Dai Chung la su suy ngam cua toi ve cuoc doi, xa hoi, nhan sinh
ĐÂU LÀ BIA MIỆNG? 7
Nhận đường liên kết
Facebook
X
Pinterest
Email
Ứng dụng khác
-
-Trăm năm bia đá thì mòn Ngàn năm bia miệng hãy còn trơ trơ! -Nhưng mấy ai thoát được sự cám dỗ của danh lợi - quyền lực? -Và khi đã mù quáng về nhận thức mà lại còn khuếch trương quyền lực thì thật là đáng sợ!
--------------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
Lê Đức Thọ (10 tháng 10 năm 1911 – 13 tháng 10 năm 1990) là chính khách Việt Nam, giữ chức Trưởng Ban Tổ chức Trung ương, phụ trách nhân sự của Đảng Cộng sản Việt Nam suốt một thời kỳ dài 1956-1982. Sau khi Hiệp định Paris được ký kết, ông Thọ từng được trao tặng giải Nobel Hòa bình cùng Henry Kissinger vào năm 1973 nhưng ông đã từ chối với lý do hòa bình chưa thực sự lập lại trên đất nước Việt Nam. Đó là giải Nobel duy nhất dành cho người Việt cho đến nay.
Lê Đức Thọ được xem là một nhân vật vô cùng quan trọng trong việc trợ giúp Lê Duẩn trong suốt tiến trình thâu tóm quyền lực.
Tiểu sử
Gia phả họ Phan (Nam Vân) ghi: Phan Đình Khải là con giai thứ 2 ông
Đình Quế, sinh giờ Tý, ngày 11 tháng 11 năm Tân Hợi, hoàng hiệu Duy Tân
thứ 8 (1911) (bà chính thất sinh ra), học chữ Tây thi không đỗ, theo
Đảng Cộng Sản, năm Canh Ngọ phải can án khổ sai 10 năm phát vãng ở đảo
Côn Luân, đến tháng 6 năm Bính Tý được ân sá về nhà.
Lê Đức Thọ tên thật là Phan Đình Khải, sinh tại thôn Địch Lễ,xã Nam Vân, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định nay là xã Nam Vân (TP Nam Định). Tham gia các hoạt động cách mạng (tổ chức bãi khóa, dự lễ truy điệu nhà chí sĩ Phan Chu Trinh, lãnh đạo phong trào đấu tranh của học sinh...) và bị Pháp bắt giam hai lần (1930-1936 và 1939-1944). Sau khi được thả tự do lần thứ hai, ông trở về Hà Nội hoạt động và trực tiếp phụ trách Xứ ủy Bắc Kỳ. Năm 1944 ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
Năm 1948, ông vào miền Nam Việt Nam làm Phó Bí thư, kiêm Trưởng ban Tổ chức Xứ ủy Nam Bộ cho tới Hiệp định Genève được ký kết năm 1954.
Sau khi tập kết ra Bắc năm 1955, ông được bầu vào Bộ Chính trịĐảng Lao động Việt Nam (sau đổi là Đảng Cộng sản Việt Nam) và đắc cử.
Đầu năm 1968, ông trở lại miền Nam làm Phó bí thư Trung ương Cục miền Nam một thời gian ngắn. Đến tháng 5 cùng năm, ông làm cố vấn đặc biệt cho đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị Paris, bàn về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam.
Trong các năm từ 1956 đến 1973 và 1976 đến 1982, ông làm Trưởng ban Tổ chức Trung ương, theo William Duiker, ông đã nhanh chóng làm cho ban này “biến thành bộ máy hiệu quả để điều tra và kiểm soát các đảng viên.”[1]
Cuối năm 1977 đến tháng 1 năm 1979, Bộ Chính trị phân công ông phụ trách Ban Công tác Đặc biệt.
Năm 1980, ông làm Bí thư Thường trực Ban bí thư, phụ trách tổ chức. Đến tháng 10 năm 1980 kiêm Trưởng Ban Chính trị Đặc biệt.
Từ tháng 3 năm 1983, ông là Bí thư phụ trách Tư tưởng, Nội chính và Ngoại giao.
Năm 1983, ông được cử làm Chủ tịch Uỷ ban Quốc phòng.
Năm 1986, ông là Trưởng Tiểu Ban Nhân sự Đại hội VI.
Từ tháng 12 năm 1986, ông là Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Trao tặng
Ông được tặng giải Nobel năm 1973 cùng với Henry Kissinger vì thương thảo thành công Hiệp định Paris
chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam, nhưng ông từ chối
nhận giải với lý do hòa bình vẫn chưa thực sự lập lại trên đất nước Việt Nam. Tên ông được đặt cho nhiều tuyến đường phố tại các Tỉnh, thành ở Việt Nam trong đó có thủ đô Hà Nội.
"Ông là nhà ngoại giao khổng lồ. Ông khổng lồ ở chỗ đối phương đối
thoại với Lê Đức Thọ là Kissinger, một học giả rất lớn của Mỹ thời đó.
Lúc đó, Kissinger rất ngạo mạn, những tưởng có thể đè bẹp Lê Đức Thọ
nhưng không thể được. Ví như làm thế nào để thống nhất được với Mỹ về
vấn đề Mỹ phải rút quân. Mỹ muốn nếu Mỹ rút quân thì miền Bắc cũng phải
rút quân khỏi miền Nam, đánh đồng như thế không thể được. Cuối cùng đồng
chí Lê Đức Thọ đưa ra một công thức đó là vấn đề quân đội Việt Nam ở
lãnh thổ Việt Nam do các bên Việt Nam giải quyết với nhau. Còn việc Mỹ
rút quân là chuyện Mỹ phải rút. Tôi nghĩ trí tuệ của ông ở chỗ tìm một
giải pháp đúng với lợi ích của mình" - nguyên Bộ trưởng Ngoại giao
Nguyễn Dy Niên.
Tác phẩm
Ông cũng là một nhà thơ với một số tập thơ như Trên những nẻo đường (1956), Đường ngàn dặm (1977), Nhật ký đường ra tiền tuyến (1978), Thơ Lê Đức Thọ (1983).
Gia đình
Ông có người anh ruột là Phan Đình Đỗ, sinh năm 1905, là thú y Đại
học sỹ Đông Dương (tức là bác sỹ thú y ngày nay) là Viện trưởng Viện
chăn nuôi đầu tiên (thời kỳ 1952-1954), Phó Viện trưởng kiêm Trưởng
Phòng Chăn nuôi -Thú y - Viện Khảo cứu Nông Lâm (1955-1957), Viện trưởng
Viện Khảo cứu Chăn nuôi (1957-1959)
Ông là anh ruột của Thượng tướngĐinh Đức Thiện và của Đại tướngMai Chí Thọ, Đại tướng Công an Nhân dân đầu tiên của Việt Nam.
Con trai của ông là Lê Nam Thắng, Thứ trưởng Thường trực Bộ Thông tin và Truyền thông.
Ông Thắng là con trai của ông Lê Đức Thọ và bà Nguyễn Thị Chiếu, tức
Tám Chiếu, người Nam Bộ. Với người vợ trước, quê Hải Phòng, ông Lê Đức
Thọ có một người con trai tên là Phan Đình Dũng, đã mất.
Một
câu chuyện lưu hành trong anh em cựu chiến binh, có thể thật một trăm
phần trăm, có thể được thêm thắt dựa trên một phần sự thật nào đó, nhưng
nó nói lên một nỗi đau về những vụ đàn áp chính trị, mà sự thêm thắt,
nếu nó có, thì cũng luôn nghiêng về phía bênh vực lẽ phải, lên án bạo
quyền.
Câu chuyện là như sau.
Sau khi ông Lê Trọng Nghĩa ra tù. Lê Đức Thọ cho người đưa ông đến gặp Thọ tại Ban Tổ chức Trung ương.
Lê Đức Thọ mở đầu câu chuyện:
- Anh có biết anh bị bắt vì tội gì không?
- Thật nực cười. Đáng ra câu hỏi ấy là tôi hỏi anh, nhưng tôi có thể nói cho anh từng điểm một.
Lê
Trọng Nghĩa nhớ lại, hôm đó người ta triệu tập ông, nói là đi họp. Đến
cuộc họp ông thấy mấy người, trong đó có Trần Quý Hai và Song Hào, nhưng
không khí ghẻ lạnh. Ông giơ tay bắt, nhưng không ai chìa tay như mọi
lần. Ông chợt sinh nghi. Chưa kịp kéo ghế ngồi, thì một người lạ đến
tuyên bố ông bị bắt. Vừa tuyên bố, vừa chìa cho ông xem tờ Lệnh bắt,
trong đó liệt kê 5 tội trạng. Với con mắt tình báo nhà nghề, ông liếc
nhanh.
Lê Đức Thọ hỏi dồn:
- Anh chắc còn nhớ chứ?
- Đương nhiên là tôi nhớ. Tội thứ nhất, các anh kết tội tôi liên lạc với tình báo Liên Xô. Anh đồng ý chứ?
Lê Đức Thọ gật đầu.
- Đúng. Anh nhớ chính xác.
Lê Trọng Nghĩa tiếp:
- Nếu đầu các anh không bị lú thì các anh là những kẻ lật lọng. Chính các anh cử tôi làm việc với tình báo Liên Xô.
Lê Trọng Nghĩa ngưng một lát, và tiếp
- Tội thứ hai,
cung cấp thông tin nội bộ cho tình báo Liên Xô. Các anh nhầm lẫn hết
rồi. Điều này tôi cũng làm theo yêu cầu của Bộ Chính trị, và tôi chỉ
cung cấp những thông tin được Bộ Chính trị duyệt.
Lê Trọng Nghĩa ngưng một lát như để suy nghĩ. Lê Đức Thọ hối thúc:
- Anh cứ tiếp đi.
- Tội thứ ba,
xúi giục lãnh đạo Đảng đi theo đường lối xét lại. Các anh ngớ ngẩn rồi.
Dễ thường Bộ Chính trị là lũ trẻ con hay sao mà tôi xui dại họ ăn cứt
gà được?
Lê Đức Thọ im, như chờ đợi.
- Tội thứ tư,
bàn nhau thành lập đảng riêng? Các anh dựng chuyện quá quắt. Các anh
không có một chứng cứ nào, gọi là chính cương, điều lệ, tôn chỉ, tổ
chức, ... mà tùy tiện buộc tội người ta.
- Còn tội thứ năm?
- Tội thứ năm,
tội này có lẽ là khôi hài nhất. Các anh kết tội tôi chỉ trỏ địa chỉ nhà
Hoàng Minh Chính cho những người khác. Tôi không tưởng tượng các anh
lại nói năng như lũ trẻ nít. Nhà Hoàng Minh Chính ở 26 Lý Thường Kiệt,
thì cả Hà Nội ai mà chẳng biết, lại phải chờ đến chỉ điểm của Cục trưởng
Cục Quân báo.
N.S.T.
Tác giả gửi BVN
Đừng để khi quá muộn, trường hợp ông Lê Đức Thọ - Minh Diện Ông Lê Đức Thọ những ngày cuối đời Ông
Ung Văn Khiêm, con trai thứ cụ Ung Văn Tre*, quê huyện Chợ Mới, An
Giang. Cụ Ung Văn Tre là người đầu tiên đến Chợ Mới khai khẩn đất hoang,
lập trang ấp, người xưa gọi cụ là ông Chủ Tre.
Trong
cuộc khởi nghĩa Trương Định 1862-1864, Chủ Tre đóng góp nhiều của cải
và trực tiếp tham gia nghĩa quân chống thực dân Pháp. Cụ có người con
trai nổi tiếng thông minh là Ung Văn Khiêm.
Với
truyền thống yêu nước, Ung Văn Khiêm đã tham gia chống Pháp khi còn
đang học ở trường College de Cantho. Dù là một công tử con nhà giàu, một
trong hai học sinh giỏi nhất, được cấp học bổng toàn phần, nhưng Ung
Văn Khiêm đã tổ chức bãi khóa và tham gia biểu tình biểu tình liên tục.
Năm
17 tuổi, ông theo thầy Châu Văn Liêm dấn thân hoạt động cách mạng. Ông
đến với chủ nghĩa cộng sản, trở thành đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam,
làm tới chức Uỷ viên Trung ương đảng, Bộ trưởng Bộ ngoại giao.
Ông
từng bị Trưởng ban tổ chức Trung ương Lê Đức Thọ và phe phái trù dập
thẳng cánh, vu cho tư tưởng xét lại và những chuyện oan trái, gây bao
nhiêu cay cực. Với tính khí nghĩa hiệp được truyền lai của “người mở
đất” ông về làm dân không chịu cúi đầu.
Không biết có phải do lương tâm bị day dứt không, mà Lê Đức Thọ đã tìm gặp Ung Văn Khiêm vào lúc cuối đời.
Đầu năm 1991, tôi đến thăm cụ Ung Văn Khiêm, cụ kể cho nghe câu chuyện sau đây:
Một
buổi sáng năm 1978, tôi đang chăm đàn heo thì bà vợ báo có ông Sáu Thọ
tới thăm. Trời đất ơi, sao tự nhiên thằng cha mắc dịch tới thăm vào giờ
này? Thôi kệ , tắm cho heo đã!
Tắm heo xong, lên thấy ông Sáu Thọ đang thơ thẩn ngoài sân. Ông cười bắt tay tôi, nói:
– Hôm nay tôi tới mời cụ ra giúp việc cho dân cho nước !
Trời đất ơi, lại chơi trò gì nữa đây! Tôi nghĩ vậy và nói thật lòng:
– Ông không sợ thằng cha xét lại làm hỏng việc của Đảng sao?
Ông Lê Đức Thọ vỗ vai tôi:
-Thời bình cần có người liêm chính như cụ!
Tôi
nhìn ông Sáu Thọ vẫn như xưa, da mặt tai tái, miệng cười nhếch nửa mép,
mắt nhọn như kim, một khuôn mặt sắc lạnh không có tình người. Tôi nói:
–
Nếu đất nước còn chiến tranh, ông giao việc gì tôi cũng làm. Bây giờ
hòa bình rồi, tôi đã có tuổi, được ông cho nghỉ việc đã lâu, nhảy ra làm
người ta nói tôi tham quyền cố vị. Vậy xin ông miễn cho!
Ông Lê Đức Thọ cười, nắm tay tôi, nói:
– Tôi có gì không phải mong cụ bỏ qua cho!
Tôi nói:
– Tôi mừng vì ông nói được câu ấy! Với ông là chuyện nhỏ! Nhưng còn với đất nước?
Ông Lê Đức Thọ nói nhỏ nhẹ:
– Thôi thì để cho lịch sử phán xét!
Trần
Bạch Đằng, một nhà báo có tài, và là một chính khách, từng làm Bí thư
Thành ủy Sài Gòn – Gia Định, Trưởng ban Tuyên huấn Trung ương cục miền
Nam. Ông là một trong những người bị Lê Đức Thọ ghét, “đì” tới số. Trong
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV, Trần Bạch Đằng bị Lê Đức Tho đẩy
sang Cu Ba, không cho tham dự, đồng nghĩa với việc loại khỏi danh sách
nhân sự.
Ông Trần Bạch Đằng có lần kể lại câu chuyện sau đây với tôi và nhà thơ Văn Lê:
Một
buổi sáng tao đang ngồi viết trên lầu thì con cháu vào nói: “Chú Tư có
bác Sáu Thọ tới thăm!”. Tao nghĩ chắc con nhỏ nhầm. Xưa nay người ta tìm
tới Sáu Thọ qụy lụy chớ cha ấy thèm tới ai ?
Nhưng
khi xuống thì thấy đúng là Sáu Thọ. Cha đứng ngoài cửa, không vô nhà.
Tao giựt mình vì mặt Sáu Thọ nhợt nhạt không còn thần sắc. Kiểu này chắc
không được bao lâu nữa!?
Sáu Thọ nhích mép cười, nói:
–
Tôi biết cậu là người có tài. Ngày đó nếu cậu đến tôi, nói với anh Sáu
vài lời, thì cậu chắc chắn là Ủy viên Trung ương khóa IV, là Ủy viên Bộ
chính trị. Nhưng cậu là con ngựa bất kham, không điều khiển được.
Dừng một lúc khá lâu, ông Lê Đức Thọ mới nói tiếp, không suồng sã thân mật như trước mà giọng trầm xuống, khách sáo và như nhắc nhở:
–
Tôi được biết anh đang viết một quyển sách nói nhiều chuyện về tôi. Hôm
nay tôi tới xin anh một điều, khi tôi còn sống anh đừng xuất bản quyển
sách đó. Sau khi tôi chết, con người tôi lịch sử sẽ phán xét.
Nghe Sáu Thọ nói vậy, tao trả lời ông:
– Quyển sách đã in rồi, nhưng anh nói vậy, tôi sẽ hủy!
Có
lẽ ít người biết những câu chuyện như thế về “trái tim thép” Lê Đức
Thọ, người từng thừa nhận mình là “Trần Thủ Độ” của Đảng cộng sản
ViệtNam. Bao năm uy quyền tập trung trong tay ông, những kẻ khéo nịnh bợ
được vinh thân phì gia, những người không chịu cúi luồn bị bạc đãi, bao
nhiêu người từng bị đày đọa không ngóc đầu lên được.
Những tưởng con người ấy kiêu hãnh suốt đời?
Nhưng
khi quyền lực đã rời bỏ mình thì hiện hữu lại là một tấm thân mềm yếu,
“trái tim thép” hình như bị nhũn ra như bùn. Không hiểu vì lương tâm
thức tỉnh hay vì nguyên nhân gì, chỉ biết 6 tháng sau buổi gặp ấy, ông
Lê Đức Thọ qua đời. Ông được an táng tại Nghĩa trang Mai Dịch, nơi dành
cho những cán bộ cao cấp nhất của Đảng cộng sản và nhà nước Việt Nam,
nhưng nghe nói sau đó gia đình phải chuyển về quê!?
M.Gaddafi,
“Vua của các vị vua” từng tàn sát 200.000 người, và những ngày tháng
cuối cùng của chế độ độc tài, đã giết hại 23.000 người, bắt bỏ tù 50.000
người không ghê tay, mà mềm yếu đến đê hèn khi quỳ lạy người lính: “
Xin đừng bắn tôi!”.
S.
Husen, ria mép giống hệt ria Stalin, nổi tiếng độc tài khát máu, phút
cuối cùng còng lưng rụt đầu vào cổ chiếc áo sơ mi trắng, ôm quyển kinh
Koran, miệng lảm nhảm xin tha chết.
Nicolae
Ceausecu, Chủ tịch đảng cộng sản Rumnia, từng mệnh danh “Conducator” –
Lãnh tụ tối cao “Geniul din carpati” – Thiên tài, đã quỳ khóc sướt mướt
khi bị bắt trên đường trốn sang Nga, và sau đó cả hai vợ chồng đều bị xử
bắn sau một phiên tòa kéo dài hai tiếng đồng hồ.
Hơn
2.500 năm trước Đức Phật Thích Ca đã cho ra đời triết lý Vô Thường, và
hình như thuyết Tương đối của Albert Einstein cũng dựa trên ý tưởng ấy.
Đừng ảo tường chế độ tồn tại vĩnh viễn, quyền lực trong tay mình là
tuyệt đối, kẻo hối không kịp.
Ông Lê Đức Thọ là một con người đầy bản lĩnh, nhiều tham vọng, đa nghi và rất thủ đoạn.
Ông
sinh năm 1911 tại Nam Trực, Nam Định, từng tham gia bãi khóa , dự lễ
tang nhả chí sỹ Phan Chu Trinh và hoạt động trong phong trào học sinh
yêu nước nên bị Pháp bắt giam hai lần (1936, 1944).
Ông
từng làm Bí thư kiêm Trưởng ban Tổ chức Xứ ủy Nam Kỳ (1948-1954). Nhưng
chức vụ mà ông giữ lâu nhất là Trưởng ban tổ chức Trung ương. Ngay cả
khi làm Bí thư Thường trực ông vẫn kiêm Trưởng ban tổ chức.
Người
ta nói Lê Đức Thọ là người tạo ra bộ máy lãnh đạo của Đảng cộng sản
Việt Nam suốt bốn thập kỷ (1954-1994) và cho tới bây giờ vẫn còn gốc gác
ấy. Người ta còn nói ông thường vận dụng “Nhân tướng học” để chọn cán
bộ, và bất kỳ ai trái ý ông đều trở thành nạn nhân, tiêu biểu là Đại
tướng Võ Nguyên Giáp. Ông chuyên trách công tác Tổ chức Đảng, nhưng
khoái cầm quân, ham chiến đấu, xông vào chiến dịch Mậu Thân 1968, chiến
dịch Hồ Chí Minh 1975 và tấn công đánh đuổi Polpot trên đất Campuchia
1-1979.
Ông
Lê Đức Thọ nổi tiếng trong vai trò Cố vấn tối cao cho phái đoàn đàm
phán của chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa tại Hội nghị Pari, ông đã
từ chối nhận một nửa Giải Noben hòa bình với tiến sỹ Kissinger.
Ông mất ngày 13-10-1990 để lại nhiều tiếng tốt, không ít điều xấu, nhưng, như ông nói, hãy để cho lịch sử phán xét.
Tôi chỉ kể lại hai mẩu chuyện có thật tôi được nghe, như một chi tiết nhỏ trong cuốn lịch sử chưa viết về ông Lê Đức Thọ.
Khi
con người nắm quyền lực trong tay, phần vì hãnh tiến, phần sợ bị kẻ
khác tước đoạt hoặc lợi dụng, trở nên đa nghi, tàn nhẫn, đôi khi mê
muội, mất cả lương tâm, hại cả bạn bè người thân.
Những con người đó đều sẽ rơi vào trạng thái bi kịch, hụt hẫng khi quyền lực tuột khỏi tay, mà không ai tránh khỏi.
Con
chim sắp chết hót hay, con người sắp chết nói thật, hình như rất đúng
với trường hợp ông Lê Đức Thọ. Tôi được biết trước khi mất ông gặp nhiều
người chứ không riêng ông Ung Văn Khiêm và Trần Bạch Đằng.
* Chỗ này tác giả nhầm, ông Ung Văn Khiêm là cháu nội cụ Ung Văn Tre, không phải con thứ.
'Lịch sử sẽ tôn vinh ông Lê Trọng Nghĩa'
Giáo sư Tương LaiGửi cho BBC từ TP HCM
23 tháng 2 2015
Tôi
là một kẻ hậu sinh, đàn em của Anh, được tiếp xúc với anh rất ít, nhưng
Anh là một trong những con người chân chính đã để lại trong tôi sự kính
phục và yêu mến.
Ấn tượng về đôi mắt rực sáng trong cái
nhìn đôn hậu của Anh đã chìm sâu trong ký ức tôi, giục giã tôi và cũng
đang day dứt tâm hồn tôi.
Sáng nay, 23.2.2015, đang xúc động với
hình ảnh Nguyễn Thái Bình trên VTV1 trong chủ đề quê hương với người
Việt Nam ở nước ngoài, bồi hồi nhìn lại hình ảnh những người bạn quý
mến Ngô Thanh Nhàn, Ngô Vĩnh Long kể lại kỷ niệm về Nguyễn Thái Bình,
người thanh niên quả cảm bị giết hại năm 23 tuổi, và nay đang là tên một
đường phố tại Quận I, Sài Gòn, một chương trình khá nhất của truyền
hình Tết vì được xây dựng công phu và có hồn vì có sự chân thật của tình
người, thì cháu tôi gọi: "Cậu ơi, bác Lê Trọng Nghĩa mất rồi, đài BBC
vừa đưa".
Càng bàng hoàng hơn khi cháu tôi day dứt :"quả là đã
định làm gì thì phải làm ngay, chỉ chậm một tí là là phải ân hận, sau
buổi trao đổi với Cậu, cháu đã định đến thăm bác Nghĩa ngay đế cám ơn
bác ấy đã kể cho cháu nghe về nhiều kỷ niệm với Ba cháu, nhưng chần chừ
đợi có sách đã, để hôm nay cầm cuốn sách định đến tặng bác ấy thì không
kịp nữa rồi".
Nỗi day dứt ấy cũng là nỗi day dứt của chính tôi.
Nếu
người thanh niên trí thức học ở Mỹ được phong anh hùng vì tinh thần yêu
nước và hành động quả cảm đấu tranh lên án cuộc chiến tranh đẫm máu của
Mỹ tại Việt Nam ngay trên đất nước Mỹ và đã bị bắn chết rồi vứt xác
trên phi trường Tân Sơn Nhất ngày 2.7.1972, thì cũng bằng tuổi ấy, người
thanh niên Lê Trọng Nghĩa là ủy viên Ủy ban Khởi nghĩa ở Hà Nội những
ngày trước Cách mạng Tháng 8.1945, từng là đại biểu Quốc hội khóa I, là
Chánh văn phòng Quân ủy TƯ, Bộ Quốc phòng và Cục trưởng Cục tình báo Bộ
Tổng tham mưu, Bí thư Đảng ủy Bộ tổng tham mưu và rồi bị tù 9 năm về "Vụ
án xét lại", một nghi án đen tối đáng xấu hổ và nhục nhã trong lịch sử
của Đảng Cộng sản Việt Nam mà chính những người trong cuộc của thời điểm
ấy đã công khai lên tiếng.
Thế rồi, hôm nay người ta long trọng
và xúc động tri ân một người xứng đáng được tri ân đồng thời lại im ắng,
một sự im ắng đáng xấu hổ, của sự ra đi của một con người cũng rất đáng
được tri ân vì sự cống hiến, vì bản lĩnh và nhân cách cao thượng của
một người chiến sĩ quả cảm và kiên cường từng đi tiên phong trong Cách
mạng Tháng 8 và trong kháng chiến chống ngoại xâm.
Nhói trong tim
tôi lời cảnh báo của Martin Luther King :“Trong thế giới này, chúng ta
không chỉ xót xa vì những hành động và lời nói của người xấu mà còn cả
vì sự im lặng đáng sợ của người tốt.”
Lần gặp cuối cùng
Hôm
ấy, hình như hôm 12.9.2014, tôi bỏ một buổi đại hội Mặt Trận Tổ quốc
tại Hà Nội đến anh Nghĩa theo lời mời của anh qua điện thoại.
Anh
có vẻ hơi sốt ruột. Vì theo lịch hẹn giữa anh với anh Việt Phương và
tôi, phải sáng chủ nhật, 14.9, trước khi bay về Sài Gòn chuyến tối,
chúng tôi mới đến anh.
Ông già 92 tuổi phải lần từng bước bốn tầng cầu thang tối om để xuống mở cửa cho tôi, cho dù tôi đã hết sức ngăn.
Mở
được cửa rồi, anh xua xua tay ra hiệu tôi đừng hỏi, ý chừng phải để cho
anh thở, lấy lại sức đã. Ngồi ngay tại đấy nói chuyện được vài câu, anh
lại xua tay "phải lên phòng tôi thôi".
Lại hổn hển từng bước leo lên bốn tầng
lầu. Chỉ tay mời tôi ngồi xuống chiêc ghế cạnh giường, anh lại xua xua
tay làm hiệu đừng hỏi, để cho anh thở, lấy lại sức đã. Ấy thế mà khi đã
vào guồng, như được tiếp thêm sức từ những hồi ức mà anh muốn kể cho
tôi, tôi cố ngăn vì sợ anh mệt thì anh xua tay cười hiền hậu "để mình
nói, cũng chẳng có nhiều dịp nữa đâu, mình dặn Việt Phuơng là nếu Tương
Lai ra Hà Nội thì cố đến ngay nhà mình mà, nhiều chuyện cần nói lắm,
mình biết cậu cũng chẳng ở lâu được"!
Tôi day dứt vì chính nụ
cười hiền hậu và gửi gắm ấy của Anh, và sự day dứt đã thành nỗi đau
trong tim tôi lúc này đây anh Nghĩa ơi.
Biết tôi có nhiều suy tư
qua tiểu luận nghiên cứu mà tôi đã có dịp gửi nhờ anh xem và góp phần
chỉnh sửa cách đây đã lâu, trong đó có một kiến nghị la hãy trở lại với
tên Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được khai sinh với cách mạng Tháng
8.1945 và Tuyên ngôn Độc lập 2.9.1945 thay vì giữ cái tên nước vô nghĩa
như đang dùng, anh dành nhiều thì giờ nói kỹ hơn những điều anh đã viết
về những sự kiện lịch sử mà anh là một trong những nhân chứng của thời
"tiền khởi nghĩa Tháng 8. 1945".
Trong đó, anh đặc biệt nhấn mạnh
đến truyền thống quật cường và tinh thần yêu nước của người Việt Nam,
của thanh niên Hà Nội lúc bấy giờ, những tổng kết nhằm quy về cho thắng
lợi của CMT8 và khởi nghĩa giành chính quyền là "thắng lợi của Chủ nghĩa
Mác Lênin" là kiên cưỡng và "vơ vào" rất vô lối chứ hồi ấy chúng tôi
nào có biết Mác Lê là gì đâu.
Anh kể một số sự kiện để chứng minh cho nhận định trên, nói về những con người cụ thể đã phân công nhau làm những gì.
Giọng
anh trở nên chùng xuống khi trả lời câu hỏi của tôi về chuyện anh đến
Bộ chỉ huy quân Nhật ở Đồn Thủy để nói rõ lực lượng khởi nghĩa không tấn
công lực lượng Nhật đã đầu hàng Đồng minh mà chỉ cốt giành chính quyền.
Anh không muốn nói nhiều về kết quả có
được trong cuộc đấu tranh khôn khéo ấy do anh đại diện cho Ủy ban khởi
nghĩa, đã khiến quân Nhật rút về trại và không can thiệp vào cuộc khởi
nghĩa ở Hà Nội, tránh đổ máu vô ích.
Rồi hào hứng trở lại khi anh
nói về những chuyện lý thú, sống động về tính sáng tạo và thông minh
của những chàng thanh niên Hà Nội trong cuộc thử lửa cũng như những ngờ
nghệch đáng yêu của họ khi đi vào cuộc chiến đấu mà như đi vào ngày hội.
Thấy
trên giường của anh có quyền "Đèn Cù" của Trần Đĩnh in theo khổ lớn
đang đọc dở , tôi hỏi nhận xét của anh, điều mà tôi đã hẹn trước qua
điện thoại, anh xua tay. "Chưa đọc. mà cũng ngại đọc. Đấy, mới tới trang
18, chẳng biết anh nào ở Bộ Ngoại giao in ra rồi gửi cho tôi. Thì cứ
viết ra đi đã cũng có cái hay, còn tùy thuộc vào cái tâm của người viết.
Hãy để cho lịch sử trả lời đúng, sai, hay, dở.
Tôi đọc được 18
trang rồi vứt đó nên chưa trả lời câu hỏi của anh được. Anh đặt ra những
vấn đề rất trúng, nhưng thôi hẹn lần sau. Tôi phải đọc cái đã, nhưng
mệt quá rồi".
Và anh bắt sang chuyện anh muốn hỏi tôi về cuốn sách
tôi viết đã lâu xoay quanh chủ đề "Gia đình Việt Nam" và "Nghiên cứu xã
hội học về gia đình". Tôi có cảm tưởng anh đang muốn trao đổi kỹ về đề
tài này trong những lời tâm sự của anh, nhưng chắc do ước lượng về thời
gian, anh tự chuyển sang những câu hỏi khác về công việc tôi đang làm.
Cứ
thế, tôi có cảm tưởng người ngồi trên giường trước mặt tôi không còn là
ông già 91 tuổi vừa hụt hơi lúc nãy, giọng anh khỏe khoắn, trầm hùng
khi nói về những suy ngẫm, những phân tích sống động, trầm tĩnh và sâu
lắng về những sự kiện lịch sử.
Đặc biệt, anh không mảy may nhắc
đến những oan khuất mà anh phải chịu đựng, không chỉ 9 năm tù đày mà rồi
gia đình và bản thân anh hiện nay. Thấy tôi tế nhị khơi gợi đến chuyện
này, anh cười "thì tôi đã nói với anh hôm ở nhà anh Văn rồi còn gì?".
Chuyện ở nhà 'anh Văn'
Đó
là câu chuyện cách nay đã hơn bốn năm. Hôm ấy tôi từ thành phố Hồ Chí
Minh bay ra để đến dự cuộc họp mặt thân mật mừng thọ 99 tuổi Đại tướng
Võ Nguyên Giáp. Ngồi cạnh anh, tôi có ghé vào tai "Anh phải viết lại đi.
Rồi các anh lần lượt ra đi cả, quãng trống của lịch sử sẽ khó có ai lấp
đầy được.
"Mà phải để cho lịch sử biểu tỏ sự công minh của nó,
còn để cho các thế hệ sau này hiểu được về cha anh họ chứ. Anh ngại viết
thì cứ nói vào máy, tôi sẽ nhờ học trò tôi làm việc này, gỡ băng ra,
anh xem lại, nếu anh thấy cần, tôi tình nguyện biên tập chỉnh sửa lại
cho anh.
"Nhưng phải nhanh lên, vì cũng chẳng biết thế nào mà tính
trước được đâu, chưa chừng tôi "đi trước' cả anh và anh Việt Phương
biết đâu, mặc dầu tôi thua anh một giáp đấy".
Anh chỉ cười, không trả lời. Gần cuối buổi, anh đột nhiên kéo tay tôi, chỉ một người đang đứng gần cửa ra vào:
"Này,TL,
nếu muốn viết thì anh viết về anh ấy thì hay hơn, một "nhân chứng sống"
và cũng "thời sự" hơn đấy". Câu chuyện sẽ quá dài nếu tôi kể sâu hơn về
người mà anh muốn tôi viết. Hơn nữa, tính "thời sự" mà anh muốn nói thì
cuộc sống đã nói hay hơn gấp triệu triệu lần những cây bút tài ba nhất,
nhạy bén nhất chỉ hai năm sau ngày anh nói với tôi.
Vả chăng, tôi
đâu phải là một nhà báo, tôi cũng chẳng phải là nhà văn. Tôi chỉ là
người muốn ghi chép lại những sự kiện lịch sử, và Anh chính là một "hiện
tượng lịch sử đích thực".
Anh là một nỗi đau của lịch sử. Đúng
hơn, nỗi đau của những người dám dấn thân vì nghĩa lớn của đất nước, vì
nghĩa cả giải phóng dân tộc để giải phóng con người, xây dựng một xã hội
nhằm thể hiện mục tiêu cao cả : "sự phát triển tự do của mỗi con người
là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người" đã bị người
ta phản bội nhân danh chính những điều đẹp đẽ ấy.
Phản bội một
cách trắng trợn và đáng ghê tởm, hay phản bội bởi những sự lừa mị, ngu
dân với những lời đường mật cửa miệng lươn lẹo, cũng đều là sự phản bội.
Nạn nhân của 'phản bội'
Và
anh là nạn nhân tiêu biểu của sự phản bội ấy. Người ta nói với anh chỉ
cần gật đầu thừa nhận một câu chuyện bịa đặt nhằm một mục đích chính trị
bẩn thỉu, thì anh sẽ được trả tự do và dễ dàng bước lên những bậc thang
danh vọng, vì anh đã từng giữ nhiều trọng trách mà những thuộc cấp đứng
dưới anh rất xa nay đã ngất nghểu trên những cái ghế cao quyền thế,
danh vọng, bổng lộc.
Nhưng anh đã nhã nhặn rồi phẫn nộ từ chối.
Lương tâm của người chiến sĩ dám xả thân vì ngĩa lớn không cho phép anh
phản bội chính mình, phản bội đồng chí, đồng đội mình.
Một cái lắc
đầu có sức nặng của một quả núi sừng sững trước bão táp cuồng nộ của
bạo lực và mua chuộc. Những người từng chứng kiến bi kịch của anh đã kể
lại cho chúng tôi nghe về bản lĩnh và phẩm cách của anh.
Và, anh Nghĩa ơi, cái chuyện về tính
"thời sự" mà anh nhắc tôi hôm ấy thì như tôi vừa nói, cuộc sống đã thực
thi sứ mệnh tuyệt vời của nó bằng việc tiễn đưa vị lão tướng huyền thoại
nằm ngoài mọi kịch bản soạn sẵn và những toan tính ở nhiều góc độ.
Anh
là người Thư ký tuyệt vời nhất của vị lão tướng huyền thoại ấy, cũng
là người xứng đáng nhất trong dòng người bất tận xếp hàng thắp nén hương
tiễn biệt người thủ trưởng mà anh hết lòng yêu kính và kiên cường bảo
vệ. Họ tự nguyện đứng xếp hàng để được biểu tỏ tấm lòng thành kính tri
ân, nhớ thương một con người đã góp phần viết nên những trang sử vẻ vang
của dân tộc, nay đã đi vào lịch sử.
Phải chăng con đường ngoằn nghoèo người xếp hàng kia cũng đang là biểu tượng một nét dáng của lịch sử?
Lịch sử đang đi những bước chậm rãi nhưng chất chứa nhiều tiềm ẩn khó lường anh Nghĩa ạ.
Nếu
lịch sử là con người nhân với thời gian, thì sự sòng phẳng của lịch sử
chính là ánh phản chiếu của lòng dân tôn vinh những người đã góp phần
làm nên lịch sử. Vị “tư lệnh của các tư lệnh, chính ủy của các chính ủy”
mà có lúc người ta cố tình lảng tránh những oan khuất, vô tình hay hữu ý
toa rập cho toan tính bẩn thỉu nhằm che lấp sự thật lịch sử. Nhưng lịch
sử sớm muộn cũng thực hiện sứ mệnh công minh của nó là trả về những giá
trị đích thực đã từng bị vùi lấp.
Và lòng dân đã thực thi sứ mệnh
ấy của lịch sử. Chính vì thế, lịch sử rồi cũng đang làm và sẽ làm điều
ấy với Lê Trọng Nghĩa, người Thư ký kiên cường, Cục trưởng Cục quân báo,
Chánh Văn phòng Quân ủy Trung ương, gắn bó mật thiết với sự nghiệp của
Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Cho đến giờ phút này báo chí chính thống
trong nước đã dành việc đưa tin Lê Trọng Nghĩa từ biệt thế giới này cho
đài BBC để rồi cũng sẽ có lúc những người chủ trương sự im lặng đáng
ngờ này sẽ phải trả giá đắt.
Trước hết là phải gánh chịu thêm sự
phẫn nộ và khinh miệt của lòng dân và công luận. Thì cũng giống như dạo
nào người ta phải gọi những tàu ăn cướp của Trung Quốc đâm chìm tàu cá
của ngư dân ta trên vùng hải phận thuộc chủ quyền của ta là "tàu lạ", để
rồi bây giờ cũng có chút bẽ bàng với dân và với thế giới khi gọi đúng
tên người "bạn vàng 16 chữ và bốn tốt" là bọn Trung Quốc xâm lược.
Công
luận và lòng dân đã quá hiểu rõ chuyện "tàu lạ" và bụng dạ thì quen với
việc không dám đối mặt với sự thật và cũng không dám chịu trách nhiệm
cần phải ứng xử kịp thời trước những tình huống đòi hỏi một nhãn quan
chính trị sáng suốt và bắt kịp mạch đập của cuộc sống với tâm trạng của
người dân.
Kịp thời phục hồi danh dự cho một chiến sĩ kiên cường,
một nhân cách cao thượng, một người bị oan khuất song vẫn tràn đầy nhiệt
huyết với nước với dân, là một hành vi chính trị và phục hồi đạo lý có ý
nghĩa gấp vạn lần những lời nói sáo rỗng và hành động mỵ dân mà người
ta đã qúa nhàm chán.
Không sớm thì muộn, việc đó cũng phải làm.
Bài học về lòng dân đưa tang và tưởng niệm Đại tướng Võ Nguyên Giáp là
một bài học đắt giá cho những ai muốn học tập ông cha trong việc thực
hiện chính sách thân dân, điểm tựa vững chắc nhất của một đường lối dựng
nước, cứu nước, giữ nước và xây dựng nền thịnh trị của một đất nước.
Nén
nỗi day dứt, tôi cố viết vài dòng về anh, nhưng sao con chữ cứ nhảy múa
vòng vèo không diễn đạt được tâm trạng của mình. Thôi đành tự an ủi
“vọt từ suối phun ra là nước, chảy từ mạch máu ra đều là máu”, tôi viết
trong nỗi đau thương nhớ Anh, anh Lê Trọng Nghĩa ơi, nụ cười thanh thản
và điềm đạm của anh đang giục giã chúng tôi, những người quý trọng,
thương mến anh và nguyện theo gương Anh. Bài viết thể hiện quan điểm và cách hành văn của Giáo sư Tương Lai, người gửi bài cho BBC từ thành phố Hồ Chí Minh
Tôi
là một kẻ hậu sinh, đàn em của Anh, được tiếp xúc với anh rất ít, nhưng
Anh là một trong những con người chân chính đã để lại trong tôi sự kính
phục và yêu mến.
Ấn tượng về đôi mắt rực sáng trong cái
nhìn đôn hậu của Anh đã chìm sâu trong ký ức tôi, giục giã tôi và cũng
đang day dứt tâm hồn tôi.
Sáng nay, 23.2.2015, đang xúc động với
hình ảnh Nguyễn Thái Bình trên VTV1 trong chủ đề quê hương với người
Việt Nam ở nước ngoài, bồi hồi nhìn lại hình ảnh những người bạn quý
mến Ngô Thanh Nhàn, Ngô Vĩnh Long kể lại kỷ niệm về Nguyễn Thái Bình,
người thanh niên quả cảm bị giết hại năm 23 tuổi, và nay đang là tên một
đường phố tại Quận I, Sài Gòn, một chương trình khá nhất của truyền
hình Tết vì được xây dựng công phu và có hồn vì có sự chân thật của tình
người, thì cháu tôi gọi: "Cậu ơi, bác Lê Trọng Nghĩa mất rồi, đài BBC
vừa đưa".
Càng bàng hoàng hơn khi cháu tôi day dứt :"quả là đã
định làm gì thì phải làm ngay, chỉ chậm một tí là là phải ân hận, sau
buổi trao đổi với Cậu, cháu đã định đến thăm bác Nghĩa ngay đế cám ơn
bác ấy đã kể cho cháu nghe về nhiều kỷ niệm với Ba cháu, nhưng chần chừ
đợi có sách đã, để hôm nay cầm cuốn sách định đến tặng bác ấy thì không
kịp nữa rồi".
Nỗi day dứt ấy cũng là nỗi day dứt của chính tôi.
Nếu
người thanh niên trí thức học ở Mỹ được phong anh hùng vì tinh thần yêu
nước và hành động quả cảm đấu tranh lên án cuộc chiến tranh đẫm máu của
Mỹ tại Việt Nam ngay trên đất nước Mỹ và đã bị bắn chết rồi vứt xác
trên phi trường Tân Sơn Nhất ngày 2.7.1972, thì cũng bằng tuổi ấy, người
thanh niên Lê Trọng Nghĩa là ủy viên Ủy ban Khởi nghĩa ở Hà Nội những
ngày trước Cách mạng Tháng 8.1945, từng là đại biểu Quốc hội khóa I, là
Chánh văn phòng Quân ủy TƯ, Bộ Quốc phòng và Cục trưởng Cục tình báo Bộ
Tổng tham mưu, Bí thư Đảng ủy Bộ tổng tham mưu và rồi bị tù 9 năm về "Vụ
án xét lại", một nghi án đen tối đáng xấu hổ và nhục nhã trong lịch sử
của Đảng Cộng sản Việt Nam mà chính những người trong cuộc của thời điểm
ấy đã công khai lên tiếng.
Thế rồi, hôm nay người ta long trọng
và xúc động tri ân một người xứng đáng được tri ân đồng thời lại im ắng,
một sự im ắng đáng xấu hổ, của sự ra đi của một con người cũng rất đáng
được tri ân vì sự cống hiến, vì bản lĩnh và nhân cách cao thượng của
một người chiến sĩ quả cảm và kiên cường từng đi tiên phong trong Cách
mạng Tháng 8 và trong kháng chiến chống ngoại xâm.
Nhói trong tim
tôi lời cảnh báo của Martin Luther King :“Trong thế giới này, chúng ta
không chỉ xót xa vì những hành động và lời nói của người xấu mà còn cả
vì sự im lặng đáng sợ của người tốt.”
Lần gặp cuối cùng
Hôm
ấy, hình như hôm 12.9.2014, tôi bỏ một buổi đại hội Mặt Trận Tổ quốc
tại Hà Nội đến anh Nghĩa theo lời mời của anh qua điện thoại.
Anh
có vẻ hơi sốt ruột. Vì theo lịch hẹn giữa anh với anh Việt Phương và
tôi, phải sáng chủ nhật, 14.9, trước khi bay về Sài Gòn chuyến tối,
chúng tôi mới đến anh.
Ông già 92 tuổi phải lần từng bước bốn tầng cầu thang tối om để xuống mở cửa cho tôi, cho dù tôi đã hết sức ngăn.
Mở
được cửa rồi, anh xua xua tay ra hiệu tôi đừng hỏi, ý chừng phải để cho
anh thở, lấy lại sức đã. Ngồi ngay tại đấy nói chuyện được vài câu, anh
lại xua tay "phải lên phòng tôi thôi".
Lại hổn hển từng bước leo lên bốn tầng
lầu. Chỉ tay mời tôi ngồi xuống chiêc ghế cạnh giường, anh lại xua xua
tay làm hiệu đừng hỏi, để cho anh thở, lấy lại sức đã. Ấy thế mà khi đã
vào guồng, như được tiếp thêm sức từ những hồi ức mà anh muốn kể cho
tôi, tôi cố ngăn vì sợ anh mệt thì anh xua tay cười hiền hậu "để mình
nói, cũng chẳng có nhiều dịp nữa đâu, mình dặn Việt Phuơng là nếu Tương
Lai ra Hà Nội thì cố đến ngay nhà mình mà, nhiều chuyện cần nói lắm,
mình biết cậu cũng chẳng ở lâu được"!
Tôi day dứt vì chính nụ
cười hiền hậu và gửi gắm ấy của Anh, và sự day dứt đã thành nỗi đau
trong tim tôi lúc này đây anh Nghĩa ơi.
Biết tôi có nhiều suy tư
qua tiểu luận nghiên cứu mà tôi đã có dịp gửi nhờ anh xem và góp phần
chỉnh sửa cách đây đã lâu, trong đó có một kiến nghị la hãy trở lại với
tên Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được khai sinh với cách mạng Tháng
8.1945 và Tuyên ngôn Độc lập 2.9.1945 thay vì giữ cái tên nước vô nghĩa
như đang dùng, anh dành nhiều thì giờ nói kỹ hơn những điều anh đã viết
về những sự kiện lịch sử mà anh là một trong những nhân chứng của thời
"tiền khởi nghĩa Tháng 8. 1945".
Trong đó, anh đặc biệt nhấn mạnh
đến truyền thống quật cường và tinh thần yêu nước của người Việt Nam,
của thanh niên Hà Nội lúc bấy giờ, những tổng kết nhằm quy về cho thắng
lợi của CMT8 và khởi nghĩa giành chính quyền là "thắng lợi của Chủ nghĩa
Mác Lênin" là kiên cưỡng và "vơ vào" rất vô lối chứ hồi ấy chúng tôi
nào có biết Mác Lê là gì đâu.
Anh kể một số sự kiện để chứng minh cho nhận định trên, nói về những con người cụ thể đã phân công nhau làm những gì.
Giọng
anh trở nên chùng xuống khi trả lời câu hỏi của tôi về chuyện anh đến
Bộ chỉ huy quân Nhật ở Đồn Thủy để nói rõ lực lượng khởi nghĩa không tấn
công lực lượng Nhật đã đầu hàng Đồng minh mà chỉ cốt giành chính quyền.
Anh không muốn nói nhiều về kết quả có
được trong cuộc đấu tranh khôn khéo ấy do anh đại diện cho Ủy ban khởi
nghĩa, đã khiến quân Nhật rút về trại và không can thiệp vào cuộc khởi
nghĩa ở Hà Nội, tránh đổ máu vô ích.
Rồi hào hứng trở lại khi anh
nói về những chuyện lý thú, sống động về tính sáng tạo và thông minh
của những chàng thanh niên Hà Nội trong cuộc thử lửa cũng như những ngờ
nghệch đáng yêu của họ khi đi vào cuộc chiến đấu mà như đi vào ngày hội.
Thấy
trên giường của anh có quyền "Đèn Cù" của Trần Đĩnh in theo khổ lớn
đang đọc dở , tôi hỏi nhận xét của anh, điều mà tôi đã hẹn trước qua
điện thoại, anh xua tay. "Chưa đọc. mà cũng ngại đọc. Đấy, mới tới trang
18, chẳng biết anh nào ở Bộ Ngoại giao in ra rồi gửi cho tôi. Thì cứ
viết ra đi đã cũng có cái hay, còn tùy thuộc vào cái tâm của người viết.
Hãy để cho lịch sử trả lời đúng, sai, hay, dở.
Tôi đọc được 18
trang rồi vứt đó nên chưa trả lời câu hỏi của anh được. Anh đặt ra những
vấn đề rất trúng, nhưng thôi hẹn lần sau. Tôi phải đọc cái đã, nhưng
mệt quá rồi".
Và anh bắt sang chuyện anh muốn hỏi tôi về cuốn sách
tôi viết đã lâu xoay quanh chủ đề "Gia đình Việt Nam" và "Nghiên cứu xã
hội học về gia đình". Tôi có cảm tưởng anh đang muốn trao đổi kỹ về đề
tài này trong những lời tâm sự của anh, nhưng chắc do ước lượng về thời
gian, anh tự chuyển sang những câu hỏi khác về công việc tôi đang làm.
Cứ
thế, tôi có cảm tưởng người ngồi trên giường trước mặt tôi không còn là
ông già 91 tuổi vừa hụt hơi lúc nãy, giọng anh khỏe khoắn, trầm hùng
khi nói về những suy ngẫm, những phân tích sống động, trầm tĩnh và sâu
lắng về những sự kiện lịch sử.
Đặc biệt, anh không mảy may nhắc
đến những oan khuất mà anh phải chịu đựng, không chỉ 9 năm tù đày mà rồi
gia đình và bản thân anh hiện nay. Thấy tôi tế nhị khơi gợi đến chuyện
này, anh cười "thì tôi đã nói với anh hôm ở nhà anh Văn rồi còn gì?".
Chuyện ở nhà 'anh Văn'
Đó
là câu chuyện cách nay đã hơn bốn năm. Hôm ấy tôi từ thành phố Hồ Chí
Minh bay ra để đến dự cuộc họp mặt thân mật mừng thọ 99 tuổi Đại tướng
Võ Nguyên Giáp. Ngồi cạnh anh, tôi có ghé vào tai "Anh phải viết lại đi.
Rồi các anh lần lượt ra đi cả, quãng trống của lịch sử sẽ khó có ai lấp
đầy được.
"Mà phải để cho lịch sử biểu tỏ sự công minh của nó,
còn để cho các thế hệ sau này hiểu được về cha anh họ chứ. Anh ngại viết
thì cứ nói vào máy, tôi sẽ nhờ học trò tôi làm việc này, gỡ băng ra,
anh xem lại, nếu anh thấy cần, tôi tình nguyện biên tập chỉnh sửa lại
cho anh.
"Nhưng phải nhanh lên, vì cũng chẳng biết thế nào mà tính
trước được đâu, chưa chừng tôi "đi trước' cả anh và anh Việt Phương
biết đâu, mặc dầu tôi thua anh một giáp đấy".
Anh chỉ cười, không trả lời. Gần cuối buổi, anh đột nhiên kéo tay tôi, chỉ một người đang đứng gần cửa ra vào:
"Này,TL,
nếu muốn viết thì anh viết về anh ấy thì hay hơn, một "nhân chứng sống"
và cũng "thời sự" hơn đấy". Câu chuyện sẽ quá dài nếu tôi kể sâu hơn về
người mà anh muốn tôi viết. Hơn nữa, tính "thời sự" mà anh muốn nói thì
cuộc sống đã nói hay hơn gấp triệu triệu lần những cây bút tài ba nhất,
nhạy bén nhất chỉ hai năm sau ngày anh nói với tôi.
Vả chăng, tôi
đâu phải là một nhà báo, tôi cũng chẳng phải là nhà văn. Tôi chỉ là
người muốn ghi chép lại những sự kiện lịch sử, và Anh chính là một "hiện
tượng lịch sử đích thực".
Anh là một nỗi đau của lịch sử. Đúng
hơn, nỗi đau của những người dám dấn thân vì nghĩa lớn của đất nước, vì
nghĩa cả giải phóng dân tộc để giải phóng con người, xây dựng một xã hội
nhằm thể hiện mục tiêu cao cả : "sự phát triển tự do của mỗi con người
là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người" đã bị người
ta phản bội nhân danh chính những điều đẹp đẽ ấy.
Phản bội một
cách trắng trợn và đáng ghê tởm, hay phản bội bởi những sự lừa mị, ngu
dân với những lời đường mật cửa miệng lươn lẹo, cũng đều là sự phản bội.
Nạn nhân của 'phản bội'
Và
anh là nạn nhân tiêu biểu của sự phản bội ấy. Người ta nói với anh chỉ
cần gật đầu thừa nhận một câu chuyện bịa đặt nhằm một mục đích chính trị
bẩn thỉu, thì anh sẽ được trả tự do và dễ dàng bước lên những bậc thang
danh vọng, vì anh đã từng giữ nhiều trọng trách mà những thuộc cấp đứng
dưới anh rất xa nay đã ngất nghểu trên những cái ghế cao quyền thế,
danh vọng, bổng lộc.
Nhưng anh đã nhã nhặn rồi phẫn nộ từ chối.
Lương tâm của người chiến sĩ dám xả thân vì ngĩa lớn không cho phép anh
phản bội chính mình, phản bội đồng chí, đồng đội mình.
Một cái lắc
đầu có sức nặng của một quả núi sừng sững trước bão táp cuồng nộ của
bạo lực và mua chuộc. Những người từng chứng kiến bi kịch của anh đã kể
lại cho chúng tôi nghe về bản lĩnh và phẩm cách của anh.
Và, anh Nghĩa ơi, cái chuyện về tính
"thời sự" mà anh nhắc tôi hôm ấy thì như tôi vừa nói, cuộc sống đã thực
thi sứ mệnh tuyệt vời của nó bằng việc tiễn đưa vị lão tướng huyền thoại
nằm ngoài mọi kịch bản soạn sẵn và những toan tính ở nhiều góc độ.
Anh
là người Thư ký tuyệt vời nhất của vị lão tướng huyền thoại ấy, cũng
là người xứng đáng nhất trong dòng người bất tận xếp hàng thắp nén hương
tiễn biệt người thủ trưởng mà anh hết lòng yêu kính và kiên cường bảo
vệ. Họ tự nguyện đứng xếp hàng để được biểu tỏ tấm lòng thành kính tri
ân, nhớ thương một con người đã góp phần viết nên những trang sử vẻ vang
của dân tộc, nay đã đi vào lịch sử.
Phải chăng con đường ngoằn nghoèo người xếp hàng kia cũng đang là biểu tượng một nét dáng của lịch sử?
Lịch sử đang đi những bước chậm rãi nhưng chất chứa nhiều tiềm ẩn khó lường anh Nghĩa ạ.
Nếu
lịch sử là con người nhân với thời gian, thì sự sòng phẳng của lịch sử
chính là ánh phản chiếu của lòng dân tôn vinh những người đã góp phần
làm nên lịch sử. Vị “tư lệnh của các tư lệnh, chính ủy của các chính ủy”
mà có lúc người ta cố tình lảng tránh những oan khuất, vô tình hay hữu ý
toa rập cho toan tính bẩn thỉu nhằm che lấp sự thật lịch sử. Nhưng lịch
sử sớm muộn cũng thực hiện sứ mệnh công minh của nó là trả về những giá
trị đích thực đã từng bị vùi lấp.
Và lòng dân đã thực thi sứ mệnh
ấy của lịch sử. Chính vì thế, lịch sử rồi cũng đang làm và sẽ làm điều
ấy với Lê Trọng Nghĩa, người Thư ký kiên cường, Cục trưởng Cục quân báo,
Chánh Văn phòng Quân ủy Trung ương, gắn bó mật thiết với sự nghiệp của
Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Cho đến giờ phút này báo chí chính thống
trong nước đã dành việc đưa tin Lê Trọng Nghĩa từ biệt thế giới này cho
đài BBC để rồi cũng sẽ có lúc những người chủ trương sự im lặng đáng
ngờ này sẽ phải trả giá đắt.
Trước hết là phải gánh chịu thêm sự
phẫn nộ và khinh miệt của lòng dân và công luận. Thì cũng giống như dạo
nào người ta phải gọi những tàu ăn cướp của Trung Quốc đâm chìm tàu cá
của ngư dân ta trên vùng hải phận thuộc chủ quyền của ta là "tàu lạ", để
rồi bây giờ cũng có chút bẽ bàng với dân và với thế giới khi gọi đúng
tên người "bạn vàng 16 chữ và bốn tốt" là bọn Trung Quốc xâm lược.
Công
luận và lòng dân đã quá hiểu rõ chuyện "tàu lạ" và bụng dạ thì quen với
việc không dám đối mặt với sự thật và cũng không dám chịu trách nhiệm
cần phải ứng xử kịp thời trước những tình huống đòi hỏi một nhãn quan
chính trị sáng suốt và bắt kịp mạch đập của cuộc sống với tâm trạng của
người dân.
Kịp thời phục hồi danh dự cho một chiến sĩ kiên cường,
một nhân cách cao thượng, một người bị oan khuất song vẫn tràn đầy nhiệt
huyết với nước với dân, là một hành vi chính trị và phục hồi đạo lý có ý
nghĩa gấp vạn lần những lời nói sáo rỗng và hành động mỵ dân mà người
ta đã qúa nhàm chán.
Không sớm thì muộn, việc đó cũng phải làm.
Bài học về lòng dân đưa tang và tưởng niệm Đại tướng Võ Nguyên Giáp là
một bài học đắt giá cho những ai muốn học tập ông cha trong việc thực
hiện chính sách thân dân, điểm tựa vững chắc nhất của một đường lối dựng
nước, cứu nước, giữ nước và xây dựng nền thịnh trị của một đất nước.
Nén
nỗi day dứt, tôi cố viết vài dòng về anh, nhưng sao con chữ cứ nhảy múa
vòng vèo không diễn đạt được tâm trạng của mình. Thôi đành tự an ủi
“vọt từ suối phun ra là nước, chảy từ mạch máu ra đều là máu”, tôi viết
trong nỗi đau thương nhớ Anh, anh Lê Trọng Nghĩa ơi, nụ cười thanh thản
và điềm đạm của anh đang giục giã chúng tôi, những người quý trọng,
thương mến anh và nguyện theo gương Anh. Bài viết thể hiện quan điểm và cách hành văn của Giáo sư Tương Lai, người gửi bài cho BBC từ thành phố Hồ Chí Minh
Tôi
là một kẻ hậu sinh, đàn em của Anh, được tiếp xúc với anh rất ít, nhưng
Anh là một trong những con người chân chính đã để lại trong tôi sự kính
phục và yêu mến.
Ấn tượng về đôi mắt rực sáng trong cái
nhìn đôn hậu của Anh đã chìm sâu trong ký ức tôi, giục giã tôi và cũng
đang day dứt tâm hồn tôi.
Sáng nay, 23.2.2015, đang xúc động với
hình ảnh Nguyễn Thái Bình trên VTV1 trong chủ đề quê hương với người
Việt Nam ở nước ngoài, bồi hồi nhìn lại hình ảnh những người bạn quý
mến Ngô Thanh Nhàn, Ngô Vĩnh Long kể lại kỷ niệm về Nguyễn Thái Bình,
người thanh niên quả cảm bị giết hại năm 23 tuổi, và nay đang là tên một
đường phố tại Quận I, Sài Gòn, một chương trình khá nhất của truyền
hình Tết vì được xây dựng công phu và có hồn vì có sự chân thật của tình
người, thì cháu tôi gọi: "Cậu ơi, bác Lê Trọng Nghĩa mất rồi, đài BBC
vừa đưa".
Càng bàng hoàng hơn khi cháu tôi day dứt :"quả là đã
định làm gì thì phải làm ngay, chỉ chậm một tí là là phải ân hận, sau
buổi trao đổi với Cậu, cháu đã định đến thăm bác Nghĩa ngay đế cám ơn
bác ấy đã kể cho cháu nghe về nhiều kỷ niệm với Ba cháu, nhưng chần chừ
đợi có sách đã, để hôm nay cầm cuốn sách định đến tặng bác ấy thì không
kịp nữa rồi".
Nỗi day dứt ấy cũng là nỗi day dứt của chính tôi.
Nếu
người thanh niên trí thức học ở Mỹ được phong anh hùng vì tinh thần yêu
nước và hành động quả cảm đấu tranh lên án cuộc chiến tranh đẫm máu của
Mỹ tại Việt Nam ngay trên đất nước Mỹ và đã bị bắn chết rồi vứt xác
trên phi trường Tân Sơn Nhất ngày 2.7.1972, thì cũng bằng tuổi ấy, người
thanh niên Lê Trọng Nghĩa là ủy viên Ủy ban Khởi nghĩa ở Hà Nội những
ngày trước Cách mạng Tháng 8.1945, từng là đại biểu Quốc hội khóa I, là
Chánh văn phòng Quân ủy TƯ, Bộ Quốc phòng và Cục trưởng Cục tình báo Bộ
Tổng tham mưu, Bí thư Đảng ủy Bộ tổng tham mưu và rồi bị tù 9 năm về "Vụ
án xét lại", một nghi án đen tối đáng xấu hổ và nhục nhã trong lịch sử
của Đảng Cộng sản Việt Nam mà chính những người trong cuộc của thời điểm
ấy đã công khai lên tiếng.
Thế rồi, hôm nay người ta long trọng
và xúc động tri ân một người xứng đáng được tri ân đồng thời lại im ắng,
một sự im ắng đáng xấu hổ, của sự ra đi của một con người cũng rất đáng
được tri ân vì sự cống hiến, vì bản lĩnh và nhân cách cao thượng của
một người chiến sĩ quả cảm và kiên cường từng đi tiên phong trong Cách
mạng Tháng 8 và trong kháng chiến chống ngoại xâm.
Nhói trong tim
tôi lời cảnh báo của Martin Luther King :“Trong thế giới này, chúng ta
không chỉ xót xa vì những hành động và lời nói của người xấu mà còn cả
vì sự im lặng đáng sợ của người tốt.”
Lần gặp cuối cùng
Hôm
ấy, hình như hôm 12.9.2014, tôi bỏ một buổi đại hội Mặt Trận Tổ quốc
tại Hà Nội đến anh Nghĩa theo lời mời của anh qua điện thoại.
Anh
có vẻ hơi sốt ruột. Vì theo lịch hẹn giữa anh với anh Việt Phương và
tôi, phải sáng chủ nhật, 14.9, trước khi bay về Sài Gòn chuyến tối,
chúng tôi mới đến anh.
Ông già 92 tuổi phải lần từng bước bốn tầng cầu thang tối om để xuống mở cửa cho tôi, cho dù tôi đã hết sức ngăn.
Mở
được cửa rồi, anh xua xua tay ra hiệu tôi đừng hỏi, ý chừng phải để cho
anh thở, lấy lại sức đã. Ngồi ngay tại đấy nói chuyện được vài câu, anh
lại xua tay "phải lên phòng tôi thôi".
Lại hổn hển từng bước leo lên bốn tầng
lầu. Chỉ tay mời tôi ngồi xuống chiêc ghế cạnh giường, anh lại xua xua
tay làm hiệu đừng hỏi, để cho anh thở, lấy lại sức đã. Ấy thế mà khi đã
vào guồng, như được tiếp thêm sức từ những hồi ức mà anh muốn kể cho
tôi, tôi cố ngăn vì sợ anh mệt thì anh xua tay cười hiền hậu "để mình
nói, cũng chẳng có nhiều dịp nữa đâu, mình dặn Việt Phuơng là nếu Tương
Lai ra Hà Nội thì cố đến ngay nhà mình mà, nhiều chuyện cần nói lắm,
mình biết cậu cũng chẳng ở lâu được"!
Tôi day dứt vì chính nụ
cười hiền hậu và gửi gắm ấy của Anh, và sự day dứt đã thành nỗi đau
trong tim tôi lúc này đây anh Nghĩa ơi.
Biết tôi có nhiều suy tư
qua tiểu luận nghiên cứu mà tôi đã có dịp gửi nhờ anh xem và góp phần
chỉnh sửa cách đây đã lâu, trong đó có một kiến nghị la hãy trở lại với
tên Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được khai sinh với cách mạng Tháng
8.1945 và Tuyên ngôn Độc lập 2.9.1945 thay vì giữ cái tên nước vô nghĩa
như đang dùng, anh dành nhiều thì giờ nói kỹ hơn những điều anh đã viết
về những sự kiện lịch sử mà anh là một trong những nhân chứng của thời
"tiền khởi nghĩa Tháng 8. 1945".
Trong đó, anh đặc biệt nhấn mạnh
đến truyền thống quật cường và tinh thần yêu nước của người Việt Nam,
của thanh niên Hà Nội lúc bấy giờ, những tổng kết nhằm quy về cho thắng
lợi của CMT8 và khởi nghĩa giành chính quyền là "thắng lợi của Chủ nghĩa
Mác Lênin" là kiên cưỡng và "vơ vào" rất vô lối chứ hồi ấy chúng tôi
nào có biết Mác Lê là gì đâu.
Anh kể một số sự kiện để chứng minh cho nhận định trên, nói về những con người cụ thể đã phân công nhau làm những gì.
Giọng
anh trở nên chùng xuống khi trả lời câu hỏi của tôi về chuyện anh đến
Bộ chỉ huy quân Nhật ở Đồn Thủy để nói rõ lực lượng khởi nghĩa không tấn
công lực lượng Nhật đã đầu hàng Đồng minh mà chỉ cốt giành chính quyền.
Anh không muốn nói nhiều về kết quả có
được trong cuộc đấu tranh khôn khéo ấy do anh đại diện cho Ủy ban khởi
nghĩa, đã khiến quân Nhật rút về trại và không can thiệp vào cuộc khởi
nghĩa ở Hà Nội, tránh đổ máu vô ích.
Rồi hào hứng trở lại khi anh
nói về những chuyện lý thú, sống động về tính sáng tạo và thông minh
của những chàng thanh niên Hà Nội trong cuộc thử lửa cũng như những ngờ
nghệch đáng yêu của họ khi đi vào cuộc chiến đấu mà như đi vào ngày hội.
Thấy
trên giường của anh có quyền "Đèn Cù" của Trần Đĩnh in theo khổ lớn
đang đọc dở , tôi hỏi nhận xét của anh, điều mà tôi đã hẹn trước qua
điện thoại, anh xua tay. "Chưa đọc. mà cũng ngại đọc. Đấy, mới tới trang
18, chẳng biết anh nào ở Bộ Ngoại giao in ra rồi gửi cho tôi. Thì cứ
viết ra đi đã cũng có cái hay, còn tùy thuộc vào cái tâm của người viết.
Hãy để cho lịch sử trả lời đúng, sai, hay, dở.
Tôi đọc được 18
trang rồi vứt đó nên chưa trả lời câu hỏi của anh được. Anh đặt ra những
vấn đề rất trúng, nhưng thôi hẹn lần sau. Tôi phải đọc cái đã, nhưng
mệt quá rồi".
Và anh bắt sang chuyện anh muốn hỏi tôi về cuốn sách
tôi viết đã lâu xoay quanh chủ đề "Gia đình Việt Nam" và "Nghiên cứu xã
hội học về gia đình". Tôi có cảm tưởng anh đang muốn trao đổi kỹ về đề
tài này trong những lời tâm sự của anh, nhưng chắc do ước lượng về thời
gian, anh tự chuyển sang những câu hỏi khác về công việc tôi đang làm.
Cứ
thế, tôi có cảm tưởng người ngồi trên giường trước mặt tôi không còn là
ông già 91 tuổi vừa hụt hơi lúc nãy, giọng anh khỏe khoắn, trầm hùng
khi nói về những suy ngẫm, những phân tích sống động, trầm tĩnh và sâu
lắng về những sự kiện lịch sử.
Đặc biệt, anh không mảy may nhắc
đến những oan khuất mà anh phải chịu đựng, không chỉ 9 năm tù đày mà rồi
gia đình và bản thân anh hiện nay. Thấy tôi tế nhị khơi gợi đến chuyện
này, anh cười "thì tôi đã nói với anh hôm ở nhà anh Văn rồi còn gì?".
Chuyện ở nhà 'anh Văn'
Đó
là câu chuyện cách nay đã hơn bốn năm. Hôm ấy tôi từ thành phố Hồ Chí
Minh bay ra để đến dự cuộc họp mặt thân mật mừng thọ 99 tuổi Đại tướng
Võ Nguyên Giáp. Ngồi cạnh anh, tôi có ghé vào tai "Anh phải viết lại đi.
Rồi các anh lần lượt ra đi cả, quãng trống của lịch sử sẽ khó có ai lấp
đầy được.
"Mà phải để cho lịch sử biểu tỏ sự công minh của nó,
còn để cho các thế hệ sau này hiểu được về cha anh họ chứ. Anh ngại viết
thì cứ nói vào máy, tôi sẽ nhờ học trò tôi làm việc này, gỡ băng ra,
anh xem lại, nếu anh thấy cần, tôi tình nguyện biên tập chỉnh sửa lại
cho anh.
"Nhưng phải nhanh lên, vì cũng chẳng biết thế nào mà tính
trước được đâu, chưa chừng tôi "đi trước' cả anh và anh Việt Phương
biết đâu, mặc dầu tôi thua anh một giáp đấy".
Anh chỉ cười, không trả lời. Gần cuối buổi, anh đột nhiên kéo tay tôi, chỉ một người đang đứng gần cửa ra vào:
"Này,TL,
nếu muốn viết thì anh viết về anh ấy thì hay hơn, một "nhân chứng sống"
và cũng "thời sự" hơn đấy". Câu chuyện sẽ quá dài nếu tôi kể sâu hơn về
người mà anh muốn tôi viết. Hơn nữa, tính "thời sự" mà anh muốn nói thì
cuộc sống đã nói hay hơn gấp triệu triệu lần những cây bút tài ba nhất,
nhạy bén nhất chỉ hai năm sau ngày anh nói với tôi.
Vả chăng, tôi
đâu phải là một nhà báo, tôi cũng chẳng phải là nhà văn. Tôi chỉ là
người muốn ghi chép lại những sự kiện lịch sử, và Anh chính là một "hiện
tượng lịch sử đích thực".
Anh là một nỗi đau của lịch sử. Đúng
hơn, nỗi đau của những người dám dấn thân vì nghĩa lớn của đất nước, vì
nghĩa cả giải phóng dân tộc để giải phóng con người, xây dựng một xã hội
nhằm thể hiện mục tiêu cao cả : "sự phát triển tự do của mỗi con người
là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người" đã bị người
ta phản bội nhân danh chính những điều đẹp đẽ ấy.
Phản bội một
cách trắng trợn và đáng ghê tởm, hay phản bội bởi những sự lừa mị, ngu
dân với những lời đường mật cửa miệng lươn lẹo, cũng đều là sự phản bội.
Nạn nhân của 'phản bội'
Và
anh là nạn nhân tiêu biểu của sự phản bội ấy. Người ta nói với anh chỉ
cần gật đầu thừa nhận một câu chuyện bịa đặt nhằm một mục đích chính trị
bẩn thỉu, thì anh sẽ được trả tự do và dễ dàng bước lên những bậc thang
danh vọng, vì anh đã từng giữ nhiều trọng trách mà những thuộc cấp đứng
dưới anh rất xa nay đã ngất nghểu trên những cái ghế cao quyền thế,
danh vọng, bổng lộc.
Nhưng anh đã nhã nhặn rồi phẫn nộ từ chối.
Lương tâm của người chiến sĩ dám xả thân vì ngĩa lớn không cho phép anh
phản bội chính mình, phản bội đồng chí, đồng đội mình.
Một cái lắc
đầu có sức nặng của một quả núi sừng sững trước bão táp cuồng nộ của
bạo lực và mua chuộc. Những người từng chứng kiến bi kịch của anh đã kể
lại cho chúng tôi nghe về bản lĩnh và phẩm cách của anh.
Và, anh Nghĩa ơi, cái chuyện về tính
"thời sự" mà anh nhắc tôi hôm ấy thì như tôi vừa nói, cuộc sống đã thực
thi sứ mệnh tuyệt vời của nó bằng việc tiễn đưa vị lão tướng huyền thoại
nằm ngoài mọi kịch bản soạn sẵn và những toan tính ở nhiều góc độ.
Anh
là người Thư ký tuyệt vời nhất của vị lão tướng huyền thoại ấy, cũng
là người xứng đáng nhất trong dòng người bất tận xếp hàng thắp nén hương
tiễn biệt người thủ trưởng mà anh hết lòng yêu kính và kiên cường bảo
vệ. Họ tự nguyện đứng xếp hàng để được biểu tỏ tấm lòng thành kính tri
ân, nhớ thương một con người đã góp phần viết nên những trang sử vẻ vang
của dân tộc, nay đã đi vào lịch sử.
Phải chăng con đường ngoằn nghoèo người xếp hàng kia cũng đang là biểu tượng một nét dáng của lịch sử?
Lịch sử đang đi những bước chậm rãi nhưng chất chứa nhiều tiềm ẩn khó lường anh Nghĩa ạ.
Nếu
lịch sử là con người nhân với thời gian, thì sự sòng phẳng của lịch sử
chính là ánh phản chiếu của lòng dân tôn vinh những người đã góp phần
làm nên lịch sử. Vị “tư lệnh của các tư lệnh, chính ủy của các chính ủy”
mà có lúc người ta cố tình lảng tránh những oan khuất, vô tình hay hữu ý
toa rập cho toan tính bẩn thỉu nhằm che lấp sự thật lịch sử. Nhưng lịch
sử sớm muộn cũng thực hiện sứ mệnh công minh của nó là trả về những giá
trị đích thực đã từng bị vùi lấp.
Và lòng dân đã thực thi sứ mệnh
ấy của lịch sử. Chính vì thế, lịch sử rồi cũng đang làm và sẽ làm điều
ấy với Lê Trọng Nghĩa, người Thư ký kiên cường, Cục trưởng Cục quân báo,
Chánh Văn phòng Quân ủy Trung ương, gắn bó mật thiết với sự nghiệp của
Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Cho đến giờ phút này báo chí chính thống
trong nước đã dành việc đưa tin Lê Trọng Nghĩa từ biệt thế giới này cho
đài BBC để rồi cũng sẽ có lúc những người chủ trương sự im lặng đáng
ngờ này sẽ phải trả giá đắt.
Trước hết là phải gánh chịu thêm sự
phẫn nộ và khinh miệt của lòng dân và công luận. Thì cũng giống như dạo
nào người ta phải gọi những tàu ăn cướp của Trung Quốc đâm chìm tàu cá
của ngư dân ta trên vùng hải phận thuộc chủ quyền của ta là "tàu lạ", để
rồi bây giờ cũng có chút bẽ bàng với dân và với thế giới khi gọi đúng
tên người "bạn vàng 16 chữ và bốn tốt" là bọn Trung Quốc xâm lược.
Công
luận và lòng dân đã quá hiểu rõ chuyện "tàu lạ" và bụng dạ thì quen với
việc không dám đối mặt với sự thật và cũng không dám chịu trách nhiệm
cần phải ứng xử kịp thời trước những tình huống đòi hỏi một nhãn quan
chính trị sáng suốt và bắt kịp mạch đập của cuộc sống với tâm trạng của
người dân.
Kịp thời phục hồi danh dự cho một chiến sĩ kiên cường,
một nhân cách cao thượng, một người bị oan khuất song vẫn tràn đầy nhiệt
huyết với nước với dân, là một hành vi chính trị và phục hồi đạo lý có ý
nghĩa gấp vạn lần những lời nói sáo rỗng và hành động mỵ dân mà người
ta đã qúa nhàm chán.
Không sớm thì muộn, việc đó cũng phải làm.
Bài học về lòng dân đưa tang và tưởng niệm Đại tướng Võ Nguyên Giáp là
một bài học đắt giá cho những ai muốn học tập ông cha trong việc thực
hiện chính sách thân dân, điểm tựa vững chắc nhất của một đường lối dựng
nước, cứu nước, giữ nước và xây dựng nền thịnh trị của một đất nước.
Nén
nỗi day dứt, tôi cố viết vài dòng về anh, nhưng sao con chữ cứ nhảy múa
vòng vèo không diễn đạt được tâm trạng của mình. Thôi đành tự an ủi
“vọt từ suối phun ra là nước, chảy từ mạch máu ra đều là máu”, tôi viết
trong nỗi đau thương nhớ Anh, anh Lê Trọng Nghĩa ơi, nụ cười thanh thản
và điềm đạm của anh đang giục giã chúng tôi, những người quý trọng,
thương mến anh và nguyện theo gương Anh. Bài viết thể hiện quan điểm và cách hành văn của Giáo sư Tương Lai, người gửi bài cho BBC từ thành phố Hồ Chí Minh
Tôi
là một kẻ hậu sinh, đàn em của Anh, được tiếp xúc với anh rất ít, nhưng
Anh là một trong những con người chân chính đã để lại trong tôi sự kính
phục và yêu mến.
Ấn tượng về đôi mắt rực sáng trong cái
nhìn đôn hậu của Anh đã chìm sâu trong ký ức tôi, giục giã tôi và cũng
đang day dứt tâm hồn tôi.
Sáng nay, 23.2.2015, đang xúc động với
hình ảnh Nguyễn Thái Bình trên VTV1 trong chủ đề quê hương với người
Việt Nam ở nước ngoài, bồi hồi nhìn lại hình ảnh những người bạn quý
mến Ngô Thanh Nhàn, Ngô Vĩnh Long kể lại kỷ niệm về Nguyễn Thái Bình,
người thanh niên quả cảm bị giết hại năm 23 tuổi, và nay đang là tên một
đường phố tại Quận I, Sài Gòn, một chương trình khá nhất của truyền
hình Tết vì được xây dựng công phu và có hồn vì có sự chân thật của tình
người, thì cháu tôi gọi: "Cậu ơi, bác Lê Trọng Nghĩa mất rồi, đài BBC
vừa đưa".
Càng bàng hoàng hơn khi cháu tôi day dứt :"quả là đã
định làm gì thì phải làm ngay, chỉ chậm một tí là là phải ân hận, sau
buổi trao đổi với Cậu, cháu đã định đến thăm bác Nghĩa ngay đế cám ơn
bác ấy đã kể cho cháu nghe về nhiều kỷ niệm với Ba cháu, nhưng chần chừ
đợi có sách đã, để hôm nay cầm cuốn sách định đến tặng bác ấy thì không
kịp nữa rồi".
Nỗi day dứt ấy cũng là nỗi day dứt của chính tôi.
Nếu
người thanh niên trí thức học ở Mỹ được phong anh hùng vì tinh thần yêu
nước và hành động quả cảm đấu tranh lên án cuộc chiến tranh đẫm máu của
Mỹ tại Việt Nam ngay trên đất nước Mỹ và đã bị bắn chết rồi vứt xác
trên phi trường Tân Sơn Nhất ngày 2.7.1972, thì cũng bằng tuổi ấy, người
thanh niên Lê Trọng Nghĩa là ủy viên Ủy ban Khởi nghĩa ở Hà Nội những
ngày trước Cách mạng Tháng 8.1945, từng là đại biểu Quốc hội khóa I, là
Chánh văn phòng Quân ủy TƯ, Bộ Quốc phòng và Cục trưởng Cục tình báo Bộ
Tổng tham mưu, Bí thư Đảng ủy Bộ tổng tham mưu và rồi bị tù 9 năm về "Vụ
án xét lại", một nghi án đen tối đáng xấu hổ và nhục nhã trong lịch sử
của Đảng Cộng sản Việt Nam mà chính những người trong cuộc của thời điểm
ấy đã công khai lên tiếng.
Thế rồi, hôm nay người ta long trọng
và xúc động tri ân một người xứng đáng được tri ân đồng thời lại im ắng,
một sự im ắng đáng xấu hổ, của sự ra đi của một con người cũng rất đáng
được tri ân vì sự cống hiến, vì bản lĩnh và nhân cách cao thượng của
một người chiến sĩ quả cảm và kiên cường từng đi tiên phong trong Cách
mạng Tháng 8 và trong kháng chiến chống ngoại xâm.
Nhói trong tim
tôi lời cảnh báo của Martin Luther King :“Trong thế giới này, chúng ta
không chỉ xót xa vì những hành động và lời nói của người xấu mà còn cả
vì sự im lặng đáng sợ của người tốt.”
Lần gặp cuối cùng
Hôm
ấy, hình như hôm 12.9.2014, tôi bỏ một buổi đại hội Mặt Trận Tổ quốc
tại Hà Nội đến anh Nghĩa theo lời mời của anh qua điện thoại.
Anh
có vẻ hơi sốt ruột. Vì theo lịch hẹn giữa anh với anh Việt Phương và
tôi, phải sáng chủ nhật, 14.9, trước khi bay về Sài Gòn chuyến tối,
chúng tôi mới đến anh.
Ông già 92 tuổi phải lần từng bước bốn tầng cầu thang tối om để xuống mở cửa cho tôi, cho dù tôi đã hết sức ngăn.
Mở
được cửa rồi, anh xua xua tay ra hiệu tôi đừng hỏi, ý chừng phải để cho
anh thở, lấy lại sức đã. Ngồi ngay tại đấy nói chuyện được vài câu, anh
lại xua tay "phải lên phòng tôi thôi".
Lại hổn hển từng bước leo lên bốn tầng
lầu. Chỉ tay mời tôi ngồi xuống chiêc ghế cạnh giường, anh lại xua xua
tay làm hiệu đừng hỏi, để cho anh thở, lấy lại sức đã. Ấy thế mà khi đã
vào guồng, như được tiếp thêm sức từ những hồi ức mà anh muốn kể cho
tôi, tôi cố ngăn vì sợ anh mệt thì anh xua tay cười hiền hậu "để mình
nói, cũng chẳng có nhiều dịp nữa đâu, mình dặn Việt Phuơng là nếu Tương
Lai ra Hà Nội thì cố đến ngay nhà mình mà, nhiều chuyện cần nói lắm,
mình biết cậu cũng chẳng ở lâu được"!
Tôi day dứt vì chính nụ
cười hiền hậu và gửi gắm ấy của Anh, và sự day dứt đã thành nỗi đau
trong tim tôi lúc này đây anh Nghĩa ơi.
Biết tôi có nhiều suy tư
qua tiểu luận nghiên cứu mà tôi đã có dịp gửi nhờ anh xem và góp phần
chỉnh sửa cách đây đã lâu, trong đó có một kiến nghị la hãy trở lại với
tên Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được khai sinh với cách mạng Tháng
8.1945 và Tuyên ngôn Độc lập 2.9.1945 thay vì giữ cái tên nước vô nghĩa
như đang dùng, anh dành nhiều thì giờ nói kỹ hơn những điều anh đã viết
về những sự kiện lịch sử mà anh là một trong những nhân chứng của thời
"tiền khởi nghĩa Tháng 8. 1945".
Trong đó, anh đặc biệt nhấn mạnh
đến truyền thống quật cường và tinh thần yêu nước của người Việt Nam,
của thanh niên Hà Nội lúc bấy giờ, những tổng kết nhằm quy về cho thắng
lợi của CMT8 và khởi nghĩa giành chính quyền là "thắng lợi của Chủ nghĩa
Mác Lênin" là kiên cưỡng và "vơ vào" rất vô lối chứ hồi ấy chúng tôi
nào có biết Mác Lê là gì đâu.
Anh kể một số sự kiện để chứng minh cho nhận định trên, nói về những con người cụ thể đã phân công nhau làm những gì.
Giọng
anh trở nên chùng xuống khi trả lời câu hỏi của tôi về chuyện anh đến
Bộ chỉ huy quân Nhật ở Đồn Thủy để nói rõ lực lượng khởi nghĩa không tấn
công lực lượng Nhật đã đầu hàng Đồng minh mà chỉ cốt giành chính quyền.
Anh không muốn nói nhiều về kết quả có
được trong cuộc đấu tranh khôn khéo ấy do anh đại diện cho Ủy ban khởi
nghĩa, đã khiến quân Nhật rút về trại và không can thiệp vào cuộc khởi
nghĩa ở Hà Nội, tránh đổ máu vô ích.
Rồi hào hứng trở lại khi anh
nói về những chuyện lý thú, sống động về tính sáng tạo và thông minh
của những chàng thanh niên Hà Nội trong cuộc thử lửa cũng như những ngờ
nghệch đáng yêu của họ khi đi vào cuộc chiến đấu mà như đi vào ngày hội.
Thấy
trên giường của anh có quyền "Đèn Cù" của Trần Đĩnh in theo khổ lớn
đang đọc dở , tôi hỏi nhận xét của anh, điều mà tôi đã hẹn trước qua
điện thoại, anh xua tay. "Chưa đọc. mà cũng ngại đọc. Đấy, mới tới trang
18, chẳng biết anh nào ở Bộ Ngoại giao in ra rồi gửi cho tôi. Thì cứ
viết ra đi đã cũng có cái hay, còn tùy thuộc vào cái tâm của người viết.
Hãy để cho lịch sử trả lời đúng, sai, hay, dở.
Tôi đọc được 18
trang rồi vứt đó nên chưa trả lời câu hỏi của anh được. Anh đặt ra những
vấn đề rất trúng, nhưng thôi hẹn lần sau. Tôi phải đọc cái đã, nhưng
mệt quá rồi".
Và anh bắt sang chuyện anh muốn hỏi tôi về cuốn sách
tôi viết đã lâu xoay quanh chủ đề "Gia đình Việt Nam" và "Nghiên cứu xã
hội học về gia đình". Tôi có cảm tưởng anh đang muốn trao đổi kỹ về đề
tài này trong những lời tâm sự của anh, nhưng chắc do ước lượng về thời
gian, anh tự chuyển sang những câu hỏi khác về công việc tôi đang làm.
Cứ
thế, tôi có cảm tưởng người ngồi trên giường trước mặt tôi không còn là
ông già 91 tuổi vừa hụt hơi lúc nãy, giọng anh khỏe khoắn, trầm hùng
khi nói về những suy ngẫm, những phân tích sống động, trầm tĩnh và sâu
lắng về những sự kiện lịch sử.
Đặc biệt, anh không mảy may nhắc
đến những oan khuất mà anh phải chịu đựng, không chỉ 9 năm tù đày mà rồi
gia đình và bản thân anh hiện nay. Thấy tôi tế nhị khơi gợi đến chuyện
này, anh cười "thì tôi đã nói với anh hôm ở nhà anh Văn rồi còn gì?".
Chuyện ở nhà 'anh Văn'
Đó
là câu chuyện cách nay đã hơn bốn năm. Hôm ấy tôi từ thành phố Hồ Chí
Minh bay ra để đến dự cuộc họp mặt thân mật mừng thọ 99 tuổi Đại tướng
Võ Nguyên Giáp. Ngồi cạnh anh, tôi có ghé vào tai "Anh phải viết lại đi.
Rồi các anh lần lượt ra đi cả, quãng trống của lịch sử sẽ khó có ai lấp
đầy được.
"Mà phải để cho lịch sử biểu tỏ sự công minh của nó,
còn để cho các thế hệ sau này hiểu được về cha anh họ chứ. Anh ngại viết
thì cứ nói vào máy, tôi sẽ nhờ học trò tôi làm việc này, gỡ băng ra,
anh xem lại, nếu anh thấy cần, tôi tình nguyện biên tập chỉnh sửa lại
cho anh.
"Nhưng phải nhanh lên, vì cũng chẳng biết thế nào mà tính
trước được đâu, chưa chừng tôi "đi trước' cả anh và anh Việt Phương
biết đâu, mặc dầu tôi thua anh một giáp đấy".
Anh chỉ cười, không trả lời. Gần cuối buổi, anh đột nhiên kéo tay tôi, chỉ một người đang đứng gần cửa ra vào:
"Này,TL,
nếu muốn viết thì anh viết về anh ấy thì hay hơn, một "nhân chứng sống"
và cũng "thời sự" hơn đấy". Câu chuyện sẽ quá dài nếu tôi kể sâu hơn về
người mà anh muốn tôi viết. Hơn nữa, tính "thời sự" mà anh muốn nói thì
cuộc sống đã nói hay hơn gấp triệu triệu lần những cây bút tài ba nhất,
nhạy bén nhất chỉ hai năm sau ngày anh nói với tôi.
Vả chăng, tôi
đâu phải là một nhà báo, tôi cũng chẳng phải là nhà văn. Tôi chỉ là
người muốn ghi chép lại những sự kiện lịch sử, và Anh chính là một "hiện
tượng lịch sử đích thực".
Anh là một nỗi đau của lịch sử. Đúng
hơn, nỗi đau của những người dám dấn thân vì nghĩa lớn của đất nước, vì
nghĩa cả giải phóng dân tộc để giải phóng con người, xây dựng một xã hội
nhằm thể hiện mục tiêu cao cả : "sự phát triển tự do của mỗi con người
là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người" đã bị người
ta phản bội nhân danh chính những điều đẹp đẽ ấy.
Phản bội một
cách trắng trợn và đáng ghê tởm, hay phản bội bởi những sự lừa mị, ngu
dân với những lời đường mật cửa miệng lươn lẹo, cũng đều là sự phản bội.
Nạn nhân của 'phản bội'
Và
anh là nạn nhân tiêu biểu của sự phản bội ấy. Người ta nói với anh chỉ
cần gật đầu thừa nhận một câu chuyện bịa đặt nhằm một mục đích chính trị
bẩn thỉu, thì anh sẽ được trả tự do và dễ dàng bước lên những bậc thang
danh vọng, vì anh đã từng giữ nhiều trọng trách mà những thuộc cấp đứng
dưới anh rất xa nay đã ngất nghểu trên những cái ghế cao quyền thế,
danh vọng, bổng lộc.
Nhưng anh đã nhã nhặn rồi phẫn nộ từ chối.
Lương tâm của người chiến sĩ dám xả thân vì ngĩa lớn không cho phép anh
phản bội chính mình, phản bội đồng chí, đồng đội mình.
Một cái lắc
đầu có sức nặng của một quả núi sừng sững trước bão táp cuồng nộ của
bạo lực và mua chuộc. Những người từng chứng kiến bi kịch của anh đã kể
lại cho chúng tôi nghe về bản lĩnh và phẩm cách của anh.
Và, anh Nghĩa ơi, cái chuyện về tính
"thời sự" mà anh nhắc tôi hôm ấy thì như tôi vừa nói, cuộc sống đã thực
thi sứ mệnh tuyệt vời của nó bằng việc tiễn đưa vị lão tướng huyền thoại
nằm ngoài mọi kịch bản soạn sẵn và những toan tính ở nhiều góc độ.
Anh
là người Thư ký tuyệt vời nhất của vị lão tướng huyền thoại ấy, cũng
là người xứng đáng nhất trong dòng người bất tận xếp hàng thắp nén hương
tiễn biệt người thủ trưởng mà anh hết lòng yêu kính và kiên cường bảo
vệ. Họ tự nguyện đứng xếp hàng để được biểu tỏ tấm lòng thành kính tri
ân, nhớ thương một con người đã góp phần viết nên những trang sử vẻ vang
của dân tộc, nay đã đi vào lịch sử.
Phải chăng con đường ngoằn nghoèo người xếp hàng kia cũng đang là biểu tượng một nét dáng của lịch sử?
Lịch sử đang đi những bước chậm rãi nhưng chất chứa nhiều tiềm ẩn khó lường anh Nghĩa ạ.
Nếu
lịch sử là con người nhân với thời gian, thì sự sòng phẳng của lịch sử
chính là ánh phản chiếu của lòng dân tôn vinh những người đã góp phần
làm nên lịch sử. Vị “tư lệnh của các tư lệnh, chính ủy của các chính ủy”
mà có lúc người ta cố tình lảng tránh những oan khuất, vô tình hay hữu ý
toa rập cho toan tính bẩn thỉu nhằm che lấp sự thật lịch sử. Nhưng lịch
sử sớm muộn cũng thực hiện sứ mệnh công minh của nó là trả về những giá
trị đích thực đã từng bị vùi lấp.
Và lòng dân đã thực thi sứ mệnh
ấy của lịch sử. Chính vì thế, lịch sử rồi cũng đang làm và sẽ làm điều
ấy với Lê Trọng Nghĩa, người Thư ký kiên cường, Cục trưởng Cục quân báo,
Chánh Văn phòng Quân ủy Trung ương, gắn bó mật thiết với sự nghiệp của
Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Cho đến giờ phút này báo chí chính thống
trong nước đã dành việc đưa tin Lê Trọng Nghĩa từ biệt thế giới này cho
đài BBC để rồi cũng sẽ có lúc những người chủ trương sự im lặng đáng
ngờ này sẽ phải trả giá đắt.
Trước hết là phải gánh chịu thêm sự
phẫn nộ và khinh miệt của lòng dân và công luận. Thì cũng giống như dạo
nào người ta phải gọi những tàu ăn cướp của Trung Quốc đâm chìm tàu cá
của ngư dân ta trên vùng hải phận thuộc chủ quyền của ta là "tàu lạ", để
rồi bây giờ cũng có chút bẽ bàng với dân và với thế giới khi gọi đúng
tên người "bạn vàng 16 chữ và bốn tốt" là bọn Trung Quốc xâm lược.
Công
luận và lòng dân đã quá hiểu rõ chuyện "tàu lạ" và bụng dạ thì quen với
việc không dám đối mặt với sự thật và cũng không dám chịu trách nhiệm
cần phải ứng xử kịp thời trước những tình huống đòi hỏi một nhãn quan
chính trị sáng suốt và bắt kịp mạch đập của cuộc sống với tâm trạng của
người dân.
Kịp thời phục hồi danh dự cho một chiến sĩ kiên cường,
một nhân cách cao thượng, một người bị oan khuất song vẫn tràn đầy nhiệt
huyết với nước với dân, là một hành vi chính trị và phục hồi đạo lý có ý
nghĩa gấp vạn lần những lời nói sáo rỗng và hành động mỵ dân mà người
ta đã qúa nhàm chán.
Không sớm thì muộn, việc đó cũng phải làm.
Bài học về lòng dân đưa tang và tưởng niệm Đại tướng Võ Nguyên Giáp là
một bài học đắt giá cho những ai muốn học tập ông cha trong việc thực
hiện chính sách thân dân, điểm tựa vững chắc nhất của một đường lối dựng
nước, cứu nước, giữ nước và xây dựng nền thịnh trị của một đất nước.
Nén
nỗi day dứt, tôi cố viết vài dòng về anh, nhưng sao con chữ cứ nhảy múa
vòng vèo không diễn đạt được tâm trạng của mình. Thôi đành tự an ủi
“vọt từ suối phun ra là nước, chảy từ mạch máu ra đều là máu”, tôi viết
trong nỗi đau thương nhớ Anh, anh Lê Trọng Nghĩa ơi, nụ cười thanh thản
và điềm đạm của anh đang giục giã chúng tôi, những người quý trọng,
thương mến anh và nguyện theo gương Anh. Bài viết thể hiện quan điểm và cách hành văn của Giáo sư Tương Lai, người gửi bài cho BBC từ thành phố Hồ Chí Minh
Lịch sử Khí công Khởi nguồn và lịch sử phát triển YOGA - Ấn Độ PHẦN I: CÓ MỘT CÁI GÌ ĐÓ “Tại sao có một cái gì đó chứ không phải là không có gì?” Lepnit . CHƯƠNG IX: NHÌN LẠI -"Mục đích duy nhất của khoa học là giảm bớt vất vả cho nhân loại." Bleiste -"Đạo đức cao thượng nhất của nhân loại là gì?Đó chính là lòng yêu nước" Napoleon. -"Nhân loại luôn có một chỗ độc đáo: nó lưu giữ hai bộ phép tắc đạo đức - một bộ lén lút, một bộ công khai; một bộ chân chính, một bộ làm bộ làm tịch" Mark Twain -“Nhân loại không có sự đòi hỏi nào cao hơn là làm sao đạt tới cái chí thiện, chí mỹ và chính vì giải quyết vấn đề ấy mà nó đã cố gắng...” Vidhusekharsastri -"Chủ nghĩa anh hùng theo mệnh lệnh, bạo lực phi lý và tất cả những điều vô nghĩa nhân danh lòng ái quốc – tôi mới căm ghét chúng làm sao!" Albert Einstein -"Lòng
(ĐC sưu tầm trên NET) Bản tin 113 online cập nhật ngày 14/3: Bắt phó giám đốc dùng tài liệu giả tham gia đấu thầu | ANTV TRỰC TIẾP: Thời sự quốc tế 15/3 | Nga lập thế trận siết vòng vây 3000 quân Kiev, Ukraine run rẩy Tin tức thời sự mới nhất hôm nay | Bản tin sáng ngày 14-3-2024 Các quan chức cộng sản cấp cao biến mất | Trung Quốc Không Kiểm Duyệt THIÊN TRANG - Chỉ Hai Đứa Mình Thôi Nhé || Nhạc Vàng Xưa Bất Hủ Thêm 162 người nhập viện sau khi ăn cơm gà ở Nha Trang 8 giờ trước Việt Nam đề nghị Trung Quốc tôn trọng và tuân thủ hiệp định về phân định vịnh Bắc Bộ 9 giờ trước Khoảnh khắc một căn nhà bị sông Cầu 'nuốt chửng' ở Bắc Ninh 5 giờ trước Hà Nội: Cô bán trứng bất ngờ "được" ném nhầm bọc tiền hơn 1 tỷ vào xe 17 giờ trước Vũ khí đặc biệt trong gói viện trợ của Mỹ dành cho Ukraine 12 giờ trước Video quân đội Nga bắn nổ 2 trực thăng của Ukraine ở Donetsk 18 giờ trước Ông Trump vượt Tổng thống Biden về tỉ lệ ủng hộ trong thăm dò dư luận 11 giờ trước Làm ăn th
Mùa Chim Én Bay - Giảng Viên Thanh Nhạc | Đặng Hồng Nhung MỌC CÁNH Em ơi em, mọc cánh bao giờ thế Định bay đi đâu mà nhìn ra đại dương? Tìm nguồn hạnh phúc bên kia thế giới Ở đó đang chờ một tình yêu thương? Thôi bay đi em, đừng áy náy, vấn vương Đừng lưu luyến kẻ dưng, người cũ Bay đi em, về phương trời quyến rũ Ở đó có tình sâu nặng đợi chờ! Bay đi em, đến xứ sở ước mơ Về chao liệng trên bến bờ hi vọng Thỏa khao khát những nỗi niềm vui sống Của một hồn thơ dào dạt yêu thương! Trần Hạnh Thu Câu Đợi Câu Chờ - Giảng Viên Thanh Nhạc | Đặng Hồng Nhung Dương Hiểu Ngọc bay cao với đôi cánh "Thiên thần tình yêu 09:26 05/04/2014 Chắp "đôi cánh thiên thần", người đẹp Dương Hiểu Ngọc sẽ bay cao, bay xa trong nghệ thuật với những nỗ lực không ngừng. Xuất hiện liên tục trên các trang mạng trong thời gian gần
Nhận xét
Đăng nhận xét