắng ở trận Kursk cùng với những sự kiện cùng năm tại ÝBắc Phi đã chuyển đổi thế trận theo chiều hướng có lợi cho phe Đồng Minh, khiến cho sự toàn bại của Đế chế Đức cũng như sự giải phóng nhân loại ra khỏi ách áp bức của chủ nghĩa phát xít chỉ còn là vấn đề thời gian.

Bối cảnh lịch sử

Tình hình chung trên mặt trận Xô-Đức


Tình hình mặt trận Xô-Đức từ ngày 4 tháng 7 năm 1943
Sau thất bại ở trận Stalingrad và phải rút quân khỏi Chiến dịch Kavkaz, mục tiêu đánh bại Liên Xô của kế hoạch Blau hoàn toàn phá sản. Chỉ nhờ những thắng lợi cục bộ tạm thời mà thống chế Erich von Manstein thu được trong cuộc phản công mùa xuân năm 1943 tại thượng lưu sông Đông cùng những cố gắng duy trì các bàn đạp tại Spa Demiansk, Rzhev - Viazma và Taman, quân đội Đức Quốc xã mới có thể tránh khỏi sự thua trận toàn diện. Mặc dù vẫn duy trì ở mặt trận Xô-Đức 204 trong tổng số 298 sư đoàn nhưng chất lượng quân đội Đức Quốc xã không còn như những năm 1941-1942. Thương vong đến hơn 3 triệu quân chỉ trong vòng 2 năm đã lấy đi của quân đội này những đơn vị thiện chiến cùng với một số tướng lĩnh dày dạn kinh nghiệm trận mạc như Walther von Reichenau, Carl-Heinrich von Stülpnagel, Eugen Ritter von Schobert, Friedrich Paulus. Chỉ tính riêng từ tháng 1 đến tháng 3 năm 1943, thương vong của Đức ở Mặt trận phía đông lên tới 689.260 người, trong khi chỉ bổ sung được 370.700 người. Trước hoàn cảnh đó, quân đội Đức Quốc xã đã phải điều động sang chiến trường Xô-Đức 68 sư đoàn không thuộc thành phần lục quân như không quân dã chiến, quân bảo vệ, quân dự bị và cả quân của các nước đồng minh của Đức như Ý, Tây Ban Nha, Phần Lan, Rumania, Hungary. Trong bản báo cáo ngày 9 tháng 3 năm 1943, Thượng tướng Heintz Guderian, Tổng thanh tra các lực lượng xe tăng Đức đã viết: “Tiếc rằng hiện giờ, chúng ta không còn một sư đoàn nào có đầy đủ sức chiến đấu”..
Bước sang năm 1943, Adof Hitler hối thúc Bộ chỉ huy tối cao quân đội Đức Quốc xã tìm cách khôi phục lại thế trận, cố gắng giành lại quyền chủ động chiến lược đã mất. Một cuộc tổng động viên được đẩy mạnh từ giữa tháng 1 năm 1943, thậm chí cả những người trên 50 tuổi cũng bị gọi vào quân đội. Vào mùa hè năm 1943, quân số quân đội Đức Quốc xã tại mặt trận phía đông đã là 4,8 triệu quân, chiếm 71% tổng quân số của quân đội Đức Quốc xã. Ngoài ra, quân đội các nước chư hầu của nước Đức Quốc xã cũng có 525.000 quân. Tổng số đơn vị phía Đức trên mặt trận Xô - Đức tháng 6 năm 1943 có 232 sư đoàn, trên 54.000 pháo và súng cối, trên 5.800 xe tăng và pháo tấn công, gần 3.000 máy bay và 277 tàu chiến. Mặc dù đã rút nhiều binh đoàn lớn từ Tây Âu, Đông Âu và ngay trong nước Đức để điều sang mặt trận phía đông nhưng quân đội Đức Quốc xã vẫn không thể nào đạt đến quân số như mùa thu năm 1942 trước thời điểm diễn ra trận Stalingrad.
Để tăng cường sức chiến đấu cho quân đội, nền công nghiệp chiến tranh của Đức tiếp tục nâng cấp vũ khí, cải tiến phương tiện chiến tranh. Bộ Chỉ huy tối cao quân đội Đức Quốc xã đặc biệt chú trọng phục hồi sức mạnh của lực lượng tăng - thiết giáp – cơ giới vốn từng làm mưa làm gió trên chiến trường Tây Âu với chiến thuật đánh nhanh thắng nhanh nay đã bị què quặt nhiều trên chiến trường nước Nga. Năm 1943, sản lượng xe tăng của những Đức phát-xít đã tăng gấp đôi so với năm 1942. Từ Chiến dịch Donets, trong các sư đoàn xe tăng, cơ giới Đức trên chiến trường Xô-Đức đã xuất hiện các loại xe tăng hạng nặng “Con Cọp”, ”Con Báo”pháo tự hành "Elefant" đều thuộc loại mới nhất. Không quân cũng được trang bị loại máy bay tiêm kích mới Fw-190, máy bay tiêm kích chủ lực của Đức Me-109 được nâng cấp với các phiên bản Me-109G2 Me-109G4. Bên cạnh loại máy bay cường kích chủ lực Ju-87, không quân Đức cũng được trang bị thêm loại Henschel Hs 129 ưu việt hơn.
Quân đội Liên Xô sau các chiến dịch lớn tại Stalingrad, Kavkaz, Rzhev - Viazma, Volkhov... mặc dù thu được thắng lợi nhưng cũng chịu những thiệt hại không nhỏ. Tuy nhiên, nhờ những cố gắng của người dân Liên Xô, nền công nghiệp quốc phòng đã hoạt động bình thường và tăng nhanh sản lượng. Đến ngày 1 tháng 7 năm 1943, tổng quân số của quân đội Liên Xô đã lên đến 6.442.000 người, trong đó 90% tập trung ở mặt trận Xô-Đức, được trang bị 6.232 xe tăng hạng nặng và hạng trung, 99.000 pháo và súng cối, gần 2.200 dàn Katyusha 8.298 máy bay chiến đấu. Nếu như vào tháng 3 năm 1943, quân đội Liên Xô chỉ có trong tay một lực lượng dự bị khá mỏng với 4 tập đoàn quân (24, 46, 66 và dự bị 2) thì đến tháng 5 năm 1943, lực lượng dự bị này đã lên đến 10 tập đoàn quân bao gồm: Các tập đoàn quân bộ binh 24, 46, 53, 57 và 66; các tập đoàn quân xe tăng 1 và xe tăng cận vệ 5; các tập đoàn quân binh chủng hợp thành dự bị 2 và 3. Tập đoàn quân không quân 5 dược tách ra từ Tập đoàn quân không quân 4 và được điều động từ Kavkaz về lực lượng dự bị của Đại bản doanh.

Hình thế chiến trường

Tháng 3 năm 1943, sau khi Bộ Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô phát động Cuộc tấn công xuân-hè 1943 nhằm đánh bật quân Đức về tuyến sông Dniepr, Phương diện quân Trung tâm đã thực hiện kế hoạch đột phá qua Gomen, Novozubkov, Unetsa và Pochev tới Mogilev, Roslavl và xa hơn nữa, đến Orsha và Smolensk, đánh vào sau lưng Cụm tập đoàn quân Trung Tâm (Đức). Cụm xung kích của chiến dịch này gồm Tập đoàn quân xe tăng 2, Tập đoàn quân 65 và 1 quân đoàn kỵ binh. Mặc dù Cụm xung kích này đã tiến sâu từ 100 đến 120 km theo hướng Starodub - Novizubkov - Mogilev, đã tiếp cận phía bắc Novgorod-Seversky và tuyến sông Desna, uy hiếp các tuyến giao thông chủ yếu tiếp tế cho mặt trận của Cụm tập đoàn quân Trung tâm (Đức). Tuy nhiên, đến ngày 10 tháng 3 thì Phương diện quân Trung tâm (Liên Xô) đã không còn lực lượng dự bị để phát huy chiến quả. Ngày 15 tháng 3, 9 sư đoàn của Tập đoàn quân 2 và Tập đoàn quân 9 (Đức) mở cuộc phản công chiến lược, đánh bại 2 sư đoàn trượt tuyết và 3 sư đoàn kỵ binh Liên Xô trên khu vực phía nam Mogilev - Roslavl. Ngày 20 tháng 3, quân Đức đẩy lùi kỵ binh và bộ binh Liên Xô về khu vực Sevsk. Ngành 21 tháng 3, tướng K. K. Rokossovsky ra lệnh chấm dứt cuộc tấn công, chuyển Phương diện quân Trung tâm sang tư thế phòng ngự trên tuyến Mtsensk - Novosin - Sevsk - Rynsk, hình thành mặt chính diện phía bắc của vòng cung Kursk. Ở phía nam Kursk, thất bại trong chiến dịch "Bước nhảy vọt" và Chiến dịch Ngôi sao, Phương diện quân VoronezhPhương diện quân tây nam (Liên Xô) đã phải lùi về giữ tuyến phòng ngự từ Gaponovo qua Trefilovka, Belgorod đến Volchalsk, hình thành chính diẹn phía nam của vòng cung Kursk.
Do kết quả các trận tấn công của quân đội Đức Quốc xã và các trận phòng ngự của quân đội Liên Xô sau Chiến dịch Bryansk lần thứ nhấtChiến dịch Bước nhảy vọt của quân đội Liên Xô không thành công, Cụm tập đoàn quân Trung Tâm (Đức) đã tạo được một khu lõm ăn sâu vào tuyến phòng thủ của quân đội Liên Xô ở phía bắc Kursk 70 km trong khu vực Lyudinovo, Mtsensk và Oryol. Cách thành phố Kursk khoảng 100 km về phía nam, Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) đang chiếm đóng Kharkov - Belgorod, tiến sát thành phố Volchansk và cũng tạo nên một khu lõm thứ hai tại đây. Giữa hai chỗ lõm này là chỗ lồi Kursk, một trận tuyến hình cánh cung nhô về phía tây có chiều dài trên 500 km. Trong vòng cung đó có hai phương diện quân Liên Xô, hai bên cánh cung cũng có hai phương diện quân và sau cánh cung đó có một phương diện quân dự bị. Như thường thấy trong chiến tranh, các chỗ lồi, lõm trên mặt trận đều chứa đựng những khả năng đánh vào hai bên sườn nhau của cả hai bên tham chiến.
Địa hình khu vực Kursk và các vùng lân cận tương đối bằng phẳng với nhiều cánh đồng lúa mì rộng lớn xen kẽ nhưng đồi thấp và các con sống nhỏ và nông. Đáng kể nhất chỉ có các sông Oskol, Seym, Sosna và Psyon đều không rộng quá 100 m. Mùa hè ở trung Nga khô ráo, ít mây và mưa, rất thuận tiện cho các việc triển khai các lực lượng trên bộ, phát huy tối đa hỏa lực của xe tăng, thiết giáp, pháo binh và không quân. Phía sau chỗ lồi Kursk là vùng thảo nguyên mênh mông phía tây thượng lưu sông Đông mà quân đội Đức Quốc xã đã từng đi qua hồi mùa hè năm 1942 trong Chiến dịch Blau. Tóm lại, đây là một chiến trường quen thuộc đối với quân đội của cả hai bên.

Bối cảnh quốc tế

Hội nghị Casablanca họp tháng 1 năm 1943 giữa hai nước đồng minh chống phát xít là Hoa Kỳ và Anh đã đi đến thỏa thuận sơ bộ về việc sẽ mở mặt trận thứ hai tại Tây Âu trong năm 1943. Lục quân, hải quân và công nhân quốc phòng của hai nước dã chuẩn bị kỹ càng cho những hoạt động chiến lược. Tuy nhiên, đến tháng 4 năm 1943, phía Anh cho rằng, chưa thể đổ bộ trực diện lên nước Pháp vì tại mặt trận Bắc Phi, quân Đồng minh còn đang tiến hành cuộc công kích bao vây Tập đoàn quân 20 của thống chế Rommel tại Tunis.[35] Tháng 6 năm 1943, phía Anh thông qua tùy viên quân sự của Đại sứ quán Anh tại Moskva thông báo cho Chính phủ Liên Xô biết các Đồng minh chỉ có thể tiến hành một chiến dịch đổ bộ lên miền Nam nước Ý sau khi tiêu diệt Tập đoàn quân 20 (Đức) tại Tunis ngày 12 tháng 5. Còn chiến dịch Overlord sẽ phải hoãn lại đến năm 1944 do chưa chuẩn bị đủ binh lực và vật chất. Chính phủ Liên Xô coi việc hoãn mở mặt trận phía tây là một sự thách thức lớn về lòng tin của họ đối với các đồng minh Phương Tây. Tại các cuộc điện đàm ngày 19 và ngày 27 tháng 6 năm 1943 với Tổng tư lệnh Liên bang Xô viết I. V. Stalin, Thủ tướng Anh Wintson Churchill nói rằng phía Anh đang có trong tay những tài liệu tin cậy về việc Hitler đã phải hoãn kế hoạch tấn công mùa hè năm 1943 tại mặt trận Xô-Đức. Trong khi đó thì đến tháng 6 năm 1943, quân đội Đức gần như đã hoàn tất việc tập trung binh lực cho "Chiến dịch Thành Trì" (tiếng Đức: Untrenchmen Zitadelle, danh xưng này do Adolf Hitler đặt). Tuy nhiên, phía Liên Xô cũng đã có trong tay các tài liệu của mình cho phép nhận định rằng mùa hè năm 1943, quân đội Đức Quốc xã sẽ tổ chức chiến dịch tấn công lớn trên mặt trận Xô-Đức và vị trí của nó không quá khó để xác định. Đó là "Vòng cung Kursk". Hầu như tất cả các tướng lĩnh Liên Xô tại Bộ Tổng tham mưu cũng như các tư lệnh Phương diện quân đều thống nhất nhận định này khi trả lời bức điện của I. V. Stalin ngày 12 tháng 4 năm 1943 chỉ gồm một câu hỏi duy nhất: "Cho biết ý kiến về hướng hoạt động chính của quân Đức trong mùa hè năm 1943".

Kế hoạch và binh lực của các bên

Quân đội Đức Quốc xã


Ý đồ tấn công của quân đội Đức Quốc xã tại vùng cung Kursk theo kế hoạch "Citadel" tháng 4 năm 1943, triển khai ngày 4 tháng 7 năm 1943

Kế hoạch

Sau các cuộc phản công thắng lợi của Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) trong chiến dịch Donets, ngày 21 tháng 3 năm 1943, Bộ Tổng tham mưu quân đội Đức Quốc xã bắt tay vào việc soạn thảo một kế hoạch tấn công giành lại quyền chủ động chiến lược trên mặt trận phía đông. Tuy nhiên, quân đội Đức buộc phải lựa chọn hướng tấn công chính vì lực lượng của họ không còn mạnh như mùa hè năm 1942, khi lục quân Đức Quốc xã và đồng minh của có quân số và số lượng các sư đoàn cao nhất trên mặt trận phía đông. Sau khi xem xét kỹ, các hướng bị loại trừ là Leningrad do điều kiện khí hậu không thuận tiện với một nửa thời gian trong năm là mùa đông. Hướng Moskva cũng bị loại vì người Đức cho rằng binh lực phòng thủ chủ yếu của quân đội Liên Xô tập trung tại đây. Hướng cực Nam cũng không khả quan vì vướng hai con sông lớn là Don và Volga mà quân đội Đức Quốc xã với lực lượng mạnh hơn vào năm 1942 đã không vượt qua được. Về hướng tây nam thì trong lãnh đạo quân sự Đức Quốc xã đã có mâu thuẫn. Günther von Kluge cho rằng với những kết quả đạt được hồi mùa xuân năm 1943, có thể giữ chặt hướng Kharkov và tập trung binh lực đánh vào sườn Bắc của vòng cung Kursk nhưng không nhằm phát triển về phía đông nam mà tấn công lên hướng đông bắc. Trước mắt, dùng cánh trái của Cụm tập đoàn quân Trung Tâm và cánh phải của Cụm tập đoàn quân Bắc để kiềm chế quân đội Liên Xô ở phía tây Moskva. Còn mũi tiến công chủ đạo sẽ từ khu vực Oryol, Mtsensk, Bolkhov và Lyudinovo tấn công lên hướng đông bắc và luồn vào Moskva từ phía sau. Binh lực còn lại của Cụm tập đoàn quân Nam cũng sẽ tấn công Kursk nhằm kiềm chế hai phương diện quân Liên Xô tại chỗ lồi này để cánh Bắc rảnh tay hoạt động. Hitler không bác bỏ hoàn toàn kế hoạch này nhưng thấy rằng nếu để cả hai phương diện quân Liên Xô tồn tại phía sau cánh quân xung kích tấn công vào phía nam Moskva sẽ là quá mạo hiểm. Ông cho rằng phải thanh toán chỗ lồi Kursk trước tiên. Erich von Manstein cho rằng với lực lượng hiện có, nên tập trung lực lượng để bảo vệ khu vực Donbas - Kharkov - Nikopol mà theo ông, mất khu vực này đồng nghĩa với việc sẽ mất cả Kiev và đồng nghĩa với thất bại. Erich von Manstein cho rằng với kinh nghiệm sử dụng xe tăng phòng ngự, phản công trong các chiến dịch KavkazDonets, Cụm tập đoàn quân Nam sẽ đánh bại các cuộc tấn công tiếp theo của quân đội Liên Xô. Hitler chê trách Manstein thoái chí và ra lệnh cho ông này phải tham gia soạn thảo kế hoạch cùng với Bộ Tổng tham mưu. Cuối cùng, Bộ Tổng tư lệnh quân đội Đức Quốc xã chọn vòng cung Kursk để vạch kế hoạch chiến dịch.

Thống chế Erich von Manstein sau cuộc họp ngày 21 tháng 6 năm 1943 triển khai việc chuẩn bị tấn công của quân đội Đức Quốc xã
Tướng Heinz Guderian, Tổng thanh tra lực lượng xe tăng Đức Quốc xã đã bỏ ra hai ngày 3 và 4 tháng 5 trong thời gian diễn ra Hội nghị các chỉ huy tối cao Đức tại Munich để nghiên cứu các bức không ảnh chụp các tuyến phòng thủ của quân đội Liên Xô tại Kursk và đi đến kết luận rằng cần tập trung tối đa lực lượng xe tăng, thiết giáp để tăng thêm chiều sâu đột phá, nếu người Đức muốn chứng minh cho các đồng minh phương Tây thấy rằng quân đội Đức Quốc xã vẫn còn đủ sức mạnh để đánh bại đối phương.
Ý đồ tấn công của quân đội Đức tại Kursk rất đơn giản. Từ hai hướng Bắc và Nam vòng cung Kursk, tập trung trên các khu vực Oryol và Belgorod các binh đoàn xe tăng mạnh, giáng đòn đột kích đồng tâm từ hai phía vào hợp điểm tại thành phố Kursk, cắt đứt chỗ lồi Kursk, bao vây và tiêu diệt khoảng 8 đến 10 tập đoàn quân Liên Xô đang phòng thủ trong chỗ lồi đó. Bước thứ hai, tiếp tục tấn công về phía đông, hất quân đội Liên Xô trở lại tả ngạn sông Đông, khôi phục lại thế trận ở thượng lưu sông Đông như cuối mùa hè năm 1942. Toàn bộ chiều sâu nhiệm vụ của chiến dịch chỉ có 50 km ở hướng Bắc và 85 km ở hướng Nam. Ở thời điểm những năm 1940 - 1942, các binh đoàn xe tăng Đức có thể vượt qua khoảng cách này chỉ trong vòng từ 1 đến 2 ngày. Trong trận này, quân Đức áp dụng chiến thuật ưa thích của họ trong suốt chiến tranh là chiến thuật gọng kìm (tiếng Đức: Kesselschlacht, nghĩa là "chiến thuật cái chảo") theo hình mẫu của trận Cannae kết hợp cùng với chiến thuật chiến tranh chớp nhoáng nhằm khai thác tối đa hiệu quả. Tuy nhiên, lúc đó, quân Đức đã không nắm trong tay một lợi thế quan trọng bậc nhất của chiến thuật này: tính bất ngờ. Thật vậy, Hồng quân Xô Viết đã nhanh chóng nhận ra rằng Kursk hiển nhiên là mục tiêu kế tiếp của phát xít Đức. Tuy đồng thuận về khía cạnh quân sự thuần túy nhưng một số tướng lĩnh Đức đã nghi ngờ về sự cần thiết của chiến dịch này. Một điều đáng ngạc nhiên là người cật vấn Hitler nhiều nhất lại là tướng Heinz Guderian, Tổng thanh tra các lực lượng xe tăng Đức. Ngày 8 tháng 5, Guderian nói với Hitler:
Có thật là chúng ta cần phải tấn công Kursk và tập trung vào mặt trận phía đông trong năm nay? Liệu trên thế giới này có ai biết Kursk nằm ở chỗ nào? Cả cái thế giới này chả cần quan tâm việc chúng ta có lấy được Kursk hay không. Thế thì lý do gì mà chúng ta cần phải tấn công ở Kursk, và hơn nữa, tấn công trên toàn Mặt trận phía đông trong năm nay?

Hitler đã có một câu trả lời càng đáng ngạc nhiên hơn:
Tôi hiểu chứ. Chính những điều này đã khiến tôi rất sốt ruột.
—Adolf Hitler, 
Tuy nhiên, nền công nghiệp quốc phòng của nước Đức Quốc xã dù đã đẩy sản lượng hàng tháng lên đến lên đến 1.955 chiếc vẫn chưa đủ xe tăng để cung cấp cho mặt trận. Ngày 10 tháng 5, Hitler ra lệnh hoãn triển khai tấn công cho đến khi loại bỏ 250 xe tăng cũ kiểu Pz-III và phải thay thế ngay bằng 324 chiếc Tiger-I. Mặt khác, việc vận chuyển xe tăng ra mặt trận bị chậm do các tuyến đường sắt vốn đã quá tải còn bị các đội du kích Liên Xô liên tục đánh phá đã khiến Bộ Chỉ huy tối cao quân đội Đức Quốc xã lần thứ hai phải hủy bỏ thời điểm mở chiến dịch trong khoảng từ ngày 19 đến 26 tháng 5. Bình luận về việc hoãn đi hoãn lại thời điểm tấn công của quân đội Đức Quốc xã, thống chế Erich von Manstein đã gọi đó là "sự do dự chết người". Mãi đến ngày 3 tháng 7, Adolf Hitler mới phát đi bản nhật lệnh số 6:
Tôi ra lệnh, trong điều kiện thời tiết mấy ngày tới cho phép, sẽ tiến một trận tấn công lớn đầu tiên trong năm nay vào quân Nga. Các bạn sắp tham gia vào các cuộc tấn công mà kết quả của nó sẽ có tác động quyết định đối với cuộc chiến tranh này. Hơn bao giờ hết, chiến thắng của các bạn sẽ làm cho cả thế giới phải tin rằng, cuối cùng, mọi sự chống cự lại quân đội Đức Quốc xã đều là uổng công.
—Adolf Hitler, 

Binh lực


Tăng Con Cọp được di chuyển bằng xe lửa ra mặt trận
Bộ Tổng chỉ huy tối cao quân đội Đức Quốc xã huy động cả hai cụm tập đoàn quân Trung Tâm và Nam tham gia trận Kursk. Cánh phải của Cụm tập đoàn quân Trung Tâm ở phía bắc được tăng cường những lực lượng của Tập đoàn quân 9 mới rút khỏi chỗ lồi Rzhev - Viazma. Cánh trái của Cụm tập đoàn quân Nam tấn công ở phía nam Kursk, chỉ để lại Tập đoàn quân xe tăng 1 và Cụm tác chiến Hollidt giữ sườn phía nam đến Biển Đen.
  • Cụm tập đoàn quân Trung tâm do thống chế Günther von Kluge chỉ huy, sử dụng 2 tập đoàn quân tham gia chiến dịch. Trang bị vũ khí đột kích cơ bản gồm 590 xe tăng và 424 pháo tự hành:
    • Tập đoàn quân xe tăng 2 do các tướng Heinrich Clößner và Walter Model (từ 15 tháng 7) chỉ huy, sở chỉ huy tập đoàn quân đóng tại Oryol; trong biên chế có:
      • Quân đoàn xe tăng 41 của tướng Helmuth Weidling gồm các sư đoàn xe tăng 2 và 18, các sư đoàn bộ binh 86 và 292
      • Quân đoàn xe tăng 46 của tướng Hans ZornHans Gollnick (từ tháng 8 năm 1943) chỉ huy, gồm các sư đoàn xe tăng 4 và 12, các sư đoàn bộ binh 7 và 258
      • Quân đoàn xe tăng 47 của tướng Joachim Lemelsen gồm các sư đoàn xe tăng 9 và 20, các sư đoàn bộ binh 6 và 78
      • Quân đoàn bộ binh 53 của tướng Friedrich Gollwitzer gồm các sư đoàn bộ binh 208, 211 và 293.
      • Quân đoàn bộ binh 55 (quân đoàn Pilau) của tướng Erich Jaschke gồm các sư đoàn bộ binh 110, 134, 296 và 339.
    • Tập đoàn quân 9 do các tướng Walter ModelJosef Harpe (từ 15 tháng 7) chỉ huy; sở chỉ huy tập đoàn quân đóng tại Nikolskoye; trong biên chế có:
      • Quân đoàn xe tăng 56 của tướng Friedrich Hoßbach gồm các sư đoàn xe tăng 5, 25, các sư đoàn bộ binh 14 và 131
      • Quân đoàn bộ binh 23 của tướng Johannes Frießner gồm các sư đoàn bộ binh 76, 216, 383 và sư đoàn cơ giới 10
      • Quân đoàn bộ binh 35 của các tướng Lothar RendulicFriedrich Wiese (từ ngày 5 tháng 8) gồm các sư đoàn bộ binh 34, 56, 262 và 299
    • Tập đoàn quân 2 do tướng Walter Weiss chỉ huy; sở chỉ huy Tập đoàn quân đóng tại Konotop; có nhiệm vụ kiềm chế chính diện phía tây của các Phương diện quân Trung Tâm và Voronezh; trong biên chế có:
      • Quân đoàn bộ binh 7 của tướng Ernst-Eberhard Hell gồm các sư đoàn bộ binh 26, 75 và 68.
      • Quân đoàn bộ binh 13 của tướng Friedrich Siebert gồm các sư đoàn bộ binh 82, 327 và 340.
      • Quân đoàn bộ binh 20 của tướng Rudolf Freiherr von Roman gồm các sư đoàn bộ binh 45, 137 và 251.
    • Tập đoàn quân không quân 6 của tướng Robert Ritta von Greim có khoảng 1.200 máy bay phối thuộc Cụm tập đoàn quân Trung Tâm
    • Trực thuộc Cụm tập đoàn quân có các sư đoàn bộ binh 102, 208 và sư đoàn kỵ binh 8 SS.
  • Cụm tập đoàn quân Nam do thống chế Erich von Manstein chỉ huy, sử dụng Tập đoàn quân xe tăng 4 và Cụm tác chiến Kemf tham gia chiến dịch. Trang bị vũ khí đột kích cơ bản có 1.269 xe tăng và 245 pháo tự hành:[4][5][6]
    • Tập đoàn quân xe tăng 4 do tướng Hermann Hoth chỉ huy, sở chỉ huy đóng tại Bogodukhov, trong biên chế có:
      • Quân đoàn xe tăng 2 SS của tướng Paul Hausser gồm các sư đoàn xe tăng 1 SS ("Adolf Hitler"), 2 SS ("Das Reich"), 3 SS("Totenkopf") và sư đoàn bộ binh 167.
      • Quân đoàn xe tăng 48 của các tướng Dietrich von CholtitzOtto von Knobelsdorff (từ tháng 8 năm 1943) gồm các sư đoàn xe tăng 3, 11, sư đoàn cơ giới "Großdeutschland" và sư đoàn bộ binh 176.
      • Quân đoàn bộ binh 52 (quân đoàn Hannover) của tướng Eugen Ott gồm các sư đoàn bộ binh 57, 112, 255 và 332.
      • Quân đoàn cơ giới 57 (nguyên là quân đoàn xe tăng 57) của tướng Friedrich Kirchner, gồm sư đoàn xe tăng 17, các sư đoàn bộ binh 15 và 328.
    • Cụm tác chiến Kemf của tướng Werner Kempf, sở chỉ huy đạt tại Kharkov, trong biên chế có:
      • Quân đoàn xe tăng 3 của tướng Hermann Breith gồm các sư đoàn xe tăng 6, 7, 19 và sư đoàn bộ binh 168.
      • Quân đoàn "Raus" (nguyên là Quân đoàn bộ binh 11) của tướng Erhard Raus gồm các sư đoàn bộ binh 106 và 320
      • Quân đoàn bộ binh 42 của tướng Franz Mattenklott gồm sư đoàn xe tăng 13, các sư đoàn bộ binh 153, 355 và 381.
    • Tập đoàn quân không quân 4 của tướng Wolfram von Richthofen phối thuộc Cụm tập đoàn quân Nam có khoảng 1.000 máy bay.
Tổng số binh lực mà lục quân, không quân Đức huy động cho "Kế hoạch Thành Trì" có mật độ chưa từng có kể từ ngày đầu cuộc Chiến tranh Xô-Đức. Trên một địa đoạn chỉ 600 km phía trước và hai bên vòng cung Kursk (chiếm không quá 14% tổng độ dài mặt trận Xô-Đức), Quân đội Đức Quốc xã đã tập trung 950.000 quân, 2.928 xe tăng, 9.467 pháo (không kể pháo dưới 45 mm), hơn 2.200 máy bay chiếm 17% số sư đoàn bộ binh, 70% số sư đoàn xe tăng, 30% số sư đoàn cơ giới và 60% số máy bay của Đức trên mặt trận phía đông.[41] Được Hitler đặc biệt kỳ vọng là hai loại xe tăng “Con Cọp””Con Báo”, hai loại xe tăng hạng nặng có hỏa lực và vỏ giáp dày hơn hẳn đối thủ hạng trung T-34 của Liên Xô, qua đó sẽ giành lại ưu thế cho lực lượng thiết giáp Đức. Giáp trước của hai loại xe tăng này cũng được chế tạo đủ dày để chống chọi tốt với hầu hết các loại pháo chống tăng của Liên Xô nhằm tăng thêm khả năng đột phá, chọc thủng phòng tuyến của đối phương. Tất nhiên, để có được những ưu thế công nghệ, hai loại xe tăng này phải đánh đổi bằng chi phí sản xuất đắt đỏ, không dễ để chế tạo thay thế nếu bị tổn thất với số lượng lớn.

Quân đội Liên Xô

Kế hoạch


Sơ đồ bố trí binh lực hai bên trong trận Kursk
Những thông tin đầu tiên về một kế hoạch tấn công có tên là "Thành Trì" (Zitadelle) đã được một nhân viên tình báo Liên Xô có bí danh Rudolf Rössler hoạt động tại Thụy Sĩ chuyển cho Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh tối cao Liên Xô từ tháng cuối tháng 3 năm 1943, khi Bộ Tổng tham mưu quân đội Đức mới chỉ hình thành ý đồ của kế hoạch này. Dựa vào các tin tức ban đầu và tin tức phối kiểm, ngày 8 tháng 4 năm 1943, nguyên soái G. K. Zhukov báo cáo với Tổng tư lệnh tối cao I. V. Stalin:
Tình hình ở khu vực giữa mặt trận Xô-Đức cho thấy kẻ thù sẽ cố gắng để cắt đứt "chỗ lồi" Kursk, bao vây và tiêu diệt các lực lượng quân đội Liên Xô thuộc Phương diện quân Trung Tâm và Phương diện quân Voronezh đang bố trí tại đây. Hiện tại, cả hai phương diện quân mới có 15 sư đoàn xe tăng, trong khi quân Đức tại hướng Belgorod - Kharkov đã tập trung tới 17 sư đoàn xe tăng, phần lớn thuộc các loại xe tăng mới như Tiger I, Panther cải tiến, Jagdpanzer IV và một số pháo chống tăng tự hành Marder II, Marder III.
—Konstantinov.
Ban đầu, I. V. Stalin chưa tin vào kết luận của Zhukov. Tuy nhiên, từ ngày 12 đến ngày 15 tháng 4, khi I. V. Stalin điện hỏi ý kiến của tất cả các tư lệnh phương diện quân và các sĩ quan cao cấp của Bộ Tổng tham mưu thì đều nhận được câu trả lời thống nhất: Đó là Kursk. Từ cuối tháng 4 năm 1943 đến đầu tháng 6 năm 1943, quân đội Liên Xô bắt đầu xây dựng ba tuyến phòng thủ tại khu vực Oryol - Lgov - Kursk - Oboyan - Volchansk - Elets - Stary Oskol - Novo Oskol và Voronezh dài trên 600 km, sâu gần 300 km. Tại chỗ lồi Kursk bố trí 3 lớp phòng thủ tuyến ngoài, chạy gần như song song với tuyến mặt trận, lần lượt cách tuyến đầu 5 đến 8 km, 15 đến 25 km và 30 đến 35 km với ba trung tâm vững chắc là Lgovsk, Kursk và Shigry. Tuyến thứ hai gần như song song với kinh tuyến 380 Đông, gồm hai lớp phòng thủ. Lớp thứ nhất chạy dọc theo sông Tim từ Khomutovo qua Livny, Evlanova, Cheremisinovo, Tim, Gushino, Novyi Oskol. Lớp thứ hai tách ra từ Livny dọc theo sông Kshyon đến phía tây Stary Oskol, nối lại với lớp thứ nhất ở Gubkin. Cuối cùng là tuyến phòng thủ quốc gia chạy dọc theo sông Đông, trùng với tuyến phòng thủ của quân đội Liên Xô trước ngày 1 tháng 1 năm 1943.
Từ tháng 3 đến tháng 6 năm 1943, quân đội Liên Xô chuẩn bị kỹ lưỡng cho chiến dịch. Đã có hai lần, các mặt trận nhận được "báo động khẩn cấp". Lần thứ nhất, tình báo Liên Xô cho biết cuộc tấn công sẽ bắt đầu trong khoảng từ ngày 10 đến ngày 12 tháng 5 nhưng cuộc tấn công đã không diễn ra. Lần thứ hai, các tin tình báo lại cho biết khoảng thời gian quân Đức sẽ chuyển sang tần công vào khoảng từ ngày 19 đến 26 tháng 5 nhưng quân Đức vẫn án binh bất động. Trong thời gian chờ đợi đó, một số tư lệnh phương diện quân như K. K. Rokossovsky, Popov đề nghị nên tranh thủ thời gian quân Đức còn đang chuẩn bị để ra đòn tấn công chặn trước đối phương. Trái với các ý kiến đó, các lãnh đạo chủ chốt của Bộ Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô đều thấy tốt nhất là nên mở chiến dịch phòng ngự, đánh tiêu hao các tập đoàn quân xe tăng Đức trên các tuyến phòng thủ. Sau khi cuộc tấn công của quân Đức suy yếu và buộc phải dừng lại thì lúc đó, với lực lượng dự bị dồi dào trong tay, quân đội Liên Xô sẽ ngay lập tức mở tiếp cuộc phản công mà không cần có thời gian tạm dừng chiến dịch.
Một điều hài hước là quân Đức đã trì hoãn ngày tấn công để tăng cường thêm binh lực, nhưng chính việc này lại giúp cho Hồng quân có thêm ba tháng quý báu để chuẩn bị kỹ lưỡng cho trận đại chiến, và kết quả vòng cung Kursk trở thành một trong những khu vực được bố phòng dày đặc nhất trong lịch sử chiến tranh. Phương diện quân Trung TâmPhương diện quân Voronezh sẽ là hai đơn vị đối mặt với các mũi tấn công của phát xít Đức. Với những lực lượng dự bị mới được xây dựng lên đến 10 tập đoàn quân. Bộ Tổng tư lệnh tối cao Liên Xô đã xây dựng cả một Phương diện quân dự bị mới (từ ngày 9 tháng 7 đổi thành Phương diện quân Thảo Nguyên) và bố trí nó trên tuyến phòng thủ chiến lược quốc gia dài trên 300 km, cách vòng cung Kursk từ 150 đến 300 km về phía đông là các đơn vị dự bị chiến lược. Ngoài ra, hơn một triệu quả mìn đã được binh sĩ và nhân dân Liên Xô chôn dày đặc trên tổng chiều dài các chiến hào phòng thủ lên đến 5.000 km. Tổng cộng số quân Liên Xô tham chiến là 1,3 triệu người, 3.600 xe tăng, 20.000 pháo cối và 2.792 máy bay, chiếm 26% quân số và số lượng pháo cối, 35% số máy bay và 46% số xe tăng thiết giáp của Hồng quân Xô Viết. Công tác hậu cần cũng được chú trọng chuẩn bị hơn rất nhiều so với các chiến dịch trước đó. Mỗi sư đoàn Liên Xô đều được biên chế một tiểu đoàn quân y với hai bệnh viện dã chiến và hàng chục trạm phẫu thuật. Đạn dược các loại được tích lũy từ 10 đến 15 cơ số. Riêng đạn lựu pháo và đạn pháo tăng đạt 18 cơ số. Xăng dầu cho các đơn vị xe tăng được đảm bảo 20 cơ số. Đến thời điểm trước tháng 7 năm 1943, quân đội Liên Xô đã có ưu thế chung trên toàn mặt trận Xô-Đức so với quân đội Đức Quốc xã. Riêng tại khu vực vòng cung Kursk, quân đội Liên Xô cũng đã có ưu thế 1,4:1 về người;, 1,9:1 về pháo và súng cối; 1,3:1 về xe tăng và 1,6:1 về máy bay. Mật độ pháo chống tăng của quân đội Liên Xô trên các tuyến cũng cao hơn bất kỳ chiến dịch phòng thủ nào trước đó. Ở Ponyri trên hướng Oryol - Kursk, một quân đoàn pháo binh lấy từ lực lượng dự bị của Đại bản doanh đã được triển khai gồm hơn 700 khẩu, đạt mật độ 92 khẩu pháo chống tăng trên 1 km chính diện. Ở hướng Belgorod - Kursk mật độ này cũng đạt 30 khẩu pháo chống tăng trên 1 km chính diện. Về xe tăng, ngoài xe tăng hạng trung T-34 được sử dụng phổ biến, mỗi quân đoàn xe tăng Liên Xô đều có từ 1 đến 2 tiểu đoàn được trang bị xe tăng hạng nặng IS-1 có tính năng không thua kém xe tăng Tiger I của Đức. Không quân Liên Xô có loại máy bay cường kích IL-2 hoạt động ở tầm thấp (dưới 100 m) chuyên dùng để diệt xe tăng. Không quân Đức Quốc xã không có vũ khí tương đương. Tất cả những yếu tố đó đã làm cho Bộ Tổng tư lệnh tối cao Liên Xô tự tin hạ quyết tâm mở chiến dịch phòng thủ - phản công.

Binh lực


Xe tăng hạng nặng IS-1, vũ khí mới của Liên Xô trong trận Kursk
Trong tổng số năm Phương diện quân Liên Xô có mặt tại chiến trường miền trung nước Nga năm 1943 và tham gia trận Kursk, hai tập đoàn quân Trung Tâm và Voronezh giữ vai trò chính trong giai đoạn phòng ngự. Các đơn vị cánh trái của Phương diện quân Bryansk và cánh phải của Phương diện quân tây nam cùng toàn bộ Phương diện quân Thảo nguyên tham gia vào giai đoạn phản công.
  • Phương diện quân Trung Tâm do thượng tướng Konstantin Konstantinovich Rokossovsky làm tư lệnh, sở chỉ huy đặt tại Vorobievka, trong biên chế có:
    • Tập đoàn quân xe tăng 2 của tướng A. G. Rodin, gồm các quân đoàn xe tăng 3, 16 và 19, các lữ đoàn bộ binh 16 và 115.
    • Tập đoàn quân 13 của tướng N. P. Pukhov, gồm Quân đoàn bộ binh 29 (các sư đoàn 8, 74, 143) các sư đoàn bộ binh 15, 132, 148, 307, lữ đoàn xe tăng 2, các lữ đoàn bộ binh 118 và 129.
    • Tập đoàn quân 48 của tướng P. L. Romanenko, gồm Quân đoàn bộ binh cận vệ 17 (sư đoàn bộ binh cận vệ 6 và các sư đoàn bộ binh 41, 81), các sư đoàn bộ binh 73, 211, 280 và lữ đoàn xe tăng 202.
    • Tập đoàn quân 60 của tướng I. D. Cherniakovsky, gồm các sư đoàn bộ binh 100, 121, 206, 232 và 303, các lữ đoàn bộ binh 8, 14 và 16, các lữ đoàn xe tăng 14 và 180.
    • Tập đoàn quân 65 của tướng P. I. Batov, gồm Quân đoàn xe tăng 9, sư đoàn bộ binh cận vệ 27, các sư đoàn bộ binh 23, 24, 173, 214, 233 và 304.
    • Tập đoàn quân 70 của tướng I. B. Galanin, gồm các sư đoàn bộ binh 102, 106, 140, 162, 175, 181 và lữ đoàn xe tăng 27.
    • Tập đoàn quân không quân 16 của tướng S. I. Rudenko gồm sư đoàn tiêm kích 2 (gồm các trung đoàn 223, 285), các sư đoàn cường kích 220 và 283 sư đoàn ném bom 228, sư đoàn ném bom ban đêm 271 và sư đoàn vận tải 16.
  • Phương diện quân Voronezh do đại tướng Nikolai Fyodorovich Vatutin làm tư lệnh, sở chỉ huy đặt tại Vobryshevo (cách Oboyan 20 km về phía đông), trong biên chế có:
    • Tập đoàn quân xe tăng 1 của tướng M. E. Katukov gồm Quân đoàn xe tăng cận vệ 5, các quân đoàn xe tăng 6, 31 và quân đoàn cơ giới 3.
    • Tập đoàn quân cận vệ 6 của tướng I. M. Chistyakov gồm các quân đoàn bộ binh cận vệ 22, 23.
    • Tập đoàn quân cận vệ 7 của tướng M. S. Sumilov gồm các quân đoàn bộ binh cận vệ 24 và 25.
    • Tập đoàn quân 38 của tướng N. E. Chibisov gồm các sư đoàn bộ binh 167, 181, 204, 232, 240, 340 và lữ đoàn xe tăng 192.
    • Tập đoàn quân 40 của tướng K. S. Moskalenko gồm các sư đoàn bộ binh 161, 184, 206, 219, 237, 309 và lữ đoàn xe tăng 86.
    • Tập đoàn quân 69 của tướng V. D. Kryuchenkin gồm Quân đoàn xe tăng cận vệ 2, các sư đoàn bộ binh 31, 183, 390, 270, các sư đoàn đổ bộ đường không 1 và 37, Lữ đoàn pháo chống tăng 173.
    • Quân đoàn bộ binh cận vệ 35.
    • Tập đoàn quân không quân 2 của tướng Stepan Akimovich Krasovsky gồm các sư đoàn tiêm kích 5 và 10, sư đoàn cường kích 202, 208, các sư đoàn ném bom 227 và 291, các sư đoàn ném bom ban đêm 372 và 385, các sư đoàn trinh sát, liên lạc 50 và 66.
  • Phương diện quân Thảo nguyên do đại tướng Ivan Stepanovich Koniev làm tư lệnh, sở chỉ huy đóng tại Voronezh, trong biên chế có:
    • Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 5 của tướng P. A. Rotmistrov gồm các quân đoàn xe tăng cận vệ 18, 29, quân đoàn xe tăng 10 và quân đoàn cơ giới cận vệ 5.
    • Tập đoàn quân cận vệ 5 của tướng A. S. Zhadov gồm Quân đoàn xe tăng 2 và các quân đoàn bộ binh cận vệ 32, 33.
    • Tập đoàn quân 27 của tướng S. G. Trofimenko gồm Quân đoàn kỵ binh cận vệ 3, Quân đoàn bộ binh 47 (gồm các sư đoàn 38, 136, 180) và các sư đoàn bộ binh độc lập 206, 309, 337.
    • Tập đoàn quân 46 của tướng V. V. Glagolyev gồm Quân đoàn xe tăng cận vệ 4, Quân đoàn bộ binh cận vệ 6 (Sư đoàn bộ binh cận vệ 20, các sư đoàn bộ binh 152, 353) và Quân đoàn bộ binh 34 (các sư đoàn bộ binh 195, 236, 394)
    • Tập đoàn quân 53 của tướng I. M. Managarov gồm Quân đoàn kỵ binh cận vệ 7, Quân đoàn bộ binh 48 (Sư đoàn bộ binh cận vệ 14, các sư đoàn bộ binh 252, 299), Quân đoàn bộ binh 75 (các sư đoàn bộ binh 116, 213, 233) và các lữ đoàn bộ binh 63, 122.
    • Quân đoàn cơ giới cận vệ 1 của tướng I. N. Rusyanov.
    • Quân đoàn kỵ binh cận vệ 5 của tướng A. G. Selivanov gồm các sư đoàn kỵ binh Cossack Sông Đông 11, 12 và sư đoàn bộ binh 63
    • Tập đoàn quân không quân 5 của tướng S. K. Goryunov gồm Sư đoàn tiêm kích cận vệ 1, sư đoàn tiêm kích 293, các sư đoàn cường kích 203, 205 và 266, các sư đoàn ném bom ban ngày 292 và 294, các sư đoàn ném bom ban đêm 302, 304, 312, các sư đoàn ném bom tầm xa 511, 714, sư đoàn vận tải 18, trung đoàn trinh sát 85, các trung phòng không 1001, 1561 và 1562.
  • Phương diện quân Briansk do tướng M. M. Popov chỉ huy tham gia giai đoạn phản công, trong biên chế có:
    • Tập đoàn quân 3 của tướng A. V. Gorbatov gồm các quân đoàn bộ binh 25, 41 và 42.
    • Tập đoàn quân 61 của tướng P. A. Belov gồm Quân đoàn bộ binh cận vệ 9, Quân đoàn kỵ binh cận vệ 2 và Quân đoàn bộ binh 89
    • Tập đoàn quân 63 của tướng B. I. Morozov gồm các quân đoàn bộ binh 35, 40 và 53.
    • Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3 của tướng P. S Rybalko gồm các quân đoàn xe tăng cận vệ 6, 7, Quân đoàn cơ giới cận vệ 7 và Lữ đoàn xe tăng 91.
    • Tập đoàn quân không quân 15 của tướng N. F Naumenko gồm sư đoàn tiêm kích 225, các sư đoàn cường kích 284, 286, sư đoàn trinh sát, vận tải 32, sư đoàn ném bom 778, các sư đoàn ném bom tầm xa 876, 877, 879.
  • Phương diện quân tây nam do thượng tướng Rodion Yakovlevich Malinovsky làm tư lệnh, sử dụng cánh phải tham gia giai đoạn phản công gồm có:
    • Tập đoàn quân 57 của tướng N. A. Gagen gồm các sư đoàn bộ binh cận vệ 14, 48 và 56, các sư đoàn bộ binh 19, 52 và 303, sư đoàn pháo chống tăng 1, sư đoàn pháo 179 và lữ đoàn xe tăng 173.
  • Phương diện quân Tây do thượng tướng Vasily Danilovich Sokolovsky làm tư lệnh, sử dụng cánh trái tham gia giai đoạn phản công gồm có:
    • Tập đoàn quân cận vệ 11 của tướng I. Kh. Bagramian gồm các quân đoàn bộ binh cận vệ 8, 16 và 36.
    • Tập đoàn quân 50 của tướng I. V. Boldin gồm quân đoàn bộ binh 46 (các sư đoàn 238, 369, 380) các sư đoàn bộ binh 108, 110, 324, 413, Lữ đoàn xe tăng 233, các lữ đoàn cơ giới 21 và 43.
    • Tập đoàn quân xe tăng 4 của tướng B. M. Badanov gồm các quân đoàn xe tăng 11, 30 và Quân đoàn cơ giới cận vệ 6.

Các diễn biến trước trận đánh

Mặc dù không đồng ý với các đề xuất của K. K. Rokossovsky về việc ra đòn tấn công trước nhưng Bộ Tổng tư lệnh tối cao quân đội Liên Xô lại khuyến khích các Phương diện quân tiến hành các đòn "phản chuẩn bị" bằng không quân và pháo binh nhằm phá hoại các phương tiện, vũ khí của quân đội Đức Quốc xã và làm suy yếu các cánh quân xung kích Đức đã tập trung tại hai khu vực phía nam Oryol và phía bắc Kharkov.

Hoạt động của không quân


Nữ phi công Kurasova thuộc trung đoàn 46 Không quân Liên Xô sau một phi vụ trên máy bay tiêm kích La-5 tại vùng trời Kursk
Ngày 17 tháng 4, không quân tầm xa Liên Xô mở cuộc đột kích sâu vào sân bay Orsha, phá hủy 5 máy bay ném bom Ju-88 của các phi đội 1 và 4 thuộc sư đoàn ném bom 121 (Đức), ba chiếc Dornier 217 của phi đoàn vận tải. Ngày 20 tháng 4, cũng chính sân bay này lại bị đột kích, 10 máy bay cường kích hạng nhẹ bị thiêu cháy.
Không quân Đức Quốc xã cũng tiến hành các trận ném bom vào hậu phương của Liên Xô. Nhà máy sản xuất ô tô số 1 hay Nhà máy ôtô Gorky (Gorkovsky Avtomobilny Zavod - GAZ) đã bị một loạt các cuộc tấn công nặng nề trong suốt tháng 6 năm 1943. Trong các đêm 4 và 5 tháng 6, các máy bay He-111 của các phi đoàn 1, 3, 4, 55 và 100 thuộc Tập đoàn quân không quân 1 (Đức) đã ném xuống nhà máy 179 tấn bom, gây tàn phá lớn cho các tòa nhà và dây chuyền sản xuất. Tất cả 50 tòa nhà, 9 km băng chuyền, 8.000 thiết bị, đông cơ và 5.900 xe cộ các loại đang lắp ráp đã bị phá hủy. Tuy nhiên, người Đức sai lầm khi chọn mục tiêu này bởi Nhà máy GAZ số 1 sản xuất chỉ có các xe tăng hạng nhẹ T-70 với số lượng ngày càng hạn chế và hầu hết các dây chuyền đã chuyển sang sản xuất ô tô GAZ. Trong khi đó, các Nhà máy số 112, cơ sở sản xuất loại xe tăng đáng gờm T-34 lớn thứ hai vẫn tiếp tục sản xuất mà không bị oanh kích, 2.851 xe tăng được sản xuất trong năm 1943, 3.619 trong năm 1944, và 3.255 trong năm 1945. Không quân Đức cũng oanh kích Nhà máy sản xuất đại bác số 92 ở Gorky và Nhà máy máy bay Lavochkin, nơi sản xuất các loại máy bay tiêm kích La-5 và La-5FN nhưng không thể với tới được các nhà máy lớn nhất sản xuất các loại xe tăng Liên Xô đặt ở Chelyabinsk. Chỉ trong 6 tuần, các cơ sở sản xuất bị đánh phá đã được các kỹ sư và công nhân Liên Xô sửa chữa hoặc xây dựng lại và tiếp tục sản xuất.
Không quân Liên Xô đã huy động các tập đoàn quân không quân của các Phương diện quân Kalinin, Tây, Briansk, Trung Tâm, Voronezh, tây nam, Nam và không quân tầm xa tổ chức một loạt đòn không kích quy mô lớn trong một tuần liền từ ngày 6 đến ngày 13 tháng 5 vào tất cả các sân bay của các tập đoàn không quân 4 và 6 (Đức). Đòn đột kích bất ngờ đầu tiên lúc chiều muộn và kéo dài đến đêm ngày 6 tháng 5 đã làm cho không quân Đức hoàn toàn bất ngờ và bị thiệt hại nặng. Các ngày sau đó, tính bất ngờ không còn và thiệt hại của không quân Đức giảm đi. Tuy nhiên, chỉ trong ba ngày đầu không kích, hơn 400 máy bay Đức các loại bị thiêu cháy trên các sân bay, 16 chiếc bị bắn rơi trong không chiến. Phía Liên Xô mất 18 chiếc. Từ ngày 8 đến ngày 10 tháng 5, các tập đoàn quân không quân 1 (Phương diện quân Tây), 2 (Phương diện quân Voronezh), 5 (Phương diện quân Thảo nguyên) và không quân tầm xa tiếp tục mở đợt công kích thứ hai nhằm vào các tuyến đường xe lửa, đường bộ, các đầu mối giao thông, những nơi quân Đức đang bốc dỡ và tập kết pháo binh, xe tăng. Kết quả trinh sát không ảnh đếm được 85 xe tăng và hơn 120 khẩu pháo của quân đội Đức Quốc xã bị phá hủy. Từ ngày 11 đến ngày 13 tháng 5, các trận không kích của không quân Liên Xô được mở các trận không kích ban đêm với việc sử dụng không quân tầm xa và máy bay ném bom ban đêm làm chủ lực nhằm vào các sân bay ở sâu trong hậu tuyến quân Đức. Thêm 200 máy bay Đức bị thiêu cháy trên các sân bay. Phía Liên Xô mất hơn 22 chiếc đều do cao xạ Đức bắn rơi.

Các đòn phản chuẩn bị vào lục quân Đức


lính SS Đức củng cố chiến hào trên tuyến xuất phát tấn công
Ngày 1 tháng 7, các mệnh lệnh của Bộ Tổng chỉ huy tối cao Đức đã được ban bố ấn định ngày 5 tháng 7 sẽ tấn công vào. Ngày sáng hôm sau, Nguyên soái Aleksandr Vasilevsky đã cảnh báo chỉ huy các Phương diện quân N. F. Vatutin, K. K. Rokossovsky và I. S. Koniev đặt quân đội vào trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao nhất để đón cuộc tấn công của Đức sẽ bắt đầu vào khoảng từ ngày 3 và ngày 6 tháng 7. Trong ngày 2 tháng 7, quân đội Liên Xô đã nhận được thông tin chi tiết về kế hoạch của cuộc tấn công từ cái mà người Đức gọi là "Dàn nhạc đỏ" (Tiếng Đức: Rote Kapelle) và người "nhạc trưởng" của "dàn nhạc" đó vẫn là Rudolf Roessler. Ba người bị nghi ngờ đã lấy tin tức và chuyển giao cho ông này là "Werther" (bí danh của một người hoạt động trong Bộ tham mưu không quân của Hermann Goering), một người làm việc trong cơ quan chính quyền Đức Quốc xã. Còn người cuối cùng chính là nhiếp ảnh gia chuyên chụp hình cho Hitler. Tuy đã có những dữ liệu khá tin cậy nhưng Bộ Tổng tư lệnh tối cao Liên Xô vẫn lệnh cho các Phương diện quân tiếp tục kiểm tra. Ngày 2 tháng 6, trung úy không quân tiêm kích Liên Xô A. I. Kozevnikov thuộc Tập đoàn quân không quân 2 đã bắn rơi một máy bay trinh sát của Đức. Viên phi công Đức khai rằng quân đội của sẽ chuyển sang tấn công trong ba ngày tới và nhiệm vụ của anh ta là phải tìm bằng được các vị trí pháo binh, xe tăng Liên Xô đã được ngụy trang.
Ngày 4 tháng 7, các đơn vị tuyến 1 của Tập đoàn quân xe tăng 4 (Đức) bắt đầu tổ chức trinh sát chiến đấu. Buổi chiều cùng ngày, Nguyên soái G. K. Zhukov vừa bay đến sở chỉ huy của tướng K. K. Rokossovsky tại Vorobyevka để chỉ đạo cánh Bắc mặt trận Kursk thì nhận được điện thoại của tướng N. P. Pukhov, tư lệnh Tập đoàn quân 13 báo tin đã tóm được một "cái lưỡi" thuộc Sư đoàn bộ binh 6 thuộc Quân đoàn xe tăng 47, Tập đoàn quân xe tăng 2 (Đức). "Cái lưỡi" ấy khai rằng quân Đức sẽ chuyển sang tấn công vào 3 giờ sáng ngày 5 tháng 7. Cũng buổi chiều hôm đó, Tập đoàn quân cận vệ 7 cũng báo cáo cho nguyên soái A. M. Vasilevsky đang có mặt tại sở chỉ huy của tướng N. F. Vatutin ở Vobryshevo để chỉ đạo cánh Nam về việc Sư đoàn cận vệ 25 bắt được một tù binh Đức của Sư đoàn bộ binh 168 thuộc Quân đoàn xe tăng 3, Cụm tác chiến Kemf. Người này khai rằng lính Đức đã được phát 5 khẩu phần lương khô cùng một bidon rượu mạnh và đến ngày 5 tháng 7 thì họ phải tấn công. Xác định chính xác giờ G của quân đội Đức Quốc xã, nguyên soái G. K. Zhukov và nguyên soái A. M. Vasilevsky quyết định ra lệnh cho ba Phương diện quân Voronezh, Trung Tâm và Briansk tiến hành các đòn phản chuẩn bị từ mặt đất và trên không vào hai cánh quân xung kích Đức.
Chiều ngày 4 tháng 7, các máy bay Ju-87 của Đức ném một vệt bom dài trên tiền duyên của quân đội Liên Xô tại các trận địa đối diện với Cụm tác chiến Kemf để yểm hộ cho sư đoàn cơ giới Großdeutschland của Quân đoàn xe tăng 3 tiến hành trinh sát chiến đấu tại địa đoạn Butovo - Davydovka. Gặp phải các cụm cứ điểm phòng thủ vững chắc của Sư đoàn bộ binh cận vệ 78 thuộc Tập đoàn quân cận vệ 7, các xe cơ giới Đức phải dừng lại chờ các xe tăng mang súng phun lửa còn đang mắc kẹt trong bùn lầy bởi các trận mưa trong đêm.

Pháo và xe kéo StuG của Đức bị phá hủy sau các đòn phản chuẩn bị của pháo binh và không quân Liên Xô
Thời gian không còn nhiều nên không thể chờ lệnh của Bộ Tổng tư lệnh tối cao, hồi 2 giờ 30 phút ngày 5 tháng 7, nguyên soái G. K. Zhukov ra lệnh dùng hỏa lực phản chuẩn bị vào quân Đức. 2 giờ 30 phút, các phương diện quân Briansk, Trung Tâm và Voronezh bắt đầu các cuộc phản chuẩn bị bằng mọi hỏa lực có trong tay. Hơn 2.000 dàn Katyusha BM-13 cùng gần 10.000 nòng pháo kết hợp với các máy bay ném bom tầm xa và máy bay ném bom ban đêm dội một trận bão lửa lên tất cả các tuyến chuẩn bị tấn công của hai cánh quân xung kích Đức Quốc xã. Tổng cộng có khoảng 20.000 quả đạn pháo, hơn 4.500 quả đạn Katyusha, 200 phi vụ cường kích và 450 phi vụ ném bom ban đêm đã được thực hiện. Các sân bay của không quân Đức, các căn cứ xe tăng Đức và các căn cứ hậu cần Đức tại Bryansk, Oryol, Dmitri-Orlovsky, Trubchevsk (sân bay), Khutorr-Mikhailovsky, Konotop (sân bay), Terkino (sân bay), Romny, Akhtyrka, Trotyanets, Poltava (sân bay chính của Tập đoàn quân không quân 4), Novo-Bodolaga, Merefa và Kharkov đồng loạt bị oanh kích dữ dội. Trong phạm vi 20 km cách tiền duyên, có thể nhìn thấy những vệt lửa kéo dài trong đêm tối kèm theo vô số vụ nổ lớn; các kho đạn nổ tung bắn chất cháy lên trời như pháo hoa. Tại Bộ tư lệnh các cụm tập đoàn quân Trung Tâm và Nam, các tướng lĩnh và sĩ quan cao cấp Đức lập tức hội ý để cố phán đoán xem đây có phải là sự chuẩn bị cho một đòn tấn công theo kiểu ra tay trước của quân đội Liên Xô hay không. Trong khi đó, trên tiền duyên các loạt pháo kích, không kích của quân đội Liên Xô vẫn tiếp diễn suốt 2 giờ liền. Pháo binh Đức hoàn toàn bị bất ngờ và phản ứng yếu ớt. Vì các đội máy bay ném bom ban đêm của Đức còn đang trong giai đoạn thử nghiệm nên người Đức hoàn toàn không có thứ vũ khí mà đối thủ của họ đã có và tỏ ra rất hữu hiệu trong trường hợp này. Ở các đài quan sát tiền duyên của quân đội Liên Xô trên cả hai hướng Bắc và Nam vòng cung Kursk, các trinh sát viên đều nhìn thấy nhiều đám cháy và các vụ nổ lớn. 4 giờ 30 phút sáng ngày 5 tháng 7, trận pháo kích và không kích phản chuẩn bị của quân đội Liên Xô chấm dứt.
Không ai có thể biết được bên trong phòng tuyến của quân Đức, những gì đã diễn ra nhưng trận phản chuẩn bị rõ ràng đã có tác dụng. Theo lời khai của các tù binh Đức, cuộc tấn công sẽ bắt đầu đúng 3 giờ sáng ngày 5 tháng 7 nhưng mãi đến 4 giờ 40 phút, sau khi quân đội Liên Xô ngừng pháo kích, các máy bay trinh sát Đức mới xuất hiện trên bầu trời, bắt đầu chỉ điểm cho máy bay cường kích và pháo binh bắn phá dọn đường tấn công nhưng hỏa lực không đạt được mật độ dày đặc. Đến 6 giờ sáng, các tập đoàn quân xe tăng Đức mới bắt đầu xuất phát tấn công.

Giai đoạn tấn công của quân đội Đức Quốc xã

Hướng Oryol - Kursk


Bản đồ diễn biến giai đoạn quân đội Đức Quốc xã tấn công trong Chiến dịch vòng cung Kursk
Tập đoàn quân xe tăng 2 (Đức) được chia làm hai bộ phận. Cánh quân tây bắc gồm các quân đoàn bộ binh 55 và 53 giữ tuyến phòng thủ từ phía nam Kirov, qua Lyudinovo, Bolkhov đến Mtsensk, yểm hộ phía sau cánh quân xung kích đang tập trung ở phía nam Oryol. Chủ lực của Tập đoàn quân gồm các quân đoàn xe tăng 41, 46, 43 phối hợp với Quân đoàn xe tăng 56 và Quân đoàn bộ binh 23 của Tập đoàn quân 9, hình thành cánh quân xung kích mặt Bắc gồm 8 sư đoàn xe tăng (2, 4, 5, 9, 12, 18, 20, 25), 1 sư đoàn cơ giới (10) và 11 sư đoàn bộ binh (6, 7, 14, 76, 78, 86, 131, 216, 258, 292 và 383). Tập đoàn quân 9 chỉ để lại Quân đoàn bộ binh 35 giữ tuyến phòng thủ từ Mtsensk đến tuyến sông Peruch, che chở sườn trái cho cánh quân xung kích. Hướng đội kích chủ yếu của cánh quân xung kích Đức nhằm vào điểm nối giữa sườn phải của Tập đoàn quân 13 (Liên Xô) với sườn trái của Tập đoàn quân 48 trên khu vực Pokhvanoye - Maloarkhangenskoy và điểm nối giữa sườn trái của Tập đoàn quân 13 với Tập đoàn quân 70 tại khu vực Saborovka - Olkhovatka. Ý đồ của Cụm tập đoàn quân Trung Tâm (Đức) bao vây và tiêu diệt Tập đoàn quân 13 (Liên Xô) tại Ponyri như đã từng bao vây và tiêu diệt tập đoàn quân 13 (cũ) tại chỗ lồi Byelostok (tây Belorrusia) cách đó 2 năm đã được thể hiện rõ ngay từ đòn công kích đầu tiên.
Nhưng quân đội Liên Xô năm 1943 đã khác xa với quân đội Liên Xô năm 1941. Bốn quân đoàn xe tăng Đức tập trung trên một chính diện hẹp chỉ 45 km đã vấp phải các đòn phản đột kích rất mạnh của Quân đoàn bộ binh và các sư đoàn bộ binh 15, 81, 132, 148 và 280. Phía sau lưng họ, trên lớp phòng ngự thứ hai còn có binh lực mạnh gấp đôi. Ngay trong buổi sáng ngày 5 tháng 7, tốc độ tấn công của các xe tăng Đức đã không được như họ mong muốn. Các bãi mìn dày đặc đã buộc các xe tăng Đức phải dừng lại chờ công binh đến gỡ mìn và cính các đơn vị này đã trở thành mục tiêu cho hỏa lực súng bộ binh Liên Xô khi các đơn vị pháo binh Đức bị thiệt hại nặng trong các trận pháo kích phản chuẩn bị đã không còn đủ uy lực chế áp các hỏa điểm của đối phương. Các xe tăng và pháo tự hành Đức phải tiến công trong các dải rất hẹp, hai bên sườn là các bãi mìn dài hàng km đã gây thiệt hại nặng nề cho lực lượng thiết giáp Đức. Trung đoàn pháo tự hành chống tăng 53 (thuộc Quân đoàn xe tăng 41) có 49 khẩu pháo tự hành "Elefant" (còn có biệt danh Ferdinand) thì 37 khảu bị phá hủy hoặc hư hưng nặng bởi mìn và hỏa lực dày đặc của pháo chống tăng Liên Xô. Chỉ 3 km trong ngày đầu tiên của cuộc tấn công, Trung đoàn 53 (Đức) đã phải trả giá bằng 1.287 sinh mạng cùng 5.921 người bị thương và trung đoàn này gần như bị loại khỏi vòng chiến đấu.

Bộ binh và xe tăng Đức xuất phát tấn công
Tại địa đoạn phòng ngự của các sư đoàn bộ binh 81 và 307 phía bắc Ponyri, đại đội pháo chống tăng của đại úy G. I. Igisev đã chiến dấu đến viên đạn cuối cùng, đến người cuối cùng và diệt được 19 xe tăng, xe bọc thép của Đức. Góp phần làm thiệt hại nặng nề cho các xe tăng Đức còn có các đòn đánh rất hiệu quả từ trên không của các máy bay cường kích bọc thép IL-2. Được các máy bay tiêm kích yểm hộ phía trên, các "xe tăng bay" IL-2 đã nhằm vào nóc các xe tăng Đức, một vị trí rất hiểm yếu có vỏ thép mỏng để tung ra hỏa lực chết người của pháo 37 mm lắp đạn sabot và roket tầm ngắn. Hơn 20 xe tăng Đức trên cánh Bắc đã bị phá hủy trong ngày đầu tiên của cuộc chiến bởi hỏa lực của không quân Liên Xô.
Tướng Walter Model nhanh chóng phát hiện ra điểm yếu chí tử của các xe tăng và xe thiết giáp Đức, nhất là các pháo tự hành Ferdinand. Mặc dù các khí tài này hoàn toàn hiệu quả trong tác chiến tầm trung và tầm xa nhưng lại không được trang bị các súng phụ nhằm đối phó với bộ binh khi bị đối phương áp sát và dễ bị tổn thương trước hỏa lực pháo chống tăng Liên Xô được bảo vệ trong hệ thống hầm hào chằng chịt nếu không được che chắn bởi hỏa lực súng máy của xe thiết giáp hạng nhẹ và bộ binh tháp tùng. Góp phần làm cho điểm yếu này trở nên trầm trọng hơn là sai lầm của tướng Helmuth Weidling (vốn là tướng bộ binh) khi ông đã để cho pháo tự hành "vượt qua đầu" xe tăng lên phía trước. Tổng thanh tra lực lượng xe tăng Đức, tướng Heintz Guderian nhận xét:
Khi họ (các đơn vị thiết giáp) đột phá được vào khu vực phòng ngự của bộ binh đối phương, họ cần phải - theo nghĩa đen - cơ động nhanh như những con con chim cút và dùng pháo để dập tắt từng ổ hỏa lực. Nhưng họ đã không thể nào vô hiệu hóa được các hỏa điểm súng máy và súng trường của địch quân chứ đừng nói đến việc tiêu diệt chúng. Vì vậy bộ binh yểm hộ xe tăng của ta đã không thể nào đi theo sát các đơn vị tăng thiết giáp được. Các đơn vị tăng thiết giáp hoàn toàn bị tách rời khỏi các binh chủng khác khi họ tiếp cận khu vực pháo binh Xô Viết.
—Guderian, 

Xe tăng Con hổ tấn công phòng tuyến Hồng quân trên hướng Ponyri - Olkhovatka
Kết quả khả quan duy nhất trong ngày 5 tháng 7 mà quân đội Đức Quốc xã đạt được tại cánh Bắc là cuộc đột kích thành công đẫm máu của các sư đoàn xe tăng 9, 20 và các sư đoàn bộ binh 6 và 78 thuộc Quân đoàn xe tăng 47 của tướng Joachim Lemelsen và các quân đoàn bộ binh khi nó đẩy lùi Quân đoàn bộ binh 29 (Liên Xô), đánh chiếm các làng Podolian và Saborovka, cách tuyến xuất phát tấn công 8 km và uy hiếp Olkhovatka. Ở cánh trái, Quân đoàn xe tăng 46 (Đức) còn phải đang giằng co các làng Tureika và Gnilets với các sư đoàn bộ binh 280, 132, 15 (Liên Xô) chỉ cách tuyến xuất tấn công chưa đầy 3 km và đến cuối ngày thì hầu như dẫm chân tại chỗ.]
Sáng ngày 7 tháng 7, tướng K. K. Rokossovsky sử dụng Quân đoàn xe tăng 19 (Tập đoàn quân xe tăng 2) và lữ đoàn xe tăng 2 (Tập đoàn quân 13) tổ chức phản đột kích vào sườn phái của Quân đoàn xe tăng 47 Đức với ý đồ khôi phục tuyến phòng thủ liên tục của Tập đoàn quân 13 trên hướng Olkhovatka. Cánh phải của Tập đoàn quân 48 cũng tham gia cuộc phản đột kích này. Trong cuộc phản kích này, Quân đoàn xe tăng 19 (Liên Xô đã áp dụng một chiến thuật mới. Lợi dụng địa hình các khe hẹp giữa thượng nguồn hai con sông Oka Svapa, bộ binh Liên Xô đã bất ngờ tấn công vượt qua hàng rào xe tăng Đức, đánh thẳng vào các sư đoàn bộ binh Đức đã tháp tùng, hất bộ binh Đức ra xa xe tăng và vấn đề còn lại được giải quyết giữa 2 sư đoàn xe tăng Đức và 3 lữ đoàn xe tăng Liên Xô. Mặc dù cuộc phản kích không đạt được kết quả, Quân đoàn xe tăng 19 mất hẳn một lữ đoàn xe tăng nhưng cuộc phản đột kích đã làm chậm thêm tốc độ tấn công của Quân đoàn xe tăng 47 (Đức), hơn 30 xe tăng Đức bị phá hủy trước cửa ngõ Olkhovatka. Quân Đức chỉ tiến thêm được 2 km, cách tuyến xuất phát 10 km.

Các máy bay cường kích IL-2 của không quân Xô Viết phát huy hỏa lực tấn công trong trận Kursk
Ngày 7 tháng 7, Thống chế Günther von Kluge tung nốt Quân đoàn xe tăng 56 của Tập đoàn quân 9 (Đức) là lực lượng dự bị chiến dịch cuối cùng vào trận. Đòn tấn công này tiếp theo sau đòn đột phá ngày 5 tháng 7 của Quân đoàn xe tăng 47 đã bước đầu có tác dụng. các sư đoàn xe tăng 5 và 25 của quân đoàn này đã đẩy lùi Quân đoàn xe tăng 19, Quân đoàn bộ binh 17, các sư đoàn bộ binh cận vệ 6 và 70 (Liên Xô) lùi sâu thêm 2 km đến tuyến phòng thủ thứ ba, sát ngoại vi phía bắc Olkhovatka. Quân đoàn xe tăng 41 (Đức) cũng mở cuộc tấn công tiếp theo vào Ponyri nhưng vẫn phải dừng lại ở cửa ngõ phía bắc thành phố trước lớp phòng thủ thứ ba của tuyến phòng thủ thứ nhất của quân đội Liên Xô. Tại đây, quân đội Đức Quốc xã đã vấp phải một hàng rào pháo chống tăng dày đặc với trung bình 35 khẩu trên một km chính diện, nơi dày đặc nhất đến 92 khẩu/km. Các sư đoàn xe tăng Đức phải chiến đấu như pháo binh với Sư đoàn pháo binh 5 và Lữ đoàn pháo chống tăng 13 của Liên Xô. Trong ngày 7 tháng 7, hai bên tung ra mặt trận này hơn 800 phi vụ ném bom và tấn công mặt đất. Trong đó, các tập đoàn quân không quân 15 và 16 (Liên Xô) chiếm ưu thế với tổng số 520 phi vụ. Các máy bay IL-2 tiếp tục công kích các xe tăng Đức từ trên không, yểm hộ hữu hiệu cho pháo chống tăng. Theo báo cáo của trinh sát đường không Liên Xô, khoảng 100 xe tăng và pháo tự hành Đức dã bị phá hủy trong trận đánh nhưng không thể đếm được bao nhiêu chiếc do không quân đánh, bao nhiều chiếc do pháo binh đánh. Sư đoàn bộ binh 307 của thiếu tướng M. A. Elsin cũng vận dụng các chiến thuật hất bộ binh Đức ra xa để áp sát, dùng thủ pháo và chai cháy đánh hỏng nhiều xe tăng Đức. Trên hướng Olkhovatka, lữ đoàn pháo chống tăng tự hành của đại tá V. N. Rokosuev cũng chặn đứng các cuộc công kích của sư đoàn xe tăng 5 (Đức).

Binh sĩ Liên Xô bên một chiếc xe tăng Đức bị phá hủy trong trận Kursk
Ngày 8 tháng 7, trong một nỗ lực cuối cùng, tướng Walter Model đã ra lệnh tập trung cả hai quân đoàn xe tăng 56 và 47 với tổng cộng số xe tăng còn lại hơn 300 chiếc đồng loạt công kích khu phòng thủ Olkhovatka, phá vỡ tuyến phòng thủ ở điểm nối giữa Sư đoàn bô binh 15 và Sư đoàn bộ binh 70. Trụ lại phòng thủ chỉ còn lại lữ đoàn pháo chống tăng 3 của V. N. Rokossuev. Mỗi khẩu đội pháo chống tăng của lữ đoàn này phải chống chọi với hàng chục xe tăng Đức. Ở cánh phải, quân đoàn xe tăng 41 (Đức) cũng đội nhập vào Ponyri. Các cuộc đấu pháo bắt đầu diễn ra trên các đường phố của thị trấn này. Buổi trưa cùng ngày, tướng K. K. Rokossovsky huy động toàn bộ Tập đoàn quân xe tăng 2 tham chiến. Quân đoàn xe tăng 19 tiến ra hướng Tureika - Gnilets, Quân đoàn xe tăng 16 tiến ra tuyến Olkhovatka, Quân đoàn xe tăng 3 tiến ra Polnyri. Quân đoàn xe tăng 9 cũng được rút khỏi đội hình Tập đoàn quân 65 để tăng cường cho mũi phản đột kích ở Olkhovatka. Chiều tối ngày 8 tháng 7, các quân đoàn xe tăng 47 và 56(Đức) bị chặn đứng tại tuyến Samodurovka - Skova. Sáng ngày 9 tháng 7, Quân đoàn xe tăng 3 phối hợp với các sư đoàn bộ binh 18 và 307 mở hai mũi tấn công gọng kìm, đánh bật quân đoàn xe tăng 41 (Đức) khỏi Ponyri. Ở cánh trái, Quân đoàn xe tăng 19 cùng với các sư đoàn bộ binh 15, 132 và 280 lấy tại các thị trấn Tureika và Gnilets. Trước những tổn thất lớn về xe tăng. Đêm 10 rạng ngày 11 tháng 7, thống chế Günther von Kluge buộc phải ra lệnh dừng tấn công và yếu cầu các sư đoàn xe tăng Đức giữ vững tuyến đã chiếm lĩnh.

Máy bay cường kích IL-2 của Không quân Liên Xô, nỗi ám ảnh của các xe tăng Đức
Tuy nhiên, quân đội Liên Xô không để cho Cụm tập đoàn quân Trung Tâm thực hiện ý định đó. Ngày 15 tháng 8, Phương diện quân Briansk và cánh trái của Phương diện quân Tây mở chiến dịch Orlovsk, đồng loạt phát động tấn công trên toàn tuyến mặt trận phía bắc chỗ lõm Oryol từ Lyudinovo đến Novosil. Sau bốn ngày, Tập đoàn quân 63 ở cánh trái đã mở được một bàn đạp rộng 50 km, sâu 30 km phía nam Mtsensk; Tập đoàn quân 61 công kích cụm cứ điểm Bolkhov, ép quân đoàn bộ binh 35 (Đức) lùi về Mtsensk. Tại cánh trái của Phương diện quân Tây, Tập đoàn quân cận vệ 11 và Tập đoàn quân xe tăng 4 đã đè bẹp các cụm cứ điểm Medintsevo và Ulyanovo của Quân đoàn bộ binh 53 (Đức) trong tuần đầu đã tiến sâu hơn 80 km đến Ilynskoye và Uzkoye, dồn tàn quân của Quân đoàn 53 (Đức) vào "cái túi" Bolkhov. Trước nguy cơ bị nguy cơ bị hợp vây, thống chế Günther von Kluge, Tư lệnh Cụm tập đoàn quân Trung Tâm vội vã ra lệnh cho Tập đoàn quân xe tăng 2 và Tập đoàn quân 9 rút lui về giữ khu vực Oryol - Mtsensk. Trong cuộc rút quân này, các máy bay cường kích IL-2 của Tập đoàn quân không quân 16 vẫn tiếp tục đuổi đánh các đoàn xe cơ giới Đức, buộc Bộ tư lệnh Cụm tập đoàn quân trung tâm (Đức) phải ra lệnh chỉ được phép di chuyển ban đêm; ban ngày, các xe tăng, cơ giới còn lại phải được ngụy trang và cất giấu kỹ trong các khe hẻm. Từ ngày 12 tháng 7 Tập đoàn quân xe tăng 2 (Phương diện quân Trung Tâm) cùng Tập đoàn quân 13 và cánh phải của Tập đoàn quân 65 mở cuộc phản công, đến ngày 15 tháng 7 đã tiến đến tuyến mặt trận trước ngày 5 tháng 7. Chỉ trong 10 ngày, cuộc tấn công của 8 sư đoàn xe tăng, 1 sư đoàn cơ giới và 11 sư đoàn bộ binh Đức trên cánh Bắc của Chiến dịch Thành Trì đã hoàn toàn thất bại..

Hướng Belgorod - Kursk


Sơ đồ mô tả cuộc tấn công của quân đội Đức Quốc xã trên hướng Belgorod - Kursk
Lực lượng trên bộ của cánh quân Đức Quốc xã tấn công phía nam Kursk do Thống chế Erich von Manstein, tư lệnh Cụm tập đoàn quân Nam chỉ huy gồm 25 sư đoàn trong đó có 10 sư đoàn xe tăng (1 SS "Adolf Hitler", 2 SS "Das Reich", 3 SS "Totenkopf", 3, 6, 7, 11, 13, 17 và 19), 1 sư đoàn cơ giới ("Großdeutschland"), 14 sư đoàn bộ binh. Bộ tham mưu cụm tập đoàn quân Nam (Đức) vạch kế hoạch tấn công bằng ba mũi đột kích theo hình bàn tay xòe, có binh lực tương đương nhau và đều do các sư đoàn xe tăng mở đường
  • Cánh trái sử dụng Quân đoàn xe tăng 48 có 2 sư đoàn xe tăng, 1 sư đoàn cơ giới và Quân đoàn bộ binh 52 gồm 4 sư đoàn bộ binh tấn công thẳng lên phía bắc qua Oboyan đến Kursk.
  • Cánh giữa mạnh hơn cả gồm Quân đoàn xe tăng 2 SS và Quân đoàn xe tăng 3, tổng cộng có 6 sư đoàn xe tăng và 2 sư đoàn bộ binh, tấn công từ Belgorod hướng đến Stary Oskol.
  • Cánh phải sử dụng Quân đoàn bộ binh 42 (gồm một sư đoàn xe tăng, ba sư đoàn bộ binh) cùng với Quân đoàn "Raus" tấn công từ Volchansk hướng đến Novyi Oskol.
Erich von Manstein giữ lại Quân đoàn bộ binh 57 (gồm một sư đoàn xe tăng, hai sư đoàn bộ binh) làm lực lượng dự bị chiến dịch, trước mắt có nhiệm vụ phòng thủ chỗ lồi Liman đề phòng Tập đoàn quân 57 (Phương diện quân tây nam) đột kích và Kharkov và khi chiến dịch tiến triển thuận lợi, có thể được tung vào trận để phát huy chiến quả. Trận phản chuẩn bị của pháo binh và không quân Liên Xô lúc 2 giờ 20 sáng ngày 5 tháng 7 đã phần nào làm rối loạn đội hình các cánh quân xung kích của Erich von Manstein. Thiệt hại nặng nhất là Quân đoàn xe tăng 48 và Quân đoàn bộ binh 52 do nằm gần tiền duyên hơn cả. Trên đường di chuyển ra tuyến xuất phát tấn công, các quân đoàn này đã mất hơn 20 xe tăng và vài chục khẩu pháo bị phá hủy bởi bom và đạn phản lực Katyusha. Cũng vì lý do này mà cánh quân của Tập đoàn quân xe tăng 4 và Cụm tác chiến Kemf triển khai tấn công muộn hơn cánh quân phía bắc khoảng một giờ.

Xe tăng Đức mở các đột phá khẩu


Xe tăng Đức và bộ binh cơ giới Đức xuất phát tấn công
6 giờ 30 sáng ngày 5 tháng 7, các máy bay Ju-87 (Đức) cất cánh từ các sân bay Poltava, Konotop và Vorozhda bắt đầu phối hợp với pháo binh Đức dội hỏa lực lên tuyến phòng thủ ngoài cùng của Phương diện quân Voronezh, các tuyến phòng thủ phía trong cũng bị các máy bay ném bom Ju-86Ju-88 oanh tạc. Một số trận không chiến đã diễn ra ngay trên tiền duyên. 7 giờ sáng, các sư đoàn xe tăng Đức bắt đầu tấn công. Tại địa đoạn Gertsovka - Butovo, Quân đoàn bộ binh 52 (Đức) được phối thuộc sư đoàn xe tăng xe tăng 19 của Quân đoàn xe tăng 48 dã chọc thủng tuyến phòng ngự dài 10 km và đột kích sâu 5 km, đánh chiếm thị trấn Cherkasskoye trong ngày đầu tiên. Ở cánh giữa, chủ lực Quân đoàn xe tăng 48 cùng Quân đoàn xe tăng 2 SS cũng chiếm được được một bàn đạp rộng 8 km, đánh chiếm thị trấn Bykovka và khoan sâu lỗ đột phá lên đến 10 km về hướng Yakovlevo.. Tướng N. F. Vatutin ra lệnh chu Tập đoàn quân 40 của tướng K. S. Moskalenko điều sư đoàn bộ binh 161 và lữ đoàn xe tăng 86 phản kích vào sườn trái của sư đoàn xe tăng 3 (Đức) tại khu vực Dmitryevka nhưng cuộc phản kích bị các lực lượng xe tăng trội hơn của Đức đẩy lùi. Các sư đoàn bộ binh cận vệ 52, 67 và 71 của Quân đoàn bộ binh cận vệ 22 thuộc Tập đoàn quân cận vệ 6 chống cự kịch liệt trên các lớp phòng thủ thứ nhất và thứ hai. Đến cuối ngày, họ buộc phải rút lui.

Bộ binh Liên Xô phòng thủ
Chiến sự ác liệt nhất trong ngày đầu tiên ở cánh Nam tại điểm tiếp giáp giữa Quân đoàn bộ binh cận vệ 23, Tập đoàn quân cận vệ 6 và Quân đoàn bộ binh cận vệ 24, Tập đoàn quân cận vệ 7. Hơn 450 xe tăng Đức của cả hai quân đoàn xe tăng 48 và 2 SS tấn công tại đây. Đòn phản đột kích đầu tiên của các quân đoàn bộ binh cận vệ 23 và 24 đã kìm chân các sư đoàn xe tăng 11, 3 SS và sư đoàn cơ giới "Großdeutschland" (Đức) tại Berezovka, Demyanovka, Kozma và Sholino trong suốt buổi sáng ngày 5 tháng 7. Đến quá trưa, các xe tăng Đức đẩy lùi đòn phản kích của Quân đoàn cận vệ 24, buộc các quân đoàn này phải rút về Yakovlevo và Luchky. 5 sư đoàn xe tăng Đức rượt theo họ trên hành lang hẹp giữa hai con sông Vorskla và Lipobsky Donyev. Đến chiều, hai quân đoàn bộ binh cận vệ 23 và 24 đã trụ lại được tại Yakovlevo. Mọi nỗ lực của Quân đoàn xe tăng 2 SS muốn vượt qua điểm nút này trong ngày 5 tháng 7 đều bị đẩy lùi.
Trên cánh phải, lúc 7 giờ 15 sáng ngày 5 tháng 7, Quân đoàn xe tăng 3 và Quân đoàn Raus cũng bắt đầu đột kích vào địa đoạn Solomino - Maslovka Pritan. Mũi tấn công của Quân đoàn xe tăng 3 cũng tạo được một chỗ lõm dài 15 km, sâu 10 km vào tuyến phòng ngự của Quân đoàn bộ binh cận vệ 25 thuộc Tập đoàn quân cận vệ 7. Sư đoàn bộ binh cận vệ 78 đã chống trả suốt ngày 5 tháng 7 tại Solomino nhưng các sư đoàn 73 và 75 đã không giữ được Maslovka và rút lui về Gremyachi. Quân đoàn xe tăng 3 (Đức) bắt đầu rẽ mũi về phía bắc, tấn công dọc theo sông Razumnaya và đến cuối ngày đã tiến đến tuyến Yastyrebovo - Belgorod. Sư đoàn bộ binh cận vệ 78 bị bao vây và tổn thất nặng nề. Trong ngày, Tập đoàn quân không quân 4 xuất kích 3.160 phi vụ yểm hộ cho lục quân, bị bắn rơi 72 chiếc. Các tập đoàn quân không quân 2 và 17 (Liên Xô) xuất kích 3.213 phi vụ, bị bắn rơi 78 chiếc. Quân đội Đức quốc xã mất 59 xe tăng, 4 pháo tự hành và khoảng 500 người. Quân đội Liên Xô tổn thất 60 xe tăng và hơn 1.500 người.

Xe bánh xích Half-track của Đức kéo theo một chiếc Tiger I bị bắn hỏng về căn cứ
Ngày 6 tháng 7, tướng Herman Hoth điều sư đoàn xe tăng 3 về lại đội hình Quân đoàn xe tăng 48. 5 sư đoàn xe tăng, 1 sư đoàn cơ giới và 6 sư đoàn bộ binh Đức với hơn 650 xe tăng đã đồng loạt tấn công vào các lớp phòng thủ thứ hai và thứ ba của Tập đoàn quan cận vệ 6, mở rộng khu vực đột phá rộng tới 45 km trên chính diện phía nam của vòng cung Kursk từ Lavtyev vòng lên Dmitryevka và Zavidovka, qua Alekseyevka, Pokrovka, Luchky, vòng xuống phía nam dọc theo sông Lipobsky Donyev tới Sopino với chiều sâu lên đến 20 km so với trước nhgafy 5 tháng 7. Ngày 7 tháng 7, tướng N. F. Vatutin điều Tập đoàn quân xe tăng 2 của tướng M. E. Katukov ra hỗ trợ cho Tập đoàn quân cận vệ 6 lúc này đã kiệt sức giữ lớp phòng thủ thứ ba. Quân đoàn xe tăng 6 được điều ra hướng Alekseyevka, dựa vào tuyến sông Pena để phòng thủ. Quân đoàn cơ giới 3 chốt giữ hai bên con đường nhựa chiến lược từ Yakovlevo đi Oboyan. Quân đoàn xe tăng cận vệ 5 giữ Pokrovka và con đường tỉnh lộ đi Prokhorovka. Sư đoàn bộ binh cận vệ 51 giữ Ozerovsky. 12 sư đoàn Đức đã bị giam chân trên tuyến phòng thủ này suốt 4 ngày. Riêng trong ngày 6 tháng 7, Tập đoàn quân xe tăng 4 và Cụm tác chiến Kemf đã mất gần 200 xe tăng và hơn 100 máy bay.
Ngày 7 tháng 7, Quân đoàn xe tăng 3 và Quân đoàn Raus đã gây bất ngờ lớn cho Bộ tư lệnh Phương diện quân Voronezh (Liên Xô) khi không tấn công mở cánh sang phía tây như kế hoạch mà đột kích thẳng lên phía bắc dọc theo hành lang giữ hai con sông Bắc Donets và Razumnaya, không tấn công thẳng vào các lớp phòng thủ của quân đội Liên Xô mà tiến rất nhanh theo hướng song song với các tuyến này. Đến ngày 10 tháng 7, Quân đoàn xe tăng 3 đã vượt được hơn 60 km từ tuyến Belgorod - Yastrebovo đến phía Rzhavets, đánh chiếm các thị trấn Malekhovo, Gostishevo, Kazachye và một loạt các điểm dân cư, uy hiếp cụm phòng thủ Belenikhino của Tập đoàn quân 69 (Liên Xô) từ phía đông nam. Bộ tư lệnh Phương diện quân Voronezh buộc phải điều Tập đoàn quân 69 từ lực lượng dự bị ra giữ hướng này. Động thái này dã làm cho nguyên soái G. K. Zhukov đi đến nhận định, cánh quân phía nam của Erich von Manstein tỏ ra rất linh hoạt với thực tế chiến trường, có tinh thần chủ động và có kinh nghiệm hơn nhiều so với cánh quân phía bắc.

Từ Pokrovka đến Prokhorovka


Quân đoàn xe tăng 2 SS (Đức) tiến về Prokhorovka
Ngày 10 tháng 7, chính tại thị trấn Pokrovka nhỏ bé trên bờ sông Vorskla đã bắt đầu diễn ra trận đấu xe tăng kéo dài suốt 3 ngày trên cánh Nam của vòng cung Kursk mà sau này, nhiều nhà sử học đã tách rời nó ra khỏi trận Prokhrovka nổi tiếng. 8 giờ sáng, Tập đoàn quân xe tăng 4 (Đức) tập trung cả hai quân đoàn xe tăng 48 và 2 SS tấn công từ hai hướng tây nam và Nam vào thị trấn Pokrovka. Các sư đoàn bộ binh 255 và 332 của Quân đoàn bộ binh 52 (Đức) được tăng cường Sư đoàn xe tăng 11 vượt sông Tsena đột phá vào Novenkoye, buộc Quân đoàn xe tăng 6 (Liên Xô) phải rút lui về giữ Novenkoye. Các sư đoàn bộ binh 57 và 112 (Đức) đẩy lùi Quân đoàn cơ giới 3 (Liên Xô) sâu thêm 10 km về Kalinovka. Các sư đoàn xe tăng chủ lực của cánh quân Đức phía nam Kursk đã không đánh thẳng vào Kursk qua ngả Oboyan như phán đoán ban đầu của Bộ Tổng tham mưu quân đội Liên Xô mà tấn công lên hướng Dông Bắc, vòng ra phía sau toàn bộ tuyến phòng thủ thứ nhất và thứ hai của quan đội Liên Xô. Tình hình mặt trận phía nam Kursk diễn biến đột ngột bất lợi cho quân đội Liên Xô. Chặn đánh hai binh đoàn xe tăng hùng mạnh gồm hơn 500 chiếc của quân đội Đức Quốc xã tại đây chỉ còn trơ trọi Quân đoàn xe tăng cận vệ 5 của Tập đoàn quân xe tăng 1 và sư đoàn bộ binh cận vệ 51 của Tập đoàn quân cận vệ 6 với vỏn vẹn 135 xe tăng các loại. Cuối ngày 10 tháng 7, sau khi bị mất 12 xe tăng, Quân đoàn bị đẩy ra khỏi vị trí phòng thủ thuận lợi trong thị trấn Pokrovka và bắt đầu lùi dần theo đường nhựa Pokrovka về phía tây bắc, vừa lùi vừa tổ chức phản kích. Các tập đoàn quân không quân 2 và 5 được lệnh tập trung máy bay cường kích yểm hộ cho Quân đoàn xe tăng cận vệ 5 và Sư đoàn bộ binh cận vệ 51 trên mặt đất. Hơn 450 phi vụ của các máy bay IL-2 đã được huy động dành riêng cho một đoạn đường chỉ dài 25 km từ Pokrovka đến Prokhorovka. Tập đoàn quân xe tăng 5 có gần 500 xe tăng và pháo tự hành lập tức được báo động và điều động đến khu vực xe tăng Đức đột phá. Nhưng cũng phải mất đến 2 ngày để đơn vị này chuẩn bị đủ cơ số đạn dược, xăng dầu và di chuyển từ Maryno đến Aleksanrovky bằng đường bộ vì đi bằng đường xe lửa thuận tiện hơn nhưng mất nhiều thời gian bốc dỡ xe pháo, đạn dược, xăng dầu và phương tiện kèm theo. Trong hai ngày đó, Quân đoàn xe tăng cận vệ 5 phải chống giữ một mất một còn với 2 quân đoàn xe tăng Đức. Mặc dù có máy bay IL-2 yểm hộ nhưng các xe tăng Đức vẫn nhiều lần đột kích vào hai bên sườn Quân đoàn xe tăng cận vệ 5. Trong ngày cuối cùng, quân đoàn đã phải tác chiến bằng cách một đổi một với các xe tăng Đức và về được đến Aleksandrovsky với hơn 50 xe tăng còn hoạt động được. Trinh sát đường không của Tập đoàn quân không quân 5 đếm được gần 200 xác xe tăng Đức và Liên Xô rải dọc 25 km đường nhựa Pokrovka - Prokhrovka.

Xe tăng IS-1 của Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 5 hành quân bằng đường bộ
Tình huống hiểm nghèo nhất của Phương diện quân Voronezh trong toàn bộ chiến dịch đã xuất hiện ngày 10 tháng 7 khi bốn sư đoàn xe tăng và một sư đoàn cơ giới Đức đang tiến đến Prokhorovka trong khi hai sư đoàn bộ binh 167 và 176 Đức mở mũi tấn công sang phía đông, hướng vào khu phòng thủ Belenikhino. Quân đoàn xe tăng cận vệ 2, các sư đoàn bộ binh 31, 39 và sư đoàn đổ bộ đường không 37 phải chiến đấu trên cả hai hướng khi quân đoàn xe tăng 3 và quân đoàn Raus (Đức) đã vượt sông Bắc Donets đánh vào phía sau Belenikhino. Tướng I. S. Koniev phải chuyển cho tướng N. F. Vatutin Quân đoàn xe tăng 2 lấy từ Tập đoàn quân 46 để phản đột kích vào sườn Tập đoàn quân xe tăng 3 (Đức) nhưng không kịp. Chiều 10 tháng 9, Tập đoàn quân xe tăng 5 và Quân đoàn xe tăng 2 (Liên Xô) đã tập kết tại Aleksandrovka. Sáng 11 tháng 7, Bộ tư lệnh Phương diện quân Voronezh ra lệnh rút bỏ khu phòng thủ Belenikhino, tập trung Quân đoàn xe tăng cận vệ 2 và Quân đoàn cơ giới cận vệ 35 tại Aleksnadrovka. Chiều 11 tháng 7, Quân đoàn xe tăng 3 (Đức) đánh chiếm Belenikhino, tiến lên phía bắc hội quân với Quân đoàn xe tăng 48 (thiếu Sư đoàn xe tăng 11) và Quân đoàn xe tăng 2 SS.
Tập tin:Sovietic T34 battle of kursk.jpg
Xe tăng T-34 kéo theo một xe tăng hỏng dưới hỏa lực của quân Đức
Mặc dù bị tổn thất gần 100 xe tăng trong cuộc truy đuổi để đánh quỵ Quân đoàn xe tăng cận vệ 5 của Liên Xô nhưng hai quân đoàn xe tăng 48 và 2 SS (Đức) vẫn còn khá sung sức với tổng cộng hơn 494 xe tăng và pháo tự hành còn hoạt động tốt. Quân đội Liên Xô đưa đến Prokhorovka Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 5 còn nguyên vẹn với khoảng 500 xe, trong đó có 118 xe tăng IS-1 của Quân đoàn xe tăng 10. Tham gia trận Prokhorovka còn có 126 xe tăng của Quân đoàn xe tăng 2 (Tập đoàn quân cận vệ 5), 115 xe tăng của Quân đoàn xe tăng cận vệ 2 và 81 xe tăng của Quân đoàn cơ giới cận vệ 35. Trong số gần 50 xe tăng còn lại của Quân đoàn xe tăng cận vệ 5 vẫn còn hơn 10 chiếc sử dụng được. Tham gia trận chiến tại Prokhorovka ngày 12 tháng 7 còn có Quân đoàn bộ binh cận vệ 32 thuộc Tập đoàn quân cận vệ 5 của trung tướng A. S. Zhadov.

Một khẩu đội súng chống tăng của Quân đội Liên Xô trong trận Kursk
6 giờ 30 sáng 12 tháng, 18 chiếc Me-109 xuất hiện trên bầu trời cánh đồng Prokhorovka xác định lần cuối các vị trí của quân đội Liên Xô kết hợp trinh sát khí tượng. 6 giờ 45 phút, 39 chiếc Ju-86 và Ju-88 bắt đầu ném bom phối hợp với pháo binh bắn phá dọn đường, 7 giờ 15, Quân đoàn xe tăng 2 SS xuất phát tấn công. Nghênh đón đoàn xe tăng này chưa phải là xe tăng Liên Xô mà là không quân. Các tập đoàn quân không quân 5 và 16 tổ chức 177 chiếc IL-2 đồng loạt xuất kích với sự yểm hộ của 81 máy bay Yak-3, Yak-7. Các máy bay IL-2 đã đánh phá chính xác vào các đoàn xe tăng Đức đang tiến ra cánh đồng. Vài chục xe tăng Đức bốc cháy nhưng cả đoàn xe vẫn giữ vững đội hình tấn công. Các máy bay Me-109 có số lượng ít hơn đã không thể mon men tới gần những phi đội IL-2 được hàng rào tiêm kích bảo vệ chặt chẽ.. 7 giờ 30 phút, Quân đoàn xe tăng 18 (Liên Xô) của tướng B. S. Bakharov tiến ra chặn đánh Sư đoàn xe tăng 1 SS (Đức) trên cánh trái. Ở cánh phải, Quân đoàn xe tăng 29 (Liên Xô) của tướng I. F. Kirichenko vòng qua sườn đồi đánh bọc sườn Sư đoàn xe tăng 3 SS. Với pháo 88mm và kính ngắm tốt, xe tăng Tiger có thể tiêu diệt T-34 từ cự ly gần 2.000m, trong khi pháo 76mm trên T-34 không thể bắn thủng được giáp trước của Tiger ngay cả ở cự ly gần. Kết quả là hỏa lực pháo 88 mm của hơn 100 xe tăng Tiger I (Đức) đã chặn được Quân đoàn xe tăng 18 trong khu vực nông trường Tháng Mười, buộc Quân đoàn này phải tổ chức phòng ngự vòng tròn. Đòn đánh thọc sườn của quân đoàn Kirichenko có hiệu quả hơn, toàn bộ Sư đoàn xe tăng 3 SS phải lật cánh sang hướng Vasilyevka để đối phó, làm bộc lộ một khoảng sườn hở dài hơn 1 km giữa sư đoàn xe tăng 3 SS và sư đoàn xe tăng 2 SS đang tấn công ở giữa..
8 giờ 50 phút, tướng P. A. Rodmistrov tung Quân đoàn xe tăng 2 vào điểm nối giữa Sư đoàn xe tăng 3 và Sư đoàn xe tăng 2 SS. Xe tăng T-34 mặc dù thua kém về hỏa lực so với xe tăng Tiger I nhưng các tổ lái Liên Xô đã tận dụng tốc độ cơ động cao hơn và đã xuyên qua hàng rào Tiger I nặng nề đi trước để công kích trực diện với các xe tăng T-IV ở đội hình tuyến hai phía sau. Chiến thuật áp sát của các xe tăng T-34 (Liên Xô) đã hạn chế đáng kể hỏa lực pháo 88 mm nòng dài từ các xe tăng Tiger I (Đức). Hơn 100 chiếc Tiger I đang ồ ạt tấn công phải quay lại hỗ trợ cho những chiếc T-IV yếu hơn đang lần lượt bốc cháy trước hỏa lực pháo bắn thẳng 76 mm của những chiếc T-34 Liên Xô. 9 giờ 5 phút, Quân đoàn xe tăng cận vệ 2 Tatsinskaya được tung vào trận cũng với chiến thuật áp sát công kích. Biết rằng không thể bắn thủng giáp trước của Tiger, các xạ thủ Liên Xô tìm cách áp sát để đánh vào các xe tăng Tiger I từ bên hông hoặc phía sau, với chỗ hiểm yếu nhất là buồng động cơ. Để cứu trợ cho Quân đoàn xe tăng 2 SS, tướng Hermann Breith, tư lệnh Quân đoàn xe tăng 3 (Đức) hủy bỏ cuộc đột kích vào Belenikhino, điều Sư đoàn xe tăng 6 được trang bị toàn bộ xe tăng Panther cải tiến tấn công sang Mikhailovka nhằm phá vỡ chiến thuật áp sát của xe tăng Liên Xô, sư đoàn xe tăng 7 có 132 xe tăng, trong đó có 28 xe tăng Tiger I tấn công Storozhevoye. Trên cánh trái, Sư đoàn cơ giới "Großdeutschland (Đức) đã vượt qua thị trấn Vasilyevka. Đại tướng N. F. Vatutin điều động ba lữ đoàn pháo tự hành chống tăng và lữ đoàn xe tăng 26 triển khai ở Mikhailovka và Storozhevoye và đã chặn được cuộc đột kích của hai sư đoàn xe tăng Đức.

Một chiếc Tiger I bị quân đội Liên Xô bắt sống
Cuộc chiến giằng co giữa 4 sư đoàn xe tăng cùng 1 cơ giới Đức với 4 quân đoàn xe tăng và một quân đoàn cơ giới Liên Xô tại khu vực tam giác Prokhorovka - Vasilyevka - Storozhevoye kéo dài đến quá trưa nhưng không đi đến kết quả ngã ngũ. Riêng thị trấn Vaslievka đã qua ba lần giành giật giữa hai bên. Làng Bogorodetskoe cũng hai lần chuyển từ tay quân đội Liên Xô sang tay quân Đức và ngược lại chỉ trong hơn 4 giờ. Trên khúc cong của sông Psyol đã có hàng trăm xe tăng của cả hai bên lao xuống nước để dập lửa. Khi các xe tăng đều cạn kiện nhiên liệu và đạn dược, các pháo thủ và lái xe tăng của hai bên đã đọ súng bộ binh với nhau và thậm chí sử dụng cả lưỡi lê, dao găm và nắm đấm.. Trong ngầy, không quân Đức xuất kích hơn 600 phi vụ, trong đó có hơn 400 phi vụ cường kích của máy bay Ju-87 nhằm vào các xe tăng Liên Xô. Các tập đoàn quân không quân 5 và 16 (Liên Xô) đã thực hiện không dưới 1000 phi vụ, trong đó có hơn 600 phi vụ cường kích IL-2. Có khoảng 50 chiếc IL-2 và tổ lái đã xuất kích từ 7 đến 9 phi vụ trong ngày.
14 giờ chiều, tướng Herman Hoth tung Sư đoàn xe tăng 3 có 57 xe tăng Tiger I và 44 xe tăng Pz-IV là lực lượng dự bị cuối cùng vào trận nhưng không thể cứu vãn được tình thế. Trước đó một giờ, Quân đoàn xe tăng 10 thuộc lực lượng dự bị của Đại bản doanh tăng viện cho Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 5 có hơn 120 xe tăng hạng nặng IS-1 đã tập kết tại bờ bắc sông Psyon và đến 14 giờ, Quân đoàn này vượt sông và chặn đứng Sư đoàn xe tăng 3 (Đức) tại tây nam Vasilyevka. Ngay trước cửa ngõ Prokhorovka, tướng N. F. Vatutin cũng tung Quân đoàn cơ giới cận vệ 5 tham chiến trong khi các sư đoàn xe tăng Đức đã thiệt hại nặng và kiệt sức.
Nếu như trước đó, đoàn xe tăng Đức chỉ chiến đấu với những chiếc xe tăng hạng trung T-34, thì giờ đây họ đã gặp phải những đối thủ hạng nặng ngang tầm của Liên Xô. Về hỏa lực, xe tăng Tiger I với pháo 88mm L/56 trội hơn IS-1 với pháo 85mm L/52, nhưng về vỏ giáp thì IS-1 trội hơn. Các xe tăng IS-1 lần lượt hạ từng chiếc Tiger I của Đức bằng pháo nòng dài 85 mm bắn đạn sabot УБР-365П từ cự ly 1.000 m. Ở cự ly tương đương, pháo 88 mm của Tiger I bất lực trước vỏ thép dày từ 90 đến 120 mm của loại xe tăng này. Tối 12 tháng 7, tàn quân của các sư đoàn xe tăng Đức rút lui. Theo người Anh tổng kết, quân đội Đức Quốc xã mất 320 xe tăng, quân đội Liên Xô mất khoảng 400 chiếc. Phía Liên Xô đưa ra kết quả ngược lại, quân đội Liên Xô mất 300 xe tăng và pháo tự hành nhưng đã phá hủy 400 xe tăng và pháo tự hành, 88 pháo, 70 súng cối và hơn 300 xe quân sự của đối phương. Phía Đức không đưa ra con số thiệt hại tổng quát nhưng thừa nhận trận tấn công đã hoàn toàn thất bại.
Không chỉ thiệt hại nặng về vũ khí và binh lính, quân đội Đức Quốc xã còn có thêm thiệt hại về sĩ quan chỉ huy cao cấp. Sáng 13 tháng 7, trong khi rút quân, trung tướng Walther von Hünersdorff, chỉ huy Sư đoàn xe tăng 6 (Đức) đã bị một vết thương nhẹ do đạn tiểu liên. Chiều 13 tháng 8, sư đoàn xe tăng 6 bị không quân Liên Xô oanh tạc. Walther von Hünersdorff bị thương nặng vào đầu, được đưa về bệnh viện Kharkov cứu chữa nhưng không qua khỏi và đã chết ngày 17 tháng 7 năm 1943.

Giai đoạn phản công của quân đội Liên Xô


Sơ đồ mô tả cuộc phản công của Quân đội Liên Xô ở phía nam vùng cung Kursk
Nếu như trong chiến dịch Kursk, Quân đội Đức Quốc xã vấp phải nhiều khó khăn về vận chuyển tiếp tế cho mặt trận thì Quân đội Liên Xô lại nhận được nguồn tăng viện dồi dào từ hậu phương của họ. Ngành đường sắt đã giành cho Phương diện quân Briansk 3 tuyến đường vận tải quân sự với 60 đôi tàu/ngày; Phương diện quân Trung Tâm có 4 tuyến với 66 đôi tàu/ngày; Phương diện quân Voronezh và Phương diện quân Thảo nguyên có 6 tuyến (3 tuyến chung với Phương diện quân tây nam) được tiếp tế đều đặn bởi từ 56 đến 64 đôi tàu/ngày. Do đó, trong giai đoạn phản cong, quan đội Liên Xô tại các mặt trận đối diện và xung quanh khu vực Kursk đã được tăng cường.
Kế hoạch phản công tại khu vực vòng cung Kursk đã dược Bộ Tổng tư lệnh tối cao quân đội Liên Xô và tư lệnh các Phương diện quân hoạch định từ trước khi diễn ra cuộc tấn công của quân đội Đức Quốc xã và bây giờ, họ chỉ cần điều chỉnh lại các chi tiết cho phù hợp với tình hình mới. Ở cánh Bắc, ngay sau khi Phương diện quân Trung Tâm bẻ gãy cuộc tấn côgn của Cụm tập đoàn quân Trung Tâm (Đức) ngày 10 tháng 7 thì ngày 11 tháng 7, Phương diện quân Bryansk và cánh trái của Phương diện quân Tây mở Chiến dịch Kutuzov tấn công phía bắc Oryol. Ngày 13 tháng 7, Phương diện quân Trung Tâm cũng mở chiến dịch Orlovsky ở phía nam Oryol nhằm xóa chỗ lõm Oryol - Mtsensk. Ở cánh Nam, Phương diện quân Voronezh và Phương diện quân Thảo nguyên còn tiếp tục phản kích đến ngày 23 tháng 7 mới đẩy được các sư đoàn của thống chế Erich von Manstein về tuyến xuất phát và chuyển sang phản công toàn diện bằng chiến dịch Thống soái Rumyantsev, giải phóng Kharkov và tiến thêm hơn 200 km về phía tây.

Trên hướng Oryol - Bryansk


Các đơn vị xe tăng Liên Xô chuẩn bị phản công
Kết quả cuộc tấn công sớm từ ngày 12 đến ngày 19 tháng 7 của Phương diện quân Briansk và cánh trái của Phương diện quân Tây đã đẩy Tập đoàn quân xe tăng 2 và Tập đoàn quân 9 (Đức) ở khu vực Mtsensk - Oryol vào thế bị đánh từ hai phía bắc và Nam. Đòn tấn công của Tập đoàn quân cận vệ 11 tiến dọc theo hành lang hẹp giữa hai con sông Vytebet và Resseti, phát triển đến Ilynskoye cách đầu mối giao thông Karachev 35 km về phía đông bắc đã đặt cụm quân Đức đang phòng thủ ở khu vực Bolkhov - Oryol - Mtsensk - Zmyevka vào thế bị nửa hợp vây. Ngày 17 tháng 7, Tập đoàn quân 50 cũng chuyển sang tấn công trên khu vực Duminichi, chiếm được một bàn đạp rộng 5 km sâu 2 km phía nam sông Zhizdra.Trong dải tấn công của Phương diện quân Trung Tâm, các tập đoàn quân 13, 48, 70 và Tập đoàn quân xe tăng 2 cũng đã chuẩn bị xong chiến dịch Orlovsky trong tình trạng rất gấp rút. Ngày 15 tháng 7, Tập đoàn quân xe tăng 2 và Tập đoàn quân 13 bắt đầu tấn công dọc sông Oka vào hướng Kromy. Tập đoàn quân 48 bao vây cụm phòng thủ của quân Đức tại Zmyevka và phát triển đến Fylosofovo, Nikolskoye. Mặc dù các sư đoàn xe tăng Đức bị tổn thất nặng trong quá trình tấn công trước đó nhưng các đơn vị còn lại vẫn kiên trì bám lấy khu phòng thủ Mtsensk như một "cái chèn sắt" chia cắt chính diện Phương diện quân Bryansk, ngăn cản phương diện quân này tiến công vào Oryol. Cuộc tấn công của Tập đoàn quân cận vệ 11 (Phương diện quân Tây) cũng bị cũng bị chặn lại trên tuyến sông Olesnya.

Quân đội Liên Xô công kích vào Oryol
Để tăng cường sức mạnh tấn công cho Phương diện quân Bryansk, Bộ Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô điều Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3 do trung tướng P. S. Rybalko chỉ huy gồm 37. 266 sĩ quan và binh sĩ, được trang bị 475 xe tăng T-34 và T-70 từ lực lượng dự bị phối thuộc cho phương diện quân. Bộ Tổng tham mưu quân đội Liên Xô lưu ý tư lệnh Phương diện quân M. M. Popov rằng có thể "giết chết" tập đoàn quân xe tăng này nếu đưa nó vào chiến đấu trong các đường phố phức tạp ở Oryol và giúp bộ tham mưu phương diện quân vạch kế hoạch sử dụng nó. 10 giờ 20 phút ngày 19 tháng 7, từ tuyến Novosyl - Mokhovoye, tướng P. S. Rybalko tổ chức hai cánh quân xe tăng phối hợp với bộ binh tấn công Oryol. Cánh phải gồm Quân đoàn xe tăng cận vệ 6 (tên cũ là Quân đoàn xe tăng 12) ở thê đội một, Quân đoàn cơ giới cận vệ 7 ở thê đội 2, phối hợp với Tập đoàn quân 3 tấn công Oryol từ phía đông bắc. Một lữ đoàn xe tăng của Quân đoàn cơ giới cận vệ 7 yểm hộ cho cánh trái của Tập đoàn quân 3 tấn công Mtsensk từ phía nam. Cánh trái của Phương diện quân Bryansk có Quân đoàn xe tăng cận vệ 7 (tên cũ là Quân đoàn xe tăng 15) ở thê đội một, Lữ đoàn xe tăng 91 ở thê đội 2 làm chủ lực phối hợp với Tập đoàn quân 63 tấn công song song với con đường sắt Livny - Oryol, từ phía đông nam đánh vào thành phố. Bộ tư lệnh Cụm tập đoàn quân Trung Tâm (Đức) không hề biết đến việc Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3 (Liên Xô) đã được điều động đền hướng này. Còn các sư đoàn xe tăng 2 và 18 (Đức) cũng hoàn toàn bị bất ngờ khi họ rải quân dọc theo con đường sắt này nhưng cả hai cánh quân xe tăng của Tập đoàn quân xe tăng 3 (Liên Xô) đã không sử dụng nó. Tập đoàn quân không quân 6 (Đức) tung ra mỗi ngày hơn 500 phi vụ máy bay cường kích, gây thiệt hại không nhỏ về xe tăng cho Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3 và làm chậm tốc độ tấn công của quân đôi Liên Xô xuống chỉ còn trung bình 4 km/ngày. Nhưng không quân Đức không cứu được cụm cứ điểm Mtsensk. Bị nửa hợp vây, Quân đoàn bộ binh 35 (Đức) phải rút khỏi Mtsensk ngày 21 tháng 7 về giữ Oryol. Ngày 23 tháng 7, Quân đoàn xe tăng cận vệ 7 cắt đứt con đừong sắt Mtsensk - Oryol tại Kamenevo. Ngày 22 tháng 7, khi đã tiếp cận ngoại vi Oryol, Tập đoàn quân xe tăng 3 được lệnh quay xuống phía nam phối hợp với Tập đoàn quân xe tăng 2 công kích tuyến phòng thủ Kromy - Almazovo của quân Đức dọc theo tuyến sông Oka. Vì thiếu xe tăng đột kích nên mặc dù đã tiếp cận ngoại vi Oryol từ ngày 1 tháng 8 nhưng phải đến ngày 5 tháng 8, Tập đoàn quân 3 của tướng Gorbatov mới đánh chiếm được thành phồ Oryol. Tối 5 tháng 8, Moskva bắn pháo hoa chào mừng sự kiện giải phóng Oryol, mở đầu cho một nghi thức chào mừng thường xuyên mỗi khi quân đội Liên Xô giải phóng một đô thị lớn hoặc đột phá được một tuyến phòng thủ cơ bản của quân đội Đức Quốc xã. Nghi thức này được thực hiện liên tục cho đến khi kết thúc chiến tranh.

Pháo binh chống tăng Liên Xô bám sát và yểm hộ cho bộ binh tấn công
Trên cánh cực Bắc, Tập đoàn quân cận vệ 11 và Tập đoàn quân 50 của Phương diện quân Tây đã mở lại cuộc tấn công vào ngày 23 tháng 7. Tập đoàn quân 50 đã tiến lên thêm 10 km, áp sát các thị trấn Shyery và Lovat. Tập đoàn quân 11 mở rộng khu vực bàn đạp Ilyevskoye, chỉ còn cách đầu mối đường sắt Karachev 15 km về phía bắc. Ngày 24 tháng 7, hai tập đoàn quân này được chuyển thuộc Phương diện quân Bryansk. Ở phía nam, Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3 được chuyển thuộc Phương diện quân Trung Tam đã phối hợp với Tập đoàn quẫn e tăng 2 đánh chiếm Kromy, chọc thủng tuyến phòng thủ của Tập đoàn quân xe tăng 2 (Đức) và đến ngày 11 tháng 8 đã tiến ra tuyến Shabrykino - Kucheryaevka - Dmitrovsky Orlovsk. Ở giữa mặt trận, sau khi đánh chiếm Oryol, các tập đoàn quân 3, 61 và 63 tiếp tục truy kích các quân đoàn của Tập đoàn quân 9 (Đức) và đến ngày 18 tháng 8 đã tiến về phía tây thêm 70 km. Ngày 20 tháng 8, Phương diện quan Bryansk và hay tập đoàn quân 13 và 70 tiếp tục tấn công, đánh chiếm Kucheryaevka, Dmitrovsky Orlovsk, Karachev, Bolyi Berega, Zhurinichi và Zhizdra, tiến được thêm 20 km về phía tây và đến ngày 23 tháng 8 phải dừng lại trước phòng tuyến Hagen với những tổn thất không nhỏ. Trong nửa đầu tháng 8, Quân đội Đức Quốc xã đã tăng cường cho Cụm tập đoàn quân Trung Tâm 6 sư đoàn rút từ Cụm tập đoàn quân Bắc. Ngày 16 tháng 8, thống chế Günther von Kluge bị cách chức. Tướng Walter Model được chỉ định làm tư lệnh Cụm tập đoàn quân Trung Tâm. Ông này đã mạnh dạn rút bỏ những vị trí đang bị quân đội Liên Xô uy hiếp và gom quân lại để thiết lập tuyến phòng thủ vững chắc từ Lyudinovo qua Frolovka phía đông Bryansk 20 km và kéo dài về phía nam đến Komarnichi (còn gọi là phòng tuyến Hagen). Bảo vệ được tuyến đường sắt chiến lược từ Konotop qua Navlya, Bryansk, Dyatkovo đến Lyudinovo chạy song song với mặt trận, tướng Walter Model có thể cơ động lực lượng xe tăng trên toàn tuyến và chặn đứng các cuộc công kích của quân đội Liên Xô trên hướng này.

Trên hướng Belgorod - Kharkov

So với Phương diện quân Trung Tâm và Phương diện quân Bryansk, Phương diện quân Voronezh chịu thiệt hại nhiều hơn cả trong các trận đánh phòng thủ từ ngày 5 tháng 7 đến ngày 23 tháng 7 (gấp rưỡi thời gian phòng thủ của hai phương diện quân nói trên). Thiệt hại về người và vật chất cũng lớn hơn: 27.542 người chết, 46.530 người bị thương,, hơn 700 xe tăng bị bắn hỏng và bắn cháy. Phương diện quân này cần có thời gian để bổ sung quân số và phương tiện để phục hồi các đơn vị, trong đó, cần khoảng 500 xe tăng để phục hồi lại các quân đoàn thiết giáp và cơ giới. Ngày 25 tháng 7, Bộ Tổng tư lệnh quân đội Lien Xô điều động các tập đoàn quân 27 và 53 từ Phương diện quân Thảo nguyên đến khu vực phía nam vòng cung Kursk. Hơn 600 xe tăng đã được cấp để phục hồi các quân đoàn xe tăng 2, 18, 29, các quân đoàn xe tăng cận vệ 2, 5 và Quân đoàn cơ giới 3. Mặt khác, đây cũng là hướng mà quân đội Đức Quốc xã đạt được chiều sâu đột phá lớn nhất (đến 48 km) trong toàn chiến dịch. Việc di chuyển Phương diện quân Thảo Nguyên từ chiều sâu phòng thủ 150 đến 300 km ra tuyến trước cũng mất hàng tuần lễ do các các quyến đường sắt bị phá hủy nặng nề. Vì vậy, trong khi các Phương diện quân Bryansk và Trung Tâm đã phản công từ ngày 12 tháng 7 thì mãi đến ngày 23 tháng 7, khi các sư đoàn cuối cùng của Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) đã rút sâu về xung quanh Kharkov, Phương diện quân tây nam và Phương diện quân Thảo nguyên mới bắt đầu phản công và phải xây dựng một kế hoạch phản công mới thay cho kế hoạch ngày 8 tháng 7 đã phá sản. Ngoài ra, do Phương diện quân Voronezh đã tổn thất khá nhiều sinh lực và phương tiện trong giai đoạn phòng thủ của chiến dịch nên Bộ Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô huy động cả cánh phải của Phương diện quân tây nam cùng tham gia gian đoạn phản công trên hướng Belgorod - Kharkov. Chiến dịch được lấy mật danh "Nguyên soái Rumyantsev".

Tập đoàn quân cận vệ 7 (Liên Xô) tấn công Belgorod
Ngày 23 tháng 7, Phương diện quân tây nam đã khôi phục lại tuyến mặt trận trước ngày 5 tháng 7 và phải dừng lại chờ đến ngày 30 tháng 7, Phương diện quân Thảo nguyên mới tập kết xong các binh đoàn xe tăng và bộ binh, di chuyển không quân và các căn cứ hậu cần ra tuyến trước. Sau 3 ngày triển khai pháo binh và trinh sát trận địa, ngày 3 tháng 8, cuộc phản công bắt đầu trên hướng Belgorod.
5 giờ sáng, Pháo binh Liên Xô pháo kích liền một mạch dài tới 3 tiếng vào các tuyến phòng thủ của các Quân đoàn xe tăng 3 và bộ binh 11 (Đức) quanh cụm phòng thủ Belgorod - Barisovka - Tomarovka. Hơn 450 phi vụ cường kích IL-2 và ném bom Pe-2 được các tập đoàn quân không quân 2 và 5 (Liên Xô thực hiện trên một khu vực hẹp có bán kính chỉ 5 km xung quanh Belgorod. 8 giờ, khi pháo chuyển làn bắn sâu vào các đường giao thông nối Belgorod với Kharkov và các khu phòng thủ phía nam, các tập đoàn quân xe tăng 1 và 5 (Liên Xô) xuất phát tấn công. Mũi tấn công của Tập đoàn quân xe tăng 1 xuất phát từ Laptyev dọc theo con đường sắt Lgov - Zolochev vòng ra phía sau khu phòng thủ Barisovka và Tomarovka của Quân đoàn xe tăng 3 (Đức). Mũi đột kích của Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 5 từ khoét sâu vào điểm tiếp giáp giữa Quân đoàn xe tăng 3 và Quân đoàn bộ binh 11 (Đức) và tạo một hành lang rộng 15 km, sâu 55 km chia cắt hai quân đoàn này.

Xe tăng Tiger I (Đức) triển khai phòng thủ trong nội đô Kharkov
Trên chính diện Belgorod, các tập đoàn quân cận vệ 7 và 69 đột kích vào Belgorod từ hướng Bắc và hướng Đông. Chiều ngày 5 tháng 8, Belgorod đã nằm trong tay Quân đội Liên Xô. Quân đoàn 11 (Đức bị đánh bật về phía nam. Tối mùng 5 tháng 8, đến lượt Quân đoàn xe tăng 3 (Đức) bỏ các cứ điểm Barisovka và Tomarovka rút về lập tuyến phòng thủ mới ở Bogodukhov. Trên cánh phải, Tập đoàn quân 40 (Liên Xô) từ khu vực Soldatskoye đánh chiếm Dorogosh ngày 6 tháng 8 và hướng đòn tấn công về thành phố Grayvoron, Tập đoàn quân 47 đánh chiếm Krasno Polye ngày 7 tháng 8 và phát triển đến phía đông Boromlya.
Belgorod được coi như tiền đồn phòng thủ Kharkov từ phía bắc. Do đó, việc để mất Belgorod làm cho Kharkov hoàn toàn trống trải ở hướng Bắc và là một đòn nặng giáng vào phòng tuyến sông Bắc Donets của thống chế Erich von Manstein. Ngày 8 tháng 8, Tập đoàn quân 57 được điều chuyển từ Phương diện quân tây nam cho Phương diện quân Voronezh đã vượt sông Bắc Donets ở phía bắc Martovaya mở một mũi công kích Kharkov từ hướng Đông. Quân đoàn bộ binh 42 (Đức) bị đẩy khỏi tuyến sống và lùi về giữ tuyến phòng thủ thứ hai từ Liptsy đến Chuguyevsk. Để phát triển cuộc tấn công, ngày 10 tháng 8, các tập đoàn quân cận vệ 6 và 53 được tung vào trận. Tập đoàn quân cận vệ 6 phối hợp với Tập đoàn quân xe tăng 1, Tập đoàn quân 53 phói hợp với Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 5. Ngày 11 tháng 8, Tập đoàn quân xe tăng 1 và Tập đoàn quân cận vệ 6 mở mũi đột kích vào Bogodukhov và đánh chiếm thành phố này. Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 5 từ Zolochev và Tập đoàn quân 53 từ Kazachya Lopan tấn công dọc theo đường sắt Belgorrot - Kharkov và đến ngày 15 tháng 8 đã chiếm nhà ga Dergachy, cách Kharkov hơn 13 km về phía bắc. Ở phía đông bắc Kharkov, Tập đoàn quân cận vệ 7 và Tập đoàn quân 69 chọc thủng phòng tuyến của Quân đoàn 42 (Đức), đánh chếm các thị trấn Liptsy và Ternovaya, cũng đã có mặt trước Tsirkuny cách Kharkov 10 km ngày 16 tháng 8. Cùng ngày Tập đoàn quân 57 cũng áp sát ngoại vi Kharkov từ phía tây.

Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 5 (Liên Xô) tiến công về Kharkov
Cũng trong ngày 15 tháng 8, Tập đoàn quân 47 cùng với Tập đoàn quân cận vệ 4 bao vây và tiêu diệt phần lớn Quân đoàn 52 (Đức) ở khu vực phía đông Trostyanets. Ngày 16 tháng 8, Tập đoàn quân 47 vọt tiến theo hành lang sống Vorshkla, tấn công đánh chiếm Akhtyrka và thọc sâu đến Kotelva. Ngày 16 tháng 8, tướng Hermann Hoth tập trung sư đoàn cơ giới "Großdeutschland", các sư đoàn xe tăng 11 và 17 mở cuộc phản đột kích từ khu vực giữa Trostyanets và Akhtyrka vào sau lưng Tập đoàn quân 47, chiếm lại Akhtyrka. Ngày 18 tháng 8, Tập đoàn quân cận vệ 6 buộc phải phát động sớm cuộc tấn công dọc theo sông Merla, đánh chiếm Krasnokutsk ngày 20 tháng 8, đẩy lùi mũi phản đột kích của các sư đoàn xe tăng, cơ giới Đức. Cùng ngày, Tập đoàn quân 47 vấp phải đòn phản kích của Sư đoàn xe tăng 19 (Đức) và Sư đoàn xe tăng 13 tại Kotelva, phải rút lui về dải phòng ngự của Tập đoàn quân cận vệ 4 với những thiệt hại nặng nề. Trên hướng Kharkov, ngày 17 tháng 8, Tập đoàn quân xe tăng 1 cũng mở một mũi đột kích từ Bogodukhov xuống thành phố Vanky với ý định đánh chiếm Merefa và cô lập Kharkov từ phía nam. Tuy nhiên, thống chế Erich von Manstein đã không để cho Quân đội Liên Xô thực hiện ý đồ đó. Sư đoàn cơ giới SS "Wiking", sư đoàn xe tăng SS "Das Reich" và sư đoàn xe tăng 14 từ lực lượng dụ bị (Đức) kéo lên tăng viện cho Tập đoàn quân xe tăng 4 đã chặn đứng mũi tiến công của Tập đoàn quân xe tăng 1 (Liên Xô) tại khu vực Lyubotin - Vanky. Bộ tư lệnh Phương diện quân Voronezh yêu cầu thượng tướng Grigory Ivanovich Kulik đưa ngay bộ binh của Tập đoàn quân cận vệ 4 tiến ra yểm hộ cho xe tăng của Tập đoàn quân xe tăng 1 nhưng Kulik đã hành động quá chậm chạp, để cho bốn sư đoàn xe tăng và bộ binh Đức đánh tiêu hao 6 lữ đoàn xe tăng của Katukov, buộc Tập đoàn quân xe tăng 1 phải lùi về Olshany với những thiệt hại không nhỏ cả về người và xe tăng. Trong các cuộc tấn công từ ngày 23 tháng 7, mặc dù binh lực hầu như chưa bị sứt mẻ nhưng Tập đoàn quân cận vệ 4 luôn luôn tụt lại sau, làm cho hai tập đoàn quân 47 và xe tăng 1 ở bên phải và bên trái họ thường bị hở sườn. Do chỉ huy kém, tướng Grigory Ivanovich Kulik bị cách chức. Trung tướng A. I. Zygin được chỉ định thay thế.

Quân đội Liên Xô giải phóng Kharkov ngày 23 tháng 8 năm 1943
Sáng 18 tháng 8, 5 tập đoàn quân Liên Xô đã bao vây Kharkov từ ba phía. phía tây và tây bắc có Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 5 và Tập đoàn quân 53, phía bắc có Tập đoàn quân 69, phía đông và Đông Nam có Tập đoàn quân cận vệ 7 và Tập đoàn quân 57. 6 giờ sáng, Tập đoàn quân 53 được phối thuộc Quân đoàn cơ giới cận vệ 1 mở đầu cuộc tấn công vào từ phía tây bắc vào Kharkov. Chiều 18 tháng 8, các sư đoàn bộ binh 252, 299 và sư đoàn bộ binh cận vệ 14 đã đánh chiếm hai điểm cao 197,3 và 208,6 ở làng Peresechnaya. Từ hai điểm cao này, pháo binh Liên Xô đã có thể đặt toàn bộ nội đô thành phố trong tầm hỏa lực bắn thẳng. Để tăng tốc độ tấn công, tướng I. S. Konyev điều Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 5 vòng xuống phía tây nam, đánh chiếm các làng Korotich và Pokhotilovka để chặn đường rút của quân Đức trong thành phố sang Lyubotinsk và xuống Merefa. Tập đoàn quân 57 cũng đánh chiếm Chuguyevsk, Roganskoye và Bezlyudovka, áp sát Kharkov từ hướng Đông Nam. Ngày 20 tháng 8, hai tập đoàn quân cận vệ 7 và 69 cũng mở cuộc tổng công kích vào Kharkov từ phía bắc và đông bắc, đánh chiếm Tsirkuny và chỉ còn cách Kharkov 15 km. Ngày 21 tháng 8, tướng Werner Kempf tung hai sư đoàn bộ binh 106 và 153 (Đức) phản kích vào Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 5 để mở đường rút lui. Trong thành phố, các tổ hoạt động bí mật của đội du kích Sidor Kopvak bắt đầu các hoạt động phá hoại ngầm, gây rối loạn cho quân đội Đức Quốc xã trong thành phố. Đêm 22 tháng 8, cả 5 tập đoàn quân Liên Xô mở cuộc tổng công kích Kharkov từ 3 hướng, Khoảng 1/3 quân số còn lại của Quân đoàn bộ binh 42 và Quân đoàn Raus thoát khỏi Kharkov qua ngả Merefa. 8 giờ sáng ngày 23 tháng 8, sư đoàn bộ binh 183 thuộc Tập đoàn quân 69 đánh chiếm Quảng trường Dzerzhinsky ở trung tâm thành phố. Kết thúc chiến dịch mang tên Thống soái Rumyantsev.

Kết quả, đánh giá và ảnh hưởng


Đài tưởng niệm trận Kursk ở thành phố Kursk

Kết quả

Kết quả chung cuộc là quân đội Đức Quốc xã đã phải rút lui sau một tuần tấn công. Quân đội Liên Xô không những đã đứng vững trước các đòn tập kích rất mạnh bằng xe tăng của quân đội Đức Quốc xã mà còn phản công thu hồi thêm hơn 70.000 km vuông lãnh thổ. Nếu như việc xác định kết quả thế cục chiến trường hầu như không có gì phải bàn cãi thì việc xác định kết quả thương vong và tổn thất của các bên lại khác nhau rất xa. Phía Liên Xô công bố họ đã gây thương vong cho 500.000 quân Đức, phá hủy 1.500 xe tăng và 3.000 khẩu pháo, bắn rơi và phá hủy 3.700 máy bay của đối phương. Số liệu thương vong của phía Liên Xô không được công bố Theo phía Liên Xô thì Nga đã chứng minh rằng con số 1.000 máy bay Đức bị tổn thất đã được ghi nhận ở các tài liệu gốc của thống chế không quân Đức Hermann Goering mà họ thu giữ được sau chiến tranh. Phía Đức chỉ tính riêng thương vong ở thời gian từ ngày 5 đến ngày 12 tháng 7 và đưa ra con số thiệt hại gần như ngược lại: Phía Đức có 54.182 thương vong, mất 252 đến 323 xe tăng và pháo tự hành, 159 máy bay, khoảng 500 pháo xe kéo; phía Liên Xô có 177.847 thương vong, mất 1.614 đến 1.956 xe tăng và pháo tự hành, 1.459 đến 1.961 máy bay và 3.929 pháo xe kéo.
Jonathan P. Kluger, nghiên cứu sinh người Đức tại Đại học Louisiana (Hoa Kỳ) cũng tổng kết về chiến dịch này. Theo ông, khoảng 1.500 xe tăng, chiếm gần một nửa trong số xe tăng mà quân đội Liên Xô đưa vào trận đã bị bắn hỏng. Tuy nhiên, sau khi đánh lui quân Đức, phía Liên Xô đã làm chủ trận địa nên họ đã sửa chữa được khoảng 800 chiếc và lấy lại ưu thế với 2.750 xe tăng tiếp tục tham gia các trận đánh sau ngày 3 tháng 8. Đây cũng là lý do làm cho Phương diện quân Voronezh chưa thể phát động cuộc phản công ngay từ hạ tuần tháng 7 năm 1943. Quân đội Đức Quốc xã thì ngược lại. Vì thua trận, phải rút lui nên họ không có cách gì để lấy lại và phục hồi hơn 600 xe tăng bị bắn hỏng trong tổng số 1.200 chiếc bị tổn thất. Từ đánh giá trên, Jonathan P. Kluger cho rằng nếu người Đức cố giữ trận địa thêm vài ngày, họ có thể thu hồi và khôi phục một số lượng đáng kể xe tăng chỉ bị bắn hỏng chứ chưa bị phá hủy và sẽ không phải chịu mất mát lớn đến như vậy.
Các công trình nghiên cứu của Glantz, Zetterling, Clacke, Bergström... không đưa ra được con số thống nhất. Người Pháp cho rằng phía Liên Xô chỉ có 200.000 người thiệt mạng, tổn thất vật chất hơn 1.500 xe tăng và khoảng 2.800 máy bay; phía Đức có khoảng 500.000 thương vong, 1.200 xe tăng bị phá hủy và cũng mất trên 2.000 máy bay. Các sư đoàn xe tăng 3, 9, 12 (Đức) bị xóa sổ. Cuối cùng, công trình nghiên cứu các dữ liệu về trận Kursk do Viện Dupuy (Hoa Kỳ) và Hãng Rantek (Nga) phối hợp tiến hành với việc tra cứu trên 25.000 trang tài liệu gốc đã cho kết quả tương đối chính xác hơn cả về tổn thất của phía Đức. Các kết quả thẩm định cho thấy số liệu tổn thất của phía Liên Xô tương đối phù hợp với các kết quả nghiên cứu độc lập của G. F. Krivosheev, V. M. Andronikov và P. D. Burikov, cuộc tranh cãi mới tạm lắng xuống.
Tính riêng tổn thất về xe tăng, phía Đức tổn thất chỉ bằng 1/4 so với Liên Xô, nhưng nếu suy xét cụ thể thì bên thua thiệt hơn lại là Đức, bởi hầu hết tổn thất xe tăng của họ là không thể phục hồi (xe bị phá hủy hoàn toàn hoặc bị chiếm mất), trong khi một nửa tổn thất của Liên Xô là có thể khôi phục (xe bị hỏng nhưng có thể sửa chữa lại). Hơn nữa, trong số tổn thất của Đức có 267 chiếc Panther và 145 chiếc Tiger I, là những loại xe hạng nặng có chi phí sản xuất đắt đỏ, trong khi tổn thất của Liên Xô phần lớn là xe tăng hạng nhẹ và hạng trung, có chi phí và thời gian sản xuất nhỏ hơn nhiều (ví dụ: mỗi chiếc Tiger I của Đức có chi phí sản xuất đắt gấp 7-8 lần so với T-34). Do vậy, sau trận Kursk, lực lượng thiết giáp Hồng quân không mất nhiều thời gian để bổ sung lực lượng, trong khi đội thiết giáp Đức thì suy kiệt rất nhiều. Từ đó tới cuối chiến tranh, hiếm khi đội xe tăng Đức có thể tấn công với một đội hình có số lượng lớn như ở giai đoạn đầu chiến tranh.
Với thất bại nặng nề sau 7 ngày tấn công và một tháng rút lui sau đó, quân đội Đức Quốc xã không những đã không đạt được bất kỳ một mục tiêu nào trong kế hoạch Thành trì; không những bị tổn thất nặng về binh lực và phương tiện mà còn phải rút lui thêm về phía tây từ 120 đến 300 km so với tuyến mặt trận trước ngày 5 tháng 7. Điều đáng ngạc nhiên là Adolf Hitler không thể nhận thức ra tình hình nguy hiểm đang đe dọa quân đội Đức Quốc xã tại mặt trận phía đông và tiếp tục sa vào những ảo tưởng huyễn hoặc. Ngày 25 tháng 7, khi đánh giá về trận Kursk, Hitler đã nói với trung tướng Walter Warlimont, phó ban chỉ đạo tác chiến của các lực lượng vũ trang Đức Quốc xã, như sau:
Hitler: Tiện đây, ngài hãy đọc thông điệp của Stalin trong bản nhật lệnh mới nhất ngày hôm qua. Stalin nói rõ số sư đoàn xe tăng, cơ giới và bộ binh. Tôi cho rằng ông ta nắm được thật chính xác. Warlimont: Thưa Quốc trưởng, ngài đang nói đến Chiến dịch Thành Trì ư?
Hitler: Đúng là về Chiến dịch Thành Trì. Tôi có cảm giác rằng đó là điệu kèn rút khỏi cuộc chiến của chính ông ta. Ông ta trình bày vấn đề cứ như thể là kế hoạch của chúng ta bị phá vỡ... Chắc là ở chỗ ông ta đâu đâu cũng thấy tin tức báo cáo về công việc không tiến triển được, đâu đâu cũng thấy sự ngưng trệ. Do đó, ông ta phải từ bỏ ý tưởng về những cuộc tấn công chớp nhoáng. Cảm giác của tôi là như vậy.
Sau này, Below bình luận: "Không rõ những lời đoán mò này của Hitler là kết quả của những tính toán sai lầm thực sự hay chỉ là thói đạo đức giả quen thuộc của ông ta."

Đánh giá

Không những dẫn dắt Hồng quân Liên Xô tới thủ đô Berlin của Đức, trận đánh này còn ảnh hưởng trực tiếp tới nền quân sự thế giới trong nửa thế kỷ sau đó.

Vị trí của trận Kursk trong Chiến tranh thế giới thứ hai

Nếu trận Stalingrad đánh dấu sự bắt đầu quá trình đảo ngược lộ trình Chiến tranh Xô-Đức vốn từ Tây sang Đông trở thành từ Đông sang Tây thì Trận Kursk đánh dấu quá trình xuống dốc không thể đảo ngược của quân đội Đức Quốc xã. Theo cuốn ''Natural Enemies: The United States and the Soviet Union in the Cold War, 1917-1991 của tác giả Robert C. Grogin, nếu như thảm bại ở Stalingrad đánh dấu sự tan vỡ của huyền thoại về Quân đội Đức "bất bại" thì thất bại quyết định tại Kursk chứng tỏ phát xít Đức không còn khả năng mở một cuộc tấn công đại quy mô nữa. Thắng lợi ở Kursk có thể được xem là to lớn hơn cả chiến thắng Stalingrad. Trận vòng cung Kursk được xem là một trận đánh bước ngoặt quan trọng của Chiến tranh Xô-ĐứcChiến tranh thế giới thứ hai cũng giống như trận Stalingrad, không chỉ thế, với quy mô to lớn của nó nơi hai bên tham chiến với quân số gần 3 triệu người và chỉ diễn ra trong hơn 5 tuần; lần đầu tiên quân đội Liên Xô giành thắng lợi trong một chiến dịch mùa hè khi họ đã biết cách và có đủ phương tiện để khắc chế được sức mạnh của lực lượng xe tăng hùng hậu vốn là nhân tố có tính chất xương sống trong cấu trúc của lục quân Đức Quốc xã. Tại đây sức mạnh xưa nay ghê gớm nhất của lục quân Đức là các mũi thọc sâu bằng xe tăng thiết giáp đã bị đối phương chặn đứng và phản công cũng chính bởi các đòn đánh bằng xe tăng thiết giáp, quân đội Liên Xô đã đánh thắng được quân Đức bằng chính ngón võ của đối thủ.
Cùng với thất bại tại trận Stalingrad, với thất bại lần này, Quân đội Đức Quốc xã vĩnh viễn mất quyền chủ động chiến lược trên mặt trận phía đông. Mặc dù tiềm lực chiến tranh của Đức chưa hẳn đã cạn kiệt nhưng nó đã không còn dồi dào như những năm 1939-1942. Những thảm họa như Stalingrad và Kursk đã khiến người Đức không còn hy vọng chiến thắng nữa: cuối năm 1943, số người chết và bị thương của Đức đã lên cao hơn cả tổng tổn thất của họ thời Chiến tranh thế giới thứ nhất. Gánh nặng chiến tranh đối với nền công nghiệp và dân số cùng nhiều sự trục trặc dẫn đến trì hoãn thời gian sản xuất và đưa xe tăng ra chiến trường đã kéo dài thời gian chuẩn bị của quân Đức; còn tốc độ chuẩn bị binh lực của quân đội Liên Xô thì lại nhanh hơn thế rất nhiều. Chỉ trong thời gian chưa đầy ba tháng, 10 tập đoàn quân mới cùng hàng chục vạn khí tài xe tăng, máy bay, pháo tự hành, pháo mặt đất, súng cối, dàn pháo phản lực Katyusha của quân đội Liên Xô đã được đưa ra mặt trận. Việc này khiến quân đội Đức Quốc xã càng lùi thời gian mở màn chiến dịch để tập trung nhiều xe tăng hạng nặng cho chiến dịch để đánh một đòn chắc ăn thì lại càng rơi vào thế bất lợi về so sánh lực lượng trên địa đoạn đột phá chủ yếu. Cuối cùng, việc hoãn đi hoãn lại thời điểm mở chiến dịch của Adolf Hitler đã làm cho Erich von Manstein đã phải cay đắng thốt lên: "Đó là sự do dự chết người".
Trong ba chiến dịch phản công lớn nhất của quân đội Liên Xô từ đầu cuộc Chiến tranh vệ quốc vĩ đại: Chiến dịch phản công tại Moskva, Chiến dịch phản công ở Stalingrad và Chiến dịch phòng ngự phản công Kursk thì đây là chiến dịch có quy mô lớn hơn cả đối với quân đội Liên Xô và cũng là trận đánh tập trung nhiều xe tăng nhất trong suốt cuộc Chiến tranh Xô-Đức. Tại cuộc phản công ở Moskva mùa đông 1941-1942 chỉ có 17 tập đoàn quân với quân số mỗi tập đoàn quân chỉ bằng một nửa so với một tập đoàn quân năm 1943 và tổ chức lực lượng xe tăng rất mỏng chỉ với quy mô lữ đoàn. Cuộc phản công ở Stalingrad có 14 tập đoàn quân tham gia với xe tăng chỉ ở quy mô quân đoàn. Tham gia Chiến dịch Kursk có đến 22 tập đoàn quân binh chủng hợp thành có biên chế và quân số đủ, 5 tập đoàn quân xe tăng, 6 tập đoàn quân không quân. Thống chế Erich von Manstein là một trong số không ít tướng lĩnh cao cấp Đức Quốc xã tỏ ra ngạc nhiên trước tiềm lực quốc phòng dồi dào cũng như sự kiên trì, dẻo dai của đối thủ. Ông viết:
Chúng tôi không ngờ rằng phía Liên Xô lại có những khả năng tổ chức to lớn đến thế cũng như việc phát triển nền công nghiệp quân sự của họ thể hiện trong trận này. Quả là chúng tôi đã gặp phải một con thủy tức nhiều đầu, cứ chặt đứt một cái đầu thì nó lại mọc ra hai cái đầu mới... Đến cuối tháng 8, Cụm tập đoàn quân của chúng tôi đã mất 7 sư đoàn trưởng, 38 trung đoàn trưởng, 252 tiểu đoàn trưởng. Nguồn dự trữ của chúng tôi cũng đã cạn.
—Erich von Manstein, 
Kết quả của trận Kursk đã được Nguyên soái Georgi Konstantinovich Zhukov ghi lại trong hồi ký Nhớ lại và Suy nghĩ của mình:
Sau 50 ngày đêm đã diễn ra cuộc chiến đấu vĩ đại nhất của quân ta với quân phát-xít Đức. Nó kết thúc bằng thắng lợi của Quân đội Xô-viết đánh tan 30 sư đoàn Đức tinh nhuệ, trong đó có 7 sư đoàn tăng. Trên phần nửa quân số của mấy chục sư đoàn này đã bị tiêu diệt.
Thiệt hại chung của địch trong thời gian đó là trên 50 vạn tên, gần 1.500 xe tăng, trong đó phần lớn là xe tăng “cọp”, “báo”, 3.000 đại bác và súng cối và một số lớn máy bay. Đó là những thiệt hại mà bọn cầm đầu phát-xít không thể dùng một biện pháp tổng hợp nào bù vào được.
Chiến thắng vĩ đại của quân ta ở Cuốc-xcơ đã chỉ rõ sức mạnh ngày càng to lớn của Nhà nước Xô-viết và lực lượng vũ trang Xô-viết. Thắng lợi ngoài mặt trận cũng như ở hậu phương giành được là do sự nỗ lực của tất cả mọi người Xô-viết dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Trong các trận chiến đấu ở Cuốc-xcơ, bộ đội ta đã tỏ ra có tinh thần cực kì dũng cảm, chủ nghĩa anh hùng tập thể và trình độ nắm vững tài nghệ quân sự. Đảng Cộng sản và Chính phủ đánh giá cao lòng dũng cảm của quân đội và đã thưởng trên 10 vạn huân chương và huy chương cho các chiến sĩ, sĩ quan và tướng lĩnh, nhiều người đã được tặng danh hiệu Anh hùng Liên Xô.
Âm mưu địch giành quyền chủ động về chiến lược từ tay Bộ tư lệnh Xô-viết đã hoàn toàn phá sản và từ đó đến lúc hết chiến tranh, quân Đức bắt buộc chỉ có phòng ngự mà thôi. Điều đó chứng minh, nước Đức đã bị tiêu hao. Bây giờ không còn lực lượng nào có thể cứu chúng được. Vấn đề chỉ còn ở thời gian mà thôi.
—G. K. Zhukov, 
Trận Kursk cũng đã chứng minh sự tiến bộ của nghệ thuật quân sự của các cấp chỉ huy Hồng quân. Ngoài sự triển khai đúng đắn của Bộ Chỉ huy Liên Xô, chiến thắng này còn được coi là do sự anh dũng của các chiến sĩ Liên Xô. Hơn nữa, chiến thắng đã chứng minh quân đội Xô-viết có thể tấn công thắng lợi cả trong mùa hè, chứ không phải chỉ có trong mùa đông như trước đây Hitler đã tin tưởng. Vốn người Đức không thể làm nên một bước tiến đáng kể nào và còn bị tổn thất nặng nề, trận Vòng cung Kursk - cuộc tấn công cuối cùng của Hitler trên Mặt trận phía đông - đã làm rõ cho thế giới thấy kết cục thất bại không tránh được của nước Đức Quốc xã - điều ấy chỉ còn là một vấn đề thời gian - tuy rằng họ còn đang chiếm đóng gần trọn châu Âu.

Nguyên nhân thất bại của Chiến dịch Thành Trì

Theo nhà sử học Đức Karl-Heinz Frieser, có hai nguyên nhân dẫn đến thất bại của Chiến dịch Thành Trì:
  • Quân đội Liên Xô nắm được ưu thế về quân số. Frieser đã chỉ ra rằng vấn đề lớn nhất của quân đội Đức Quốc xã lúc đó là sự thiếu hụt về binh lực. Bộ Tổng tư lệnh Tối cao Đức quốc xã không nắm trong tay bất kỳ đơn vị dự bị chiến dịch đáng kể nào trong khi Quân đội Liên Xô có hẳn một Phương diện quân Thảo nguyên làm lực lượng dự bị chiến dịch. Cũng theo Frieser, việc Quân đội Liên Xô có nhiều xe tăng hơn thật ra không có ảnh hưởng nhiều đến kết cục của trận đánh như là một yếu tố quyết định. Cái chính là Adolf Hitler đã lại mắc lại sai lầm của năm 1941 và 1942, đánh giá thấp đối thủ và cứ thế lao vào cuộc chiến trong khi tiềm lực của nước Đức đã không còn bằng năm 1942, năm có tổng binh lực và phương tiện cao nhất.
  • Việc Hitler liên tục trì hoãn ngày mở màn chiến dịch Thành Trì đã giúp Quân đội Liên Xô có đủ thời gian để biến Vòng cung Kursk thành một pháo đài khổng lồ. Các tướng lĩnh cao cấp Đức Quốc xã như Manstein và Zeitzler hy vọng quân Đức sẽ có thể đánh một đòn bất ngờ vào một đối thủ chưa chuẩn bị sẵn sàng và đang xuống tinh thần sau thất bại ở Kharkov vào đầu năm. Tuy nhiên trên thực tế sự bất ngờ đó đã hoàn toàn không xảy ra. Sự trì hoãn đó đã làm cho Hitler đi đến chỗ chọn một "ngày xấu nhất" để phát động tấn công.
Nhà sử học Hoa Kỳ David M. Glantz, một chuyên gia nghiên cứu về lịch sử quân sự và nền quân sự Xô Viết lại có ý kiến khác:
  • Glantz khẳng định rằng thất bại của phát xít Đức không phải là do cái gọi là ưu thế quân số - thứ mà lâu nay người ta thường hay phóng đại - của Hồng quân. Nguyên nhân chủ yếu nằm ở những thay đổi mang tính cách mạng trong hệ thống sĩ quan chỉ huy, sĩ quan tham mưu và cách điều binh khiển tướng của lãnh đạo Liên Xô. Các sĩ quan tham mưu và sĩ quan chỉ huy Liên Xô đã thật sự "ngấm" các bài học xương máu trong những lần đụng độ với quân đội Đức Quốc xã, đến lượt mình họ lại tiếp tục bổ túc và truyền tải các kinh nghiệm quý giá này cho Quân đội Liên Xô dựa trên những phân tích hết sức thấu đáo và kỹ lưỡng về các trận đánh và chiến dịch trong cuộc chiến tranh. Tất cả những kinh nghiệm này làm phong phú thêm cho học thuyết Tác chiến chiều sâu và giúp Quân đội Liên Xô gặt hái nhiều thành công mới. Trong tác phẩm của mình, Glantz và House chỉ ra rằng thực chất số xe tăng của quân đội Liên Xô nhiều lắm là gấp 1,5 lần quân Đức, hoặc thậm chí là chỉ nhỉnh hơn số lượng xe tăng của quân đội Đức một chút.
  • Glantz cũng khẳng định rằng Quân đội Liên Xô trong giai đoạn này đã áp dụng nhiều chiến thuật mới trong tác chiến ở cấp độ chiến thuật và chiến dịch. Họ đã giải quyết được nhiều khó khăn phát sinh trong việc phối hợp các quân binh chủng và từ đó tạo thành "một chiến dịch hiệp đồng binh chủng thật sự". Trong đó, Glantz nhấn mạnh đến "sự tinh vi của các hoạt động tình báo, nghi binh và phòng thủ chống xe tăng". Đồng thời, Quân đội Liên Xô cũng đạt được nhiều bước tiến tương tự trong việc phá vỡ các phòng tuyến Đức trên một chính diện mặt trận hẹp bằng việc phối hợp nhịp nhàng và hiệu quả các đơn vị pháo binh, tăng thiết giáp, công binh và bộ binh. Trong Trận ProkhorovkaChiến dịch Kutuzov, Các chỉ huy quân đội Liên Xô đã gặt hái được nhiều kinh nghiệm về việc điều động các đơn vị xe tăng và cơ giới - điều đó trở thành điểm đặc trưng nổi bật nhất trong học thuyết Tác chiến chiều sâu của quân đội Liên Xô. Đó cũng là bằng chứng của việc lực lượng tăng thiết giáp Hồng quân có thể đối đầu ngang ngửa với các lực lượng tăng thiết giáp mạnh nhất của phát xít Đức. Dĩ nhiên là chiến thuật của Hồng quân cũng cần phải cải thiện nhiều để giảm thiểu thương vong; tuy nhiên một điều rõ ràng là phát xít Đức đã đối mặt với một quân đội Liên Xô hoàn toàn mới và đáng gờm hơn rất nhiều so với những gì họ từng biết.
  • Glantz đã chỉ ra rằng chiến thuật phòng ngự của quân đội Liên Xô cũng đã tiến bộ rõ rệt. Họ đã sử dụng nhuần nhuyễn và hiệu quả hỏa lực pháo chống tăng cùng với các lữ đoàn, trung đoàn xe tăng và pháo tự hành độc lập, điều đó giúp chúng tăng thêm khả năng cơ động trong phòng thủ. Các đơn vị này có nhiệm vụ đập tan các mũi tấn công của quân đội Đức Quốc Xã ở từng lớp phòng thủ của quân đội Liên Xô. Năm bản lề 1943 thật sự là thời khắc quyết định của quân đội Xô Viết; các chiến thuật mà Hồng quân thử nghiệm và cải tiến trong năm này sẽ được hoàn thiện trong năm 1944 và 1945.
Phát triển quan điểm của nhà sử học Nga Vladimir Vasilyevich Beshanov cho rằng năm 1942 là năm "đào tạo" đối với quân đội Liên Xô, David M. Glantz đưa ra một nhận xét tổng quát hơn:
Sự giáo dục ở cấp bậc tiểu học mà Hồng quân nhận được trong năm 1941 và 1942 là tiền đề cho cấp bậc trung học của năm 1943. Năm 1944 và 1945, Hồng quân hoàn tất cấp bậc đại học và họ cũng tốt nghiệp vào lúc chiến tranh kết thúc
—David M. Glantz, .
Nhà sử học và nhà nghiên cứu khoa học quân sự Steven J. Zaloga đưa ra hai lý do cho chiến thắng của Hồng quân tại Kursk:
  • Như Glantz, Zaloga khẳng định rằng việc Quân đội Liên Xô chiến thắng vì lý do "quân đông" là một câu chuyện hoang đường do các tướng lĩnh Đức Quốc xã tô vẽ ra trong các hồi ký xuất bản hồi thập niên 1950 của họ. Trong đó, quân số và số lượng xe tăng của một sư đoàn xe tăng Đức tương đương một quân đoàn xe tăng Liên Xô, còn biên chế quân số một quân đoàn bộ binh thì hơn một quân đoàn bộ binh Liên Xô 1,5 lần. Do đó, các thống kê so sánh chỉ dựa trên số lượng tập đoàn quân, quân đoàn, sư đoàn có thể dẫn đến các sai số rất lớn về binh lực và phương tiện. Zaloga cũng thẳng thừng bác bỏ mọi sự cáo buộc về việc Quân đội Liên Xô chủ yếu dựa vào việc lấy thịt đè người hơn là vào khả năng tác chiến. Zaloga đồng ý rằng ở các cấp độ như trung đội và đại đội, khả năng tác chiến của Hồng quân không có gì đặc sắc và họ nhận được sự huấn luyện kém hơn đối thủ Đức Quốc xã; đồng thời ông cũng chỉ ra rằng còn nhiều vấn đề chiến thuật mà Hồng quân còn cần phải giải quyết. Tuy nhiên theo Zaloga, khoảng cách giữa Quân đội Liên Xô và Quân đội Đức Quốc xã đã "thu hẹp rất đáng kể" trong nửa đầu năm 1943 và không lâu sau đó khoảng cách đó sẽ là con số không.
  • Zaloga cũng khẳng định rằng, xét trên góc độ nghệ thuật quân sự, Quân đội Liên Xô là những bậc thầy trong việc cơ động các đơn vị tăng thiết giáp. Các chiến thuật ở tầm mức chiến dịch của Hồng quân đã tỏ ra vượt trội hơn hẳn đối thủ Đức Quốc xã; điều này giúp các tư lệnh chiến trường của họ có thể đánh lừa, làm bối rối, cản trở và sau cùng là tiến tới áp đảo đối thủ của họ.
Nhà nghiên cứu Anh Richard Overy thì đưa ra hai cách giải thích sau:
  • Overy chỉ rõ rằng thật ra, sức mạnh của Không quân Liên Xô và Không quân Đức Quốc xã là tương đương nhau. Tại Trận vòng cung Kursk Không quân Liên Xô lần đầu tiên đem ra sử dụng các hệ thống liên lạc giữa các máy bay trên không và các đơn vị mặt đất cùng với các ra-đa, một hệ thống bảo trì hoàn thiện và một hệ thống kho bãi chứa xăng dầu dự trữ đầy đủ. Điều này khiến mỗi máy bay có thể thực hiện tối đa đến hai mươi chuyến bay trong ngày để kịp thời đáp ứng tình hình căng thẳng trên mặt trận. Trong khi đó Không quân Đức Quốc xã thì thường xuyên chịu nhiều thiếu hụt về nhiên liệu.
  • Chất lượng xe tăng của Quân đội Liên Xô không hề thua kém các xe tăng Đức. Mặc dù các mẫu xe tăng T-34 lúc đó (trang bị pháo 76 ly) có hỏa lực và tầm bắn kém hơn so với các xe tăng Con Báo và Con Hổ của Đức được trang bị pháo 88 ly nhưng T-34 lại nắm ưu thế về tính cơ động và tốc độ. Các xe tăng Con Cọp và Con Báo cũng gặp quá nhiều trục trặc về kỹ thuật khi vận hành. Để chống lại các xe tăng Cọp, Báo trong Trận Prokhorovka, Quân đội Liên Xô đã áp dụng phương pháp "đấu tay đôi", tức là cho các xe tăng của mình áp sát các xe tăng Đức đến mức sự thua kém về tầm bắn không còn là một yếu tố đáng kể nữa. Theo Glantz và House, Hồng quân Xô Viết đã đẩy lui các đợt tấn công đầu tiên của phát xít Đức bất chấp họ gặp nhiều bất lợi trong trận chiến: tầm bắn và hỏa lực thua kém các khẩu pháo 88 ly của Đức. Có những thời điểm, không quân Đức nắm ưu thế trên bầu trời và dồn cho đối phương co cụm lại để tấn công trên một địa hình bằng phẳng. Và trong các điều kiện hết sức bất lợi trên, tổn thất của các đơn vị tăng thiết giáp Liên Xô cũng không hơn quá nhiều so với Đức Quốc xã. Trong trận Prokhorovka, Quân đội Liên Xô chỉ mất 400 xe và Quân đội Đức Quốc xã mất 320 xe, tỉ lệ là 5:4. Tuy nhiên, 400 xe tăng là 1/2 tổng lực lượng xe tăng mà quân đội Liên Xô huy động vào trận này, còn 320 xe tăng là 3/4 lực lượng xe tăng mà quân đội Đức Quốc xã huy động. Rõ ràng là các sư đoàn xe tăng Đức phải rút khỏi Prokhorovka là vì mất sức chiến đấu. Mệnh lệnh của Adolf Hitler chỉ là sự chấp nhận thực tế đó chứ không thể hiện ý muốn cuối cùng của ông ta.

Ảnh hưởng

Thống chế Đức Erich von Manstein đã dự báo hoàn toàn đúng khi ông cho rằng trận Stalingrad có thể chỉ là một khúc dạo đầu cho một thảm họa còn khủng khiếp hơn nữa và thảm họa đó đã diễn ra tại Kursk. Thực sự, trận thua này được xem là thảm bại lớn nhất của quân Thiết giáp Đức. Xét về khía cạnh quân sự, thất bại của quân đội Đức Quốc xã trong trận Kursk đã khẳng định tính không thể đảo ngược của cục thế hai bên trên chiến trường Xô-Đức đã được xoay chuyển sau Trận Stalingrad. Việc quân đội Liên Xô xóa bỏ hai "chỗ lõm" ở Oryol và Kharkov đã tạo ra một bước đà quan trọng cho họ tái thực hiện kế hoạch "Nhảy vọt" mà trước đó hơn nửa năm, họ đã thực hiện không thành công ở tả ngạn Ukraina. Kết quả của chiến dịch này đánh dấu sự sụp đổ dây chuyền của các tuyến phòng thủ do Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) dựng lên ở tả ngạn sông Dniepr mà Adolf Hitler gọi đó là "Chiến lũy phương Đông". Không dừng lại ở Kharkov, các Phương diện quân Voronezh, Thảo Nguyên, tây nam và Nam đã phát động cuộc tổng công kích mùa thu và kéo dài qua mùa đông năm 1943, hất Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) sang bên kia sông Dniepr, giải phóng một loạt các thành phố và trung tâm công nghiệp lớn như Kiev, Dniepropetrovsk, Zaporozhye, Nikopol... và toàn bộ các vùng nông nghiệp trù phú ở lưu vực sông Donets và vùng công nghiệp Donbas. Tướng Kurt von Tippelskirch đánh giá: "Mất vùng công nghiệp Donbas, nước Đức mất một chỗ dựa quan trọng để tiếp tục chiến tranh ở mặt trận phía đông". Trong khi quân Liên Xô sau thắng lợi quyết định này đã tuyệt đối nắm thế chủ động chiến lược, từ vị trí chủ động tấn công, quân đội Đức Quốc xã buộc phải chuyển sang phòng ngự và gần như chỉ phòng ngự chiến lược kèm theo một số trận phản công không mạnh và cũng không thành công từ cuối năm 1943 cho đến khi kết thúc chiến tranh.
Về chính trị, kết quả thắng lợi của trận Kursk được coi như một "món quà" mà I. V. Stalin cùng đoàn đại biểu Liên Xô mang đến Hội nghị tam cường đồng minh họp tại Teheran từ ngày 28 tháng 11 đến ngày 1 tháng 12 năm 1943. Trong một mức độ nhất định, ảnh hưởng của trận Kursk tại hội nghị này đã làm tăng thêm trọng lượng cho những đề xuất từ phía Liên Xô. Họ cho rằng cuộc đổ bộ của các đồng minh Anh và Hoa Kỳ lên Sicilia và mũi Apennin khó có thể coi là một động thái mở mặt trận thứ hai ở Tây Âu do quy mô nhỏ của chiến dịch. Với bán đảo Ý nhỏ hẹp, quân đội các nước đồng minh sẽ rất khó triển khai một lực lượng lớn và đủ mạnh để có thể đánh thẳng vào trung tâm nước Đức. Trong khi thủ tướng Anh Winston Churchill kiên trì quan điểm lấy nước Ý và bán đảo Balkan làm bàn đạp tấn công nước Đức Quốc xã thì tổng thống Hoa Kỳ Franklin D. Roosevelt lại đồng quan điểm với phía Liên Xô về việc mặt trận thứ hai chống nước Đức Quốc xã phải được mở ở Pháp.
Cũng giống như chiến dịch Stalingrad, kết quả thắng lợi của chiến dịch phòng ngự phản công Kursk đã ở đầu cho một loạt các đòn tấn công của 8 phương diện quân Liên Xô trên toàn bộ cánh Nam và khu vực Trung tâm mặt trận Xô-Đức nhưng với quy mô lớn gấp hơn ba lần so với cuộc phản công trong 3 tháng đầu năm 1943, kéo dài từ ngày 25 tháng 8 đến hết tháng 12 năm 1943. Sau ba đợt tổng tấn công trong vòng 4 tháng, Quân đội Liên Xô đã thu hồi toàn bộ vùng tả ngạn sông Dniepr và tả ngạn sông Berezina, đẩy tuyến mặt trận về phía tây từ 100 đến 200 km, cá biệt có nơi xa đến 350 km tại khu vực Mozyr ở Phương diện quân Tây (từ ngày 20 tháng 10 là Phương diện quân Belorussia) và Kherson ở Phương diện quân Nam (từ ngày 20 tháng 10 là Phương diện quân Ukraina 4); thu hẹp diện tích chiếm đóng của quân đội Đức Quốc xã tại lãnh thổ Liên Xô xuống chỉ còn bằng 1/3 so với mùa hè năm 1942. Trong năm 1943, cùng với chiến thắng vang dội của quân Liên Xô tại Kursk, cuộc đổ bộ của liên quân Anh - Mỹ lên đất Ý và thất bại hoàn toàn của liên quân Đức - Ý tại Bắc Phi đã đánh dấu sự xoay chuyển thế trận hoàn toàn có lợi cho khối Đồng Minh, qua đó đại thắng tại Kursk đã thúc đẩy công cuộc giải phóng nhân loại ra khỏi ách áp bức của chủ nghĩa phát xít. Song, ngoài ảnh hưởng đến cuộc Thế chiến thứ hai, chiến thắng Kursk còn được đưa vào các trường đào tạo của binh chủng tăng thiết giáp tại Liên Xô (cũ) Và, 50 năm sau trận đánh đó, nhận thức được tầm quan trọng của xe tăng, các siêu cường trên thế giới đã chạy đua thiết giáp với nhau, và điều này chỉ kết thúc sau khi Liên bang Xô viết sụp đổ, Hoa Kỳ trở thành siêu cường duy nhất và chủ nghĩa khủng bố gia tăng.

Trận Kursk trong văn hóa đại chúng

Kiến trúc và điêu khắc

Các biểu tượng Vinh danh thành phố quân sự Kursk của Nhà nước Nga

Phim sử thi

Bối cảnh và diễn biến của Trận Kursk đã được sử dụng làm đề tài trung tâm cho tập đầu tiên có nhan đề "Cánh cung lửa" (tiếng Nga: «Огненная дуга») của bộ phim sử thi chiến tranh dài 5 tập "Giải phóng" (tiếng Nga: «Освобожде́ние») do hãng Mosfilm (Nga) và hãng phim DEFA (Đông Đức) thực hiện; tác giả kịch bản: Yuri Bondarev, Yuri Ozerov và Oscar Yeremeevich Esterkin; đạo diễn chính: Yuri Ozerov; quay phim chính: Igor Mikhailovich Slabnevich; cố vấn quân sự chính: Đại tướng S. M. Stemenko. Vì tại khu vực Kursk đã xây dựng nhiều công trình lớn, có nhiều cánh đồng thâm canh lúa mỳ, củ cải đường và mật độ dân cư đông hơn nhiều so với năm 1943 nên các nhà làm phim đã lấy các cánh đồng hoang quanh thị trấn Pereslavl thuộc tỉnh Yaroslavl để tổ chức các đại cảnh và ghi hình từ máy bay lên thẳng. Khởi quay năm 1968, hoàn thành và công chiếu năm 1969, bộ phim đã thành công và mở đầu cho một loạt phim sử thi nhiều tập của đạo diễn kiêm tác giả kịch bản Yuri Ozerov về chủ đề cuộc Chiến tranh vệ quốc vĩ đại. 107 nghệ sĩ và diễn viên Liên Xô và 27 diễn viên đến từ Cộng hòa dân chủ Đức đã tham gia đóng phim. Trong số hơn 100 nhân vật có 51 nhân vật lấy từ nguyên mẫu thật sự trong lịch sử. Quân đội Liên Xô đã cho đoàn làm phim "mượn" một sư đoàn bộ binh cơ giới và một trung đoàn xe tăng để thực hiện các cảnh quay trận Prokhorovka và một số trận đánh khác. Hơn 120 xe tăng T-34, trong đó có 45 chiếc đã được làm lại hình dạng bên ngoài giống với xe tăng Tiger I và 16 chiếc Tiger được chế tạo đúng như nguyên mẫu từ nhà máy sản xuất máy kéo Lvov đã được huy động vào các cảnh đấu tăng.
Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 07:06, ngày 12 tháng 1 năm 2014.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét