CHUYỆN VỤ ÁN 33 (Nhân văn giai phẩm)
(ĐC sưu tầm trên NET)
VỤ
NHÂN
VĂN – GIAI PHẨM TỪ GÓC NHÌN
VỤ NHÂN VĂN – GIAI PHẨM TỪ GÓC NHÌN...
Chúng tôi xin đăng lại thành một văn bản duy nhất bài dài 5
kỳ về vụ Nhân Văn Giai Phẩm mà nhà văn Lê Hoài Nguyên, nguyên đại tá
công an A25, đã đăng ở blog của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo. Đây là một văn
bản rất đáng chú ý vì tác giả của nó, do vị trí công tác của ông, có
nhiều tư liệu có lẽ đầy đủ và chính xác.
VỤ
NHÂN
VĂN – GIAI PHẨM TỪ GÓC NHÌN
MỘT TRÀO LƯU TƯ TƯỞNG DÂN CHỦ,
MỘT CUỘC
CÁCH MẠNG VĂN HỌC KHÔNG THÀNH
LÊ HOÀI NGUYÊN
Nhà văn Lê Hoài
Nguyên tên thật là Thái Kế Toại, nguyên Đại tá công an, công tác tại
A25 (chuyên theo dõi văn nghệ sĩ và văn hóa) đã gửi tới NTT.ORG một
chuyên luận dài về Nhân Văn Giai Phẩm. Các bạn hãy đọc nó như đọc một
“góc nhìn” về sự thật.
“Tác giả là người đã
được đọc lại toàn bộ hồ sơ nghiệp vụ chuyên án NVGP, tiếp xúc với hầu
hết thành viên chủ chốt của vụ án, một số văn nghệ sỹ tham gia vào đấu
tranh với NVGP, tiếp xúc sớm nhất với các tài liệu nghiên cứu, các bài
viết về NVGP từ nước ngoài, tiếp xúc tương đối đầy đủ các bài viết về
các nhân vật NVGP ở trong nước từ sau đổi mới. Tác giả tin rằng NVGP
không phải là một vụ án gián điệp phản động. Các văn nghệ sỹ trí thức
NVGP không có mục đích lật đổ chế độ. Họ chỉ mong muốn ĐCSVN, chính phủ
sửa chữa những sai lầm và xây dựng ngay một nền dân chủ pháp trị, một
đời sống tinh thần có tự do tư tưởng, một đời sống văn học nghệ thuật
tự do sáng tạo”.
Lời giới thiệu của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo
I – Mấy vấn đề có tính phương pháp luận
Hiện
nay còn tồn tại nhiều cách đánh giá về vụ Nhân Văn - Giai Phẩm. Có
người
cực đoan cho rằng cốt lõi đây là vụ án chính trị phản động không dính
líu gì đến văn học, mà chỉ có một số anh em văn nghệ sĩ bị lôi kéo vào
(1). Người thì cho là một vụ án văn học, oan sai về văn học (2). Tất
nhiên là để bảo vệ các khuynh hướng đánh giá không phải dễ dàng, mà
phản bác hoàn toàn cũng cần hết sức thận trọng.
Với tất cả những gì đã xảy ra nên coi
đây là một trào lưu tư
tưởng dân chủ, một cuộc cách mạng văn học không thành thì đúng hơn. Để
đi tìm cách cắt nghĩa nó. Gìn giữ những gì nó đặt ra, nó để lại cho nền
văn học nước nhà. Còn nếu coi là vụ án chính trị thì không cần tốn giấy
mực để viết về nó trong lịch sử văn học làm gì.
Xem xét từ cốt lõi các vấn đề chủ yếu,
tức là hồn cốt vụ án,
tức là hình thái của nó, các điều kiện lịch sử của nó, các nhân vật của
nó, các vấn đề nó đặt ra cho xã hội đều thực sự là tư tưởng và văn học.
Vài vấn đề về phương pháp luận:
-
Đánh giá NVGP trong tiến trình tư
tưởng Việt Nam từ 1945- 1948- 1954- 1960 cho đến 1986- và nay 2010.
Tiến trình tư tưởng cách
mạng VN có đặc điểm riêng, khi du nhập chủ nghĩa Mác Lênin. Trước khi
ngả hẳn, thuần hóa chủ nghĩa Mao, nó có trạng thái lưỡng phân và giao
tranh giữa tư tưởng dân chủ với tư tưởng cộng sản, tư tưởng toàn trị
với tư tưởng pháp quyền (3).
- Các vấn đề của NVGP đặt ra đều có nguồn gốc từ các thời kỳ trước đó, NVGP xuất hiện vào lúc hội đủ điều kiện cả khách quan và chủ quan. Vì mang tính tất yếu, những gì mà NVGP chưa làm xong thì các thế hệ sau sẽ tiếp tục phải làm.
- Đánh giá bản chất của NVGP còn phải dựa trên tập quán hành xử chính trị của hệ thống XHCN, của xã hội VN trên cơ sở thể chế hiện hành. Tức là không thể tin cậy vào các lượng thông tin chính thống, vì loại thông tin đó đã bị biến dạng và thường là không phản ánh trung thực, toàn diện bối cảnh xã hội lúc đó, không phản ánh đúng bản chất các sự việc. Cần phải tiếp cận NVGP từ nhiều phía, nhiều nguồn tư liệu khác nhau trong và ngoài nước, quan trọng nhất là thông tin của những người trong cuộc.
- Xem xét vụ NVGP phải lấy việc xem xét nội dung văn học của nó, cái nội dung ấy phản ánh tình trạng văn học lúc đó thế nào, chứ không lệ thuộc vào việc nhà nước công bố nó là chống đối, tức chống đối là không có giá trị văn học. Từ trước đến nay những người viết về NVGP gần như theo quan niệm này và đã không xem xét giá trị văn học của các sáng tác.
Vậy ta có thể tạm khái quát như sau:
NVGP trước hết là một trào
lưu tư tưởng, một cuộc
cách mạng văn học đòi hỏi dân chủ hóa ở miền Bắc Việt Nam năm 1954-1960
có nguồn gốc và đã xảy ra trong nội bộ Đảng CSVN, trong bộ máy
Chính phủ Kháng chiến chống Pháp do Hồ Chí Minh lãnh đạo trong quá
trình đi từ chủ nghĩa dân chủ tư sản đến chủ nghĩa cộng sản hình thái
Mao Trạch Đông (1948–1954), bùng phát vào thời điểm đặc biệt 1955
trên các lĩnh vực triết học, tư tưởng, pháp luật, giáo dục, văn học
nghệ thuật, báo chí chủ yếu trên các ấn phẩm báo Nhân Văn, Sáng Tạo,
Trăm Hoa, Tự Do Diễn Đàn, Đất Mới - Chuyện Sinh Viên, Văn… và các sách
dạng tạp chí Giai Phẩm Mùa Xuân, Giai Phẩm Mùa Thu, Giai phẩm Mùa Đông,
Sách Tết, Vũ Trọng Phụng… do khởi xướng hầu hết là số văn nghệ sỹ, trí
thức tài năng, có nhiều công lao trong kháng chiến chống Pháp, trong
quân đội, bị đàn áp và xét xử công khai bằng một vụ án chính trị hoạt
động gián điệp lật đổ chính quyền nhân dân với cái tên Nhân
Văn - Giai Phẩm, tiếp theo là việc xử lý bằng các
hình thức trừng phạt nội bộ với hàng trăm giáo sư, thày giáo, sinh
viên, nhà văn, nghệ sỹ điện ảnh sân khấu, nhạc sỹ, họa sỹ, kiến trúc
sư, phóng viên, xuất bản, cán bộ lãnh đạo, nhân viên một số bộ ngành,
cơ quan nhà nước…
Sau khi bị đàn áp, NVGP không chết ngay
lập tức, nó còn tồn
tại dai dẳng trong một số sáng tác của Phùng Cung, Hoàng Cầm, Trần
Dần, Lê Đạt, Hữu Loan…thậm chí cả Nguyễn Chí Thiện (4), nhóm Văn nghệ
Chân đất ở Hà Nội những năm 70-80 (5), cho đến vụ Hoàng Cầm, Hoàng Hưng
bị bắt năm 1983 (6), cho đến lúc Đổi mới, trao Giải thưởng Nhà nước,
Giải thưởng Hồ Chí Minh cho một số nhân vật chủ chốt của vụ NVGP 50 năm
về trước. Còn mục tiêu tự do tư tưởng, tự do sáng tác, dân chủ xã hội
pháp quyền, cách tân nghệ thuật mà NVGP đã đặt ra thì vẫn đang là câu
hỏi cho các thế hệ người Việt Nam cho đến hôm nay…
Để có thể xem xét vụ NVGP một cách thỏa
đáng không bị ràng
buộc về khía cạnh vụ án chính trị, tôi chọn cách nhìn nó với tư cách là
một trào lưu tư tưởng, một cuộc cách mạng văn học.
II – Các tiền đề dẫn đến vụ NVGP
1- Bối cảnh chính trị Việt Nam 1945-1954 và những tác động của quá trình Mao hóa hệ tư tưởng phản ánh vào đời sống văn học nghệ thuật.
Phản ánh của các sử gia
Việt Nam về Cách mạng Tháng
Tám 1945 và giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp là một cách viết
sử đơn giản, dường như chỉ lấy mục đích tường thuật các chiến thắng
quân sự của chính phủ Hồ Chí Minh với nguồn sử liệu nghèo nàn, một
phía, hoặc với những đánh giá không khách quan. Khác với các sử gia
Việt Nam, các sử gia nước ngoài, chủ yếu là phương Tây, có nguồn tư
liệu từ hai phía, nhất là hồ sơ của Pháp, Nga, Trung Quốc, hồ sơ các
cuộc phỏng vấn trực tiếp các cá nhân tham gia các sự kiện lịch sử, từ
chỗ đứng khách quan với phương pháp tư duy phức tạp hơn họ có thể nhìn
ra tiến trình lịch sử đó dưới nhiều góc độ khác nhau đặc biệt là sự vận
động của hệ tư tưởng ở những người cộng sản Việt Nam đã tạo ra tình
trạng phân hóa nội bộ trong giới lãnh đạo và quần chúng, tạo ra các
chính sách trước sau mâu thuẫn, các màu sắc chính trị đối ngoại, các vụ
án kiểu như NVGP (7)…
Có hai điểm làm cho quá trình Mao hóa
hệ tư tưởng ở VN dùng
dằng ở trạng thái lưỡng phân trong một thời gian dài:
- Một là trong thời điểm 1945 Việt Minh giành được chính quyền trong tương quan cùng có nhiều lực lượng quốc gia yêu nước tham gia. VM không đủ thế lực quản lý đất nước khi họ chưa có được sự công nhận, hậu thuẫn của phe XHCN, HCM vẫn còn phải tính toán con đường tồn tại trong khối Liên hiệp Pháp. Xu thế này phản ánh trong chính bản Tuyên ngôn độc lập do HCM đọc tai Ba Đình ngày 2-9-1945 và trong thành phần chính phủ liên hiệp sau đó. Ngay cả khi cuộc chiến toàn quốc đã nổ ra, 19-12-1946, VM lập một chính phủ mới hoàn toàn là của họ nhưng vẫn còn một tỷ lệ lớn là thành phần trí thức do Pháp đào tạo, đã từng cộng tác với chính phủ Trần Trọng Kim, thuộc các đảng Dân chủ và Xã hội, trong đó có các nhân sự chủ chốt của các ngành tư pháp, y tế, giáo dục, xã hội, thậm chí cả một phần công an, quân đội nữa. Phương án muốn duy trì bộ mặt khả ái của chính sách cai trị để đi theo khối Liên hiệp Pháp còn được đẩy mạnh vào các thời điểm giữa năm 1947, giữa năm 1957 khi miền Bắc VN vẫn còn hy vọng hiệp thương thống nhất đất nước (8).
- Quá trình xây dựng nhà nước VNDCCH theo hướng dân chủ bị biến dạng và bị phá vỡ bởi sự thắng lợi của CNXH châu Á ở Trung Quốc. Không phải HCM không thấy hết mặt trái của chủ nghĩa Mao nhưng do rất cần nguồn viện trợ và do Stalin không mặn mà với ông, giao hẳn trách nhiệm cho cách mạng Trung Quốc giúp đỡ cách mạng Việt Nam, ông phải mở cửa cho các cố vấn cộng sản Trung Quốc mang theo chủ nghĩa Mao xâm nhập vào đất nước. Điều này dẫn đến sự lệ thuộc của cộng sản Việt Nam vào cộng sản Trung Quốc, tạo cơ hội cho Mao áp đặt hệ tư tưởng của ông ta lên Hồ Chí Minh và những người cộng sản Việt Nam (9).
Bề mặt của quá trình này thể hiện ở các
mâu thuẫn trong nội bộ
cộng sản Việt Nam, ở các cuộc chỉnh huấn, cải cách ruộng đất, tranh
luận về văn học, luật pháp, tư pháp, ở các cuộc thanh trừng những trí
thức kiên trì với tư tưởng dân chủ mới hoặc CNXH chân chính
như Vũ Đình Hòe, Vũ Trọng Khánh, Nguyễn Hữu Đang. Lĩnh vực giải hóa
luật pháp và NVGP là điển hình của quá trình đó.
Đối với văn nghệ do cộng sản
Việt Nam lãnh đạo
Trường Chinh là người đã đưa các quan điểm văn nghệ của Mao Trạch Đông
vào hoạt động Văn hóa Cứu quốc từ năm 1943, kiên trì bảo vệ nó cho tới
khi đổi mới, đã tạo ra rất nhiều vụ án văn nghệ khác, là nhân tố chính
làm cho nền văn nghệ Việt Nam hoàn thành nhiệm vụ tuyên truyền nhưng
tụt hậu so với sự phát triển chung của nhân loại.
Trong thời kỳ ban đầu Trường Chinh
không thể chi phối được mọi
hoạt động của VHCQ do đa số những người thực hiện là các trí thức có
ảnh hưởng tư tưởng DCTS. Do điều kiện kháng chiến, VM không thể thành
lập bộ máy văn hóa riêng để áp đặt đường lối của mình. Mâu thuẫn đã bộc
lộ ra giữa Nguyễn Hữu Đang và Trường Chinh ngay từ lúc tổ chức Hội nghị
VHCQ toàn quốc tháng 10 năm 1946 và có thể nói kết thúc bằng Hội nghị
Văn hóa toàn quốc lần thứ II xóa bỏ VHCQ thành lập Hội Văn nghệ Việt
Nam hoàn toàn theo quỹ đạo của đường lối văn nghệ Maoist vào thời điểm
tháng 7-1948 (10). Từ thời điểm này sự rạn nứt trong đội ngũ văn nghệ
kháng chiến càng trở nên trầm trọng hơn. Nhiều người bắt đầu bỏ về
thành, số lượng nhiều hơn khi các cuộc chỉnh huấn theo kiểu Mao mở ra
(11). Số này sau trở thành lực lượng nòng cốt của văn nghệ Sài Gòn : Tạ
Tỵ, Mai Thảo, Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương, Doãn Quốc Sỹ, Phạm Duy, Võ
Phiến, Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa, Dương Nghiễm Mậu, Duyên Anh… Trong
số VNS ở lại vùng kháng chiến các cuộc tranh luận về tự do sáng tác và
dân chủ vẫn còn diễn ra với các ông Trương Tửu, Nguyễn Mạnh Tường, Tô
Ngọc Vân, Ván Cao, Sỹ Ngọc… Có khi trở thành đòn đánh nhau công khai
như
việc phê bình thơ không vần của Nguyễn Đình Thi, tranh lập thể của Văn
Cao, Tạ Tỵ… Tuy vậy trong bộ máy của Chính phủ kháng chiến HCM vẫn
không
có Bộ Văn hóa, Hội Văn nghệ đã phải làm thay chức năng cho bộ này cho
tới tháng 2-1955. Đa số văn nghệ sĩ trong kháng chiến đều
gia nhập quân đội và thuộc quản lý của Phòng Văn nghệ quân đội với các
chính sách văn nghệ được quân sự hóa dưới sự lãnh đạo của các chính ủy.
Hy vọng về một cuộc sống thoải mái hơn
về vật chất và tinh
thần sau khi hòa bình lập lại bị héo úa về cuộc Cải cách
ruộng đất và những khó khăn trong đời sống, do cách thức quản lý xã hội
như hộ khẩu, cải tạo tư sản, thương nghiệp quốc doanh… Trong văn nghệ
đó
là tệ lãnh đạo chính trị thô bạo, ép buộc tuyên truyền một chiều, tệ bè
phái cơ hội, tác phong lãnh đạo hống hách, sáng tác đơn giản sơ lược …
2 – Bối cảnh quốc tế, cuộc cách mạng dân chủ lần thứ nhất của phe XHCN tác động đến CMDC ở Việt Nam.
Sau 1945 không phải Liên Xô đã hoàn
toàn chi phối được chính
quyền các nước Đông Âu. Ở một vài nước vẫn còn chính phủ
DCTS. Đến đầu những năm 50 các cuộc chính biến cộng sản ở các nước này
nổ ra lật đổ các chính phủ DCTS thì mới có được một hệ thống XHCN thuần
nhất theo sự lãnh đạo của Liên Xô.
Cũng như ở Liên Xô toàn bộ các nước
XHCN dưới sự chỉ đạo của
Stalin đã bộc lộ các mâu thuẫn gay gắt trong nội bộ lãnh đạo các ĐCS,
giữa nhân dân, trí thức, văn nghệ sĩ với ĐCS về các vấn đề pháp quyền
dân chủ… Chỉ đợi đến lúc Stalin chết thần tượng Stalin mới bị hạ bệ, bị
kết tội về những tội ác đã gây ra trong thời kỳ cai trị Liên Xô bằng
chế độ độc tài và các cuộc thanh trừng nội bộ đẫm máu. Trong Đại hội
lần thứ XX Đảng Cộng sản Liên Xô tháng 2-1956 Tổng bí thư Khơ Rút sốp
đã đọc báo cáo tổng kết thời Stalin và đề xuất chiến lược mới cho phe
XHCN chung sống hòa bình cũng có nghĩa là mở ra
cho các nước xã hội chủ nghĩa một thời kỳ dân chủ (12).
Không phải đợi đến khi Khơ Rút Sốp
chính thức tuyên bố, ở các
nước XHCN đều đã có các yếu tố đòi hỏi phải cải cách dân chủ. Nhưng
tiếc rằng khi hoa dân chủ nở rộ ngọn sóng dân chủ đã làm cho các ĐCS ở
đây lo sợ về nguy cơ khủng hoảng. Các phần tử bảo thủ đã tìm mọi cách
làm cho những người khởi xướng, ủng hộ cải cách do dự rồi lật ngược thế
cờ. Một số cuộc nổi dậy bị đàn áp, các văn nghệ sĩ cấp tiến bị xử lý,
thậm chí bị kết tội hoạt động lật đổ chính quyền nhân dân. Có thể gọi
đó là Cuộc cách mạng dân chủ XHCN lần thứ nhất.
Sau hai mươi năm cuộc Cách mạng dân chủ lần thứ hai đã nổ ra cũng khởi
đầu từ Liên Xô với ngọn cờ Công khai - Cải tổ của
Goóc Ba Chốp Tổng bí thư ĐCSLX và đã dẫn đến sự sụp đổ của hệ thống
XHCN .
Vậy cuộc cải cách dân chủ lần thứ nhất
ở Việt Nam chính là
Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm một trào lưu tư tưởng, trong đó theo
truyền thống Á Đông đặc trưng cơ bản của nó là phản ứng và xử lý về
ngôn từ chứ không phải là một vụ án gián điệp, một vụ bạo loạn. Tất
nhiên khi yêu cầu cách mạng này đặt lên vai văn học thì từ bên trong
văn học xuất hiện những yêu cầu thay đổi về hình thức để đáp ứng yêu
cầu xã hội.
3- Bối cảnh văn nghệ miền Bắc 1945-1954.
Nền văn nghệ Việt Nam vốn từ một
nền văn nghệ nho giáo
bắt đầu được hiện đại hóa với chữ quốc ngữ, đỉnh cao là Thơ Mới và Tự
Lực Văn Đoàn. Hai phong trào văn học này làm cho văn học Việt Nam vươn
tới một nền văn học có các phương pháp sáng tác của văn học hiện đại
thế giới cả về ngôn ngữ, nhân vật, thi pháp biểu hiện, chủ nghĩa cá
nhân…
Nếu nói về tiến trình văn học, Cách
mạng Tháng Tám 1945 đã làm
gián đoạn, nếu không nói là đứt đoạn quá trình hiện đại hóa của văn học
Việt Nam. Ở đây không nói toàn bộ nền văn học mà là bộ phận văn học do
những người cộng sản Việt Nam thực hiện quản lí. Các chính sách về VHVN
của ĐCSVN bị ảnh hường nặng nề chủ nghĩa Mao, sau nữa là chủ nghĩa Lê
nin, Stalin đã đoạn tuyệt gần như hoàn toàn với quá khứ nhất là bộ phận
di sản văn nghệ quan trọng nhất, 1930-1945, đã tuyệt đối hóa chức năng
tuyên truyền, lấy quần chúng công nông binh làm mục tiêu, làm thước đo
giá trị của văn nghệ, đã thủ tiêu mọi ý tưởng thể hiện nghệ thuật bằng
ký hiệu nghệ thuật của người nghệ sĩ. Chính vì vậy người ta mới cường
điệu việc tìm đường, nhận đường cho văn nghệ sĩ, gọi nó cuộc lột xác
đau đớn, là cuộc sống mới với câu tuyên ngôn giết chết cái cũ
trong con người họ.
Chính vì thế, văn nghệ kháng chiến đã
đánh mất nhiều tài năng
trong các cuộc chỉnh huấn, các cuộc phê bình nội bộ tâm hồn tiểu tư sản
hoặc phê bình mạt sát các loại hình nghệ thuật hiện đại. Một bộ phận
đáng kể trí thức, văn nghệ sĩ có tư tưởng tự do trong đó đa số là gốc
Bắc đã ly khai văn nghệ kháng chiến. Còn các văn nghệ sĩ tiền
chiến thì co mình lại, hoang mang không biết viết cái gì, vẽ cái gì.
Lớp văn nghệ sĩ do công nông binh sinh ra chưa thể trở thành những cây
bút có tầm vóc. Nhìn vào chất lượng các Giải thưởng văn nghệ trong
kháng chiến thì thấy rõ điều đó, có thể gọi là xuất sắc với vài bài
thơ, một vài tiểu thuyết có phần đơn giản.
Bước sang giai đoạn hòa bình trong khi
bộ máy quản lí vẫn còn
đang theo quán tính cũ, thì cuộc sống đã đặt ra những vấn đề mới.
Cách mạng đã chuyển giai
đoạn. Thời kỳ quá độ tiến
lên chủ nghĩa xã hội, ai cũng biết là một thời kỳ có nhiều biến chuyển
sâu sắc triệt để hơn tất cả các thời kỳ cách mạng trước. Cuộc sống thay
đổi rất nhanh và một điều làm cho nhiệm vụ của nhà văn trở nên phức tạp
hơn, là công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở miền Bắc còn đương tiến hành, khó phân biệt trong đó cái gì đương xây
dựng chưa xong, và cái gì đương đổ sụp…
Như Phong- Nhìn
lại bước đường đã qua,
Tuyển tập Như Phong.
Tuyển tập Như Phong.
Trong bối cảnh văn học riêng của miền
Bắc như thế, trong bối
cảnh văn học thế giới, văn học Sài Gòn đang chuyển sang các chủ nghĩa
hiện đại, bối cảnh cuộc cách mạng dân chủ của toàn phe XHCN tất các văn
nghệ sĩ phải đặt ra việc cách tân văn học cả nội dung và hình thức. Đặc
biệt của NVGP là sứ mệnh cải cách lại do chính những trí thức, văn nghệ
sĩ con đẻ của cách mạng, những người đã ở tuyến đầu trong cuộc kháng
chiến chống Pháp khởi xướng.
Nếu cố thoát ra khỏi lối mòn, nhìn theo
tiến trình phát triển
văn học thế giới, có thể thấy rằng ở Việt Nam nhóm thơ Xuân Thu Nhã Tập
của Nguyễn Xuân Sanh đã báo hiệu sự bế tắc của chủ nghĩa lãng mạn, chủ
nghĩa hiện thực phê phán để chuyển qua chủ nghĩa siêu thực. Đó không
phải là dòng văn học tiêu cực mà là tích cực theo ý nghĩa nó là một cố
gắng của những nhà văn đi tìm lối thoát đưa văn học Việt Nam tiến lên.
Tiếp theo mọi người còn nhớ sau trong
những ngày mấp mé bờ vực
chiến tranh của nước Việt Nam mới tiếp tục xuất hiện nhóm thơ Dạ Đài
của Trần Dần, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Trần Mai Châu, Vũ Hoàng Địch…
Trong Bản Tuyên Ngôn Tượng Trưng nhóm Dạ Đài đã nói rõ thái độ phủ định
văn học giai đoạn cũ và không dấu diếm ý đồ muốn tạo ra một dòng văn
học mới:
Vì thế, cái thi ca cổ rích,
cái thi ca tĩnh của tiền
nhân ngâm vịnh, của bọn lãng mạn khóc bạn chẳng làm chúng ta quên, ví
chẳng có thể đẩy đưa chúng ta theo những nhịp điệu bồng bềnh của bản
thanh âm hoàn vũ.
Thế
cho nên chúng tôi – thi
sĩ tượng trưng – chúng
tôi sẽ đón về đây tất cả những thế giới quay cuồng, chúng tôi sẽ bắt
một vầng trăng phải lặn, một ánh sao phải mờ đi, một chế độ phải tàn
vong và một bài thơ phải vô cùng linh động.
Trần Dần thủ lĩnh của nhóm Dạ Đài sau
mười năm, ở một ngã ba,
ngã tư thời đại lại đã được trời đất cho nguồn cảm hứng về một cuộc lột
xác cho nền văn học.
Hẳn là Trần Dần đã mang cái khát vọng
sôi sục ấy vào các
trường ca Cách mạng Tháng Tám, Đi - Việt Bắc, Nhất định
thắng…
và lôi cuốn các người bạn cùng theo. Trong nhật ký Ghi 1954
ông viết:
Lúc
tôi muốn một thứ Thơ dễ
dãi. Lúc một thứ Thơ
không có vần. Lúc một thứ Thơ như một hạt ngọc. Lúc một thứ Thơ kể
chuyện. Lúc một thứ Thơ gồ ghề. Lúc một thứ Thơ hiền lành, có cái khỏe
của những bắp thịt hồng. Lúc một thứ Thơ na ná như của anh lính, nó mát
mà lành, nó hiền mà khỏe, nó thực tế. Lúc là một thứ Thơ na ná như bài
nói của anh cán bộ, nó đả thông, nó giục giã, nó lý luận.
Tôi
thích Thơ thời sự, theo
sát cái hồi hộp, lo lắng
của Đảng tôi, dân tôi, triệu triệu quả tim dân chúng và quân đội, chiến
sĩ và cán bộ, lãnh tụ và quần chúng.
Tôi
lại cũng thích Thơ không
thời sự, Thơ bao trùm
đất nước và thời gian, Thơ ăn lấn sang mọi thế kỉ, và Thơ nhập cả vào
cái biện chứng bao la của sự vật.
Vì
vậy bây giờ tôi muốn một
thứ Thơ nào đó lấy đề
tài ngay ở nhịp đập trước mắt của trái tim dân tộc Việt Nam. Nhưng
trong đề tài đó tôi đào mãi đào mãi tới khi tôi tìm thấy quả tim Nhân
Loại. Đó là thực sự mà cũng là ý muốn của tôi. Quả tim dân tộc tôi có
nghĩa là quả tim Nhân Loại. Nhịp đập của nó là nhịp đi của Biện Chứng.
Cái ngày hôm nay là dồn ép của hàng triệu năm về trước và mở ra triệu
thế kỷ về sau. Tôi muốn một thứ Thơ nào đó vạch ra được sự thực đó. Hạt
bụi, sợi tóc mây là cả một vũ trụ. Một khoảnh khắc là cả lịch sử của
trần gian. Một thắc mắc của em là tất cả lo âu nhân loại.
Qua những dòng này không ai có thể nghĩ
đó là một quan niệm
suy đồi. Cách mạng đã cho Trần Dần một quan niệm thơ ca mới mẻ và rất
biện chứng, rất tích cực đối với cuộc sống.
Như vậy có lẽ trước tiên NVGP đi từ cảm
hứng của một cuộc cách
mạng văn học, bị kích thích bởi thời cuộc Việt Nam 1954-1956. Tuy vậy,
vẫn phải nói thêm rằng nếu không có cái thời cuộc đó sẽ không có NVGP!
Trong NVGP trào lưu tư tưởng chính trị
và trào lưu tư tưởng
văn học gặp nhau đã tạo ra một sức mạnh xã hội to lớn làm chính quyền
nhìn thấy một nguy cơ đe dọa nguy hiểm cần phải loại bỏ hơn là để nó
tồn tại. Lúc ấy miền Bắc Việt Nam chưa đủ điều kiện để làm một cuộc cải
cách dân chủ, một cuộc cải cách văn học.
Ba mươi năm sau, đứng trước
nguy cơ khủng hoảng,
ĐCSVN mới đưa ra sách lược đổi mới. Trường Chinh đã làm được việc khởi
xướng đổi mới, nền kinh tế đất nước đã có ít nhiều thay đổi, nhưng
những di sản văn hóa Maoist mà ông ta đã áp đặt lên đất nước từ 70 năm
nay dù đang hoen gỉ nhưng bộ khung thì vẫn còn tù hãm đời sống tinh
thần của dân tộc Việt Nam.
4- Các điều kiện nảy sinh NVGP
Mặc dù chủ nghĩa Mao đã được chính thức
thừa nhận trong cương
lĩnh ĐCSVN tại Đại hội lần thứ II tháng 2-1951 nhưng do các điều kiện
của thời kỳ đó nội bộ lãnh đạo Đảng vẫn còn bị ràng
buộc bởi các sự kiện sau:
Họ còn đang choáng váng về hậu quả của
sai lầm do CCRĐ gây ra,
Đảng phải công khai xin lỗi nhân dân, Tổng bí thư Trường Chinh phải từ
chức, một số cán bộ lãnh đạo CCRĐ bị kỷ luật (13).
Họ còn bị ràng buộc những điều kiện để
hy vọng tiếp tục quá
trình hiệp thương thống nhất đất nước và giành thắng lợi trong cuộc
Tổng tuyển cử cho nên phải cố gắng tạo bộ mặt sạch sẽ cho chính thể
VNDCCH như tiếp tục sử dụng nhiều nhân sĩ trí thức trong Chính phủ,
Quốc hội, ban hành các đạo luật có tính chất dân chủ cởi mở như Luật tự
do báo chí, tự do xuất bản, tự do hội họp, tự do lập hội… Cho đến giữa
năm 1957 HCM vẫn còn tính đến khả năng Việt Nam xin gia nhập Khối Liên
hiệp Pháp (14).
III- Diễn biến vụ NVGP
1- Biên niên sự kiện
Năm 1953:
- Luật Cải cách ruộng đất được ban hành
- Stalin qua đời.
- Ngày 17-6 biểu tình tại Cộng hòa dân chủ Đức. B. Brecht và J. R Becher phê phán chính sách văn nghệ chuyên chính của Đảng và nhà nước.
- Trần Dần bị phê bình giảng sai chính sách văn nghệ của Đảng trong khóa đào tạo cán bộ văn công do ông phụ trách.
Năm 1954:
- Chiến thắng Điện Biên Phủ. Cải cách ruộng đất.
- Hiệp định Giơ ne vơ. Chính phủ Việt Nam Cộng hòa thành lập tại Sài Gòn.
- 700.000 ngàn người miền Bắc di cư vào Nam trong đó có nhiều trí thức văn nghệ sĩ có tên tuổi. Đó là một cuộc lựa chọn - nhận đường, phân hóa có ý nghĩa lịch sử với đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, còn có ý nghĩa văn học lâu dài. Vũ Khắc Khoan viết các truyện ngắn Thần Tháp Rùa, Trương Chi, Thiên Thai, Người Đẹp Trong Tranh với chủ đề về sự phân vân của trí thức Hà Nội đi tìm một căn bản tư tưởng.
- Tháng 7 Hồ Phong công bố thư ngỏ gửi BCHTƯĐCSTQ phê phán năm lưỡi dao đâm vào óc các nhà văn cách mạng.
- 10-10 Chính phủ kháng chiến tiếp quản Hà Nội
- Trần Dần và Đỗ Nhuận, Hoàng Xuân Tùy được cử đi Trung Quốc viết lời bình cho phim tài liệu về Điện Biên Phủ. Đến 12-12 trở về Hà Nội.
Năm 1955:
- Tháng 1 Hồ Phong công khai tự phê bình, đến tháng 5 thì bị bắt và bị kết án cải tạo
- 63 nhà văn Hung Ga Ri lên tiếng phản đối chế độ độc quyền.
- Trần Dần, Tử Phác cùng Hoàng Cầm Lê Đạt tổ chức Thảo luận phê bình tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu.
- Tháng 4 Trần Dần cùng Đỗ Nhuận, Hoàng Tích Linh, Tử Phác, Hoàng Cầm, Trúc Lâm… đệ trình Dự thảo đề nghị cho một chính sách văn hóa lên Tổng cục chính trị yêu cầu tự do sáng tác, trả quyền lãnh đạo văn nghệ về tay văn nghệ sĩ, thủ tiêu hệ thống chính trị viên trong các đoàn văn công quân đội, sửa đổi chính sách văn nghệ trong quân đội.
- Bị phê bình Trần Dần viết đơn xin ra khỏi Đảng, xin giải ngũ đồng thời quyết định kết hôn với bà Bùi Thị Khuê gia đình Thiên chúa giáo di cư bất chấp sự phản đối của quân đội.
- Trần Dần bị giam tại doanh trại từ 13-6 đến 14-9 để kiểm thảo, sau đó tham gia cải cách ruộng đất đợt 5 tại Bắc Ninh.
- Ngày 2-9-1955 tuần báo Trăm Hoa do Nguyễn Mạnh Phác làm Chủ nhiệm ra số I, báo tồn tại đến tháng 5–1956. Báo này có đăng 3 bài phê bình tập thơ Ngôi sao của Xuân Diệu.
- Mãi đến 20-9-1955 Chính phủ mới thành lập Bộ Văn hóa trên cơ sở Bộ Tuyên truyền.
Năm 1956:
- Tháng 1 Hoàng Cầm, Lê Đạt chủ trương xuất bản sách dạng tạp chí Giai Phẩm Mùa Xuân với các tác phẩm: Làm thơ và Mới – Gửi Vũ, Mỗi ngày mỗi lớn - Gửi kế hoạch nhà nước 1956 của Lê Đạt, Mùa xuân đến rồi đây, Thơ qua đài phát thanh của Hoàng Cầm, Anh có nghe thấy không của Văn Cao, Nhất định thắng, Lão Rồng của Trần Dần, Thi sĩ và công nhân của Phùng Quán, Hoa đào vẫn nở của Nguyễn Sáng, Sổ tay của Sỹ Ngọc và sự cộng tác của Tô Vũ…
- Ngay lập tức GPMX bị tịch thu.
- Lê Đạt bị gọi lên Ban Tuyên huấn kiểm điểm.
- Hội Văn nghệ tổ chức Hội nghị phê bình bài thơ Nhất định thắng của Trần Dần với 150 văn nghệ sĩ tham dự. Trần Dần bị kết án là đồ đệ của Hồ Phong, mất lập trường giai cấp, đi ngược lại đường lối văn nghệ của Đảng.
- Trần Dần và Tử Phác bị giam ba tháng tại Hỏa Lò Hà Nội. Trần Dần dùng dao lam cứa cổ tự tử, được tướng Nguyễn Chí Thanh can thiệp thả hai người.
- Hoài Thanh viết bài Vạch trần tính chất phản động trong bài thơ Nhất định thắng của Trần Dần đăng trên báo Văn Nghệ số 110 ra ngày 7-3-1956.
- Ngày 24-2-1956 Đại hội XX ĐCSLX công bố các tội ác của Stalin. Chủ tịch Hội nhà văn Liên Xô Pha đê ép tự sát. Liên Xô phục hồi danh dự cho các văn nghệ sĩ bị kết án và bị giết dưới thời Stalin. Văn nghệ Liên Xô gọi thời kỳ này là luồng gió ấm, sinh ra một thế hệ văn nghệ sĩ tài năng xuất sắc như Paxtecnhac, Xônjenitsin, Ép tu senko, Tru khơ rai, Bôn đa suc, Vôznêxenxky, Rôtdextvenxky, Aimatôp… với các tác phẩm như Bác sĩ Jivago, Đàn sếu bay qua, Hai người lính, Người thứ 41, Không thể sống bằng bánh mì, Ngày của binh nhất Ivan…
- Dư luận văn nghệ sĩ bất bình về việc trao Giải thưởng văn nghệ 1954-1955. Một số nhà văn cho là chấm giải theo bè phái, những người trong Ban giám khảo tự chấm giải cho mình, nhiều tác phẩm chưa xứng đáng với giải, trong đó có tác phẩm của Tố Hữu, Xuân Diệu, Hoài Thanh, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Đình Thi, Trần Kim Trắc, Hồ Khải Đại… Có nhiều tác phẩm có tiếng vang rộng rãi trong kháng chiến không được giải.
- Vấn đề sai lầm CCRĐ đang được đặt ra, trở thành bức xúc lớn của xã hội, nhất là làm sôi sục ở nông thôn.
- Ngày 26-5 Mao Trạch Đông phát động phong trào Trăm hoa đua nở trăm nhà đua tiếng.
- Ngày 28-6 các cuộc biểu tình ở Ba Lan.
- Tại Việt Nam ĐCS ngả theo khuynh hướng nới rộng tự do. Nguyễn Hữu Đang lúc đó là Biên tập của tạp chí Văn Nghệ được giao tổ chức lớp học dân chủ 18 ngày của Hội Văn nghệ. Văn nghệ sĩ chỉ trích gay gắt đường lối lãnh đạo văn nghệ của Đảng. Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi thừa nhận những sai lầm nghiêm trọng và hứa hẹn sửa chữa. Hoài Thanh viết bài nhận lỗi tả khuynh trong phê bình Trần Dần. Sau đó đến tháng 10 Thường vụ Hội Văn Nghệ Việt Nam ra thông báo nhận sai lầm trong việc phê bình bài thơ Nhất định thắng.
- Tháng 7-1956 kết thúc CCRĐ.
- Tháng 9 Hội nghị lần thứ 10 BCHTƯ bàn về sửa chữa sai lầm trong CCRĐ, nhấn mạnh việc tăng cường mở rộng tự do dân chủ cho nhân dân. Trường Chinh từ chức Tổng bí thư ĐCSVN. Kỷ luật Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương, Hồ Viết Thắng… Võ Nguyên Giáp thay mặt Hồ Chí Minh xin lỗi nhân dân về sai lầm trong CCRĐ.
-
Ngày 29-8 Giai phẩm Mùa thu tập I ra đời với các bài Phê bình lãnh đạo văn nghệ của Phan Khôi, Tỉnh giấc chiêm bao của Nguyễn Bính, Tiếng sáo tiền kiếp của Trần Duy, Nhật ký đêm hè của Huy Phương, Bức thư gửi một người bạn cũ của Trần Lê Văn…
-
Ngày 15-9 báo Nhân Văn ra số 1 do Phan Khôi làm Chủ nhiệm, Trần Duy làm Thư ký tòa soạn, Nguyễn Hữu Đang, Hoàng Cầm, Lê Đạt làm Biên tập. Có bài Phỏng vấn Nguyễn Mạnh Tường về vấn đề nỗ lực mở rộng tự do và dân chủ, Nhân câu chuyện mấy người tự tử của Lê Đạt, Con người Trần Dần của Hoàng Cầm, Chống bè phái trong văn nghệ của Trần Công, tranh minh họa của Nguyễn Sáng.
- Báo Nhân Văn 15 ngày một kỳ ra tiếp số 2 vào ngày 30-9-1956 với các bài Phỏng vấn Đào Duy Anh về mở rộng tự do dân chủ, Phấn đấu cho Trăn hoa đua nở của Trần Duy, Trả lời Nguyễn Chương và báo Nhân dân của Nguyễn Hữu Đang…
- Giai phẩm Mùa thu tập II với các bài Bệnh sùng bái cá nhân của Trương Tửu, Ông bình vôi của Phan Khôi, Những người khổng lồ của Trần Duy, Chống tham ô lãng phí của Phùng Quán…
- Tập thơ Cửa Biển xuất bản có các trường ca Tiếng hát quan họ của Hoàng Cầm, Những người trên cửa biển của Văn Cao, Cách mạng Tháng Tám của Trần Dần và các bài thơ Máy, Đụng long mạch, Cha tôi … của Lê Đạt .
- Ngày 8-10 tái bản Giai phẩm Mùa xuân.
- Ngày 15-10 Báo Nhân Văn ra số 3. Kỷ niệm ngày Vũ Trọng Phụng mất và các bài Nỗ lực phát triển tự do dân chủ của Trần Đức Thảo, Phỏng vấn bác sĩ Đặng Văn Ngữ về mở rộng tự do và dân chủ…
- Tướng Nguyễn Sơn người bạn của văn nghệ sĩ kháng chiến Khu Bốn qua đời.
- Ngày 20-10 báo Trăm Hoa bộ mới do nhà thơ Nguyễn Bính làm Chủ nhiệm kiêm Chủ bút ra số I, phát hành được 11 số, đến tháng 1-1957 thì đình bản. Trên báo này có bài Vì những sai lầm nghiêm trọng cần phải xét lại toàn bộ Giải thưởng văn học 1954-1955 của chính Nguyễn Bính, bài bênh vực bài thơ Chiếc lược của Thụy An sáng tác theo lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch mà các báo không nhận đăng, bài Chúng tôi đề nghị bỏ lệ khai báo trong chính sách quản lý hộ khẩu, Thông báo của Hội nghị TƯ 10 về sai lầm trong CCRĐ, bài Để phát triển chế độ ta, phải bảo đảm cho nhân dân được tham gia quản lý kiểm soát tích cực mọi công việc của nhà nước…
-
Ngày 30-10 Giai Phẩm Mùa Thu tập III với các bài Văn nghệ và chính trị của Trương Tửu, Muốn phát triển học thuật của Đào Duy Anh và bài của Phan Khôi, Phùng Quán, Chu Ngọc, Nguyễn Mạnh Tường…
- Cũng ngày này Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường đọc bài tham luận rất quan trọng Qua những sai lầm trong cải cách ruộng đất xây dựng quan điểm lãnh đạo tại cuộc họp của Trung ương Mặt trận Tổ quốc, Hà Nội.
- Tháng 11 nổ ra bạo loạn của giáo dân Thiên chúa giáo tại Quỳnh Lưu Nghệ An.
- Bạo loạn tại Hung Ga Ri, Chính phủ dân chủ Nagy tuyên bố Hung Ga Ry trung lập. Liên Xô đưa quân vào Hung Ga Ry. Các nhà văn cộng sản có tên tuổi ở Châu Âu Laxness, Sartre, Beauvoir, Vercors… lên tiếng phản đối Liên Xô.
- Tại Sài Gòn, ra đời nhóm văn học Sáng Tạo gồm Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Doãn Quốc Sỹ…
- Ngày 5-11 báo Nhân Văn số 4 với bài Cần chính quy hơn nữa của Nguyễn Hữu Đang, Thành thật đấu tranh cho dân chủ của Trần Duy, Con ngựa già của chúa Trịnh của Phùng Cung, Những ngày báo hiệu mùa xuân của Văn Cao, Sự thật về vụ xúc phạm thi sĩ Nguyễn Bính và báo Trăm Hoa của Người Quan sát…
- Cũng ngày này xuất hiện thêm tờ Sáng Tạo, báo Điện ảnh - Sân khấu của nhóm Sáng Tạo với Ban biên tập gồm Hoàng Tích Linh, Trần Công, Cao Nhị, Thanh Châu, Nắng Mai Hồng, Trúc Lâm, Phan Vũ, Phan Tại, Nguyễn Đình Phúc, Sỹ Ngọc, Phạm Kỳ Nam, Trung Sơn, Vũ Phạm Từ, Anh Tâm, Lửa Mới, Nguyễn Sáng.
- Ngày 10-11 Tập san Đất mới tập I – Chuyện sinh viên được NXB Minh Đức xuất bản với bài Phê bình lãnh đạo sinh viên của Q. Ngọc và T. Hồng, các bài của Dương Viết Á, Nguyễn Bao, Bùi Quang Đoài, Thúc Hà, Văn Tâm, Lê Tự Gia, Nguyễn Đức Tiếu.
- Ngày 20-11 báo Nhân Văn số 5 với các bài Hiến pháp Việt Nam năm 1946 và Hiến pháp Trung Hoa bảo đảm tự do dân chủ thế nào? của Nguyễn Hữu Đang, Bài học Ba Lan và Hung Ga Ri của Lê Đạt kí Người Quan Sát…
- Tháng 12-1956 Ra mắt Giai Phẩm Mùa Đông tập I với các bài : Tư tưởng tự do của văn nghệ sĩ và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Bôn-sê-vích của Trương Tửu, Nội dung xã hội và hình thức tự do của Trần Đức Thảo và bài của Trần Dần, Hoàng Cầm, Tử Phác, Sĩ Ngọc, Trúc Lâm, Hữu Loan, Trần Công, Nguyễn Mạnh Tường.
- Ngày 24-1-1957 Kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa I thông qua các Luật về quyền tự do hội họp, Luật về quyền tự do lập hội, Luật quyền tự do báo chí... Đến kỳ họp thứ 7 tháng 9-1957 lại thông qua Luật về quyền tự do xuất bản… Các luật này một mặt thể hiện tinh thần tự do tư tưởng, văn học nghệ thuật báo chí, thừa nhận tự do báo chí xuất bản tư nhân nhưng mặt khác lại có những điều cấm kỵ để các cơ quan quyền lực dựa vào hành xử với những người muốn đi quá giới hạn của tự do dân chủ.
-
Ngày 15-12-1956 báo Nhân Văn số 6 đang in bị đình chỉ. Ngày 18-12 chỉ thị ngừng phát hành báo Nhân Văn và Giai phẩm cùng các ấn phẩm khác của nhóm NVGP, đóng cửa NXB Minh Đức, tịch thu các số báo cũ, cảnh cáo những người còn lưu giữ và phân phối các báo này. Một chiến dịch báo chí đã được tung ra để hạ uy tín các tờ báo và những người trong nhóm NVGP.
- Cuối tháng 12-1956 Tập san Tự do diễn đàn do NXB Minh Đức phát hành bị cấm. TDDĐ có các bài Qua sai lầm của Cải cách ruộng đất, xây dựng quan điểm lãnh đạo của Nguyễn Mạnh Tường, Tại sao quần chúng nhân dân tha thiết với cuộc đấu tranh văn nghệ? Của Nguyễn Hữu Đang, Nhiệm vụ của văn học không phải là giải thích chính sách của Phan Ngọc, Chú bé làm văn của Trần Dần, Vài ý nghĩ sau khi đọc bài thơ Động Long Mạch của Hoàng Cầm, Sinh hoạt văn hóa của Trương Tửu - Trần Đức Thảo.
Năm 1957:
- Trong dịp Tết 1957 NXB Minh Đức còn xuất bản cuốn Sách Tết coi như tiếp tục của Giai Phẩm với các tác phẩm của Quang Dũng, Trần Lê Văn, Huy Phương, Lê Đại Thanh, Hoàng Tích Linh, Tô Vũ, Tử Phác, Thanh Châu, Hữu Loan, Lưu Quang Thuận, Trần Công, Trần Dần, Hồng Lực, Trần Thịnh, Trúc Lâm, Tạ Hữu Thiện, Lộng Chương, Hoàng Huế, Phan Khôi, Sỹ Ngọc, Cao Nhị, Trần Huyền Trân, Nguyễn Hữu Đang, Nguyễn Khắc Dực, Nguyễn Sáng, Hoàng Cầm.
- Ngày 20 đến 28-2-1957 Đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ II tại Hà Nội với gần 500 đại biểu. Trường Chinh sau thất bại của CCRĐ đang muốn tìm một sự kiện để lật lại thế cờ trong Đảng, kêu gọi đấu tranh đập nát luận điệu phản động Nhân Văn Giai phẩm. Thành lập Hội Liên hiệp văn học Nghệ thuật Việt Nam. Trong Ban chấp hành vẫn có một số người tham gia, liên quan NVGP như hai Phó Tổng thư ký Văn Cao, Lương Xuân Nhị… Ở nhiều Hội khác các ông Nguyễn Sáng, Nguyễn Văn Tý, Hoàng Cầm, Hoàng Tích Linh, Nguyễn văn Tỵ,… vẫn trúng Ban chấp hành.
- Riêng Hội Nhà văn Việt Nam, nhà văn Tô Hoài làm Tổng thư ký. Hoàng Cầm, Hoàng Tích Linh vẫn trúng BCH. Báo Văn cơ quan ngôn luận của Hội Nhà văn ra số I từ 10-5 do Nguyễn Công Hoan làm Chủ bút, Nguyễn Tuân là Phó Chủ bút, Nguyên Hồng làm Tổng thư ký tòa soạn. Nhà xuất bản Hội Nhà văn cũng được thành lập do Tô Hoài làm Giám đốc, Hoàng Cầm làm Phó Giám đốc.
- Như vậy việc đánh NVGP đợt II đã kết thúc nhưng chưa có kết quả khả quan. Tại các Hội VHNT một số người có vai trò tích cực trong NVGP vẫn còn được đồng nghiệp tín nhiệm bầu vào các vị trí cao, bất chấp những tai tiếng họ đã gây ra trên mặt các số Nhân Văn và Giai Phẩm và sức ép từ lời kêu gọi của Trường Chinh. Bản thân Trường Chinh cũng không thể đẩy cao hơn tốc độ cuộc chiến chống NVGP vì ông ta không còn đầy đủ quyền lực như trước nữa. Mặt khác Liên Xô và Trung Quốc sau khi dẹp xong vụ Ba Lan - Hung Ga Ry vẫn chưa tiến đến đỉnh dao động, chưa dứt khoát tiến công vào những văn nghệ sĩ trí thức bị gọi là phái hữu. Bản thân những người NVGP vẫn còn được sự ủng hộ của lãnh đạo báo Văn, họ vẫn có thể tiếp tục đăng các sáng tác mới trên báo này. Vào tháng 7 tháng 8-1957 khi tạp chí Học Tập, cơ quan ngôn luận của ĐCSVN lên tiếng phê phán báo Văn, Nguyên Hồng, Nguyễn Tuân, Tô Hoài còn đứng ra tranh luận bảo vệ quan điểm dân chủ của mình.
- Ảnh hưởng của trào lưu NVGP còn lan sang một tờ báo nhà nước vừa ra đời là tờ bán nguyệt san Điện Ảnh, số 1 ra ngày 20-7-1957. Trong 10 số đầu báo Điện Ảnh vẫn còn phê phán bệnh công thức sơ lược của phim Liên Xô và Trung Quốc để phải kiểm điểm công khai trong số Tết 1958.
- Ngày 27-9 báo Văn số 21 in bài Lời mẹ dặn của Phùng Quán.
- Ngày 15-11 báo Văn số 28 in bài thơ Hãy đi mãi của Trần Dần.
- Trong thời gian này tại Trung Quốc, chiến dịch chống phái hữu đã bắt đầu. Nữ nhà văn Đinh Linh người được Giải thưởng văn học Stalin với tiểu thuyết Mùa xuân trên sông Tang Càn bị khai trừ khỏi ĐCSTQ, sau đó bà bị ngồi tù cho tới năm 1975.
- Trong thời gian này Hồ Chí Minh đi thăm Liên Xô, Mông Cổ, CHDCND Triều Tiên có ghé thăm Bắc Kinh chứng kiến và có thể học hỏi các kinh nghiệm tổ chức phong trào đánh phái hữu. Việt Nam cử Tố Hữu, Huy Cận và Hà Xuân Trường sang học tập kinh nghiệm, chính sách của Trung Quốc.
- Các chiến dịch chỉnh huấn văn nghệ diễn ra ở Liên Xô, Ba Lan, CHDC Đức.
- Tại Sài Gòn nhóm trí thức Bách Khoa ra đời.
Năm 1958:
- Ngày 6-1-1958 ĐCSVN ra Nghị quyết 30 về việc chấn chỉnh công tác văn nghệ. Nghị quyết này là một điển hình cho tình trạng cực đoan về lãnh đạo văn nghệ của ĐCSVN, sau này nó gần như bị loại bỏ không thấy đưa vào các tập văn kiện lãnh đạo văn hóa văn nghệ của Đảng.
- Ngày 10-1-1958 báo Văn số 36 in truyện ngắn Ông Năm Chuột của Phan Khôi. Đây là số báo Văn làm giọt nước tràn ly. Đến số 37 báo bị đình bản. Từ đây kết thúc thời kỳ phát ngôn công khai của nhóm NVGP. Năm 1958 là năm đen tối của họ, đấu tố, kỷ luật, ngồi tù, cải tạo lao động…
- Từ cuối tháng 1 đến cuối tháng 2-1958 Lớp học đấu tranh tư tưởng lần thứ 1 tại Thái Hà ấp với 272 văn nghệ sĩ đảng viên tham dự.
- Từ 3-3 đến 14-4 Lớp học đấu tranh tư tưởng lần 2 cũng tại Thái Hà ấp với 304 cán bộ văn hóa văn nghệ tham dự. Trong khi họp thì ngày 10-4 công an Hà Nội bắt giam Nguyễn Hữu Đang, Thụy An, Trần Thiếu Bảo…
- Ngày 4-6 Hội nghị Ban chấp hành Hội Liên hiệp VHNTVN họp tổng kết cuộc đấu tranh chống NVGP. Tố Hữu đọc báo cáo Qua cuộc đấu tranh chống nhóm phá hoại Nhân Văn - Giai Phẩm trên mặt trận văn nghệ (15).
- Ngày 5-6 Nghị quyết với chữ ký của 800 văn nghệ sĩ hoan nghênh kết quả thắng lợi của cuộc đấu tranh chống NVGP.
- Ngày 2-7 Ban chấp hành mới của Hội Nhà văn Việt Nam bầu Tổng thư kí mới là Nguyễn Đình Thi. Chủ tịch BCH Nguyễn Công Hoan, Phó Chủ tịch Tú Mỡ, Tổng thư ký Tô Hoài chỉ còn là Ủy viên Ban thường vụ. Phó Tổng thư ký Nguyễn Xuân Sanh, Ủy viên thường vụ Nguyên Hồng, Tế Hanh, Đoàn Giỏi chỉ còn là Ủy viên BCH. NXB Hội Nhà văn sáp nhập vào NXB Văn học của Bộ Văn hóa. NXB này cũng bị kết tội đã xuất bản một số tác phẩm bị coi là non yếu về tư tưởng, một số tác phẩm từ trước 1945 thiếu chọn lọc, hoặc xuất bản một số tác phẩm nước ngoài có ý tuyên truyền cho tư tưởng trái với chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa.
- Ngày 7-7 Thông báo kỷ luật các văn nghệ sĩ đã tham gia NVGP. Hoàng Cầm bị cảnh cáo, khai trừ khỏi BCH HNV, khai trừ 1 năm khỏi HNV. Cho Hoàng Tích Linh rút khỏi BCH. Phan Khôi, Trương Tửu, Thụy An bị khai trừ vĩnh viễn khỏi HNV. Khai trừ trong thời hạn 3 năm đối với Lê Đạt, Trần Dần. Khai trừ 1 năm khỏi HNV đối với Phùng Quán. Cảnh cáo một số người:
- Hội Mỹ thuật cảnh cáo Sĩ Ngọc, cho Sĩ Ngọc và Nguyễn Sáng rút khỏi BCH. Khai trừ Trần Duy khỏi HMT.
- Hội Nhạc sĩ cho Văn Cao, Nguyễn Văn Tý rút khỏi BCH. Khai trừ 3 năm Tử Phác, Đặng Đình Hưng ra khỏi HNS.
- Tại các đợt học tập chỉnh huấn tại các trường Sư phạm và Tổng hợp Hà Nội các Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường, Đào Duy Anh, Trương Tửu, Trần Đức Thảo cũng bị đưa ra cho giáo viên và sinh viên đấu tố, bị miễn nhiệm thôi giảng dạy. Ngoài ra còn nhiều người khác cũng chịu kỷ luật như Cao Xuân Hạo, Phan Ngọc, Cao Xuân Huy… Một số sinh viên cũng bị kỷ luật như Bùi Quang Đoài (Thái Vũ), Văn Tâm, Phan Kế Hoành, Hà Thúc Chỉ (Thúc Hà )…
- Một số trí thức là nhân sĩ đã có thái độ ủng hộ NVGP cũng chịu các hình thức đối xử như Vũ Đình Hòe, Đỗ Đức Dục, Hoàng Văn Đức, Đặng văn Ngữ, Nguyễn Tấn Gi Trọng… Ngoài ra tại các địa phương những giáo viên, cán bộ, học sinh có hưởng ứng NVGP mua báo NVGP đều bị xử lý với nhiều hinh thức.
- Trong vòng ba đến bốn tháng các VNS đi cải tạo lao động tại các nhà máy, nông trường, hợp tác xã… Một số người phải cư trú lâu dài tại các địa phương như Hoàng Tố Nguyên, Nguyễn Bính, Hải Bằng, Trần Lê Văn, Nguyễn Khắc Dực…
Năm 1959:
- Tiếp tục các đợt lao động cải tạo
- Phan Khôi từ trần ngày 16 tháng Giêng 1959 thọ 73 tuổi.
- Sau khi báo Văn bị đình bản, báo Văn Học ra đời do Nguyễn Đình Thi làm Chủ nhiệm.
- Nhà xuất bản Hội Nhà văn bị sáp nhập vào Nhà xuất bản Văn Học của Bộ Văn hóa.
- Nhất Linh thành lập nhóm Văn Hóa Ngày Nay ở Sài Gòn.
- Mao Trạch Đông phát động chiến dịch Đại nhảy vọt.
- Pasternak nhà văn xô viết đầu tiên được Giải thưởng văn học Nobel, không được sang Thụy Điển nhận giải.
- Ngày 10-12-1959 Tòa án nhân dân Hà Nội khai mạc phiên tòa xử Vụ án gián điệp hoạt động phá hoại hiện hành. Kết quả tuyên án như sau:
Nguyễn Hữu Đang 15 năm tù giam, 5 năm
quả chế sau khi ra tù.
Lưu Thị Yến tức Thụy An 15 năm tù giam, 5 năm quản chế sau khi ra tù,
Trần Thiếu Bảo tức Minh Đức 10 năm tù giam, 5 năm quản chế sau khi ra tù.
Phan Tại 6 năm tù giam, 3 năm quản chế.
Lê Nguyên Chí 5 năm tù giam, 3 năm quản chế.
Lưu Thị Yến tức Thụy An 15 năm tù giam, 5 năm quản chế sau khi ra tù,
Trần Thiếu Bảo tức Minh Đức 10 năm tù giam, 5 năm quản chế sau khi ra tù.
Phan Tại 6 năm tù giam, 3 năm quản chế.
Lê Nguyên Chí 5 năm tù giam, 3 năm quản chế.
Năm 1960:
- Bắt đầu xung đột hai nước lớn trong phe XHCN Liên Xô và Trung Quốc.
- Đại hội ĐCSVN lần thứ III. Lê Duẩn được bầu làm Tổng bí thư. Trường Chinh chỉ còn phụ trách công tác lý luận và Tạp chí Học Tập.
Năm 1961:
- Phùng Cung bị bắt.
Năm 1968:
- Vụ án xét lại chống Đảng. Bắt giam Hoàng Minh Chính, Vũ Đình Huỳnh, Đặng Kim Giang, Trần Minh Việt, Trần Thư, Vũ Thư Hiên, Lê Trọng Nghĩa, Huy Vân…
Năm 1973:
- Thụy An, Nguyễn Hữu Đang ra tù.
- Phùng Cung ra tù.
Năm 1983:
- Hoàng Cầm bị bắt cùng Hoàng Hưng vì việc định đưa tập thơ Về Kinh Bắc ra nước ngoài.
Năm 1986:
- Đại hội ĐCSVN lần thứ VI với đường lối đổi mới, cởi trói cho VHNT.
- Trần Độ được cử làm Trưởng ban Văn hóa văn nghệ trung ương.
- Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh gặp gỡ văn nghệ sĩ, trí thức tiêu biểu, với lời phát biểu nổi tiếng: Hãy tự cứu mình trước khi trời cứu.
- Nghị quyết 05 Bộ Chính trị ĐCSVN : Đổi mới và nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lý văn học nghệ thuật và văn hóa, phát huy khả năng sáng tạo, đưa văn học, nghệ thuật và văn hóa phát triển lên một bước mới.
- Công an và các ban ngành liên quan tiến hành làm chính sách cho các đối tượng NVGP. Tác giả viết báo cáo về tình hình các đối tượng NVGP và đề xuất phương hướng giải quyết chế độ chính sách.
- Phục hồi hội tịch cho Trần Duy, Trần Dần, Hoàng Cầm, Hoàng Tích Linh, Lê Đạt, Phùng Quán. Giải quyết chế độ lương hưu cho Nguyễn Hữu Đang, Phùng Cung.
Năm 1987:
- Hoàng Cầm in tập thơ trở lại đầu tiên Mưa Thuận Thành, NXB Văn hóa.
- Phùng Quán in trở lại công khai đầu tiên trên báo Quảng Nam - Đà Nẵng Trường ca Cây Cà.
Năm 1988:
- Văn Cao xuất bản tập thơ Lá, NXB Tác phẩm mới.
- Nguyễn Hữu Đang được chuyển lên Hà Nội, được cấp nhà.
Năm 1991:
- Tháng 4, BCHTƯ ĐCSVN ra thông báo về hai vụ án NVGP và Xét lại chống Đảng. Quan điểm của Đảng là không thừa nhận sai lầm, vẫn đánh giá hai vụ án như trước đây.
- Trần Dần xuất hiện trở lại với tập thơ Bài thơ Việt Bắc, NXB Hội Nhà văn
- Từ 23-11 đến 10-12 Hội Nghệ sĩ tạo hình Việt Nam mở Triển lãm tranh Trần Duy tại Nhà triển lãm tranh 16 Ngô Quyền Hà Nội.
Năm 1992:
- Hoàng Cầm xuất bản kịch thơ Kiều Loan
Năm 1993:
- Hoàng Cầm xuất bản Bên kia sông Đuống, NXB Văn hóa
Năm 1994:
- Lê Đạt xuất bản tác phẩm trở lại đầu tiên Bóng chữ, NXB Hội Nhà văn.
- Hoàng Cầm in được tập thơ Về Kinh Bắc, NXB Văn Học.
- NXB Văn Học in Tuyển tập Văn Cao
- Trần Dần in Tiểu thuyết thơ Cổng Tỉnh, NXB Hội Nhà văn.
Năm 1995:
- Phùng Cung xuất hiện trở lại lần đầu tiên với tập thơ Xem Đêm, NXB Văn hóa – Thông tin.
- NXB Hội Nhà văn in Tuyển tập thơ Phùng Quán.
Năm 1996:
- Tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh cho Đặng Văn Ngữ, Cao Xuân Huy, Văn Cao, Nguyễn Tư Nghiêm, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Sáng.
Năm 1997:
- Bắt đầu in lại các tác phẩm cũ trước 1945 của Phan Khôi. Đáng chú ý là Lại Nguyên Ân đã sưu tầm và cho xuất bản Tác phẩm đăng báo hàng năm của Phan Khôi, các tập 1928, 1929, 1930, 1931…
-
Bắt đầu in một vài tác phẩm mới của Trần Đức Thảo.
Năm 2000:
- Trao Giải thưởng Hồ Chí Minh cho Đào Duy Anh, Trần Đức Thảo, Nguyễn Bính, Nguyễn Văn Tỵ, Nguyễn Sỹ Ngọc, Lộng Chương, Nguyễn Văn Tý.
Năm 2001-2002 :
- NXB hội Nhà văn in Hoàng Cầm Tác phẩm 3 tập.
Năm 2003:
- NXB Văn hóa - Thông tin xuất bản cuốn Nguyễn Bách Khoa - Khoa học văn chương. (NBK là một bút danh của Trương Tửu).
Năm 2007:
- Tặng Giải thưởng Nhà nước cho Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Phùng Quán, Yến Lan, Phạm Kỳ Nam.
- NXB Lao Động xuất bản TRƯƠNG TỬU - Tuyển tập nghiên cứu phê bình 1088 trang khổ 16-24.
Năm 2008:
- Tuyển tập Trần Dần Thơ 492 trang khổ 15-23 được NXB Đà Nẵng xuất bản. Gồm tất cả những bài thơ tiêu biểu của ông, kể cả các bài đã in trong báo NV-GP. Cơ quan chức năng can thiệp, bị công luận phản đối, sau xử phạt vi phạm hành chính.
- Tại Ngày Thơ Việt Nam ở Văn Miếu có Cây Thơ Thanh Tâm Tuyền.
Năm 2009:
- Tuyển tập thơ Lê Đạt Đường Chữ 644 trang khổ 16-24 do NXB Hội Nhà văn in. Cũng gồm tất cả các bài thơ đã in và bị cấm trong thời kỳ NVGP.
Năm 2010:
- Tháng 4 tại Đại hội cơ sở các Chi hội Điện ảnh lực lượng vũ trang các đại biểu Nguyễn Thành Lập, Lê Thi, Thái Kế Toại lên tiếng đề nghị xem xét tới những nghệ sĩ điện ảnh đã tham gia NVGP như Phạm Kỳ Nam, Phan Vũ, Hồng Lực, Trần Công, Trần Thịnh, Cao Nhị, Vũ Phạm Từ, Nắng Mai Hồng…
- Chuẩn bị cho Đại hội lần thứ VIII Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức viết Biên niên sự kiện và Lịch sử Hội bàn đến việc viết về NVGP như thế nào
2-Nhận xét nhân sự
Số người gọi là tham gia NVGP tại Hà
Nội do Bộ Công an và Công an Hà Nội quản lí do tác giả thống kê được
gồm khoảng 170 người. Số bị xử lí nặng khoảng gần 100 người, còn số bị
đưa vào danh sách để phân loại xử lí tính trên toàn miền Bắc ở tất cả
các lĩnh vực phải tới hàng ngàn người (16). Bởi vì các ấn phẩm của
phong trào NVGP đã được đón nhận nồng nhiệt, được hưởng ứng không chỉ ở
Hà Nội, mà xuống đến tận các vùng nông thôn miền núi. Tác giả ở Tiền
Hải Thái Bình có người thầy học là ông Trịnh Hồng Phát con cả của nhà
nho Trịnh Đình Rư là sinh viên văn ĐHTH HN do hưởng ứng tập san Đất Mới
phải về Tiền Hải dạy cấp II. Tác giả có người cậu thứ hai dạy cấp I
thời đó đã cho đọc báo Văn, cho đến nay tác giả vẫn còn giữ ấn tượng về
số báo Văn in truyện Ông Năm Chuột.
Đa số họ là trí thức văn nghệ sĩ có tài
năng đã tham gia tích cực trong kháng chiến chống Pháp, nhiều người còn
tham gia hoạt động cách mạng từ thời Văn hóa Cứu quốc.
Theo thống kê của tác giả trong số 64
đối tượng chính là văn nghệ sĩ có tên tuổi chỉ riêng trong lĩnh vực
VHNT, chưa tính số trí thức bên ngành giáo dục đã có :
- 23 người là hội viên Hội Nhà văn
- 4 người là hội viên Hội Sân khấu
- 6 người sau là hội viên Hội Điện ảnh
- 12 người là hội viên Hội Mỹ thuật
- 4 người là hội viên Hội Nhạc sĩ
3-Nhận xét nội dung tư tưởng các tác phẩm của nhóm NVGP
Có người nói rằng cách thức tiến hành
đánh NVGP mô phỏng lại cách Trung Quốc đấu tố phái hữu. Có thể chính Hồ
Chí Minh đã chứng kiến việc này ở Bắc Kinh và Tố Hữu, Huy Cận, Hà Xuân
Trường mang các bài học của Trung Quốc về áp dụng ở Việt Nam. Đặc biệt
là hình thức chỉnh huấn đấu tố tập thể, tra tấn tinh thần để đối tượng
tự nhận tội. Các văn bản phê phán đều mang màu sắc CCRĐ rất
rõ với các quan điểm tả khuynh về chính trị, nặng về mạt sát mạ lỵ, quy
kết chụp mũ, thậm chí có chỗ vu khống, bịa đặt trắng trợn. Trong các
bài tham luận, phát biểu trích dẫn văn bản thì cắt xén, suy luận xuyên
tạc ý nghĩa chủ quan của tác phẩm. Các bản tự kiểm điểm do sức ép nặng
nề về tâm lý và để nhanh chóng thoát khỏi các hình thức tra tấn về tinh
thần đều nhận tội quá lên, tự xỉ vả mình và đồng nghiệp. Vì thế khi
người ta muốn tìm hiểu sự thật trong các văn bản này nên thận trọng và
phải đối chiếu với các nguồn thông tin khác.
Kết tội nhóm NVGP có 3 nguồn chính thức
như sau:
- Nghị quyết 30 của BCTĐCSVN ngày 6-1-1958 về việc chấn chỉnh công tác văn nghệ.
- Báo cáo tổng kết cuộc đấu tranh chống nhóm phá hoại Nhân Văn - Giai Phẩm của Tố Hữu tại Hội nghị Ban chấp hành Hội liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam ngày 4-6-1958.
- Bản án của Tòa án nhân dân Hà Nội ngày 19-1-1960 xử vụ gián điệp Nguyễn Hữu Đang, Thụy An.
Dù có cách đánh lạc hướng nhưng cáo
trạng đều toát lên tinh thần các đối tượng dùng báo chí, văn nghệ
sĩ kích động tư tưởng chống chế độ tức là tinh thần của một
vụ án văn học chứ chưa phải là một vụ án hình sự về an ninh quốc gia.
Gác lại một bên, các quy kết, trào lưu
tư tưởng NVGP có những gì?
Cốt lõi của NVGP vẫn là vấn đề dân chủ,
câu hỏi muôn thưở đối với các xã hội toàn trị. Nhu cầu về một cuộc sống
có tự do dân chủ lúc ấy là khát vọng chung cho tất cả các tầng lớp nhân
dân miền Bắc, nhưng nó được biểu hiện một cách mãnh liệt ở những trí
thức có nhiều ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản, ở những văn nghệ
sỹ công thần, nhạy cảm, dũng cảm và lãng mạn.
Rõ rệt nhất là ở các lĩnh vực sau:
Về chính trị :
Mấy dòng ra mắt báo Nhân Văn số 1 viết:
Vào
lúc Đảng và Chính phủ
đang có kế hoạch phát triển văn hóa, cải thiện sinh hoạt xã hội, chúng
tôi cho ra tờ báo Nhân Văn để đóng góp một phần nhỏ mọn vào công việc
đó.
Vì
vậy nên phần ngôn luận chủ
yếu của nó được nêu lên là: văn hóa và xã hội.
Ngoài
ra, trong nước nay mai
sẽ có Đại hội Văn nghệ toàn quốc. Báo Nhân Văn cũng coi trọng việc ấy,
dành một phần tờ báo cho việc thảo luận các vấn đề văn nghệ để góp phần
xây dựng Đại hội.
Tóm
lại, báo Nhân Văn đứng
dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam, theo chủ nghĩa Mác-Lênin
với tinh thần thực tiễn, để xúc tiến công cuộc củng cố miền Bắc, thống
nhất nước nhà, để dọn đường đi đến thực hiện chủ nghĩa xã hội, theo như
ý muốn của Đảng cũng là ý muốn của nhân dân cả nước.
Nguyễn Hữu Đang viết trong bài Cần
phải chính quy hơn nữa, báo Nhân Văn số 4:
Hòa
bình lập lại đã hai năm,
dù cuộc đấu tranh thống nhất đất nước có phức tạp, gay go thế nào thì
cũng không thể coi miền bắc như ở một hoàn cảnh bất thường để duy trì
mãi một nền pháp trị (không) hẳn hoi.
...
Do
pháp trị thiếu sót mà Cải
cách Ruộng đất hỏng to đến thế. Do pháp trị thiếu sót mà quân đội chưa
có chế độ binh dịch hợp lý, công an hỏi giấy giá thú đôi vợ chồng ngồi
ngắm cảnh trăng lên ở bờ hồ, hộ khẩu rình bên cửa sổ khiến người ta mất
ăn mất ngủ, cán bộ thuế tự tiện vào khám nhà người kinh doanh, ở khu
phố có chuyện đuổi nhà lung tung hoặc ép buộc người ở nhà rộng phải
nhường một phần cho cán bộ hay cơ quan ở. Do pháp trị thiếu sót mà
nhiều cơ quan bóc xem thư của nhân viên và một ngành rất quan trọng nói
đòi thông qua những bài báo nói đến mình, làm như một bộ phận của Nhà
nước lại có quyền phục hồi chế độ kiểm duyệt mà chính nhà nước đã bãi
bỏ. Do pháp trị thiếu sót, người ta đã làm những việc vu cáo và đe dọa
chính trị trắng trợn, ngăn cản việc mua đọc báo Nhân Văn, hành hung báo
Trăm Hoa v.v…
Tưởng
đã đến lúc nhân dân
phải tích cực bảo vệ chế độ bằng cách tố cáo những hành động phi pháp ở
bất cứ trường hợp nào đã có luật lệ rồi.
Về
mặt xúc tiến xây dựng ngay
một chế độ pháp trị đầy đủ tinh vi, chúng tôi đề nghị:
1-
Thi hành Hiến pháp (hoặc là
Hiến pháp 1946 sửa đổi cho thích hợp với hoàn cảnh ngày nay,
hoặc là Hiến pháp mới sẽ đặt ra), Trên cơ sở Hiến pháp, Quốc hội sẽ
biểu quyết các đạo luật thay
cho các sắc lệnh và nhiều văn kiện khác.
2-
Quốc hội họp đều sáu tháng
một kỳ. Không có lý do trong hoàn cảnh hòa bình mà công việc của Quốc
hội vẫn khoán trắng cho một Ban thường trực gần như không hoạt động gì.
3-
Chấn chỉnh ngành tư pháp, chủ yếu là tăng quyền hành thực sự của Bộ
tư pháp.
Trong bài Hiến
pháp Việt Nam năm 1946 và Hiến pháp Trung Hoa bảo đảm tự do dân chủ thế
nào? Ông lại viết:
Hiến
pháp 1946 của ta sau khi được Quốc hội thông qua liền bị hoãn thi
hành vì tình hình trong nước nghiêm trọng. Nhưng từ sau Hiệp định Giơ
ne vơ, tình hình miền Bắc, mặc dầu còn nhiều khó khăn kinh tế và cuộc
đấu tranh thực hiện thống nhất gay go phức tạp, cũng phải coi là đã trở
lại bình thường rồi. Vậy chúng ta có thể đề ra hoặc việc thi hành
Hiến pháp 1946 sửa đổi lại, hoặc việc đặt một Hiến pháp mới.
…
Ở đây tôi chỉ muốn cả quyết một điều là dù Hiến pháp sẽ được ban bố
có nội dung thế nào đi nữa, cái phần bảo đảm tự do dân chủ của nó về
căn bản vẫn không thể thay đổi so với Hiến pháp 1946. Vì đó là một điều
kiện “ không có không được” của một chính thể dân chủ.
…
Chúng
ta thấy các quyền tự
do dân chủ bị hạn chế quá nhiều. Và chúng ta nhiệt liệt hoan nghênh
nghị quyết của hội nghị lần thứ 10 của Trung ương Đảng Lao động đã nhấn
mạnh sự cần thiết phải mở rộng tự do dân chủ.
…
Chuyên
chính với địch thì bao nhiêu cũng chưa đủ và từ trước đến nay chúng ta
có lúc nào buông lỏng đâu mà phải hô hào? Còn chuyên chính với nhân dân
thì cần xét kỹ. Nếu không hậu quả sẽ tai hại lớn. Nguyên nhân sâu xa
của những biến cố ở Ba Lan và Hung ga ri là vì thiếu dân chủ, tại sao
lại hiểu ra là vì thiếu chuyên chính?
Giáo sư Trần Đức Thảo viết
trong bài Nỗ lực phát triển tự do dân chủ,
báo Nhân Văn số 3 :
Sau
khi chúng ta đã đánh bại đế quốc và hoàn thành
Cải cách Ruộng đất ở miền Bắc, chính bệnh quan liêu, bè phái, sùng bái
cá nhân là những di tích của chế độ cũ trong tổ chức mới. Đấu tranh
chống những bệnh ấy là nhiệm vụ của nhân dân và đường lối của Đảng, một
trọng tâm công tác để đẩy mạnh công cuộc kiến thiết kinh tế và văn hóa,
nhanh chóng tiến lên chủ nghĩa xã hội.
…
Trong
nhiệm vụ thực hiện
phương châm của Đại hội XX của Đảng Cộng sản Liên Xô, đặng hưởng ứng
lời kêu gọi của Đảng Cộng sản Việt Nam, hưởng ứng phong trào phát triển
tự do dân chủ trong những nước dân chủ nhân dân anh em, người trí thức
Việt Nam có phần trách nhiệm quan trọng. Người
trí thức hoạt động văn hóa, cần tự do như khí trời để thở. Có tự do mới
đẩy mạnh được sáng tác văn nghệ, nghiên cứu khoa học, cải tiến kỹ
thuật. Phát triển tự do là nhu cầu thiết thân đồng thời cũng là nhiệm
vụ số 1 của người trí thức cũng như của toàn dân.
Trong bài Nội dung xã hội và
hình thức tự do, Giai phẩm Mùa Đông tập I ông viết cụ thể
hơn về nguồn gốc của căn bệnh sai lầm như sau:
…
Cơ
cấu của bộ máy
lãnh đạo có hướng một chiều, rất nặng về tổ chức và phương tiện đả
thông, cưỡng bách, mà những ý kiến phê bình của nhân dân hay cấp dưới
thì lại hoàn toàn để cho cấp trên quyết định có nên xét đến và thảo
luận hay không, cho nên những bệnh quan liêu, bè phái, sùng bái cá nhân
trong tổ chức lãnh đạo đã có điều kiện khách quan để phát triển, đẩy
mạnh tác phong đàn áp tư tưởng, phớt qua quy tắc dân chủ, biến những ý
kiến chủ quan thành lập trường bất di bất dịch. Nhờ những sự kiện ấy mà
những phần tử lạc hậu bảo thủ đã ngăn cản ý kiến của quần chúng, cản
trở việc sửa chữa sai lầm, cho đến lúc tác hại lớn quá, cơ sở đã bị tổn
thương nặng nề, chỉnh đốn tổ chức ở huyện và tỉnh phát triển theo một
thứ chủ nghĩa nông dân lưu manh hóa.
Rõ ràng những phần tử quan liêu bè phái đã lấy thành kiến của họ làm
đường lối lịch sử, biến những sai lầm của họ thành bánh xe vô tình của
lịch sử. Một bộ máy hùng mạnh, xây dựng để diệt kẻ thù, đến lúc không
thấy thù thì lại quay về bạn, lấy bạn làm thù mà đập phá bừa bãi.
…
Không
có lý do gì mà không
tin tưởng ở nhân dân, không tin tưởng rằng những thắc mắc đề ra, những
ý kiến phê bình căn bản là nhằm phục vụ mục đích chung, lấy kinh nghiệm
thực tiễn mà sửa chữa sai lầm, chấn chỉnh tổ chức, cải tiến chính sách.
Những ý kiến ấy phát biểu tự do có thể phạm vào địa vị, thành kiến hoặc
thói quen của một số người trong tổ chức lãnh đạo, nhưng nhất định đấy
không phải là thoát ly lãnh đạo, mà chính là củng cố lãnh đạo.
Về pháp luật
Luật sư Nguyễn Mạnh Tường qua
bài phát biểu rất quan trọng trước Mặt trận Tổ quốc Hà Nội ngày
30-10-1956 đã phân tích những sai lầm của chính quyền đi từ
sai lầm
CCRĐ ở nông thôn sang sai lầm trong chế độ mậu dịch ở thị thành, tất
cả nằm trong bản chất thiếu dân chủ. Ông chỉ ra nguồn gốc các sai lầm
đó và trình bày những nguyên tắc để sửa sang lại bộ máy pháp luật,
chính trị của đất nước (17).
Ông phê phán khẩu hiệu Thà chết 10
người oan còn hơn để sót một địch không những quá tả một cách vô lý mà
còn phản lại cách mạng.
Ông nhắc lại những nguyên tắc cơ bản
của pháp lý đã không được áp dụng trong CCRĐ:
- Không phạt các tội đã lâu ngày mà bây giờ mới khám phá ra.
- Chỉ một mình phạm nhân chịu trách nhiệm của việc mình làm, không có trách nhiệm chung của vợ con, gia đình.
- Muốn kết án một người phải có bằng cớ xác đáng.
- Thủ tục điều tra xét xử phải đảm bảo quyền lợi của bị tố nhân. Bị tố nhân có quyền nhờ luật sư bào chữa cho mình.
Sở dĩ có sai lầm như vậy vì 3 nguyên
nhân:
Quan
điểm ta-địch, thù-bạn
mơ hồ
Bất
chấp pháp luật
Bất
chấp chuyên môn.
Nguyễn Mạnh Tường cho rằng lẽ ra Quốc
hội là cơ quan lập pháp nhưng lại bị quan niệm rằng đó chỉ có quyền
thông qua các chính sách mà thôi.
Ông đề nghị hướng sửa chữa sai lầm là
phải xây dựng một chế độ pháp trị chân chính, một chế độ dân chủ thực
sự.
Ông khẳng định :
Một
chế độ dân chủ
thực sự trong đó người dân được làm chủ trên đất nước không những trong
hiến pháp mà cả trong thực tế nữa.
Lịch
sử các phong trào cách
mạng trong hơn một thế kỷ nay, chưa bao giờ, chưa ai có thể ngăn cản
được một phong trào quần chúng đòi tự do dân chủ.
Về Văn hóa, văn học nghệ thuật
Đào Duy Anh, Đặng Văn Ngữ trong trả
lời phỏng vấn của báo Nhân Văn (18) nhấn mạnh đến việc thực hành dân
chủ cho đội ngũ những người nghiên cứu, giảng dạy ở các trường đại học,
đội ngũ bác sĩ cần được đầu tư phù hợp, cần có quan niệm đúng về vai
trò chuyên môn, có phương pháp đánh giá đúng thực chất người trí thức,
tránh lãnh đạo thô bạo bằng chính trị. Các ông đòi công tác chuyên môn
cơ bản phải do những người chuyên môn phụ trách (19).
Làn sóng phê bình sai lầm trong lãnh
đạo văn nghệ vô cùng mạnh mẽ. Những phát súng đầu tiên lại xuất phát từ
Phòng văn nghệ Quân đội, nơi quản lý cả một đội ngũ VNS hùng hậu bằng
chế độ chính ủy.
Từ tháng 4-1955 Trần Dần cùng với Đỗ
Nhuận, Hoàng Tích Linh, Hoàng Cầm, Tử Phác, Trúc Lâm… gửi Dự thảo đề
nghị cho một chính sách văn hóa lên Tổng cục chính trị. Bản Dự thảo yêu
cầu để cho văn nghệ sĩ tự do sáng tác, trả lãnh đạo văn nghệ cho văn
nghệ sĩ, đòi thành lập một chi hội văn nghệ trực thuộc Hội Văn nghệ
không qua Cục tuyên huấn và Tổng cục chính trị, bỏ hệ thống chính trị
viên trong các đoàn văn công quân đội, bỏ mọi chế độ quân sự hiện hành
trong văn nghệ quân đội. Sau đó là sự kiện Tử Phác, Trần Dần
bị bắt giam, Trần Dần dùng dao lam cứa cổ tự tử, viết thư gửi Nguyễn
Chí Thanh. Ông Thanh phải ra lệnh thả hai người. Việc bắt giam hai
người, Hoàng Cầm chứng kiến Tố Hữu ra lệnh cho Văn Phác: Bắt
nó về, tống giam nó!
Với bài Phê bình lãnh đạo
văn nghệ (20) Phan Khôi không ngần ngại phê phán tác phong
lãnh đạo văn nghệ quan liêu, hách dịch, bè phái, sùng bái cá nhân của
Trường Chinh, Tố Hữu, Hoài Thanh, Nguyễn Đình Thi.
Phan Khôi cho rằng từ khi vể Hà Nội
trong văn nghệ đã hình thành hai phe lãnh đạo văn nghệ
và quần chúng văn nghệ mà Lãnh đạo văn
nghệ đã xâm phạm mỗi ngày một hơn vào quyền riêng nghệ thuật của văn
nghệ sĩ đặc biệt là việc ép buộc văn nghệ sĩ một cách nghiệt
ngã phải phục vụ đúng đường lối chính trị. Với việc Hồ Chí Minh viết
truyện mẫu cho các nhà văn viết theo, ông nhận xét:
Nhược
bằng bắt mọi
người phải viết theo một lối với mình, thì rồi đến một ngày kia, hàng
trăm thứ hoa cúc đều phải nở ra cúc vạn thọ hết.
Ông chất vấn việc Hội Văn nghệ tổ chức
phê phán bài thơ Nhất định thắng của Trần Dần
mang tính ấu trĩ quy chụp, đàn áp.
Phan Khôi được mời tham gia Ban giám
khảo Giải thưởng văn học 1954-1955 để làm vì. Ông tố cáo sự thối nát
của Ban Giám khảo, những người như Hoài Thanh, Xuân Diệu, Nguyễn Huy
Tưởng có tác phẩm dự thi mà đều ở Ban sơ khảo và Ban chung khảo, đều
được giải thưởng mà chất lượng tác phẩm của họ không xứng đáng với giải.
Cùng với Phan Khôi, Trương Tửu cũng
quyết liệt phê phán Bệnh sùng bái cá nhân trong giới lãnh
đạo văn nghệ (21).
Ông
xác định bệnh sùng bái
cá nhân là một bệnh phổ biến trong giới lãnh đạo văn nghệ… Tôi không
nói
đó là bệnh của văn nghệ sĩ, vì rằng hôm qua cũng như hôm nay, người
văn nghệ sĩ tự trọng không bao giờ thừa nhận sự sùng bái cá nhân. Nghệ
thuật là sáng tạo, là tự do. Sùng bái cá nhân là phục tùng mù quáng, là
nô lệ. Hai thứ đó như nước với lửa, có cái này thì không có cái kia
được.
Trương Tửu nêu lên tấm gương không chịu
sùng bái cá nhân của Tô Ngọc Vân, Sĩ Ngọc đối với Trường Chinh. Ông quy
tội cho số lãnh đạo văn nghệ:
Giống
như bọn thầy bùa phong
kiến, các nhà lãnh đạo văn nghệ của chúng ta muốn yểm
tất cả tâm hồn cứng rắn và tự do cho đến trở thành những hòn đất thó tròn
méo mặc dầu tay kẻ nặn. Những lá bùa của họ chế
tạo ra kể cũng đã khá nhiều: mất lập trường, phạm chính sách, phá đoàn
kết, phá tổ chức, vô kỷ luật, chống Đảng, địch lợi dụng, có vấn
đề, bất mãn cá nhân, óc địa vị, v.v… còn gì nữa?
Theo ông chính lãnh đạo đã tạo ra một
tình trạng u ám trong văn nghệ:
Một
số văn nghệ sĩ non
gan… biến thành những tên thư lại văn nghệ xu nịnh trục lợi. Một số
khác
trốn vào thái độ tiêu cực, chán nản công tác, tâm tư trĩu nặng hờn oán
và uất ức. Một số khác nữa cất kín cá tính và
nghệ thuật xuống đáy ba lô,
yên lặng làm bổn phận một người công dân kháng chiến bằng bút, bằng màu
sắc, bằng dây đàn, bằng sân khấu – đánh giặc đã!
Còn
một số không khuất phục, kịch liệt phê phán tác phong và đường lối lãnh
đạo của thường vụ Hội thì bị chụp mũ, bị chèn ép, bị trù,
bị hành hạ, bị gạt sang một bên…
Trương Tửu đề nghị:
Đã
đến lúc phải sa thải những
nhà lãnh đạo thiếu tư cách mà quần chúng
tuyệt đối không tin tưởng nữa để quần chúng văn nghệ tự tay mình điều
khiển công việc chuyên môn của mình một cách thực sự dân chủ.
Đã
đến lúc phải thanh toán
lối đàn áp tự do tư tưởng, khinh miệt quần chúng, mệnh lệnh,
độc đoán, bè phái chủ nghĩa do bệnh sùng bái cá nhân đẻ ra,
để mở đường cho trăm hoa đua nở, trăm nhà đua nói.
Trương Tửu kêu gọi trả lại sự tự do cho
văn nghệ sĩ:
Muốn
sáng tạo ra một thế giới
độc đáo, văn nghệ sĩ phải có một cái nhìn độc đáo, một nhận thức độc
đáo về thực tại, một trí tưởng tượng độc đáo, một lối nói độc đáo. Phải
duy trì bảo vệ tính độc đáo ấy không để một sức mạnh bên ngoài nào xâm
phậm đến hay làm cho mất đi. Phải tự do nhìn sự thực, tự do xúc cảm, tự
do suy nghĩ, tự do tưởng tượng, tự do vận dụng ngôn ngữ nghệ
thuật – để
có thể phản ánh hiện thực một cách trung thành. Tự do ở đây có nghĩa
là:
chống lại mọi áp bức tư tưởng, mọi mệnh lệnh, mọi
công thức, mọi quyền uy bắt mình nói điều mình không muốn nói, nghĩ
điều
mình không muốn nghĩ, nhận là đúng điều mình cho là sai, không yêu
những cái mà mình ghét, không ca tụng những cái mà mình phản đối.
Không có tự do ấy, sự sáng tác của văn nghệ sĩ sẽ
giả tạo.
Cũng với tinh thần phê phán các sai lầm
của lãnh đạo văn nghệ, đề nghị các giải pháp cho tự do sáng tác còn có
các bài của:
Hoàng
Huế : Một bản đề án về
Đại hội Văn nghệ lần thứ hai.
Trần
Duy: Phấn đấu cho trăm
hoa đua nở. Thành thật đấu tranh cho tự do dân chủ. Góp ý kiến về phần
tự do dân chủ trong Nghị quyết T.Ư lần thứ mười.
Chu
Ngọc: Nguyễn Sơn, người
đi đầu trong đường lối văn nghệ rộng rãi.
Sĩ
Ngọc: Làm cho hoa nở bốn
mùa.
Q.
Ngọc và T. Hồng: Phê bình
lãnh đạo sinh viên.
Dương
Viết Á: Những bóng mây
đen đã bay qua. Chúng ta hãy giữ lấy ánh sáng mới.
Văn
Tâm: Những người ấy muốn
gì.
Bùi
Quang Đoài: Chủ nghĩa
nhân văn của ông Hoàng Xuân Nhị
H.L: Không
có lí gì mà không
tán thành Trăm hoa đua nở.
Trần
Công: Chống bè phái
trong văn nghệ.
Trần
Công: Mấy ý kiến về vấn
đề lãnh đạo ở Phòng văn nghệ quân đội.
Người
Quan sát: Một đợt học
tập và đấu tranh của giới văn nghệ. Bài học Ba Lan và Hung ga ri.
Trần
Lê Văn: Chúng ta đã bàn
tới những vấn đề gì trong Đại hội?. Cần mở rộng phê bình để đẩy văn
nghệ tiến lên.
Còn một số bài về điện ảnh của Cao Nhị,
Vũ Phạm Từ, Phạm Kỳ Nam, Phan Vũ, Chu Ngọc, Trần Công, Nắng Mai Hồng,
Trần Thịnh…
Trần
Công: Tiến tới thành
lập Hội của những người công tác điện ảnh.( ST1)
Nắng
Mai Hồng: Cần xét lại
quan niệm của những người lãnh đạo nghệ thuật điện ảnh.( ST
1+2)
Cao
Nhị: Nửa tháng liên hoan
phim Liên Xô: Mấy bộ phim dở. (NV 5)
Như vậy sau văn học những phản ứng mạnh
mẽ ở trên đã làm nóng diễn đàn điện ảnh. Lúc đó Ban vận động thành lập
Hội Điện ảnh đã hoạt động nhưng mãi đến năm 1970 những người làm điện
ảnh mới có hội nghề nghiệp của mình. Có hai lí do :
Thứ nhất các ĐCS theo lí thuyết của Lê
nin đề cao điện ảnh là vũ khí số một của nghệ thuật vô sản. Họ luôn
luôn nắm chặt vũ khí này cho đến hiện nay cả về chỉ đạo và cả về đầu tư.
Thứ hai là sau NVGP điện ảnh phải hứng
chịu tiếp cơn bão thứ hai lớn hơn là Vụ án xét lại. Hầu hết các nghệ sĩ
và quản lý điện ảnh đều được đào tạo ở Liên Xô về, nhiều người đã bị
coi là có tư tưởng xét lại. Chỉ sau khi giải quyết xong vụ án xét lại
1968 thì đến tháng 1-1970 Hội Điện Ảnh mới được thành lập.
Trên lĩnh vực sáng tác phong trào NVGP
có các tác phẩm tiêu biểu như sau:
Thụy
An: Truyện ngắn Trường
hợp tòng quân của thiếu úy Lâm, Bicxura.
Nguyễn
Bính: Thơ Tỉnh giấc
chiêm bao.
Văn
Cao: Trường ca Cửa biển. Thơ Anh
có nghe thấy không.
Hoàng
Cầm: Bút kí
Con người Trần Dần. Trường ca Tiếng
hát quan họ. Kịch thơ Tiếng hát.
Phùng
Cung: Truyện ngắn Con
ngựa già của chúa Trịnh
Trần
Dần: Trường ca Nhất định
thắng. Hãy đi mãi.
Trần
Duy: Truyện ngắn Những
người khổng lồ. Tiếng sáo tiền kiếp.
Lê
Đạt:
Thơ Nhân
câu chuyện mấy người tự tử. Cửa hàng Lê Đạt.
Minh
Hoàng: Truyện ngắn Đống
máy
Phan
Khôi: Tạp văn Ông bình
vôi. Truyện ngắn Ông Năm Chuột.
Hữu
Loan: Thơ Những thằng
nịnh hót.
Như
Mai: Truyện ngắn Thi sĩ
máy
Phùng
Quán: Thơ Chống tham ô
lãng phí. Lời mẹ dặn.
Trần
Lê văn: Tùy bút Bức thư
gửi một người bạn cũ.
Vậy
đặc điểm của cuộc cách mạng văn học
NVGP là gì?
Về
nội dung:
Các tác giả NVGP chủ trương sáng tác
của mình trực tiếp phản ánh những vấn đề cấp thiết của xã hội với thái
độ thẳng thắn, trung thực. Họ cho rằng nếu với thái độ đó văn học sẽ
giúp ích nhiều cho nhân dân, cho Đảng, cho nhà nước. Họ không né tránh
sự đau khổ của nhân dân, nghèo túng, oan ức trong cải cách ruộng đất,
sự bế tắc của người nghệ sĩ. Họ lên án các tật xấu của cán bộ, trong đó
có cán bộ lãnh đạo văn nghệ, chỉ đạo chính trị thô bạo, sùng bái cấp
trên, bè phái, áp bức cấp dưới và nhân dân, làm ảnh hưởng đến sáng tạo,
đến chất lượng nghệ thuật. Họ góp ý thẳng thắn về các chủ trương chính
sách không hợp với lòng dân đang làm tổn thương lòng tin vào chế độ
mới. Họ tố cáo với Đảng những kẻ thù mới đó, những con người đang làm
hại sự nghiệp của Đảng, khẳng định đây là một cuộc đấu tranh mới đầy
quyết liệt:
Chúng nó còn ở lại
Trong những áo dài đen nham hiểm
Bẻ cổ bẻ chân đeo tội ác cho người
Chúng nó còn ở lại
Trong những tủ sách gia đình
Ở những điếu thuốc trên môi những em bé mười lăm
Từng bước chân cô gái
Từng con đường bãi cỏ bóng tối
Mắt quầng thâm còn nhớ mãi đêm
Trong những áo dài đen nham hiểm
Bẻ cổ bẻ chân đeo tội ác cho người
Chúng nó còn ở lại
Trong những tủ sách gia đình
Ở những điếu thuốc trên môi những em bé mười lăm
Từng bước chân cô gái
Từng con đường bãi cỏ bóng tối
Mắt quầng thâm còn nhớ mãi đêm
Chúng
nó còn ở lại
Trong những tuổi bốn mươi
Đang đi vào cuộc sống
Như nấm mọc trên những thân gỗ mục
Trong những tuổi bốn mươi
Đang đi vào cuộc sống
Như nấm mọc trên những thân gỗ mục
Văn Cao - ( Anh có nghe thấy không)
Trong những ngày khó khăn chồng
chất
Kẻ thù của chúng ta xuất hiện
Những con rồng đất khi đỏ khi xanh
Lẫn trong hàng ngũ
Kẻ thù của chúng ta xuất hiện
Những con rồng đất khi đỏ khi xanh
Lẫn trong hàng ngũ
Những con bói cá
Đậu trên những dây buồm
Đang đo mực nước
Những con bạch tuộc
Bao tay chân cố dìm một con người
Đậu trên những dây buồm
Đang đo mực nước
Những con bạch tuộc
Bao tay chân cố dìm một con người
Đất nước đang lên da lên thịt
Đất nước còn đang nhỏ máu ngày ngày
Ta muốn gói cuộc đời gọn gàng như trái vải
Đã thấy loài sâu nằm tròn trong cuống
Chúng muốn các em nhỏ mới biết đi phải rụng
Đất nước còn đang nhỏ máu ngày ngày
Ta muốn gói cuộc đời gọn gàng như trái vải
Đã thấy loài sâu nằm tròn trong cuống
Chúng muốn các em nhỏ mới biết đi phải rụng
Mòn mỏi dần sức vỡ đất khai hoang
Làm rỗng những con người lụi dần niềm hy vọng
Héo dần mầm sáng tạo mất phẩm giá con người
Chúng nó ở bên ta trong ta lén lút
Đào rỗng từng kho tiền gạo thuốc men
Tôi đã thấy từng mặt từng tên xâu chuỗi
Tôi sẽ vạch mặt từng tên
Làm rỗng những con người lụi dần niềm hy vọng
Héo dần mầm sáng tạo mất phẩm giá con người
Chúng nó ở bên ta trong ta lén lút
Đào rỗng từng kho tiền gạo thuốc men
Tôi đã thấy từng mặt từng tên xâu chuỗi
Tôi sẽ vạch mặt từng tên
Văn Cao - (Trường ca Những người trên cửa
biển)
Họ cũng
sớm lên án sự can thiệp thô bạo vào đời sống riêng tư con người:
Chế độ ta không cấm họ yêu nhau
Mà sao họ chết?
Người công an đứng ngã tư
đường phố
Chỉ huy
bên trái
bên phải
Xe chạy
Xe dừng
Rất cần cho việc giao thông
Nhưng đem bục công an
máy móc
đặt giữa tim người
Bắt tình cảm ngược xuôi
Theo đúng luật đi đường nhà nước
Có thể gây rất nhiều chua xót
ngoài đời
Mà sao họ chết?
Người công an đứng ngã tư
đường phố
Chỉ huy
bên trái
bên phải
Xe chạy
Xe dừng
Rất cần cho việc giao thông
Nhưng đem bục công an
máy móc
đặt giữa tim người
Bắt tình cảm ngược xuôi
Theo đúng luật đi đường nhà nước
Có thể gây rất nhiều chua xót
ngoài đời
Lê Đạt - (Nhân câu chuyện mấy người tự tử)
Với ngày nay những câu thơ trên là rất
bình thường nhưng vào lúc đó nó bị cắt xén, suy diễn gán ghép
kết tội, làm cho những người lãnh đạo cả tin vào đội ngũ thư lại mất
bình tĩnh. Cũng như vậy, kể cả câu Tôi bước đi. Không thấy
phố, không thấy nhà. Chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ. đã bị
cắt ra khỏi kết cấu của bài thơ dài Nhất định thắng và gán cho ý nghĩa
phản động. Câu thơ này là tâm trạng tác giả lúc cuộc sống khó khăn
nhất. Cuối bài thơ lúc miền Bắc vượt qua khó khăn, với tinh thần nhất
định thắng tác giả lại thấy :
Nắng lên đỏ phố đỏ cờ
Đỏ cả buồng tim lá phổi.
Đỏ cả buồng tim lá phổi.
Trong mặt nội dung này, có thể thấy
tính chất thật, cuộc sống thật của các sáng tác NVGP cũng giống như lời
các bài hát của Phạm Duy như Bà mẹ Gio Linh, Nương chiều,
Đường về miền Trung... không chung chung như các nhạc phẩm
của các văn nghệ sĩ kháng chiến khác.
Hiện thực mà văn học NVGP biểu hiện rõ
ràng trái ngược với thứ hiện thực của văn học kháng chiến, nó làm cho
văn học trở lại với đời sống nhân dân, làm nên nhựa sống cho người nghệ
sĩ.
Về Nghệ thuật:
Các nhà văn NVGP muốn tạo ra sự chuyển
biến về hình thức sáng tạo. Trước hết về thể thơ họ tiếp tục mở rộng
thể thơ tự do mà trong kháng chiến Nguyễn Đình Thi đã từng bị phê phán
nhưng Hoàng Cầm đã thành công rực rỡ với Bên kia sông Đuống.
Mạnh mẽ hơn họ còn thể nghiệm lối thơ bậc thang của Maiacopski. Mức độ
thành công có khác nhau, nhưng ở Trần Dần có lúc đã có thành công, nhất
là với Trường ca Việt Bắc.
Đây!
Việt Bắc!
Sông Lô
nước xanh
tròng trành mảnh nguyệt!
Bình Ca
Sương xuống
lạc
con đò!
Việt Bắc!
Sông Lô
nước xanh
tròng trành mảnh nguyệt!
Bình Ca
Sương xuống
lạc
con đò!
Cần thấy
ở việc học tập thơ Maia ngoài ý đồ cách
tân nghệ thuật, Trần Dần, Lê Đạt còn muốn thơ phải có tính chiến đấu
quyết liệt như
Maia.
Về bút
pháp, văn xuôi NVGP đã không còn là lối văn tả thực, tường thuật đơn
giản. Nó thực sự đã có những ẩn dụ, biểu tượng có ý nghĩa sâu sắc mà
trong văn học kháng chiến còn vắng bóng. Các hình tượng nghệ thuật của
họ đã tiến tới sự khái quát nghệ thuật, đa nghĩa, mang ẩn dụ tư tưởng.
Đó là các truyện ngắn Tiếng sáo tiền kiếp, Những
người khổng lồ của Trần Duy, Ông Năm Chuột
của Phan Khôi, Con ngựa già của Chúa Trịnh của
Phùng Cung, tiểu luận Ông bình vôi của Phan Khôi,
Thi sĩ máy của Như Mai…
Từ các ẩn dụ của NVGP người ta nhận ra
thái độ phê phán đường lối lãnh đạo văn nghệ của ĐCSVN, các căn bệnh
của bộ máy lãnh đạo văn nghệ, của cán bộ chính trị, bất cập của các
chính sách cộng sản trại lính áp dụng vào đời sống thời bình, tinh thần
dũng cảm chống cái xấu, cái ác, khát vọng tự do dân chủ và cả sự thất
vọng về bi kịch tiền định của thân phận nghệ sĩ.
Trong thời kỳ đấu tranh với NVGP các
đồng nghiệp đã tấn công quyết liệt vào bút pháp của NVGP. Họ kết
tội NVGP xỏ xiên mượn xưa nói nay, mượn thú vật
nói người, lấy cũ nói mới... Sự quy kết này đã được lấy làm
chuẩn mực trong một thời gian dài cho phương pháp phê bình gọi là hiện
thực xã hội chủ nghĩa, tạo ra các vụ phát hiện phê phán
nhiều tác phẩm tiêu cực trong các thời kỳ tiếp theo đã làm thui chột
các ý tưởng thể nghiệm nghệ thuật, ý tưởng sáng tạo hình thức thể hiện
của một thế hệ văn nghệ sĩ trên tất cả các thể loại văn học nghệ thuật.
Như vậy các nhà văn NVGP đã có ý thức
làm mới một nền văn học đã bị xơ cứng vì chủ trương phục vụ tuyên
truyền, vì bị lãnh đạo quan liêu gò ép mệnh lệnh trong 9 năm kháng
chiến, đến mức các nhà thơ tiền chiến như Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn
Xuân Sanh, Anh Thơ… còn chưa viết lại được nhuần nhuyễn.
Vào thời điểm đó trên thế giới cũng
bước vào một cuộc cách mạng văn học với sự xuất hiện của các trào lưu
hiện đại mới. Ở Sài Gòn, những văn nghệ sĩ trẻ di cư từ Hà Nội vào đã
lập nên nhóm văn học Sáng Tạo, nhóm trí thức Bách Khoa đã tạo ra cuộc
cách mạng ngôn ngữ thơ ca trừu tượng và văn học hiện sinh. Phải nói
rằng ngôn ngữ văn học miền Nam đã đi trước hiện đại hóa so với ngôn ngữ
văn học miền Bắc mấy chục năm. Phải chăng đó là hậu quả của việc thủ
tiêu cuộc cách mạng văn học của NVGP?
Thành quả của cuộc cách mạng văn học
của NVGP tiếc rằng chưa gây được ảnh hưởng rộng lớn trong một thời gian
ngắn ngủi nhưng nó đã đặt ra cho nền văn học miền Bắc những tiền đề
quan trọng, để lại ảnh hưởng đến nhiều thế hệ văn nghệ sĩ mặc dù nó bị
che phủ trong bóng tối. Những nhà văn chủ chốt của nó vẫn
không chịu thoái lui. Họ cố thủ trong lô cốt cá nhân của riêng mình,
vật lộn với nghèo túng, đói khát, vẫn tiếp tục thể nghiệm và đã biến ý
tưởng thành hiện thực, cuối cùng dù muộn màng đã được ghi nhận là những
nhà cách tân thành công thơ hiện đại Việt Nam. Đó là Những Trần Dần,
Lê Đạt, Hoàng Cầm, Đặng Đình Hưng…
Cũng như các trào lưu dân chủ ở các
nước XHCN khác tất cả các tư tưởng sáng tác của NVGP đều bị quy kết ám
chỉ, đả kích, là phá hoại phản động. Cũng như Hồ Phong, Đinh Linh, cũng
như Tru khơ rai, Paxternac, Xonjênitxin, Lu cat, Owen, Kớt
slơ... mà sau
này đến thời kỳ cải tổ, đổi mới người ta phải trả lại danh dự cho họ.
Tư tưởng của họ phù hợp với các tiêu
chí chung về tiến bộ xã hội của nhân loại, của một xã hội văn minh, một
xã hội con người được tự do tư tưởng, một nền nghệ thuật được tự do
sáng tạo…
4-Tính chất và hình thái hoạt động
Trong các văn bản và phát
biểu cá nhân người ta kết tội NVGP là tổ
chức phản động, hoạt động gián điệp, nhận tiền và được chỉ đạo của
nước ngoài, dùng văn học nghệ thuật hoạt động phản tuyên truyền, kích
động quần chúng nổi loạn lật đổ chính quyền.
Về tư tưởng thì ở trên đã trình bày cho
chúng ta thấy rõ những đòi
hỏi cải cách dân chủ của họ là phù hợp với tiến trình lịch sử. Nếu
ĐCSVN đi theo con đường đó thì có thể khủng hoảng đã không thể xảy ra,
đất nước không ở tình trạng như hiện nay. Có người lấy việc giải phóng
miền Nam để biện minh cho việc đàn áp NVGP là chính đáng. Nhưng sau khi
có sự sụp đổ của phe XHCN, sau khi nước Đức thống nhất thì lý do này
khó đứng vững.
Về tập thể hàng trăm trí thức, văn nghệ
sỹ với nhân thân đã biết ở
trên và nhất là đa số là những trí tuệ tài năng hàng đầu ở miền Bắc thì
không thể nói rằng họ là một tập thể mù quáng. Bây giờ thì lịch sử đã
chứng minh rằng những điều họ dám nói ra lúc đó đã đi trước 30 năm.
Qua các tài liệu và các cuộc phỏng vấn
sau này có thể đánh giá như sau:
NVGP không phải là một tổ chức vì thực
sự không có một ngọn cờ nào
chỉ đạo, điều khiển NVGP. Nó là một xu thế, cùng bùng lên ở nhiều lĩnh
vực, được nhiều người hưởng ứng quy tụ xung quanh nhóm sáng tác chính
của báo Nhân Văn và tạp chí Giai Phẩm. Theo lời các chủ chốt thì dường
như chỉ có hai người là Nguyễn Hữu Đang và Lê Đạt có tính chất thủ lĩnh
về tinh thần, còn trong công việc thì thường xuyên họ mâu thuẫn với
nhau. Họ không có một nghị quyết, một chương trình hành động cụ thể,
một mô hình tổ chức nào. Theo ông Trần Duy họ luôn luôn trong tình
trạng cãi nhau về chủ trương, không ai bảo được ai (22).
NVGP không hoạt động gián điệp. Cái tội
gọi là hoạt động gián điệp ở
đây là sự gán ghép suy diễn buộc tội. Nguyễn Hữu Đang không liên quan
gì đến những người Pháp còn ở Hà Nội. Còn Thụy An thì được một cơ quan
giao nhiệm vụ nắm ý đồ của mấy người Pháp đối với tình hình Hà Nội lúc
đó. Sau đó những lời báo cáo của bà trở thành chứng cứ buộc tội bà hoạt
động gián điệp. Họ cũng không có tài liệu bí mật để chuyển giao cho cái
gọi là cơ quan tình báo Pháp.
NVGP không nhận tiền của nước ngoài
Có một nguồn giúp đỡ cho tạp
chí Giai Phẩm là NXB Minh Đức. Chủ
nhân của nó là Trần Thiếu Bảo con một gia đình khá giả ở Thái Bình,
trước 1945 có nhà in ở Hà Nội. Ông Bảo có tham gia VHCQ, tản cư về Thái
Bình sau tháng 12-1946 là Ủy viên BCH HVHCQ Khu III, sau tản cư vào
vùng tự do Thanh Hóa lại lập Nhà xuất bản Minh Đức có Nguyễn Hữu Đang
giúp, xuất bản sách kháng chiến cho đến 1954 thì mang nhà
xuất bản này
về Hà Nội.
Còn nguồn tài chính cho báo Nhân Văn
thì do các cá nhân tự vay góp tiền để làm báo. Ông Trần Duy, Thư ký tòa
soạn báo cho biết:
Có người nói rằng tôi nhận
tiền của Durand, tôi có nói với mọi
người là tôi không biết ông Durand. Hơn nữa nếu nói ông Durand là một
nhà trí thức thì người trí thức Pháp không bao giờ làm mật thám đâu.
Trí thức Pháp là trí thức Pháp nhiều khi họ còn chống cả mật thám. Tôi
không tin ông Durand, một nhà nghiên cứu về mỹ thuật Việt Nam, về cổ
học Việt Nam mà lại là mật thám.
Có người lại cho rằng tôi
nhận tiền của Ủy Ban Quốc Tế. Tôi bảo
tôi không biết Ủy Ban Quốc Tế nằm ở đâu mà tôi nhận tiền. Trong quá
trình làm báo tôi không tiếp xúc với một người châu Âu nào cả, một
người ngoại quốc nào hết… Nghĩa là Nhân Văn tay trắng không
có một
đồng xu nào cả, từ khi nó lên là tay trắng, và khi đổ thì cũng chẳng có
một đồng xu nào trong quỹ cả.(23)
5-Kết luận về bản chất NVGP. Niềm tin của tác giả
Vậy bản chất của NVGP là gì?
NVGP là một đợt bột phát trào
lưu tư tưởng dân chủ ở miền Bắc
Việt Nam có tiền đề ngay từ khi hình thành nhà nước VNDCCH lưỡng sinh
giữa DCTS và toàn trị cộng sản tiến dần đến mô hình kiểu chủ
nghĩa
Mao, phát sinh trên nhiều lĩnh vực đời sống xã hội nhưng mạnh mẽ nhất
là lĩnh vực ngôn luận mà lực lượng hăng hái nhất là trí thức khoa học
xã hội và văn nghệ sỹ, tập trung xung quanh hai ấn phẩm là báo Nhân Văn
và tập san Giai Phẩm.
Có lẽ cần phải cho mọi người nghe ý
kiến của Ông Nguyễn Hữu Đang trả
lời Thuỵ Khuê ngày tháng 9-1995 khi bà hỏi thực chất của
phong trào
Nhân Văn Giai Phẩm là gì :
Thực
chất phong trào Nhân Văn
Giai Phẩm, nếu đứng về mặt chính
trị, thì đó là một cuộc đấu tranh của một số người trí thức, văn nghệ
sĩ và một số đảng viên về chính trị nữa, là chống, không phải chống
đảng cộng sản đâu, mà là chống cái chủ nghĩa Staline và chống chủ nghĩa
Mao Trạch Đông. Sự thâm nhập của chủ nghĩa Staline và chủ nghĩa Mao
trạch Đông đưa đến nhiều hiện tượng –
nói là chuyên chính thì chưa đủ –
phải nói là cực quyền toàn trị, nó gay gắt ghê lắm…Nó gay gắt ghê lắm!
Tác giả là người đã được đọc lại toàn
bộ hồ sơ nghiệp vụ chuyên án
NVGP, tiếp xúc với hầu hết thành viên chủ chốt của vụ án, một số văn
nghệ sỹ tham gia vào đấu tranh với NVGP, tiếp xúc sớm nhất với các tài
liệu nghiên cứu, các bài viết về NVGP từ nước ngoài, tiếp xúc tương đồi
đầy đủ các bài viết về các nhân vật NVGP ở trong nước từ sau đổi mới.
Tác giả tin rằng NVGP không phải là một vụ án gián điệp phản động. Các
văn nghệ sỹ trí thức NVGP không có mục đích lật đổ chế độ. Họ chỉ mong
muốn ĐCSVN, chính phủ sửa chữa những sai lầm và xây dựng ngay một nền
dân chủ pháp trị, một đời sống tinh thần có tự do tư tưởng, một đời
sống văn học nghệ thuật tự do sáng tạo.
Còn vụ án được đem xét xử công
khai có thể nói đấy là một vụ án xử
vì mục đích chính trị chưa đủ chứng cứ cấu thành tội danh hoạt động
gián điệp mà động cơ của nó có thể có sự lợi dụng để khuất lấp tai
tiếng và bảo vệ vị trí của chính những người lãnh đạo Đảng đã mắc sai
lầm trong CCRĐ.
6-Nhận xét về các biện pháp đấu tranh chống NVGP, những người đấu tranh
Các biệp pháp áp dụng để đấu tranh
chống NVGP được gọi là biện pháp
tổng hợp, là chế độ thông thường đối với các vụ án chính trị có quy mô
lớn của các nước XHCN.
Gồm như sau:
- Huy động hầu hết các phương tiện thông tin đại chúng của chính quyền tham gia phê phán. Báo Nhân Dân, Hà Nội Mới, Quân Đội Nhân dân, Tạp chí Học Tập, Tạp chí Văn Nghệ, Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam, Văn Nghệ Quân Đội, Tạp chí Điện Ảnh… Đặc trưng của các cơ quan ngôn luận cộng sản là chỉ cho phép sự phê bình chính thống, không cho phép người bị phê bình được nói lại.
- Huy động các cơ quan quản lý trí thức, văn nghệ sỹ tổ chức các cuộc kiểm thảo, phê bình đấu tố những người tham gia NVGP, sau khi đấu tố đương sự phải viết bản tự thú tội để công khai hóa trên các phương tiện tuyên truyền.
- Sử dụng các biện pháp nghiệp vụ của hệ thống công an.
- Sử dụng các biện pháp quản lý hành chính như khai trừ Đảng, khai trừ BCH khai trừ hội viên các hội VHNT, treo bút không cho xuất bản tác phẩm có thời hạn hoặc vĩnh viễn, cách chức, chuyển công tác, hạ lương, đưa ra khỏi biên chế, bắt buộc cư trú ở những vùng xa Hà Nội, đưa đi cải tạo bằng lao động chân tay ở nông trường, nhà máy, hợp tác xã nông nghiệp…
- Ngoài ra gia đình các đối tượng còn phải chịu sự đối xử khắc nghiêt của các cơ quan quản lý xã hội và toàn xã hội như việc học hành, thi cử, phân công công tác, lấy vợ lấy chồng…
Đáng lẽ có những hình thức kỷ luật chỉ
có thời hạn vài ba năm nhưng
cuối cùng kéo dài cho tới thời kỳ đổi mới. Các đối tượng hết hạn tù và
quản chế đang là công dân bình thường nhưng vẫn bị quản lý như người
mất quyền công dân.
Nói chung là cái biện pháp tổng hợp ấy
có một mãnh lực vô hình ghê
gớm, nó làm tê liệt mòn mỏi sức lực và tinh thần của một bộ phận trí
thức tinh hoa trong thời gian dài 30 năm.
Việc đấu tranh đã tạo ra nhiều bi hài
kịch cho các trí thức văn nghệ
sỹ, tạo ra những vêt thương đau đớn giữa thầy và trò (24),
giữa những
người bạn thân cùng chiến đấu trong một chiến hào ngày hôm qua (25),
giữa vợ chồng, cha con, anh em (26), giữa con cháu với chú bác ruột
(27). Những vết thương ấy cũng kéo dài suốt ba mươi năm, cá biệt cho
tới ngày nay.
Trong số các quan hệ làm cho vấn đề
NVGP phức tạp lên, nghiêm trọng
hơn có thể còn có sự thù ghét cá nhân như quan hệ Trường Chinh - Nguyễn
Hữu Đang, quan hệ Tố Hữu - Hữu Loan, Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt... và
các
tham vọng cá nhân như đã nói ở phần trên… (28)
Một đảng viên cộng sản châu Âu đã có
nhiều năm sống ở Việt Nam trong
cả kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ đã ví rằng vụ NVGP và vụ án Xét
lại sau này là hai cơn bão lớn quét qua bầu trời trí thức
Việt Nam.
IV-Hậu Nhân Văn Giai Phẩm
Nhân văn Giai Phẩm tuy bị dập tắt nhưng
nó có sức sống bất diệt, cứ
âm thầm thao thiết chảy dưới bề mặt của chế độ toàn trị. Những gì tinh
túy của nó đã kết tinh lại để rồi đến khi “cởi trói” các bảo vật ấy lại
được sống tiếp cuộc sống công khai giữa xã hội.
1-Thời kỳ 1960-1986
Trong thời gian dài các tác phẩm của
các thành viên chủ chốt NVGP
không được in ấn công khai trên mặt sách báo. Họ được trả một chút
lương để làm công việc dịch thuật. Các văn bản do họ thực hiện không
được mang tên thật. Tranh vẽ mang tên người khác, thơ và truyện nếu phù
hợp với đường lối tuyên truyền có thể xuất bản được thì mang tên một
người cụ thể khác. Đó là sáng tác thuê, họ chỉ được một phần nhuận bút.
Nguyễn Hữu Đang thì được trợ cấp lĩnh qua đơn vị nghiệp vụ công an.
Người nào ra khỏi biên chế thì tự kiếm sống.
Tuy vậy họ vẫn sáng tác, tất nhiên là
cảm hứng sáng tác bị thu hẹp
và gắn liền với tâm trạng cá nhân. Đáng chú ý nhất là các trường hợp
Phùng Cung, Hoàng Cầm, Phùng Quán.
Phùng Cung sinh năm 1928 tại Vĩnh Yên,
tham gia kháng chiến chống
Pháp, sau hòa bình bố ông bị quy sai địa chủ bị chết trong tù, ông công
tác ở Văn phòng Hội Nhà văn. Khi có phong trào NVGP ông cho đăng truyện
ngắn Con ngựa già của Chúa Trịnh trên báo Nhân
Văn số 4. Thời
gian này ông bị đình chỉ công tác, kiểm điểm. Tháng 5-1961 ông bị bắt,
bị giam đến đầu 1973 mới được thả ra. Trong các bản thảo của Phùng
Cung có khoảng chục truyện ngắn mang nội dung phê phán gay gắt CCRĐ,
cuộc sống hiện tại, tha nhân của cán bộ, văn nghệ sĩ… Năm 2003 tuyển
tập
tác phẩm của ông được xuất bản tại Mỹ gồm tập thơ Xem Đêm
đã xuất bản trong nước, 10 truyện ngắn và tập thơ Trăng Ngục
với những bài thơ ông viết trong 12 năm tù đầy. Ông đã mất năm 1997.
Sau thời gian đi cải tạo lao động,
Hoàng Cầm trở về Bắc Ninh quê
hương ông. Vượt qua những dằn vặt đau đớn di chấn của vụ NVGP ông sống
đằm mình vào văn hóa Kinh Bắc cái mạch nguồn đã cho ông làm nên Bên
kia sông Đuống. Tập thơ liên hoàn Về Kinh Bắc
có thể nói là một lâu đài thơ ca tráng lệ có không gian văn hóa cổ kính
hoà trộn với tâm linh hiện đại, những ẩn ức về thân phận con người cùng
với khát vọng sống của nó. Về Kinh Bắc là đỉnh
cao
trong sự
nghiệp thơ ca của Hoàng Cầm, tiếc rằng 35 năm sau nó mới được ra mắt
bạn đọc, sau khi Hoàng Cầm phải ngồi tù 2 năm cùng người bạn thơ Hoàng
Hưng vì hệ lụy tập thơ. Trong thời gian 35 năm ấy một vài bài của Về
Kinh Bắc, đặc biệt là Lá diêu bông đã
được giới yêu thơ, thanh niên Hà Nội chuyền tay nhau cùng bản nhạc phổ
lời bài thơ. Chuyện tình của Lá diêu bông cũng
như Quả vườn ổi, Cây tam cúc
chỉ là một phương tiện thể hiện, đặt các bài thơ ấy trong bối cảnh
1958-1960 mới hiểu được chủ nghĩa nhân văn, ám ảnh thân phận người
nghệ sĩ, nỗi thất vọng to lớn giữa lý tưởng và cuộc đời của một thế hệ
nhà văn… Ông vừa mới mất ngày 6-5-2010.
Hành trình tư tưởng của Phùng Quán thực
ra đơn giản. Suốt đời ông ca
ngợi lý tưởng, kêu gọi người ta chiến đấu cho độc lập dân tộc, cho hạnh
phúc của nhân dân. Nhưng tính bộc trực, lòng nhiệt thành khi đăng bài
trên NVGP đã làm ông chịu nhiều oan ức. Vừa câu cá trộm ở hồ Tây để
sống ông phải viết hàng trăm truyên thiếu nhi, truyện tranh cho các nhà
xuất bản với bút danh mới hoặc mượn tên người khác.
Trong nhiều năm ông đã hoàn thành bộ
tiểu thuyết 3 tập gần 1000
trang về quãng đời niên thiếu chiến đấu trong đơn vị bộ đội do Đàm
Quang Trung chỉ huy với tên Tuổi thơ dữ dội xuất
bản lần đầu ở Huế với bút danh Đào Phương, sau in trọn bộ mới được ký
tên Phùng Quán. Tuổi thơ dữ dội được Giải thưởng
của Hội Nhà văn VN năm 1987. Ông đã mất năm 1995.
Văn Cao gần như không công bố thơ của
mình trên báo, chỉ chuyên làm
bìa sách, viết nhạc không lời và vẽ minh họa cho các báo. Bắt
đầu đổi
mới ông công bố bài thơ dài Năm buổi sáng không có trong sự
thật
trên tạp chí Sông Hương tạo ra sự ngạc nhiên của dư luận. Sau
đó ủy
nhiệm cho các nhà thơ đàn em là Nguyễn Thụy Kha,
Nguyễn Trọng Tạo,
Thanh Thảo tập hợp bản thảo thơ của ông để nhà xuất bản Tác Phẩm Mới ấn
hành tập thơ Lá năm 1988. Ông đã mất năm 1995.
Đặng Đình Hưng cũng âm thầm thể nghiệm
một thể thơ hiện đại trên
chất liệu chính cuộc sống mòn mỏi, tù túng của ông, sau này in thành
tập Ô Mai và Bến Lạ. Ông đã
mất năm 1990 tại thành phố HCM.
Trần Duy từ bỏ văn chương tuy không
phải nghề chính nhưng ông cũng được đánh giá cao với truyện ngắn Tiếng
sáo tiền kiếp
trên Giai phẩm Mùa Thu tập I. Ông chuyên tâm với tranh lụa mà đề tài là
các di tích văn hóa lịch sử, các danh thắng và có được một bộ sưu tập
có giá trị. Ông được khôi phục Hội viên Hội nghệ sĩ tạo hình năm 1988,
mở Triển lãm tranh năm 1991. Gần đây ông lại tái xuất giang hồ với vài
truyện ngắn và đoạt ngay giải thưởng truyện hay trong năm của báo Văn
Nghệ.
Nguyễn Hữu Đang ra tù từ năm 1973 nhưng
bị quản chế kéo dài ở quê
ông, Vũ Thư, Thái Bình. Ông nghiên cứu về triết học Trung Quốc, đặc
biệt
là Lão Trang. Ông có viết, đăng một số bài báo về Hội truyền bá quốc
ngữ, về Văn hóa Cứu quốc, về điện ảnh trước 1945 và một vài truyện
ngắn. Ông đã mất năm 2007.
Thụy An cũng ra tù từ 1973, an trí tại
quê làng Hoà Xá Hà Tây, sau
chuyển vào thành phố Hồ chí Minh sống với con cháu. Có nguồn nói rằng
trong thời gian ở tù bà có làm được một số bài thơ nhưng chưa thấy công
bố. Con trai của bà là Bùi Thụy Băng ở Ca Na Đa đã công bố cuốn hồi ký
về bà. Bà đã mất năm 1989 tại thành phố Hồ Chí Minh.
Trần Dần là người tỏ ra bền bỉ và dẻo
dai kiên trì với đường lối thơ
cách tân siêu thực theo một kế hoạch nghiêm túc. Ông có nhiều tập thơ
sau này đã in trong Trần Dần Thơ năm 2008, tiểu
thuyết thơ Cổng Tỉnh xuất bản 1994 được Giải
thưởng HNVVN năm 1995, tiểu thuyết Những ngã tư, những cột
đèn, Một ngày Cẩm Phả... Ông đã mất năm 1997.
Lê Đạt sau thời gian dịch sách và đọc
sách phương Tây đã tập trung
vào cách tân hình thức thơ mà sau đổi mới ông đã in thành tập Bóng
chữ gây nhiều tranh cãi. Đồng thời ông còn sáng tác truyện
ngắn phần lớn mượn đề tài lịch sử hoặc phương Tây. Ông đã mất năm 2008.
Các nhà văn, họa sĩ, nghệ sĩ khác bị xử
lý nhẹ hơn vẫn tiếp tục sáng
tác và công bố tác phẩm như bộ tứ Nguyễn Tư Nghiêm – Dương Bích
Liên – Nguyễn Sáng – Bùi Xuân Phái, Nguyễn Bính, Trần Lê Văn,
Huy Phương, Thái
Vũ ( Bùi Quang Đoài), Phan Vũ, Quang Dũng, Hoàng Tố Nguyên, Yến Lan,
Nguyễn Thành Long, Hải Bằng, Nguyễn Văn Tý, Phạm Kỳ Nam, Văn Tâm, Hoàng
Yến…
Có một số người sau NVGP không hoặc hầu
như không sáng tác hoặc
không công bố tác phẩm cho đến thời kỳ đổi mới như Nhuyễn
Khắc Dực,
Chu Ngọc, Sĩ Ngọc, Lê Đại Thanh, Hữu Loan, Thanh Châu, Hoàng Tích Linh,
Trần Công, Trần Thịnh, Hoàng Huế, Thúc Hà, Trương Tửu…
Trong thời gian này có một sự kiện đáng
chú ý là ở Hà Nội xuất hiện một nhóm văn nghệ sĩ trẻ lấy tên là nhóm Văn
nghệ chân đất
với tuyên ngôn nêu gương các đàn anh NVGP, đòi tự do sáng tác và thể
nghiệm nghệ thuật. Nhóm này chỉ sinh hoạt bí mật, tùy hứng chưa có tổ
chức nhưng đến năm 1983 một thành viên là Diệu Tô Minh làm việc ở Đài
Phát thanh TNVN vượt biên và công bố trước một tòa án nhân quyền ở
Paris bản Tuyên ngôn của nhóm Văn Nghệ Chân đất,
tài liệu Một nền thơ ly khai chủ nghĩa xã hội ở Hà Nội,
trong đó có nhiều người sau này đã trở thành hội viên HNVHN, HNVVN như
Hoàng Hưng, Lê Huy Quang, Chu Hoạch… (29)
2-Thời kỳ 1987 đến nay
Sau khi có Nghị quyết 05 của Bộ Chính
trị ĐCSVN Về đổi mới công tác quản lí văn học nghệ
thuật trong tình hình hiện nay
vấn đề NVGP đã được đặt ra ở góc độ xem xét phục hồi hội tịch cho số
người bị khai trừ có thời hạn nhưng kéo dài vô thời hạn, đồng thời giải
quyết chế độ chính sách như cấp nhà, nâng lương cho một số người.
Nguyễn Hữu Đang được tự do đi lại, được bố trí chuyển lên Hà Nội được
cấp nhà ở. Tất cả những người tham gia NVGP được công bố tác
phẩm nếu
như tác phẩm của họ không vi phạm các điều cấm theo quy định. Họ tham
gia vào các sinh hoạt văn học nghệ thuật bình thường. Và không thấy
trong hoạt động của họ có vấn đề gì phức tạp như thời kỳ NVGP trước đây.
Các ông Văn Cao, Trần Dần, Hoàng Cầm,
Lê Đạt, Phùng Quán, Hữu Loan,
Lê Đại Thanh, Phùng Cung, Đặng Đình Hưng, Trần Đức Thảo, Trần Duy… lần
lượt cho in tác phẩm tại các nhà xuất bản trong nước. Có quy mô và bề
thế là tuyển tập của các ông Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Phùng Quán,
Trương Tửu, Phan Khôi…
Giải thưởng Hồ Chí Minh về VHNT đã được
trao cho các ông Văn Cao,
Nguyễn Văn Tý, Nguyễn Sáng, Nguyễn Tư Nghiêm, Bùi Xuân Phái, Dương Bích
Liên, Nguyễn Sĩ Ngọc, Nguyễn Văn Tỵ, Đào Duy Anh, Trần Đức Thảo, Nguyễn
Bính, Lộng Chương, Đặng Văn Ngữ…
Giải thưởng Nhà nước về VHNT đã được
trao cho các ông Trần Dần,
Hoàng Cầm, Lê Đạt, Phùng Quán, Yến Lan, Phạm Kỳ Nam, Nguyễn Thành Long
… và nhiều ông khác.
Dư luận đòi hỏi ĐCSVN, Nhà nước không
nên mập mờ mà phải bày tỏ công
khai việc đánh giá lại vụ NVGP cùng những sai lầm trong xử lý vụ án này.
Việc chiêu tuyết cho các nhân vật còn
lại vẫn được tiếp tục như đối với Phan Khôi, Trương Tửu, Nguyễn Mạnh
Tường, Hữu Loan…
3-Nguồn tư liệu và các kết quả nghiên cứu về NVGP
Đã sinh ra một tập quán kỳ lạ trong
giới VHNT và NCKHXH là người ta
né tránh NVGP suốt thời gian dài đến 55 năm. Cho đến nay tôi chưa thấy
trong nước có bất cứ bài viết có hệ thống hoặc công trình nghiên cứu
nào về NVGP đã được công bố. Vì thế tài liệu về các ấn phẩm NVGP bị rơi
rụng gần hết. Tài liệu của các cá nhân NVGP thì đã bị tịch thu hoặc đem
giao nộp, các gia đình không dám tàng trữ, chỉ các thư viện quốc gia
mới được bảo quản và cũng không phục vụ bạn đọc. Chỉ còn trong hồ sơ
công an một số ấn phẩm và một số bản thảo thời kỳ NVGP và sau NVGP. Ví
dụ khi tác giả đang phụ trách công tác về chuyên đề NVGP đã trao lại
cho ông Lê Đạt bản thảo bài Cửa hàng Lê Đạt, trao
lại cho ông
Nguyễn Hữu Đang bức ảnh có ông đứng trên lễ đài Độc Lập cùng Hồ Chủ
tịch ngày 2-9-1945, trao lại cho Trần Dần bản thảo tiểu thuyết thơ Cổng
Tỉnh, bản thảo tiểu thuyết Những ngã tư, những
cột đèn…
Mới đây ông Lại Nguyên Ân đi tìm dấu
vết của tờ Sáng Tạo
cũng cho biết rằng tại Thư viện Quốc gia cũng không tìm thấy 2 số báo
hiếm hoi này. Mà nội dung của nó hầu như không được đề cập đến trong
các bài nghiên cứu ở nước ngoài.
Vậy có thể một số ấn phẩm NVGP còn nằm
rải rác trong một số các nhân, người chơi sách, bán sách cũ từ thời
NVGP.
Tại miền Bắc cuốn Bọn Nhân
Văn Giai phẩm trước tòa án dư luận
là tài liệu duy nhất tập hợp các bài tổng kết phê phán chính thống về
NVGP. Một số người nghiên cứu do không có tư liệu thường dựa viết theo
cuốn này khi phải nói về giai đoạn 1954-1960. Tiếc rằng hầu hết các
bài trong tập sách đều viết theo lối tố khổ CCRĐ, rất thiếu tinh thần
khách quan khoa học.
Tại miền Nam, công trình sớm nhất về
NVGP là cuốn Trăm hoa đua nở trên đất Bắc của
Hoàng Văn Chí, một người cháu rể của Phan Khôi. Cuốn này có một bài
tổng quan và tuyển tập các bài văn cơ bản của NVGP nhưng trừ ra 3 người
quan trọng là Thụy An, Nguyễn Hữu Đang, Trương Tửu. Bên cạnh cuốn này
một vài tuyển thi ca chung có một số bài của các nhà thơ NVGP. Các sách
này trước 1975 lưu hành ở miền Nam, còn sau 1975 thì được coi là sách
cấm trong cả nước.
Như vậy trong nước chưa có một cơ quan
nghiên cứu nào, một nhà
nghiên cứu nào thực sự bắt tay nghiên cứu về NVGP. Hầu như
toàn bộ các
thế hệ sau không biết mặt mũi các ấn phẩm NVGP là thế nào, người ta chỉ
lặp lại các luận điệu chính thống mỗi khi nói về nó.
Gần đây Ngành Điện ảnh đã biên soạn
xong và phát hành cuốn Lịch sử
Điện ảnh Việt Nam tương đối công phu dày hơn 1000 trang, nhưng coi như
không có hiện tượng này trong làng điện ảnh thời đó.
Cũng may là trong số các hàng binh châu
Âu khi hồi hương có người đã
mang được một số ấn phẩm NVGP về Paris. Trong điều kiện đó, ở Đài RFI,
BBC một vài nhà nghiên cứu văn học, sử học đã kết hợp các tài liệu này
với các cuộc phỏng vấn bằng điện thoại hoặc trực tiếp tại Paris mới bắt
đầu công bố những phác thảo gương mặt NVGP hoặc đánh giá về giai đoạn
này.
Cho đến nay đã có các công trình và các
tác phẩm của những người tham gia NVGP xuất bản ở nước ngoài như sau:
- Cent fleurs écloses dans la nuit du Vietnam ( Trăm hoa đua nở trong đêm Việt Nam ) của Georges Boudarel xuất bản năm 1991. Trước đó năm 1987 đầu 1988 ông đã viết bài tựa đề Dissidences intellectueles au Vietnam L'affaire Nhân Văn - Giai Phẩm (Trí thức phản kháng tại Việt Nam, vụ Nhân Văn – Giai Phẩm) in trên hai số tập san ở Paris Sudestasie và Politique Aujourd'hui en Europe.
- Thụy Khuê ở Paris cuối năm 2004 có bài Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm và công bố loạt bài phỏng vấn Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Trần Duy. Từ giữa năm 2009 bà công bố từng phần trên website đài RFI như một công trình nghiên cứu tương đối hoàn chỉnh với tựa đề Tìm hiểu Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm. Đặc biệt sau phần nghiên cứu chung bà đã dựng lại chân dung tinh thần NVGP từng cá nhân trí thức văn nghệ sỹ tiêu biểu của phong trào.
- Công trình mới nhất xuất bản năm 2009 tại Berlin Funfzig Jahre danach: Hundert Blumen in Vietnam 1954-1960 (Năm mươi năm sau: Trăm hoa đua nở ở Việt Nam 1954-1960) của nhà nghiên cứu Heinz Schutte giảng dạy tại Khoa Đông Nam Á Đại học Hamburger. Độc đáo của công trình này là tác giả đã khai thác được hồ sơ của Sứ quán Đông Đức tại Hà Nội phản ánh sự kiện NVGP, đồng thời tác giả đã vào Việt Nam nhiều lần và kiểm chứng tư liệu cũng như đánh giá của mình qua rất nhiều nhân vật chính khách, văn nghệ sĩ thời kỳ đó.
- Năm 1992 tại Paris nhà xuất bản Quê mẹ của Võ Văn Ái in cuốn hồi ký bằng tiếng Pháp của Luật sư Nguyễn Mạnh Tường Un Excommunié (Kẻ bị khai trừ) với tiểu tựa Hanoi 1954-1991: Procès d'un intellectuel (Hà Nội 1954-1991: Kết án một nhà trí thức).
- Năm 2001 Nhà xuất bản Văn Nghệ California Hoa Kỳ xuất bản cuốn nhật kí của Trần Dần tên là Trần Dần ghi trích những ghi chép của Trần Dần trong hai thời kỳ CCRĐ và NVGP 1954-1960. Đặc biệt đây là một cuốn sách thật nhất về NVGP, về cuộc sống thời kỳ này của dân tộc mà người ta không thể tìm thấy các hình ảnh rớm máu ấy trong các tác phẩm tuyên truyền công khai ở miền Bắc.
- Ngoài ra còn có một số cuốn khác đề cập đến NVGP như : Hồi ký Đêm giữa ban ngày của Vũ Thư Hiên do NXB Văn nghệ ở Hoa Kỳ, của Nguyễn Minh Cần, Trần Trung Phụng, Bùi Tín, Hoàng Giang, Kim N.B. Ninh, Website của Trần Hữu Dũng, Talawas, một số bài viết trong nước, ngoài nước về các nhân vật chủ chốt NVGP và bài viết của chính họ về họ.
- Để hiểu thấu đáo bối cảnh xã hội của phong trào NVGP còn có một số tài liệu lịch sử nước ngoài nghiên cứu về Việt Nam giai đoạn 1945-1954 đặc biệt là quan hệ giữa chủ nghĩa Mao và cách mạng Việt Nam của Vũ Ngự Chiêu (30), Vũ Tường (31), Trình Ánh Hồng (32), Davis Mar (33), Huỳnh Kim Khánh, Ninh Kim N. B. (34),…
- Cũng nên nói thêm ở trong nước đã có người đang tập hợp hồ sơ về NVGP. Đó là nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân. Ông đã công bố một phần sưu tập này trên Talawas và một vài bài viết về các tờ báo Trăm Hoa, Sáng Tạo, về Hội Nhà văn Việt Nam trong thời kì này (35).
- Ở các ấn phẩm khác mới xuất bản gần đây, đặc biệt là các tuyển tập của các nhà văn có vai trò nhất định trong thời kì NVGP người ta đã cắt bỏ những bài viết về NVGP, còn trong tuyển tập của các nhà văn NVGP vẫn còn có những trường hợp loại bỏ tác phẩm mặc dù nó không sai trái theo quan điểm hiện nay như của Trương Tửu, Phan Khôi, Trần Duy. Ở một số cuốn hồi kí khi đến giai đoạn này người ta chỉ lướt qua một vài dòng, kể cả hồi kí của Đào Duy Anh, Vũ Đình Hòe, Gia đình Khan Khôi, Vũ Ngọc Phan, Tố Hữu... Nghĩa là việc nói lại một cách rành mạch về NVGP vẫn còn là một việc cấm kỵ hoặc ít ra là khó nói!
4-Món nợ với lịch sử
Công cuộc đổi mới của đất nước đã đem
lại những thay đổi to lớn về
tinh thần cho nhân dân và văn nghệ sĩ. Nghị quyết 05 của Bộ chính trị
khóa VI với các tiêu chí dân chủ đã cho các nhà nghiên cứu và văn nghệ
sĩ tư tưởng tự do trong sáng tác mà còn định hình lại những giá trị
tinh thần của dân tộc đã bị bỏ qua. Các di sản văn hóa khoa học đóng
góp vào hành trình hiện đại hóa ngôn ngữ, tư duy dân tộc của Tự Lực Văn
Đoàn, của Trương Vĩnh Ký, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Hồ Biểu Chánh,
Lan Khai … đã được xem xét đánh giá lại.
Đáng lí ra những vụ án chính trị trong
quá khứ của nước ta sau một
thời gian dài đã phải được công khai về tư liệu, minh bạch về kết luận.
Nếu ĐCSVN và chính quyền sai lầm thì phải sửa chữa các sai lầm đó như
Liên Xô, Nga, các nước Đông Âu và Trung Quốc đã làm. Nhưng tất cả vẫn
mù mờ. Những người tham gia đấu tranh và các đối tượng hầu hết đã chết
mà những người lãnh đạo hiện nay vẫn im lặng, các nhà nghiên cứu không
dám khai thác tài liệu hoặc phỏng vấn các nhân chứng. Hầu hết các bài
viết cơ bản của NVGP trước đây bị quy kết là có tư tưởng phản động đều
đã được in lại trong các tuyển tập văn học, tuyển tập cá nhân của họ,
trên một số trang mạng và báo viết. Họ được ca ngợi, được giải thưởng
HCM, GTNN nhưng công khai thì không ai dám nói NVGP là vụ án gì?
Trong lần trả lời phỏng vấn RFI lão hoạ
sỹ Trần Duy nói:
Cái
gì trong cuộc đời cũng dở
dang, con người mình cũng dở dang,
năm nay 90 tuổi rồi, không biết mình đi đúng hay mình đi sai, mình đi
đúng thì sống đến 90 tuổi rồi, mà mình đi sai thì đã chết từ 50 tuổi
rồi. Bây giờ sống đến 90 tuổi thì cũng không biết con đường đã đi là
con đường nào. Ai ghét mình? Ai yêu mình? Mình nên yêu ai, nên ghét ai?
Thực tế ra sống đến chừng này tuổi tôi không nghĩ là tôi ghét ai cả,
nhưng yêu ai thì cũng rất khó.(36)
Ở bài Tưởng niệm Phan Khôi
ông viết:
Ông
Phan Khôi không còn nữa,
nỗi oan khuất của đời ông vẫn chưa có lời giải!
Nỗi
oan của nàng Đậu Nga
trong Kinh Dịch nổi tiếng của Trung
Quốc đã được minh oan. Nỗi oan của gia đình Nguyễn Trãi – Thị Lộ đã
được minh giải. Nguyễn Du chưa đến ba trăm năm sau đã được đồng bào
mình thấu hiểu. Riêng nỗi oan của Phan Khôi, cái mà ông quý nhất, gìn
giữ nhất là phẩm giá thì đã bị bôi nhọ, bị chà đạp. Ai là người minh
giải?
Tiếng
thở dài và tiếng chép
miệng của ông trong những ngày cuối
cùng như còn vọng lại. Sinh thời mỗi lần ông nói đến nỗi oan khuất nào
đó của người đời, ông vẫn thường nhắc đến tiếng cóc kêu với trời! Gió
mưa là do chuyển hóa Đông-Tây của thời tiết, nhưng vẫn có người tốt
bụng tin rằng: Trời mưa là nhờ có cóc kêu. (37)
Còn Phùng Quán sau đổi mới có viết :
Tôi chết giữa Hồng Hà sóng đỏ
Ba mươi năm sau
Tôi hồi sinh giữa xanh thẳm Hàn giang. (38)
Ba mươi năm sau
Tôi hồi sinh giữa xanh thẳm Hàn giang. (38)
Trong tư liệu của tác giả có lá thư
Trần Dần viết gửi một người lãnh
đạo ngay sau chiến thắng 1975. Đó là một cái giọng rất tội nghiệp kiểu
Trần Dần, không thể nghĩ là tâm tư của một kẻ phản trắc.
Rồi
đám cháy tắt. Đất nước
dập tắt cái đám cháy ngoại xâm ấy. Mỹ
cút… Tôi hy vọng… vấn đề cuộc đời tôi lại đặt ra, ít nhất cũng với tôi,
vợ con, gia đình, ở ngưỡng cửa của Đất nước chiến thắng… Tôi vẫn hy
vọng. Tôi còn ít nhiều năm tháng. Còn một phần đời. Một phần đời, một
ngày cũng đáng sống. Dù một buổi chiều. Nhất là trong khi ngày ấy, buổi
chiều ấy, phần đời ấy dù bé bỏng nhưng nằm ở ngưỡng cửa Khải hoàn môn…
Tôi hy vọng. Tôi còn một phần đời. Để sống nó. Để làm việc. Con cái. Sự
gây dựng. Sự chuộc lại… Tôi xin sự giúp đỡ. Sự rộng lượng. Ở các anh. Ở
tổ chức. (39)
Trần Dần từ trần tại Hà Nội ngày
17-1-1997. Mười năm sau 2007 ông được truy tặng Giải thưởng
Nhà
nước về Văn học Nghệ thuật.
Dù sao Trần Dần, cũng như Hoàng Cầm, Lê
Đạt, Phùng Quán còn được may mắn hơn nhiều người khác.
Cần có câu trả lời cho tất cả những
người đã làm Bông hồng nở sớm (40) cho mùa xuân
của đất nước.
V-Phần kết
Trong một xã hội đã kéo dài hơn nửa thế
kỷ về sự mê muội dân trí,
về sự độc tài về chính trị, sự lừa dối, sự đầu độc để có sự đồng thuận
về vụ NVGP và các nhân vật của nó thật khó như đáy bể mò kim… Nhưng
trong đêm tối không phải không có những người đã nhìn thấy ánh sáng của
chân lý. Sẽ có nhiều người phản đối tôi. Nhưng chẳng lẽ cứ im lặng mãi.
Mỗi người chỉ là một góc của thế giới, và người ta bị thôi miên nữa,
người ta cả tin. Tôi nghĩ đau khổ nhất của con người là đánh mất lý
trí, là không hiểu, không thấy được thế giới thật đang ở bên mình. Họ
đã sống và tàn sát đồng loại và tự biện ninh bằng một cái mục đích hão
huyền vô nhân tính. Vào những năm đầu đổi mới tôi đã viết trong bài thơ
Thế giới đang tồn tại:
Bi
kịch thay cho những dân
tộc chỉ tin vào những thần tượng, những tín điều.
Người
ta đã trả giá
Một
tuổi thanh xuân, một đời
người, một thế hệ, một thiên niên kỷ để hiểu ra cái giản đơn giữa bao
mê cung rắc rối: Con người.
Cắt
thế giới ra từng khúc,
từng đoạn ư? Hay để nguyên nó mà trầm tưởng, mà chiêm ngưỡng.
Tôi
là một phần không thể
chia cắt khỏi thế giới.
Tôi
hiểu:
Cần
phải đối xử với thế giới
như nó đang tồn tại. (41)
Cuộc đời của các nhân vật NVGP cho tôi
cảm hứng viết bài thơ Bông hồng nở sớm. Bài thơ
được in trong Tuyển tập Văn học hiện đại Việt Nam 1945-1993. NXB VH
1993.
Hai mươi lăm năm qua tôi đã cố gắng hóa
thân vào hàng nghìn trang
tài liệu, vào hàng trăm con người để hiểu một câu hỏi duy nhất NVGP là
cái gì?.
Nay tôi thấy cần phải lên
tiếng về sự kiện này. Nếu không thì đã
quá chậm trễ, là có tội với vong linh những người đã khuất. Cả những
người là NVGP. Cả những người đã vùi dập NVGP vì cuồng tín ngây thơ
hoặc nhờ đàn áp NVGP mà tiến thân. Họ có thể cần nói một lời sám hối
với các bạn bè đồng nghiệp oan khuất của mình, những người bị mình sát
hại một cách lương thiện mà vẫn còn bị ám ảnh bởi
nỗi sợ hãi vô hình, đã nhắm mắt mà vẫn chưa nói
được.
Với chức nghiệp éo le của mình, tôi đã
cứu được nhiều người, đã giữ
bình yên cho nền VHNT nhiều năm nhưng tôi đã trả giá cuộc đời mình cho
những nhà văn đã dám đốt mình lên trước vận mệnh của đất nước, của nhân
dân (42).
Tôi không mảy may ân hận, luyến tiếc về
việc đã làm.
Làng Mọc Tháng Ba
năm Canh Dần
Lê Hoài Nguyên
Chú thích
1- Tố Hữu: Xây dựng một nền
văn nghệ lớn xứng đáng với nhân dân ta thời đại ta, Nxb Văn
học 1973, trang 132-219.
2- Hoàng Tiến: Nhìn lại vụ
án Nhân Văn Giai Phẩm cách đây 40 năm, tài liệu nghiên cứu
1997.
3- Vũ Tường: Ngày nay cách
mạng Đông Dương phải hiện nguyên
hình: Bước ngoặt dẫn đến cuộc đấu tranh giai cấp và nội chiến Việt Nam
vào năm 1948. Journal of Southeast Asian Studies, 40, 3
(10-2009), 519-542. Bản dịch tiếng Việt trên Talawas số Mùa Thu chuyên
đề Bao
nhiêu chủ nghĩa dân tộc là đủ?
4- Nhà thơ, sinh năm 1939 quê Hải
Phòng, sống ở Hà Nội bị bắt năm 1980 vì đưa tập thơ Tiếng
vọng từ đáy vực
gồm 400 bài vào Sứ quán Anh. Trước đó đã bị bắt và đi tù 2 lần vì tội
phản tuyên truyền. Được trả tự do năm 1991, tổng cộng ngồi tù 27 năm,
được nhập cư vào Mỹ năm 1995. Tập thơ của ông với tựa đề Bản
Chúc thư của Một Người Việt Nam – Hoa Địa Ngục được Văn Bút
Quốc Tế tặng Giải thưởng Thơ ca Quốc tế năm 1985. Ông còn có tập truyện
Hỏa Lò do Tổ hợp xuất bản miền Đông Hoa Kỳ xuất
bản nảm 2001 và Tuyển tập thơ Nguyễn Chí Thiện
700 bài xuất bản năm 2006.
5- Các bài Tuyên ngôn của
nhóm Văn nghệ Chân đất, Họp báo về
phong trào ly khai ở Hà Nội, Lá thư của người Hà Nội, Hà Nội một mối
buồn dài, 30 năm văn học ly khai ở miền Bắc in trong tạp chí
văn học Quê Mẹ của người Việt Hải ngoại ở Paris số 40-41-42, 1980.
6- Nam Dao: Hoàng Cầm (
1922–2010 ). Talawas tháng 10-2010
7- Trình Ánh Hồng: Không chỉ
có Moskva: Ảnh hưởng của Trung Quốc ở Đông Âu và Bắc Việt
thời kỳ hậu Stalin. Bản dịch Lê Quỳnh, Talawas. Tham khảo
thêm ở Năm mươinăm sau: Trăm hoa đua nở ở Việt Nam 1954–1960
của Heinz Schutte, Berlin 2009.
8- Vũ Tường, Bđd.
9- Trình Ánh Hồng, Bđd.
10- Vũ Tường, Bđd.
11- Hoàng Giang: La Révolte
des Intellectuels au Viêt-Nam en 1956, The Vietnam Forum 13.
Georges Boudarel, Université de Paris VII: Intellectual
dissidence in the 1950s THE NHÂN-VĂN GIAI-PHẨM AFFAIR. The
Vietnam Frum 13.
12- Sau đổi mới tài liệu này đã phát
hành công khai trên Bản tin Thông tấn xã Việt Nam. Có thể tham khảo
thêm trong Hồi ký Khơ rút Sốp, trên mạng.
13- Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9+10
BCHTƯ ĐCSVN khóa II. Văn kiện Đảng.
14- Vũ Tường, Trình Ánh Hồng Bđd.
15- Tố Hữu: Sđd.
16- Thái kế Toại: Luận văn tốt nghiệp
ĐHAN HN Về các đối tượng NVGP và giải pháp trong tình hình
đổi mới hiện nay, năm 1987.
17- Nguyễn Mạnh Tường: Hồi ký bản tiếng
Việt Kẻ bị mất phép thông công – Hà Nội 1954-1991: Bản án
cho một trí thức. Trên mạng.
18- Phỏng vấn Đào Duy Anh, Đặng Văn Ngữ
với chủ đề Nỗ lực phát triển tự do dân chủ, báo
Nhân Văn số 2 – 3.
19- Đào Duy Anh: Muốn phát
triển học thuật. Giai phẩm Mùa Thu tập III.
20- Phan Khôi: Phê bình lãnh
đạo văn nghệ, Giai phẩm Mùa Thu tập I.
21- Trương Tửu: Bệnh sùng
bái cá nhân trong giới lãnh đạo văn nghệ, Giai phẩm Mùa Thu
tập II.
22- Thụy Khuê: Nói chuyện
với họa sĩ Trần Duy. Website Thụy Khuê.
23- Thụy Khuê: Bđd.
24- Nguyễn Mạnh Tường có nhắc đến việc
bị học trò đấu tố trong hồi kí Kẻ bị rút phép thông công…
25- Nguyễn Huệ Chi trong bài viết Trao
đổi cùng Nguyễn Văn Hoàn trên Talawas về thắc mắc của ông
trường hợp Toàn tập Trần Thanh Mại
không có bài đấu tranh trong thời kì NVGP, cho biết bố ông nhà nghiên
cứu Nguyễn Đổng Chi bị ép viết bài phê phán Phan Khôi coi đó là một
việc vẫn lấy làm xấu hổ, một vết nhơ không gột nổi. Khi chết ông dặn
con tìm cơ hội gột rửa giúp mình.
Tác giả được nghe từ các nhân vật NVGP
nhiều chuyện khôi hài về sự quay quắt tráo trở của tình bạn văn nghệ sĩ
thời NVGP.
26- Trong bài trả lời phỏng vấn của
Thụy Khuê, Trần Duy cho biết em
ruột mình, một sĩ quan quân đội khai lý lịch đổi tên lót truyền thống
của dòng họ, không khai tên ông và chỉ nhận là con nuôi bố ông.
27- Trong bài phỏng vấn của Thụy Khuê
với các ông Hoàng Cầm, Lê Đạt
có nhắc trường hợp vợ chồng Vũ Ngọc Phan - Hằng Phương. Hằng Phương gọi
Phan Khôi là bác ruột anh mẹ, khi xảy ra NVGP họ viết bài đấu tố Phan
Khôi, không dám đi đưa ma Phan Khôi.
28- Trong phỏng vấn của Thụy Khuê với
Lê Đạt, Trần Duy.
29- Tạp chí Quê Mẹ đã dẫn.
30- Vũ Ngự Chiêu: Hồ Chí
Minh nhà ngoại giao 1945-1946.
Chuyến đi cầu viện bí mật năm 1950 của Hồ. Tạp chí Hợp Lưu
31- Vũ Tường, Bđd.
32- Trình Ánh Hồng, Bđd.
33- David G. Marr: Vietnam 1945 The
quest for Power
34- Ninh Kim N.B: A World Transformed:
The Politics of Culture in
Revolutionary Vietnam, 1945-1965. University of Michigan Press 2002.
35- Lại Nguyên Ân có các bài: Hội
Nhà văn Việt Nam: Sự thành lập
và hai năm đầu tiên tồn tại (1957-1958). Đi tìm dấu tích tờ Sáng Tạo
(Hà Nội, 1956). Nguyễn Bính và tuần báo Trăm Hoa (1955-1957). Xuân
Diệu trong những năm 1954–1958.
36- Trần
Duy trả lời phỏng vấn Thụy Khuê.
37- Trần Duy: Tưởng niệm
Phan Khôi. Talawas.
38- Trong trường ca Cây Cà, báo Đà Nẵng
tháng 1-năm 1987. Tên Phùng Quán lần đầu tiên trở lại công
khai trên mặt báo.
39- Thái kế Toại: Bđd.
40- Bông hồng nở sớm:
Sau mùa giông bão xác xơ
Hàng cây thu mình trong gió rét
Đón anh về sáng nay
Vườn mẹ nở bông hồng.
Hàng cây thu mình trong gió rét
Đón anh về sáng nay
Vườn mẹ nở bông hồng.
Màu đỏ thắm chạm vào nỗi đau
của mẹ
Suốt một đời mòn mỏi lo âu
Màu đỏ thắm đánh thức nỗi buồn của đất
Bao năm mặt đất khô cằn
Suốt một đời mòn mỏi lo âu
Màu đỏ thắm đánh thức nỗi buồn của đất
Bao năm mặt đất khô cằn
Màu đỏ cháy lên ký ức của anh
Một tình yêu vụt mất hai mươi năm
Bao mộng mơ khao khát âm thầm.
Một tình yêu vụt mất hai mươi năm
Bao mộng mơ khao khát âm thầm.
Có ai nói với anh:
Ngày mai thôi bông hồng sẽ chết
Nhưng hề chi
Màu đỏ kiêu sa cứ cháy trong gió rét
Và ở chân trời
Đang thì thầm cơn gió mùa xuân.
Ngày mai thôi bông hồng sẽ chết
Nhưng hề chi
Màu đỏ kiêu sa cứ cháy trong gió rét
Và ở chân trời
Đang thì thầm cơn gió mùa xuân.
1988
41- Tập thơ Thế giới đang
tồn tại, Nxb Văn học 1994
42- Đó là việc tác giả và nhà văn Ma
Văn Kháng bảo vệ cuốn tiểu thuyết Chúa trời
ngủ gật
của Nguyễn Dậu in ở Nhà xuất bản Lao Động năm 1993 bị các cơ quan chức
năng quyết định nghiền hủy làm bột giấy. Ma Văn Kháng đã viết lại một
phần vụ này, những gì có thể viết được công khai, trong hồi kí Năm
tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương, NXB
Hội Nhà văn xuất bản năm 2009, trang 385-400.
Nhận xét
Đăng nhận xét