Thứ Bảy, 4 tháng 7, 2015

ĐỊA NGỤC TRẦN GIAN 27/A

(ĐC sưu tầm trên NET)



Bí ẩn đằng sau cuộc bức hại Pháp Luân Công (Phần 1)


Cuối thập niên 90 của thế kỷ trước, ông Giang Trạch Dân phải đối mặt với rất nhiều nguy cơ từ trong lẫn ngoài khiến cho chiếc ghế lãnh đạo đứng trước nguy cơ lung lay. Nhằm hóa giải nguy cơ, đánh lạc hướng mâu thuẫn, ông Giang đã phải lợi dụng sự kiện “ngày 5 tháng 8″ và chiêu bài kiến tạo “kẻ thủ giả tưởng trong nước”. (Ảnh Tổng hợp)
Vào những năm cuối cùng của thập niên 90 thuộc thế kỷ trước, Trung Quốc đại lục đã bước vào giai đoạn “mùa thu nhiều sự kiện”. Năm 1998, thị trường tài chính Châu Á đang có nhiều diễn biến quyết liệt, làm cho cuộc cải cách nội bộ của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) gặp nhiều khó khăn. Không những thế, trận lụt lớn vào năm 1998 khiến đời sống của dân chúng trở nên điêu đứng, làn sóng phản đối đàn áp của xã hội quốc tế nhắm vào ĐCSTQ đang lên cao…. Tất cả những điều này khiến cho người cầm quyền đương thời là ông Giang Trạch Dân  đứng ngồi không yên trên chiếc ghế lãnh đạo đầy bất ổn.
Sau cuộc đàn áp đẫm máu phong trào “Lục Tứ”, máu của những sinh viên đã đổ đã đưa ông Giang Trạch Dân đến vị trí tối cao quyền lực nhưng lúc này đang đứng trước nguy cơ lung lay. Năm 1997 tình hình sau khi ông Đặng Tiểu Bình qua đời càng thêm phức tạp. Đến năm 1998, “cây dùi cui sắt” Cổ Khánh Lâm bị tố cáo, Thủ tướng đương thời Chu Dung Cơ thề thốt là phải điều tra tường tận, ông Giang lại thêm phập phồng như lửa đốt.
Có bản tin cho hay, vì mục đích đánh lạc hướng mâu thuẫn, hóa giải nguy cơ, “quân sư” của ông Giang Trạch Dân là ông Tăng Khánh Hồng đã đề xuất kế sách “xây dựng kẻ địch giả tưởng trong nước”, khóa mục tiêu vào Pháp Luân Công, đoàn thể tu luyện hòa bình đang thu hút đông đảo quần chúng tham gia. Chính vì thế, ông Giang và ông Tăng đã lợi dụng sự kiện “Ngũ Bát” (tức sự kiện ngày 8 tháng 5 năm 1998, đại sứ quán Trung Quốc tại Nam Tư bị máy bay quân đội Mỹ oanh tạc nhầm), để lung lạc toàn bộ hệ thống chính trị ĐCSTQ, đồng thời đến tháng 7 cùng năm thì công khai trấn áp phong trào Pháp Luân Công.
Vốn là một người chất chứa quá nhiều đố kị khiến cho đầu óc bị mê mờ, ông Giang Trạch Dân trong quá trình tiến hành cuộc bức hại vào năm ấy đã có rất nhiều điều mờ ám, những bí ẩn này đã dần dần bị giới truyền thông bóc tách.

I. Ông Giang Trạch Dân đang đứng trước nhiều nguy cơ nên đã dựng nên “kẻ địch giả tưởng trong nước”

1. Thủ tướng Chu Dung Cơ từ năm 1998 bắt đầu điều tra “Viễn Hoa án”.

Tháng 3 năm 1998, ông Chu Dung Cơ trở thành Thủ tướng Quốc vụ viện ĐCSTQ. Trong thời gian mới nhậm chức, ông Chu Dung Cơ từng phát biểu: “Bất kể là phía trước mặt có bom mìn hay kể cả vực sâu, tôi đều một mực bước tới, quyết không quay đầu lại”. “Tôi ở đây đã chuẩn bị một trăm chiếc quan tài, 99 chiếc là tặng cho các quan tham, một chiếc là dành cho mình.”
Cùng năm, ông Chu Dung Cơ đã nhận được một bức thư với 30.000 chữ ký, bức thư đã tố cáo việc công ty Viễn Hoa ở tỉnh Phúc Kiến có mưu đồ buôn lậu và việc Bí thư Tỉnh ủy Cổ Khánh Lâm cùng vợ là Lâm Ấu Phương có tham gia vào những thương vụ phi pháp kể trên. Bản cáo trạng ấy sau này lại được cá nhân ông Lại Xương Tinh xác thực.
Vậy là trong năm đó, Trung Quốc chấn động vì vụ án buôn lậu tại công ty Viễn Hoa (gọi tắt là “Viễn Hoa án”), được nhận định là vụ án buôn lậu lớn nhất kể từ khi ĐCSTQ lên nắm quyền từ năm 1949 đến thời điểm đó. Người diễn vai trước màn sân khấu là ông Lại Xương Tinh, người đứng sau cánh gà là ông Cổ Khánh Lâm và ông Giang Trạch Dân. Vụ án này đã làm thất thoát đến 83 tỷ nhân dân tệ tiền thuế. Số cán bộ bị cách chức, điều tra, bắt giữ, xét xử đã lên tới hàng ngàn, trong đó có rất nhiều cán bộ cấp tỉnh, cấp bộ, số người lãnh án tử hình có đến hơn 20 người.
Ông Lại Xương Tinh lúc còn ở Canada đã từng tiết lộ, ông ta được ông Cổ Đình An (nguyên là thư ký của ông Giang Trạch Dân) và ông Cổ Khánh Lâm (Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Phúc Kiến) ủng hộ nên mới có thể buôn lậu trót lọt một lượng lớn dầu khí, xe cộ và các vật tư mang tính chiến lược.

Ông Lại Xương Tinh bị lãnh án chung thân vì tham gia buôn lậu vào ngày 18 tháng 5 năm 2012 (Ảnh tư liệu của Đại Kỷ Nguyên)
Trong bài viết của Thịnh Tuyết mang tên “Những bí ẩn đằng sau vụ án Viễn Hoa”, ông Lại Xương Tinh khi trả lời phỏng vấn đã nói rằng, trong lúc ông Giang Trạch Dân sử dụng chiêu bài “chống tham nhũng” để đánh bật gốc “Bắc Kinh bang” dưới trướng ông Trần Hy Đồng, thì đã có rất nhiều người tỏ ý mon men chiếc ghế Bí thư Thị ủy thành phố Bắc Kinh. Ông Lý Bằng thì muốn để cho ông La Cán leo lên đấy, còn ông Giang Trạch Dân thì cứ cố mà điều Cổ Khánh Lâm về Bắc Kinh, trở thành Ủy viên Bộ Chính trị. “Hiện giờ người ta nhìn thấy ông ấy đánh ngã Trần Hy Đồng, kết quả là tự ông ấy lại tuyển chọn một người còn tham ô hơn. Người ta nhất định sẽ rỉ tai nhau: cái người mà ông tìm được còn chẳng bằng người mà ông đánh ngã. Chỉ vậy thôi cũng đã khiến cho Giang Trạch Dân rất khó coi rồi.”
Ông Lại Xương Tinh còn nói, “có thể là năm 98”, “thời gian này người ta đã đã bắt đầu viết thư cáo trạng rồi.”
Bấy giờ, “Viễn Hoa án” đã trở thành ngòi nổ đầy nguy hiểm mà ông Giang Trạch Dân phải tìm mọi cách để di chuyển mục tiêu.
Theo tạp chí Tranh minh của Hồng Kông vào tháng 4 năm 2014 đưa tin, thì ý đồ của ông Chu Dung Cơ là định lợi dụng vụ án này để bức ông Giang Trạch Dân từ chức, “đổi một Bí thư có tư tưởng cải cách” mà không nhất thiết phải do ông Chu lựa chọn. Tuy nhiên, giữa thời khắc tòa thành Giang phái sắp đổ sụp, “quân sư” Tăng Khánh Hồng đã nhanh chóng ứng đối, hiến kế “xây dựng kẻ địch giả tưởng”, phương hướng sẽ nhắm vào các đoàn thể tín ngưỡng tôn giáo. Trong giai đoạn đầu phải tìm được một “mục tiêu tấn công trung tâm”, nhưng các đoàn thể tôn giáo vì có tính kinh tế khá mạnh nên đành phải bỏ qua, cuối cùng đã chọn được Pháp Luân Công.

2. Sự kiện “Ngũ Bát” (ngày 5 tháng 8) khiến cho làn sóng chủ nghĩa dân tộc ở Trung Quốc bùng nổ.

Không chỉ có áp lực từ phía Chu Dung Cơ, ông Giang Trạch Dân cũng phải chịu nhiều áp lực từ phía quốc tế.
Tờ New York Times vào tháng 3 năm 1999 đã tiết lộ về bản án của Chuyên gia Vật lý Lý Văn Hòa, ông này bị bắt vì tội tiết lộ bí mật về kho hạt nhân của Mỹ cho ĐCSTQ. Sau một quá trình điều tra xuyên suốt, ông Lý Văn Hòa này đã thừa nhận việc download trái phép các tập tin. Nhưng các điều tra viên không thể chứng thực được việc ông ta đem các tập tin này giao cho ĐCSTQ. Cuối cùng, ông Lý đã bị xử về tội danh “sai sót trong xử lý” các vấn đề bí mật hạt nhân.
Vào tháng 4, trong một bản tin của tờ New York Times đã nói rằng, ĐCSTQ từng có hai lần ăn cắp các bí mật hạt nhân của Mỹ. Một lần vào những thập niên 80 của thế kỷ 20, nhưng bản thiết kế này không đủ dùng, cho nên đến năm 1995 các nhân viên tình báo của ĐCSTQ lại tiếp tục triển khai một lần đánh cắp nữa.
Trưởng phòng Tin tức Quốc vụ viện đương nhiệm là ông Triệu Khải Chính đã liên tiếp biểu thị thái độ “lên án mạnh mẽ”, “phẫn nộ” đối với các cáo buộc trên, cho rằng đây là “biểu hiện điển hình của sự phân biệt chủng tộc”.
Vào ngày 5 tháng 8 năm 1999, đại sứ quán Trung Quốc tại Nam Tư bị máy bay Mỹ oanh kích, phía chính phủ trung Quốc nói có ba người tử vong. Sau khi sự việc phát sinh, phía Mỹ nói là “đánh bom lầm”, đây chính là sự kiện quốc tế “Bát Ngũ” gây chấn động khắp cả trong lẫn ngoài cõi Trung Quốc.
Sau sự kiện này, toàn cõi Trung Quốc đại lục đã bùng nổ một làn sóng chủ nghĩa dân tộc rầm rộ, phản đối nước Mỹ không ngớt.

Vào ngày 5 tháng 8 năm 1999, đại sứ quán Trung Quốc tại Nam Tư bị máy bay Mỹ oanh kích, phía chính phủ Trung Quốc nói có ba người tử vong. Sau khi sự việc phát sinh, toàn cõi Trung Quốc đã dấy lên một làn sóng chủ nghĩa dân tộc mạnh mẽ. (Ảnh mạng)
Vào ngày 25 tháng 5, bảng báo cáo Klaus Fuchs tại Washington cho rằng chính phủ Trung Quốc luôn cố gắng đánh cắp những bí mật quân sự nhạy cảm của Mỹ, đặc biệt là những thiết kế vũ khí hạt nhân và hệ thống tên lửa đạn đạo. Trong báo cáo còn nói, Trung Quốc đã chuyển nhượng những kỹ thuật này cho những chính quyền đối lập với nước Mỹ như Iran và Bắc Triều Tiên.
Bản báo cáo còn đề cập đến sự kiện ngày 8 tháng 5 khiến cho quan hệ Trung – Mỹ bị tuột dốc.
Lúc trước, trong hai lần hội nghị cấp cao giữa Chủ tịch Giang Trạch Dân và Tổng thống Clinton, hai nước đã sử dụng cụm từ “đối tác chiến lược” để chỉ đối phương. Sau khi những sự kiện này phát sinh, quan hệ Trung — Mỹ đã trở về “đối thủ cạnh tranh chiến lược”. Có nguồn tin còn nói rằng, trong những ghi chép nội bộ của chính quyền Bắc Kinh và chính quyền Washington còn sử dụng một từ ngữ có tính đối kháng hơn nữa là: “Kẻ thù số một”.
Từ đó, trong những lần phát biểu của ông Giang, ông ta đều yêu cầu người Trung Quốc đem “phẫn nộ biến thành sức mạnh” dồn hết sức mạnh cho công tác.
Nhưng, bản thân ông Giang có nghĩ vậy, làm vậy không?
Nội bộ cấp cao của ĐCSTQ đang có những mâu thuẫn hết sức nhạy cảm, quan hệ Trung – Mỹ ngày càng tồi tệ, làn sóng chủ nghĩa dân tộc trong nước dâng cao, tất cả đều khiến cho ông Giang Trạch Dân lâm vào một tình cảnh “bất an toàn”. Nhưng điều khiến ông Giang sợ hãi nhất lại là một cuộc thỉnh nguyện hòa bình do hàng chục ngàn người tham gia diễn ra vào tháng 4 năm 1999.

II. Cuộc kiến nghị hòa bình ngày 25 tháng 4 đã khiến Giang Trạch Dân cố ý trấn áp Pháp Luân Công.

1. Pháp Luân Công nhận được sự hoan nghênh của đông đảo dân chúng Trung Quốc đại lục

Pháp Luân Công được Ngài Lý Hồng Chí truyền ra vào tháng 5 năm 1992, lúc đó ở Tử Trúc Viện tại Bắc Kinh có một điểm luyện công rất lớn. Lân cận Tử Trúc Viện có rất nhiều cán bộ hưu trí của ĐCSTQ. Tuổi đảng của họ còn lâu hơn cả lớp người như ông Giang Trạch Dân, ông Chu Dung Cơ, ông La Cán, ông Lý Phong Thanh. Đương thời, trong nội bộ những Ủy viên thường trực đời thứ 15 (thường được gọi là “thập ngũ đại”) có rất nhiều người là cấp dưới của họ. Những cán bộ lão thành này sau khi học Pháp Luân Công và cảm thấy bản thân được thọ ích, họ đã đem bộ môn tu luyện này giới thiệu cho các đồng liêu xưa kia, là những người có chức vị cao.

Theo điều tra của chính phủ Trung Quốc vào năm 1998, số người luyện tập Pháp Luân Công đã đạt đến con số 70.000.000 người đến 100.000.000 người. Sức khỏe quần chúng được nâng cao, đạo đức xã hội được cải thiện, tiết kiệm rất nhiều chi phí điều trị y học. (Ảnh Minh Huệ)
Ít nhất vào trước năm 1996, đã có một học viên Pháp Luân Công đến nhà của ông Giang Trạch Dân dạy cho vợ của ông Giang là bà Vương Dã Bình tập Pháp Luân Công.
Khi ông Lý Phong Thanh đến Bộ Ngoại thương làm Bộ trưởng, cũng là cấp trên của một học viên Pháp Luân Công, quan hệ giữa hai người vẫn tốt. Rất sớm vào năm 1995, vị học viên này cũng đã giới thiệu Pháp Luân Công cho ông Lý, còn đưa cho ông Lý một cuốn Chuyển Pháp Luân.
Cấp trên của ông Giang Trạch Dân lúc trước ở xưởng Cơ khí Vũ Hán cũng luyện Pháp Luân Công, trong những lần gặp mặt ở Vũ Hán, người đồng sự này cũng từng giới thiệu cho ông ta về Pháp Luân Công. Ông Giang Trạch Dân sau này lại nói rằng đến ngày 25 tháng 4 năm 1999 mới nghe nói đến Pháp Luân Công, đây đúng là lời dối trá. Năm 1996, ông Giang có đến thị sát ở Đài truyền hình Trung ương, lúc nhìn thấy trên bàn làm việc của một nhân viên có một cuốn Chuyển Pháp Luân, ông ta hãy còn nói: “Cuốn Chuyển Pháp Luân này cũng khá hay.”
Ông La Cán, nguyên Bí thư Ủy ban Chính trị và Pháp luật cũng từng biết đến Pháp Luân Công vào năm 1995, cấp trên của ông ta ở Học viện Cơ khí và những đồng sự cũ cũng từng giới thiệu qua cho ông ta.
Bắt đầu từ năm 1996 trở đi, số người tu luyện Pháp Luân Công ở Bắc Kinh tăng lên nhanh chóng, rất nhiều người đã đọc qua cuốn Chuyển Pháp Luân.
Ông Hồ Cẩm Đào ít nhất đến năm 1998 mới tìm hiểu Pháp Luân Công. Đồng học của ông tại Đại học Thanh Hoa là Trương Mạnh Nghiệp mắc chứng xơ gan cổ chướng, gương mặt bị phù, bệnh viện đã hết phương cứu chữa, sau nhờ tu luyện Pháp Luân Công mà cải tử hoàn sinh. Vào năm 1998, 1999 ông Trương Mạnh Nghiệp đã đến Bắc Kinh và chia sẻ kinh nghiệm này với ông Hồ Cẩm Đào, ông ta còn gửi sách qua cho vợ của ông Hồ Cẩm Đào, hi vọng bọn họ có thể luyện công cải thiện thân thể, vợ chồng ông Hồ Cẩm Đào cũng từng gửi thư cảm ơn.
Pháp Luân Công có hiệu quả trừ bệnh khỏe thân và tác dụng nâng cao đạo đức xã hội, việc luyện công và các phương diện khác đã vượt xa phạm vi nhận thức của người thường. Pháp Luân Công đã khiến cho nhiều người thay đổi quan niệm, thậm chí còn đã nhảy khỏi cái khuôn gò bó trong nhận thức cá nhân mà có cách nhìn nhận mới về vũ trụ và nhân sinh. Tuy nhiên, bản chất ĐCSTQ vốn dựa vào việc khống chế hình thái ý thức của dân chúng để tồn tại, chủ nghĩa duy vật tuyệt đối là hình thái ý thức gốc của ĐCSTQ. Khi Pháp Luân Công được truyền bá một cách nhanh chóng ở Trung Quốc đại lục, và những ý niệm về  “Chân, Thiện, Nhẫn” cũng khiến cho họ phải cảnh giác, sau này ông Giang Trạch Dân và ĐCSTQ đã quy chụp họ thành lực lượng thách thức về hình thái ý thức.

2. Nguyên nhân sự kiện “25 tháng 4″

Bởi vì có tác dụng cải thiện đáng kể đối với sức khỏe và đạo đức con người, người truyền người, tâm truyền tâm, tốc độ phát triển của Pháp Luân Công đã vượt qua tất cả những gì mà người ta có thể tưởng tượng. Vì những người theo học ngày càng đông, ông Giang Trạch Dân đố kỵ không ngớt.
Một người cơ hội và chuyên quyền như ông Giang Trạch Dân không thể dung nạp “Chân, Thiện, Nhẫn” của Pháp Luân Công, điểm này đã bị Bí thư Ủy ban Chính trị và Pháp luật đương nhiệm, Ủy viên bộ Chính trị La Cán chộp được, ông ta cho rằng đây là cơ hội lớn để ông ta có thể tận dụng các nguồn lực chính trị và có thể trèo lên cao. Vì mục đích leo lên chiếc ghế Ủy viên Thường trực Bộ Chính trị, ông La Cán luôn tìm kiếm cơ hội để có thể  thương lượng với ông Giang Trạch Dân. Cuối cùng, người đầu tiên lựa chọn việc bức hại Pháp Luân Công chính là ông La Cán.
Năm 1997, ông La Cán lệnh cho bộ Công an ĐCSTQ phải tiến hành một cuộc điều tra nội bộ đối với Pháp Luân Công, để quyết định Pháp Luân Công có phải là một “tà giáo” hay không, cuộc điều tra đã phải tạm dừng vì không có chứng cớ. Đến năm 1998, ông La Cán đã ra Thông báo số 555 hạ lệnh cho Bộ Công an huy động hệ thống Công an trên toàn quốc phải thu thập chứng cớ để chứng minh Pháp Luân Công là “tà giáo”, bảng thông báo này có tiêu đề “Về việc điều tra Pháp Luân Công”. Theo nguồn tin được biết, các học viên Pháp Luân Công đã bị nghe lén điện thoại, bị trộm tài sản và bị lục soát nhà, những điểm luyện công đã bị nhân viên của Cục An ninh phá hoại.
Đến năm 1998, bất kể việc phê phán Pháp Luân Công đang dâng cao, vẫn có những quan chức trong nội bộ ĐCSTQ công khai ủng hộ Pháp Luân Công. Lúc đó, Cựu trưởng Ủy ban Hội đồng Nhân dân Kiều Thạch Phát đã dẫn một đoàn nhân viên tiến hành điều tra độc lập về Pháp Luân Công, trải qua mấy tháng, ông và đoàn điều tra kết luận rằng “Pháp Luân Công là vì nước vì dân, chỉ có trăm điều lợi mà không có một điều hại”.
Theo từ điển bách khoa trực tuyến Wiki, các nhà nghiên cứu phương Tây từng nói rằng, rất có thể ông La Cán, người ngồi ghế Ủy viên Quốc vụ lúc đó vì mưu đồ thăng tiến cho cá nhân nên vào năm 1996 đã bắt tay điều tra và chuẩn bị trấn áp Pháp Luân Công, nhưng ông ta chẳng tìm thấy chứng cứ nào để trấn áp. Hà Tộ Hưu là một thân thuộc của ông La Cán, hai người đã tính toán vào trước khi cuộc trấn áp vào năm 1999 xảy ra, sẽ có một vài sự kiện nhằm kích động học viên Pháp Luân Công, chỉ dẫn cho họ đến Bắc Kinh thỉnh nguyện, đồng thời chỉ huy cảnh sát dẫn các học viên này “bao vây” Trung Nam Hải, từ đó làm chấn động cả một cơ tầng của ĐCSTQ, lấy đó làm cớ để đàn áp thẳng tay.
Vào ngày 11 tháng 4 năm 1999, ông La Cán và ông Hà Tộ Hưu cùng câu kết với nhau, ông Hà Tộ Hưu đã đăng trên báo Giáo dục Thiên Tân một bài viết mang tên “Tôi không tán thành thanh thiếu niên luyện khí công”, ám chỉ rằng độc giả nếu tu luyện Pháp Luân Công sẽ có vấn đề lớn xảy ra, thậm chí còn dẫn đến “vong quốc”. Rất nhiều học viên Pháp Luân Công thời đó đã tìm cách giảng rõ chân tướng cho ban biên tập. Sau khi cuộc hội đàm ôn hòa diễn ra một cách êm đẹp, nhà xuất bản đang chuẩn bị cho đăng thông tin cải chính, đến ngày 23 tháng 4, Công an Thiên Tân đã huy đông 300 cảnh sát chống bạo động ẩu đả với học viên Pháp Luân Công và bắt giữ 45 người.
Có nguồn tin cho hay, Phó bí thư Đảng ủy thành phố Thiên Tân kiêm Phó cục Công an lúc đó là ông Vũ Trường Thuận là người thực thi sự kiện ngày 25 tháng 4, cũng là một nhân vật then chốt trong vụ việc. Thượng cấp của ông ta là Phó thị trưởng thành phố Thiên Tân, bí thư Ủy ban Chính trị và Pháp luật kiêm Cục trưởng Cục Công an Tống Bình Thuận là đồng phạm với cựu Bí thư Ủy ban Chính trị và Pháp luật La Cán trực tiếp tham gia chỉ huy vụ vu khống các học viên Pháp Luân Công ở Trung Nam Hải.
Điều trùng hợp ở đây là, hơn mười năm sau, vào buổi chiều ngày 20 tháng 7 năm 2014, nguyên Phó chủ tịch Ủy ban Chính Hiệp kiêm Cục trưởng cục Công an thành phố Thiên Tân đã bị ngã ngựa. Ngày 20 tháng 7 chính là ngày mà ông Giang Trạch Dân chính thức phát động cuộc đàn áp Pháp Luân Công. Ông Tống Bình Thuận đã tự sát vào năm 2007.
Nguyên trưởng phòng Bảo vệ Chính trị thuộc Công an thành phố Bắc Kinh, một cảnh sát thanh tra tên Quế Xuân Tăng bày tỏ: phía cảnh sát Thiên Tân cố ý làm to chuyện này, tất cả đều thông qua một thân thuộc của ông La Cán là ông Hà Tộ Hưu. Ông này công khai đăng bài chỉ trích Pháp Luân Công trên tạp chí, trong lúc các học viên Pháp Luân Công liên hệ với tòa soạn để nói rõ chân tướng, cục Công an thành phố Thiên Tân đã bắt 45 học viên, không những thế Cục trưởng Tống Bình Thuận còn dối trá rằng: Công an Thiên Tân không hề bắt một ai cả. Lúc các học viên Pháp Luân Công thỉnh cầu phía Công an thả người, chính quyền thành phố Thiên Tân được thông báo: bộ Công an đã nhảy vào cuộc, nếu như không trực tiếp nhận lệnh từ Bắc Kinh, những học viên Pháp Luân Công bị bắt ấy sẽ không được thả. Phía cảnh sát Thiên Tân “kiến nghị” với các học viên Pháp Luân Công: “mọi người đến Bắc Kinh đi, đến Bắc Kinh mới giải quyết được vấn đề.”

Ngày 21 tháng 7 các học viên Pháp Luân Công đã có cuộc kiến nghị hòa bình với ban biên tập báo Giáo dục Thiên Tân, đến ngày 23 phía cảnh sát bắt đầu ẩu đả và bắt bớ (Ảnh Minh Huệ)

Sau khi tin tức truyền đi, các học viên Pháp Luân Công ở các vùng lân cận thành phố Bắc Kinh đã quyết định vào ngày 25 tháng 4 sẽ đến thủ đô.

3. Xã hội quốc tế khen ngợi cuộc thỉnh nguyện hòa bình ngày 25 tháng 4 của các học viên Pháp Luân Công Trung Quốc.

Bắt đầu từ buổi tối ngày 24 tháng 4, các học viên Pháp Luân Công đều tự giác kéo nhau đến Phòng tiếp dân của Quốc vụ viện ở phía Tây Trung Nam Hải. Sáng ngày 25 tháng 4, hàng vạn học viên từ khắp nơi kéo về trung tâm thủ đô. Lúc đầu các cảnh sát chỉ đứng dẹp đường trên các ngả đến Thiên An Môn, sau đó họ bắt đầu dẫn đường, hướng dòng người đến Trung Nam Hải, cuối cùng sự việc này đã dẫn đến sự kiện “vây ráp Trung Nam Hải”, kỳ thực đó là cuộc “bao vây” do chính phía cảnh sát sắp đặt. Cuối cùng Thủ tướng Chu Dung Cơ đã ra hòa giải, các học viên đã giải tán ngay trong ngày.
Sự kiện này đã làm trong lẫn ngoài Trung Quốc chấn kinh, được các giới gọi là “cuộc biểu tình thỉnh nguyện ôn hòa có quy mô lớn nhất và thành công nhất trong lịch sử Trung Quốc.”
Xã hội quốc tế đánh giá rằng, biểu hiện của cả hai bên (những người biểu tình thỉnh cầu và phía chính phủ) được diễn ra trong hòa bình và lý trí, đúng là điều chưa từng có trong lịch sử Trung Quốc. Xã hội quốc tế còn hết lời tán dương ông Chu Dung Cơ. Cùng lúc đó, cũng có rất nhiều bài báo liên quan đã giới thiệu cho quốc tế biết Pháp Luân Công là gì, nhưng điều này đã khiến một người có lòng dạ hẹp hòi như ông Giang Trạch Dân không thể nhẫn nhịn được.
Có nguồn tin còn nói rằng, mặc dù không tìm ra được bằng chứng nào thuyết phục, ông Giang Trạch Dân vẫn cố sức bôi trát lên Pháp Luân Công bằng cái tên “thế lực thù địch hải ngoại” đang ủng hộ “các đoàn thể chính trị nguy hiểm”.
Điểm này tự thân ông Giang cũng đã thừa nhận. Trong “Truyện về Giang Trạch Dân”, một cuốn sách nịnh bợ ông Giang do tác giả Khố Ân viết đã dẫn lời ông Giang rằng, vào năm 1999 vì “yêu cầu phải bảo vệ ổn định xã hội” nên ông Giang đã nhấn mạnh Trung Quốc cần phải “cảnh giác từng giờ từng khắc với các thế lực thù địch trong và ngoài nước đang âm mưu làm rối loạn Trung Quốc, phá hoại công cuộc hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa.”  Những điều mà người ta chưa từng xem nhẹ, ông Giang liền gắn cho cái mác là “thế lực thù địch trong nước”.

4. Trong đêm 25 tháng 4, ông Giang Trạch Dân đã tự mình “xác định tính chất” của Pháp Luân Công

Pháp Luân Công kể từ lúc được truyền ra vào năm 1992, ngay lập tức đã được quần chúng hoan nghênh đón nhận bởi tác dụng cải thiện sức khỏe và tâm hồn con người. Theo điều tra của chính phủ Trung Quốc vào năm 1998, số người luyện tập Pháp Luân Công đã đạt đến con số 70.000.000 người đến 100.000.000 người. Sức khỏe quần chúng được nâng cao, đạo đức xã hội được cải thiện, tiết kiệm rất nhiều chi phí điều trị y học.
Ông Giang Trạch Dân sớm đã có lòng ganh tỵ với người sáng lập Pháp Luân Công là Ngài Lý Hồng Chí, vốn là một người được quần chúng yêu mến. Thêm vào đó Thủ tướng Chu Dung Cơ khi xử lý sự kiện “25 tháng 4” đã có thái độ ôn hòa, khiến cho dư luận quốc tế hết lời khen ngợi, điều này càng khiến cho ông Giang nôn nao khó chịu. Cục tức ấy đã khiến vị lãnh đạo nội bộ ĐCSTQ Giang Trạch Dân trở nên bại hoại.
Tối ngày 25 tháng 4, ông Giang Trạch Dân đã viết thư gửi cho Ủy ban Thường trực bộ Chính trị và các nhân vật có liên quan, bắt đầu cuộc “giăng lưới giăng dây” đối với Pháp Luân Công, ngày hôm sau ông Giang còn nổi cơn lôi đình trong cuộc họp của Ủy ban Thường trực.
Tác giả Khố Ân trong chương 22 cuốn “Truyện về Giang Trạch Dân” viết “sao lại như vậy?” Giang Trạch Dân lớn tiếng hỏi người bạn thân tín là Thẩm Vĩnh Ngôn, “Pháp Luân Công sao chỉ trong vòng một đêm mà dám đứng ra như vậy? Chẳng lẽ là bọn chúng từ dưới đất chui lên sao? Bộ Công an của chúng ta ở đâu? Bộ An ninh của chúng ta ở đâu?”
Cũng trong đêm hôm đó, ông Giang tiếp tục viết một bức thư gửi cho các lãnh đạo cấp cao với một lời lẽ vô cùng nghiêm trọng. Ông ta nói “Pháp Luân Công chính là tà giáo”. “Tôi không tin là chủ nghĩa Marxist thắng không nổi Pháp Luân Công.”

Ngày 25 tháng 7 năm 1999, các học viên Pháp Luân Công đã tự phát kéo nhau đến Phòng tiếp nhận ở Trung Nam Hải, cuộc thỉnh nguyện diễn ra trong trật tự, vì lượng người khá đông nên họ đã đứng men theo lề đường (Ảnh Minh Huệ)
Trước đó có bản tin nói rằng, sau cuộc biểu tình ngày 25 tháng 4, ông Giang Trạch Dân đã triệu tập một cuộc họp của Ủy ban Thường trực nhằm trưng cầu việc công kích Pháp Luân Công, nhưng những quan chức nằm trong Ủy ban Thường trực Bộ Chính trị lúc bấy giờ như các ông Chu Dung Cơ, Hồ Cẩm Đào, Lý Thụy Hoàn, Úy Kiến Hành, Lý Thanh Phong đều bỏ phiếu phản đối, chỉ có ông Lý Bằng là bỏ phiếu trắng, kế hoạch của ông Giang lại một lần nữa bị Bộ Chính trị phá sản.
Những tin tức trước đó còn nói rằng, ông Giang Trạch Dân “một lúc sau liền đứng dậy”, chỉ vào mũi ông Chu Dung Cơ mà hét “Hồ đồ! Hồ đồ! Hồ đồ! Mất nước mất đảng! Tôi rất là xót xa!” Đồng thời còn chỉ trích ông Chu Dung Cơ “Sự nhạy bén trong chính trị sao thấp như vậy. Vấn đề Pháp Luân Công nếu không giải quyết thật chặt, sẽ phạm phải một sai lầm lịch sử!”

5. Ông Trương Vạn Niên hùa theo hành động của ông Giang Trạch Dân

Loạt bài viết “con người Giang Trạch Dân” được đăng trên Đại Kỷ Nguyên đã tiết lộ, trong thời gian các học viên Pháp Luân Công đến thủ đô thỉnh nguyện, ông Giang Trạch Dân gọi điện thoai đến khu đồn trú quân đội tại Bắc Kinh trước, hỏi rằng nếu như đến khuya mà Pháp Luân Công vẫn chưa rút thì quân đội có thể nhanh chóng tập trung để giải tán khu vực lân cận Trung Nam Hải được không? Người nhận cuộc gọi lập tức trả lời: quân khu Bắc Kinh luôn sẵn sàng nghe lệnh chỉ huy từ ông Giang. Ông Giang mười phần mãn ý, cõi lòng căng như dây đàn được thư thả ít lâu, người tiếp cuộc gọi hôm ấy sau này được ông thăng cho mấy cấp.
Đến buổi chiều, ông Giang lại tiếp tục gọi điện đến Cục trưởng Cục Cảnh vệ Do Hỷ Quý, lệnh cho ông Do nhanh chóng bố trí giới nghiêm, ông Giang nói bản thân ông phải ra ngoài “thị sát” tình hình một lát.
Cuộc “thị sát” của ông Giang được tiến hành đằng sau tấm kính chống đạn của chiếc xe cao cấp sẫm màu, trước mặt học viên Pháp Luân Công, ông Giang đã bố trí một giới tuyến phòng hộ dầy đặc. Đối với ông Giang Trạch Dân, Pháp Luân Công có số người tham gia đông như vậy là đang cố ý tranh đoạt quần chúng với đảng; phương thức hòa bình, lý trí là do tổ chức nghiêm mật; đã lấn tới Trung Nam Hải này rồi nhất định là muốn khiêu khích ông ta; điều làm ông ta chướng mắt hơn cả là những mấy mươi quân nhân trên vai đeo quân hàm cũng đi theo đám người Pháp Luân Công chứ không phải là vị Chủ tịch Quân ủy đang “thị sát” dưới tấm kính chống đạn.
Sau đó, quân đội của ĐCSTQ cũng đã bắt đầu kế hoạch đen tối nhằm bức hại các học viên Pháp Luân Công, một trong những nhân vật đóng vai trò chủ đạo chính là Phó Chủ tịch Quân ủy đương thời Trương Vạn Niên.
Theo cuốn sách “Truyện về Trương Vạn Niên” do nhà xuất bản Giải phóng quân của ĐCSTQ xuất bản, vào ngày 25 tháng 4 năm 1999 khi các học viên Pháp Luân Công tiến hành thỉnh nguyện, tối hôm đó, ông Giang Trạch Dân đã gởi thư đến Ủy ban Thường trực Bộ Chính trị và các nhân vật liên quan, bức thư mang tên “Đây là một tín hiệu mới”, “Thời khắc nhạy cảm đang đến gần” vân vân. Đồng thời, trong cuộc thỉnh nguyện còn phát hiện “vấn đề quân nhân”, nên ông ta yêu cầu Phó chủ tịch Quân ủy Trương Vạn Niên là phải tăng cường “công tác tư tưởng trong quân đội”.
Ông Trương Vạn Niên liền trong những đêm sau đó triệu tập những cuộc họp Quân ủy khẩn cấp. Vào mờ sáng ngày 26, ông Trương đã nhận được bức thư mà ông Giang gửi, liền lập tức xuống chỉ thị: phân phát bức thư của ông Giang cho các thành viên trong Quân ủy ĐCSTQ đọc. Cũng trong ngày 26 ông Trương lại tiếp tục mở cuộc họp Quân ủy, nghiên cứu xem làm thế nào để phản đối Pháp Luân Công, vân vân.
Bộ Tổng tham mưu Quân đội ĐCSTQ, Tổng Cục Chính trị lập tức phát đi thông báo khẩn cấp, yêu cầu toàn quân nhanh chóng hành động, điều tra rõ gia quyến của quân nhân, những sĩ quan nghỉ hưu hiện là học viên Pháp Luân Công, “tra rõ con số, nắm chắc những nhân vật trọng tâm”.
Sau khi ông Chu Dung Cơ đã hòa giải cuộc thỉnh nguyện vào ngày 25 tháng 4. Đến ngày 27 tháng 4, Văn phòng Trung ương ĐCSTQ đã in phát “Thư của đồng chí Giang Trạch Dân gửi Bộ Chính trị và các đồng chí lãnh đạo có liên quan”.
Vào ngày 29 tháng 4, ông Giang Trạch Dân một lần nữa gửi thư đến Bộ Chính trị. Mờ sáng ngày 30 tháng 4, ông Trương Vạn Niên lại tiếp tục triệu tập các cuộc họp khẩn cấp của các lãnh đạo các đơn vị lớn đồn trú tại Bắc Kinh và bốn Tổng bộ, “tiếp tục điều tra chắc chắn”. Quân đội được triển khai hết sức chặt chẽ. Ông Trương còn nhiều lần nói trực tiếp hoặc qua điện thoại với Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Vu Vĩnh Ba rằng, yêu cầu các cơ quan sử dụng “biện pháp dứt khoát, triệt để khai trừ các ‘phần tử Pháp Luân Công’ nằm trong quân đội”, “khống chế ‘Pháp Luân Công’” vân vân.
Những bài báo sau này cũng cho thấy, thái độ chính diện của xã hội quốc tế đối với Pháp Luân Công là không thể lay chuyển, tình hình đó đã khiến cho bản thân ông Giang Trạch Dân, một người đứng trước quá nhiều nguy cơ phải lợi dụng sự kiện “ngày 5 tháng 8” để đánh lạc hướng nhìn của quần chúng trước, sau đó lại đợi thời cơ để tạo ra “kẻ địch giả tưởng trong nước”, mở ra một cuộc bức hại tàn ác vô tiền khoáng hậu đối với Pháp Luân Công.
Có một điều đến giờ vẫn chưa rõ, là khi ông La Cán khơi mào cho sự kiện “Ngày 25 tháng 4” có phải là do nhận sự chỉ thị từ ông Giang Trạch Dân không? Hay là chỉ tự mình làm theo ý muốn của ông Giang? Nhưng chúng ta vẫn có thể nhìn thấy một điều, vào năm 2002, dưới sự ủng hộ của ông Giang, một người tội ác chất chồng như ông La Cán đã trở thành Ủy viên Thường trực Bộ Chính trị.
(Còn tiếp)


Bí ẩn đằng sau cuộc bức hại Pháp Luân Công (phần 2)


Kể từ ngày 20 tháng 7 năm 1999, thời điểm mà ông Giang Trạch Dân xúc tiến một cuộc bức hại tàn ác vô tiền khoáng hậu lên các học viên Pháp Luân Công, đến nay đã tròn 16 năm. Trong suốt 16 năm, các học viên Pháp Luân Công đã thông qua con đường hòa bình, lý tính giảng rõ chân tướng cho xã hội quốc tế. Những ám muội đằng sau tội ác này đã bị vạch trần, những nhân vật cốt yếu trong tập đoàn Giang Trạch Dân lần lượt gặp quả báo. (Ảnh tổng hợp)

Giang Trạch Dân, Tăng Khánh Hồng lợi dụng sự kiện “ngày 8 tháng 5″

Vào ngày 5 tháng 2 năm 2001, đài CNN đưa tin phân tích, việc ông Giang Trạch Dân quyết định ra tay trấn áp Pháp Luân Công rất có thể là vì mục đích củng cố quyền lực chính trị của chính ông ta; bản tin còn nói rằng, các nhân vật lớn trong Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) lúc đó là Thủ tướng Chu Dung Cơ, Phó chủ tịch Hồ Cẩm Đào, Chủ tịch Ủy ban Chính trị Hiệp thương Lý Thụy Hoàn và Ủy viên Hội đồng Nhân dân Lý Bằng đều cho rằng ông Giang Trạch Dân đã vận dụng một chiến lược sai lầm.
Bình luận viên Hạ Tiểu Cường nói, lúc đó ông Giang Trạch Dân rõ ràng là muốn phân tán sự chú ý của dư luận trong nước và quốc tế đối với Thủ tướng Chu Dung Cơ qua thái độ tích cực của ông này trong sự kiện “ngày 25 tháng 4”, đồng thời lèo lái tầng lớp lãnh đạo trong nội bộ ĐCSTQ vốn không mấy mặn mà với việc trấn áp Pháp Luân Công. Ngoài ra ông Giang cũng muốn yên ổn vượt qua cái nguy cơ “Lục Tứ” vào mười năm trước, đồng thời đề phòng ông Chu Dung Cơ moi ra Cổ Khánh Lâm trong “Viễn Hoa án” để rồi họa vô đơn chí, liên lụy đến chính ông ta.
Các kênh truyền thông hải ngoại cũng đưa tin về chân tướng vụ việc Đại sứ quán Trung Quốc tại Nam Tư bị oanh tạc, vào tháng 5 năm 1999 đã phát sinh sự kiện “Ngũ Bát” (tức sự kiện ngày 8 tháng 5), ông Giang ngẫu nhiên đã tìm được “đường sống”. Bấy giờ, nhờ sự hiến kế của ông Tăng Khánh Hồng, và sự tham dự của ông La Cán, ông Giang bí mật lập thành một “cục”: Mặc dù đã biết trước rằng tòa Đại sứ quán Trung Quốc ở Nam Tư sẽ bị oanh tạc, bọn họ cũng không thông báo và cố ý không thực hiện một biện pháp ngăn chặn nào, nhằm xé to chuyện, chuyện xé càng to thì càng tốt.
Sau đó, ông Tăng Khánh Hồng đã hiến kế cho ông Giang Trạch Dân, sử dụng sự kiện “Ngũ Bát” để lung lạc Bộ chính trị, đồng thời âm mưu vào tháng 7 cùng năm sẽ công khai trấn áp Pháp Luân Công.
Sau khi sự kiện “Ngũ Bát” ở Nam Tư nổ ra, có một quan chức cao cấp trong cơ quan ngoại giao ĐCSTQ đã “vô cùng bế tắc”, sau đó ông chủ động từ chức và “ra hải ngoại” kinh doanh, thoát khỏi ĐCSTQ. Hơn mười năm trước, trong một lần đến khu phố Tàu ở nước Mỹ, ông ta nhìn thấy các học viên Pháp Luân Công đang phát tờ rơi nói về chân tướng cuộc thỉnh nguyện ở Trung Nam Hải ngày  25 tháng 4 năm 1999, ông rất cảm khái nói với họ rằng: “Tôi biết lời mọi người nói đều là sự thật, tôi còn biết được nhiều điều mờ ám hơn nữa.”
Vị cựu quan chức ngoại giao này còn tiết lộ với các học viên Pháp Luân Công rằng ông Giang Trạch Dân từng nung nấu ý định để cho ba nhà báo của ĐCSTQ bị thiệt mạng khi Mỹ oanh tạc tòa Đại sứ quán tại Nam Tư để xé to vụ việc, mục đích là phân tán sự chú ý của quốc tế đối với cuộc thỉnh nguyện của hàng vạn học viên Pháp Luân Công.
Cuốn sách “Ông ấy lãnh đạo Trung Quốc: Hồ Cẩm Đào tân truyện” (dưới đây gọi là “Hồ Cẩm Đào” tân truyện) cũng từng tiết lộ một vài bí mật.
Cuốn “Hồ Cẩm Đào tân truyện” chương thứ 8 từng dẫn nguồn tin cho biết, lúc đó “lỗi suy nghĩ” chủ đạo của phe ông Giang Trạch Dân tại Bộ chính trị như sau: Trong lúc nước Mỹ nhận định rằng cuộc vận động quần chúng của các nhân sĩ tri thức cũng không đủ thách thức nổi ĐCSTQ, nội bộ ĐCSTQ bị giải thể cũng là điều rất khó tưởng tượng, bỗng dưng xuất hiện Pháp Luân Công “vây ráp” Trung Nam Hải, điều này phải chăng đã cho nước Mỹ một tín hiệu, khiến cho họ nghĩ rằng những nhân tố bất ổn định tiềm ẩn trong xã hội Trung Quốc đang đến lúc bộc phát?
Nước Mỹ phải chăng đã thông qua thủ đoạn oach tạc này để chọc vào tinh thần dân tộc của Trung Quốc, dẫn đến một cuộc phản đối dữ dội? Cuối cùng chuyển hướng sự phẫn nộ ấy thành sự đối lập giữa chính quyền và dân chúng, rồi phát động một cuộc đối kháng chính quyền đầy quy mô thậm chí là bạo loạn?
Cuốn sách có dẫn các nội dung đến từ Văn phòng Trung ương Đảng cho biết, lúc đó, ông Tăng Khánh Hồng và ông Giang Trạch Dân đã thiết kế một loạt các phương án ứng đối, đại khái là: để cho dân chúng xả giận, chính phủ chỉ đóng vai dẫn đường; để cho một người chẳng hiểu biết gì nhiều về nước Mỹ như Phó chủ tịch Hồ Cẩm Đào xuất hiện, ông Hồ với vai trò đại diện cho chính quyền, phát biểu mấy câu xuýt xoa, ngừa việc dân chúng chuyển mũi giáo về chính quyền. Các phương án này đã được Bộ Chính trị chấp thuận.

Tăng Khánh Hồng và La Cán đã sớm chuẩn bị kế hoạch, Giang Trạch Dân quyết định chiến lược “ngoài cứng trong mềm”

Sự kiện đại sứ quán Trung Quốc tại Nam Tư bị oanh tạc xảy ra vào 11 giờ đêm (theo giờ Nam Tư) ngày 7 tháng 5, giờ Bắc Kinh là 5 giờ sáng. Bản tin cho hay, vào lúc 3 giờ chiều cùng ngày, ông Tăng Khánh Hồng và ông La Cán đã sắp đặt sẵn nhân viên đặc công để chuẩn bị hành động, Đại học Bắc Kinh còn chuẩn bị xe để chở các sinh viên đi biểu tình.
Lúc đó, ông Tăng Khánh Hồng đã đứng đằng sau thao túng cục diện, các trường Trung học, Đại học đều nhận được thông báo để học sinh, sinh viên xuống đường. Ông Tăng Khánh Hồng lúc đó là Chủ nhiệm Văn phòng Trung ương, cùng với một tâm phúc khác của ông Giang Trạch Dân là Vương Cương và Bí thư Ủy ban Chính trị và Pháp luật đương thời là ông La Cán sớm đã chuẩn bị văn kiện. Sự việc vừa phát sinh vào ngày 8 tháng 5, thì các văn kiện đã nhanh chóng truyền đến các trường học, cơ quan công an. Buổi sáng vừa xảy chuyện, buổi chiều sinh viên đã xuất hiện trên mọi ngả đường ở thành phố Bắc Kinh. Đến 4 giờ 30, sinh viên các trường đại học lớn ở Bắc Kinh như: Đại học Bắc Kinh, Đại học Thanh Hoa, Đại học Sư phạm Bắc Kinh, Đại học Hàng không Hàng Thiên, Đại học Dân tộc Trung ương, Đại học Sư phạm Thủ đô, Đại học Quản lý Bắc Kinh đều tập kết trước Đại sứ quán Mỹ.
Sách lược của ông Giang Trạch Dân lúc đó là “ngoài cứng trong mềm”, biểu hiện ra ngoài với nước Mỹ thì vô cùng cứng rắn, nhưng thực tế thì rất là mềm mỏng. Đặc biệt là ông Giang có sự bất mãn khá lớn đối với ông Hồ Cẩm Đào khi ông này không ủng hộ cuộc đàn áp Pháp Luân Công, vẻ cứng mặt của ông Giang lúc ấy đã khiến cho ông Hồ phải “vác đít nồi” (ý nói là giơ lưng chịu đựng).
Vào 18 giờ ngày 9 tháng 5 năm 1999, Phó Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ông Hồ Cẩm Đào đã phát biểu trên truyền hình về việc Liên quân NATO do Mỹ đứng đầu oanh tạc Đại sứ quán Trung Quốc. Đối với sự kiện này, ông Hồ chỉ có thể nói qua loa là “mạnh mẽ lên án hành vi dã man của Liên quân NATO do nước Mỹ đứng đầu”, đồng thời ông Hồ cũng bày tỏ quan ngại đối với cuộc tuần hành của sinh viên: “Quảng đại nhân dân, quần chúng nhất định phải xuất phát từ lợi ích căn bản của nước nhà, phải tự giác bảo vệ cục diện, để cho những hoạt động này được tiến hành trên cơ sở pháp luật”. Ngoài ra ông còn lên tiếng ngăn ngừa những hành vi “quá khích”, cảnh giác có người đục nước béo cò, làm rối loạn trật tự xã hội, nhắc tới vấn đề ổn định xã hội, vân vân.
Ông Hồ Cẩm Đào ra mặt nói những điều này, hình như đã chọc trúng bệnh tự ái của dân chúng. Đối với những sinh viên đang hừng hực lửa kích động kia, những lời của ông Hồ là ba phải, lạt như nước ốc.
Trong một số chi tiết có thể nhìn ra được thái độ của ông Giang và ĐCSTQ đối với sự kiện “Ngũ Bát”.
Một tác giả nổi tiếng với bút danh là “Tông Hải Nhân” (người ta đồn đoán rằng bút danh này đã tiết lộ một phần nào đó quan hệ của tác giả này với “Trung Nam Hải”) trong cuốn “Chu Dung Cơ vào năm 1999” có viết, Trung Quốc mang ba thi thể của ba vị “liệt sĩ” về kinh vào ngày 12 tháng 5. Căn cứ trên phương án vốn có của Trung ương ĐCSTQ, chỉ sắp xếp cho ba nhân vật trong Thường ủy Bộ Chính trị công khai nói lời chia buồn trên Tân Hoa Xã và Quang Minh Nhật Báo, đồng thời không tiến hành bất kỳ hoạt động rũ cờ tưởng niệm nào. Nhưng vào tối ngày 11 tháng 5, ĐCSTQ chặn được tin tình báo rằng, Đại sứ quán Mỹ và một số quốc gia khác thuộc khối NATO để rủ cờ tưởng niệm vào ngày 12. Sau đó ông Hồ có xin chỉ thị từ ông Giang. Nhằm tránh làm khó cho mình, hơn nữa lại sợ dân chúng oán giận, ông Hồ liền cập rập lấy danh nghĩa của Văn phòng Quốc vụ thông báo “trường hợp đặc biệt” xuống các địa điểm tại Tân Hoa Môn, Thiên An Môn, các tỉnh thành, các khu tự trị và những địa phương trực thuộc thành phố rũ cờ vào ngày 12. Điện báo được phát đi vào lúc mờ sáng ngày 12.
Trong cuốn sách “Truyện về Trương Vạn Niên” tiết lộ, vào ngày 8 tháng 5 theo giờ Bắc Kinh, tức cái ngày mà Đại sứ quán bị oanh tạc, vào lúc dầu sôi lửa bỏng như thế, ông Giang Trạch Dân giữa đêm hôm vẫn còn thì giờ “gửi gắm” tâm tư về việc phải đả kích Pháp Luân Công. Ông Giang đã gửi đi bức thư dài thứ ba liên quan đến Pháp Luân Công đến “Bộ Chính trị, phòng Bí thư và Quân ủy”.

Giang Trạch Dân trực tiếp dằn mặt Lý Kỳ Hoa, Trương Vạn Niên siết chặt cuộc bức hại

Sau sự kiện “Ngũ Bát”, đông đảo dân chúng Trung Quốc đã bị chọc giận, sự chú ý vào ông Giang Trạch Dân cũng bị phân tán, nhưng bản thân ông ta vẫn không từ bỏ được việc trấn áp Pháp Luân Công.
Cuốn “Hồ Cẩm Đào tân truyện” nói rằng, lúc Bộ Chính trị mở cuộc họp về sự kiện “Ngũ Bát”, ông Trương Vạn Niên từng biểu thị thái độ, cần phải “hình thành trong toàn dân một loại ý chí phản chiến nhưng không sợ chiến tranh”, “cần phải nghiên cứu phát triển ngay một loại vũ khí phòng ngự hoặc vũ khí phản công có thể khiến cho đối phương không thể dò tìm hoặc không thể dự tính được sức tàn phá”, “chuẩn bị kế hoạch nếu không gia nhập Tổ chức Mậu dịch Quốc tế”.
Nhưng, khi chúng ta lật xem những động thái của ông Trương trong hệ thống quân đội, việc trấn áp Pháp Luân Công lại trở thành công việc chủ yếu.
Trong cuốn sách “Truyện về Trương Vạn Niên”, vào ngày 5 tháng 5 ông Trương Vạn Niên đọc được bài viết mang tiêu đề “Những kiến giải thô thiển của một người cựu hồng quân, một đảng viên lão thành về Pháp Luân Công”. Bài viết này là do một cựu hồng quân viết để biện bạch cho Pháp Luân Công. Ông Trương đã viết mấy “lời phê” mang màu sắc bôi nhọ, vào giữa đêm ngày 8 tháng 5 (chính là ngày xảy ra sự kiện “Ngũ Bát”) cũng đã gửi thư cùng với “lời phê” đến cho ông Giang Trạch Dân. Ông Giang lại lần nữa gửi một bức thư dài cho “Bộ chính trị, phòng Bí thư và Quân ủy”. Ngày 9 tháng 5, ông Trương mở một cuộc họp lớn tại Quân ủy Trung ương để phổ biến.
Ngày 10 tháng 5, ông Trương Vạn Niên phái Cục trưởng Tổng cục Hậu cần Vương Khắc Hòa và Ủy viên Thường trực Bộ Chính trị Chu Khôn Nhân đích thân tìm gặp người cựu hồng quân nọ để nói chuyện, ngày 14 tháng 5, trong tay ông Trương đã có được một tờ “Báo cáo tư tưởng”.
Ngày 23 tháng 5, ông Giang Trạch Dân yêu cầu Văn phòng Trung ương đính kèm hai văn bản “Lý giải thô thiển của một vị cựu hồng quân, đảng viên lão thành về Pháp Luân Công” cùng với “Báo cáo tư tưởng” để phát đến toàn đảng, phối hợp trấn áp Pháp Luân Công.
Trong sách không nhắc đến tên tuổi của vị cựu hồng quân ấy là ai, nhưng nếu kết hợp nhiều nguồn tin khác của các kênh truyền thông lại với nhau, rất có thể người đó là cựu viện trưởng Viện Quân y 301 Lý Kỳ Hoa.
Theo mạng Minh Huệ ở hải ngoại đưa tin, một trong những nguyên nhân từ cuộc thỉnh nguyện “25 tháng 4” đã khiến ông Giang Trạch Dân trở nên giận quá mất khôn là, trong hàng ngũ những học viên Pháp Luân Công có mặt hôm đó có cả những quân nhân đang mặc quân phục. Sau đó ông Giang đã viết cho Bộ Chính trị và Quân ủy một mớ thư từ, tất cả đều căn cứ trên những cung cấp của ông Trương, ông Giang đã đặc biệt chỉ mặt ra ba người trong quân đội. Đứng đầu trong đó là cựu Viện trưởng viện Quân y 301 Lý Kỳ Hoa.
Theo nguồn tin được biết, ông Lý Kỳ Hoa là một chuyên gia y học khá có tiếng. Ông Lý bắt đầu tu luyện Pháp Luân Công vào năm 1993. Nguyên do là ông Lý có một người bạn thân bị mắc trọng bệnh đã mấy mươi năm, bản thân là viện trưởng, trong tay nắm rất nhiều phương pháp trị liệu tiên tiến nhưng vẫn phải bó tay. Người bạn này sau khi tu luyện Pháp Luân Công một đoạn thời gian thì các triệu chứng liền biến mất. Ông Lý vô cùng ngạc nhiên và đã đến nghe Ngài Lý Hồng Chí giảng pháp trực tiếp, ông nhận thấy Pháp Luân Công là chân chính, đồng thời cũng là một dạng khoa học cao cấp.
Ông Lý nói: “Kỳ thực, không chỉ có một mình tôi là cảm thấy như vậy, theo tôi được biết, tại nhóm học pháp của tôi ở Bắc Kinh, có vài người cũng đã vào hàng 70, 80 trở lên. Tuổi đảng của họ đã đến mấy mươi năm rồi, rất nhiều người được gọi là “cán bộ lão thành”, “nhà khoa học lão thành”,  “giáo sư lão thành”, toàn là những người ở tầng lớp lãnh đạo cấp cao và thành phần tri thức. Những người này hoàn toàn không đui mù, không phải là loại người có đầu óc đơn giản, tất cả họ đều trải qua một quá trình suy nghĩ nghiêm túc mới bước vào hàng ngũ những người tu luyện. Bọn họ cũng giống như tôi, trong những năm tháng xế chiều mới đắc được Pháp của Thầy Lý Hồng Chí, tất cả đều cảm thấy thật may mắn, thật hữu duyên, thật quý giá”.
Vị cán bộ lão thànhh hơn 80 tuổi này đã phải chịu một áp lực khá lớn, ông Trương Vạn Niên không ngừng phái người đến “nói chuyện”, sử dụng chiến thuật hành hạ, ép ông Lý “kiểm điểm” và từ bỏ tu luyện, cuối cùng ông Trương đã moi ra được một bản “Báo cáo tư tưởng”.
Bài viết còn nói, phần văn bản “kiểm điểm” đính kèm với chữ ký và phần viết tay có nhiều chỗ bất đồng, những đoạn dài ở trên là do người khác viết thay, ông Lý căn bản là không biết. Sau đó ông Lý cũng không được thảnh thơi, ngày nào cũng có người tìm đến “nói chuyện”. Ngoài ra những hành động của ông Lý cũng bị ba người được cấp trên phái đến kiểm soát chặt chẽ, không cho xuống lầu, không cho nghe điện thoại, cách ly hoàn toàn với bên ngoài.
Một nhân vật lão thành trong quân đội khác bị ông Giang Trạch Dân điểm danh là ông Vu Trường Tân, 74 tuổi, với thân phận là Giáo sư chính quy Học viện Chỉ huy Không quân, cũng là lứa phi công đầu tiên của Trung Quốc, một “công thần” hạng nhì. Sau khi đến với Pháp Luân Công, ông Vu Trường Tân đã lĩnh hội được rằng đây là một môn khoa học chân chính. Cuối cùng, ông đã bị Tòa án Quân sự phán cho 17 năm tù, ngoài ra còn phải chịu nhiều nhục hình. Người vợ ở tuổi thất tuần của ông là bà Khương Xương Phong cũng bị đuổi khỏi nhà tập thể Không quân, không chốn nương thân, cuối cùng lại bị xử kín và bị giáng cho 10 năm tù.

Ông Giang Trạch Dân chuẩn bị mọi mặt cho cuộc bức hại Pháp Luân Công vào tháng 7

Có nguồn tin nói rằng, năm 1999 đã được xác định là “mùa thu nhiều sự kiện”, đó là thời gian tròn mười năm kể từ phong trào “Lục Tứ”. Sự kiện “Ngũ Bát” nổ ra đã trở thành tiêu điểm chú ý cho các kênh truyền thông lúc bấy giờ, ông Giang Trạch Dân đã lợi dụng những điều này, vì để tranh thủ thời gian cho cuộc bức hại Pháp Luân Công vào tháng 7, ông ta cũng đã có nhiều hành động chuẩn bị trong giai đoạn này.
Ngày đánh dấu tròn mười năm sự kiện “Lục Tứ” vừa trải qua mấy ngày, ông Giang đã triển khai toàn diện cuộc trấn áp nhắm vào Pháp Luân Công, có hai sự kiện khơi mào. Thứ nhất là nhắc đến chuyện thắt chặt và giải quyết “vấn đề Pháp Luân Công” vào ngày 7 tháng 6 năm 1999. Nội dung những phát ngôn này được lưu hành bí mật trong nội bộ ĐCSTQ vào ngày 13 tháng 6.
Vào ngày 7 tháng 6, ông Giang đã công khai ý đồ trong bản kế hoạch trấn áp Pháp Luân Công tại hội nghị Trung ương ĐCSTQ.
Trong quá trình phát biểu, đối với sự cố của Đại sứ quán ở Nam Tư, ông Giang chỉ qua loa mấy lời, ông chỉ nói “điều này đã khiến cho nhân dân yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới phẫn nộ sâu sắc”. Ngay sau đó, ông ta liền một hơi thừa nhận rằng, mình đang cân nhắc làm thế nào để đối phó với Pháp Luân Công, “từ ngày 25 tháng 4 trở lại, tôi cứ một mực suy nghĩ, đảng ta đã trải qua 80 năm cách mạng và kiến thiết, nắm giữ chính quyền quốc gia, Quân đội Nhân dân có đến 2.500.000 người, có hơn 60 triệu đảng viên, có cả một đội ngũ cán bộ lãnh đạo bề thế. Tại sao lại để vấn đề ‘Pháp Luân Công’ nổi trội lên như thế, lại còn náo loạn đến mức độ ấy?”
Cũng nằm trong kế hoạch trấn áp Pháp Luân Công, “phòng 610” được thành lập. Nhằm tạo tiền đề cho công cuộc “tăng sức tập trung, chiến đấu” để đối kháng với nước Mỹ, ông Giang đã chi phối Bộ Chính trị để hành động: Trung ương đã đồng ý ông Lý Phong Thanh phụ trách, thành lập một “tổ chuyên xử lý vấn đề Pháp Luân Công”. Ông Lý Phong Thanh là tổ trưởng, ông La Cán là tổ phó, những thành viên trong tổ đều thống nhất nghiên cứu các bước, phương thức và biện pháp cụ thể để giải quyết vấn đề Pháp Luân Công, đồng thời yêu cầu Bộ, Ủy các cấp, các tỉnh, các khu tự trị, các thành phố trực thuộc phải phối hợp chặt chẽ.
Cũng trong lần phát biểu này, ông Giang cũng bắt đầu tung tin đồn về Pháp Luân Công, để chứng minh rằng quyết định lúc đó của ông ta là anh minh. Cái ý ngoài lời là, ai phản đối trấn áp Pháp Luân Công, phản đối “tăng cường sức tập trung”, thì người đó là kẻ cấu kết với ngoại bang trong sự kiện “Ngũ Bát” nhằm âm mưu bán nước.
Trong năm ấy, ông Giang Trạch Dân, ông Tăng Khánh Hồng đồng lõa với Bí thư Ủy ban Chính trị và Pháp luật La Cán, từng bước từng bước thi hành kế hoạch của mình trong lòng sự kiện “Ngũ Bát”. Một bước đi khá quan trọng trong kế hoạch đó là thành lập “tổ lãnh đạo Trung ương chuyên xử lý vấn đề Pháp Luân Công” vào ngày 10 tháng 6 năm 1999, mốc thời gian đó đã được lấy để làm tên cho tổ chức này, tức phòng “610”, do những người như ông Lý Phong Thanh, La Cán phụ trách, ông Lý Phong Thanh là tổ trưởng. Tên gọi hành chính của cơ quan này là  “Phòng ngăn ngừa và xử lý các vấn đề tà giáo của Quốc vụ viện”.
Phòng 610 xuất hiện, đã khiến cho cơ cấu của ĐCSTQ sau này có hai hệ thống quyền lực xuyên suốt từ Trung ương đến địa phương. Bởi vì yêu cầu trấn áp Pháp Luân Công, phòng 610 tại bất cứ đâu và bất cứ lúc nào đều có thể tập trung mọi nguồn lực và chính sách quốc gia để phục vụ cho hoạt động của mình, vượt qua mọi quyền hạn.
Ngày 20 tháng 7 năm 1999, cuộc trấn áp Pháp Luân Công được triển khai toàn diện.

Những ghi nhận của tác giả bài viết

Sau ngày 20 tháng 7, tập đoàn ông Giang Trạch Dân đã huy động toàn bộ cơ cấu chính phủ nhảy vào một cuộc trấn áp tàn khốc vô tiền khoáng hậu cả trên phương diện tinh thần và thể xác đối với các học viên Pháp Luân Công, đó là một tội ác phi nhân tính và diệt chủng.
Trong thời kỳ đầu của cuộc trấn áp, bản thân ông Giang đã hò hét rằng sẽ “tiêu diệt Pháp Luân Công trong vòng ba tháng”, nhưng bản thân ông Giang và ĐCSTQ không ngờ rằng, Pháp Luân Công đến ngày nay đã được truyền ra khắp nơi trên thế giới, trên 100 quốc gia và các địa phương. Tác phẩm chủ yếu của Pháp Luân Công là cuốn Chuyển Pháp Luân đã được dịch ra hơn 30 thứ tiếng, được các dân tộc hoan nghênh và trân quý. Ngài Lý Hồng Chí và Pháp Luân Công đã đạt được hơn 1000 giải thưởng trên khắp thế giới, rất nhiều chính phủ đã tuyên bố “ngày Pháp Luân Đại Pháp”, “tuần Pháp Luân Đại Pháp”,  “tháng Pháp Luân Đại Pháp”, “Ngày Lý Hồng Chí”, vân vân, khắp nơi đều cảm tạ Ngài Lý Hồng Chí, hoan nghênh các đoàn thể tu luyện Pháp Luân Đại Pháp. Tán dương Pháp Luân Đại Pháp đã khuyến khích con người hướng thiện, khởi lên tác dụng khôi phục đạo đức xã hội hết sức to lớn.
Cuộc bức hại Pháp Luân Công đến nay đã được 16 năm, tập đoàn ông Giang Trạch Dân và ĐCSTQ vẫn tiếp tục duy trì trấn áp, điều này vô tình khiến cho dân chúng cả trong lẫn ngoài Trung Quốc đều biết đến Pháp Luân Công. Người tu luyện Pháp Luân Công bề ngoài mềm mỏng, nhưng ý chí vô cùng kiên cường, suốt mười sáu năm qua, họ không ngừng giảng chân tướng, truyền bá “Cửu bình”, nghiên cứu các phần mềm đột phá tường lửa, khiến cho dân chúng Trung Quốc biết được chân tướng của ĐCSTQ.
Hiện nay, hưởng ứng phong trào “Tam thoái” (thoái xuất khỏi Đảng, Đoàn, Đội) đã có hơn 200 triệu người Trung Quốc tỏ thái độ dứt khoát với ĐCSTQ. ĐCSTQ đang đứng trước nguy cơ tan rã, công cuộc “đã hổ”, “chống tham” của ông Tập Cận Bình cũng đang siết chặt vòng vây đối với tập đoàn của ông Giang Trạch Dân và Tăng Khánh Hồng.
(Hết)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét