ĐÃ TỪNG BIA MIỆNG? 9
-Trăm năm bia đá thì mòn
Ngàn năm bia miệng hãy còn trơ trơ!
-Nhưng mấy ai thoát được sự cám dỗ của danh lợi - quyền lực?
-Và khi đã mù quáng về nhận thức mà lại còn khuếch trương quyền lực thì thật là đáng sợ!
--------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
Phòng văn ở ngõ Văn Chương
Một nghị lực phi thường
Tình yêu kỳ diệu
Sơn Tùng, tên thật là Bùi Sơn Tùng (sinh năm 1928 tại Nghệ An), là nhà văn Việt Nam với nhiều tác phẩm về lãnh tụ Hồ Chí Minh và các danh nhân cách mạng, danh nhân văn hóa Việt Nam, trong đó nổi tiếng nhất là tiểu thuyết Búp sen xanh viết về cuộc đời Hồ Chí Minh.
Từ 1944 đến 1971, trước khi trở thành nhà văn, là 27 năm Sơn Tùng tham gia hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, hoạt động trên các lĩnh vực tuyên huấn, tuyên truyền, huấn luyện, quân sự, phóng viên. Năm 1944, khi mới 16 tuổi Sơn Tùng đã sớm tham gia cách mạng, hoạt động trong phong trào thanh niên, sinh viên thủ đô. Sau khi Hà Nội giải phóng, Sơn Tùng vào học tại trường Đại học nhân dân và sau đó trở thành cán bộ tuyên truyền của Đảng. Năm 1961 ông về viết cho báo Nông nghiệp và từ cuối năm 1962 là phóng viên của báo Tiền phong.
Năm 1965, Sơn Tùng là đặc phái viên của báo Tiền Phong tác nghiệp chủ yếu tại vùng lửa đạn chiến sự ác liệt ở Quân khu 4, từ Thanh Hóa đến Quảng Bình và tuyến lửa Vĩnh Linh. Tới năm 1967, ông xung phong đi B, vào chiến trường Đông Nam Bộ thành lập và phụ trách tờ báo Thanh niên Giải phóng. Ông cùng đồng nghiệp bám sát các mặt trận, các đợt trinh sát, gần gũi dân, đến nhiều địa điểm nóng bỏng để phản ánh kịp thời cuộc sống và chiến đấu của bộ đội, đồng bào. Từ thực tế chiến trường, ngoài tin tức, bài vở đăng trên các số báo Thanh niên Giải phóng, Sơn Tùng còn viết ký, truyện gửi ra các báo ngoài Bắc với bút danh Sơn Phong, và miệt mài ghi chép tài liệu với ý thức chuẩn bị cho các tác phẩm dày dặn sau này.
Ngày 15 tháng 4 năm 1971 tại căn cứ Tà Nốt ở chiến khu Đ (thuộc tỉnh Tây Ninh), khi Sơn Tùng cùng đồng đội đang chuẩn bị lên khuôn cho kỳ báo đặc biệt kỷ niệm 10 năm thành lập Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh thì bị máy bay Mỹ tấn công. Ông bị thương rất nặng, mảnh đạn M79 găm khắp thân thể, chấn thương sọ não, vỡ xương vai, nửa người bên phải hầu như bị liệt không đi lại được, thần kinh chéo bị tổn thương nặng, tay phải co quắp, tay trái đạn cắt mất chỉ còn hai ngón, thị lực còn 1/10, tai bị rách phải khâu lại không biết bao nhiêu lần,
trí nhớ sụt giảm.
Sau chiến tranh, là một thương binh hạng 1/4, nặng nhất theo thang bậc thương binh ở Việt Nam, xuất ngũ với 14 vết thương trên mình và vẫn còn 3 mảnh đạn găm trong sọ não không thể mổ gắp ra được, mất 81% sức khỏe, bằng vốn chữ Nho tự học và chữ Quốc ngữ trường làng, Sơn Tùng vẫn tiếp tục cầm bút với vai trò là phóng viên cho các tờ báo và là cây bút chuyên viết về Hồ Chí Minh, những nhà cách mạng hiện đại cũng như các danh nhân văn hóa của dân tộc. Bệnh tật và những vết thương hành hạ nhà văn hàng ngày nhưng ông kiên cường làm việc, với sự hỗ trợ tận tụy như một thư ký của vợ, bà Phan Hồng Mai, người vốn là một y tá từng chữa trị cho ông từ mặt trận. Theo lời kể lại từ Hữu Thỉnh, có lúc người vợ Sơn Tùng còn phải buộc nhà văn vào ghế khi viết để tránh những cơn co giật xúc động làm cơ thể bị liệt của ông ngã xuống bàn viết.
Từ 1974 tới nay, Sơn Tùng đã cho ra đời hàng chục tiểu thuyết, tư liệu, tập truyện, được viết bằng bàn tay phải chỉ còn 3 ngón tay bị co quắp cầm bút vô cùng khó khăn, trong phòng văn rộng chưa tới 4 mét vuông bốn bên chất chồng sách cao tới tận trần, tại căn hộ tập thể nơi ngõ phố Khâm Thiên. Trong căn nhà nhỏ này còn có "Chiếu Văn" nơi ông thường cùng bạn bè trong giới văn nghệ sĩ đàm luận hàng tuần. Ngoài các tác phẩm lấy cảm hứng từ Hồ Chí Minh và các nhân vật cách mạng như Trần Phú, Nguyễn Hữu Tiến, Sơn Tùng còn có một số sáng tác khác như Lõm (viết năm 1976, in lần đầu năm 1994), Trái tim quả đất (viết năm 1988, in lần đầu năm 1990), nói về chiến tranh và xã hội, con người Việt Nam trong và sau khi kết thúc chiến tranh.
Trong cuộc đời cầm bút Sơn Tùng đã viết 21 tác phẩm văn học thì có tới 13 tác phẩm viết về Hồ Chí Minh. Bên cạnh Sáng ánh tâm đăng Hồ Chí Minh, Bác về, Bông sen vàng, Từ làng Sen, tác phẩm nổi tiếng nhất trong chủ đề về Hồ Chí Minh của Sơn Tùng là tiểu thuyết Búp sen xanh, cho đến nay đã được tái bản và nối bản tới 30 lần và dịch ra nhiều ngôn ngữ khác trên thế giới. Với Búp sen xanh, Sơn Tùng thực sự đã trở thành người đầu tiên mở một hướng mới khi viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh với tư cách là một con người bình thường, một người con xứ Nghệ.
Tuy nhiên không phải mọi sự đều xuôi chèo mát mái, Búp sen xanh khi mới ra mắt lần đầu, dù gây tiếng vang lớn song vẫn bị phê phán gay gắt vì "đời thường hóa" lãnh tụ, miêu tả mối tình của Nguyễn Tất Thành khi còn trẻ với cô Út Huệ(nhân vật Út Huệ theo nhà văn Sơn Tùng, là nhân vật có thật). Sau những hiểu nhầm và sự phê phán của một số nhà phê bình định kiến, thủ tướng Phạm Văn Đồng đã đọc Búp sen xanh và rất xúc động, đích thân viết lời tựa cho bản tái bản lần thứ nhất, khẳng định "tiếng nói có trọng lượng nhất thuộc về nhân dân, về bạn đọc". Lời đề tựa này mãi 25 năm sau mới được nhà văn cho in lại trọn vẹn.
Có rất nhiều cây bút tại Việt Nam cũng như trên thế giới thử sức với đề tài Hồ Chí Minh, nhưng giá trị của Búp sen xanh, cũng như nhiều cuốn sách khác về người lãnh tụ khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa này mà Sơn Tùng đã chấp bút, khiến nhiều nhà nghiên cứu và độc giả khẳng định Sơn Tùng là nhà văn viết về Bác Hồ nhiều nhất và thành công nhất, một nhà Hồ Chí Minh học thực thụ. Đã có tới 530 lần nhà văn được mời nói chuyện về Chủ tịch Hồ Chí Minh cho các cơ quan, trường học, viện nghiên cứu, trung tâm khoa học, câu lạc bộ. 88 học giả nước ngoài thuộc nhiều quốc gia từng tới thăm và phỏng vấn nhà văn về Hồ Chí Minh.
Trong Lõm, tác giả với tư cách là người trong cuộc đã từng "lặn" vào nội đô Sài Gòn, và ngay sau khi đất nước thống nhất, Sơn Tùng đã "truy" tiếp tài liệu trong kho lưu trữ của chính quyền Sài Gòn để bắt tay vào viết, đến cuối năm 1976 hoàn thành. Tuy nhiên phải 18 năm sau, vào năm 1994, cuốn sách mới được xuất bản tại Nhà xuất bản Thanh Niên. Tác phẩm đầy ắp những ý tưởng có tính dự báo cao với cái nhìn sắc sảo, logic và nhân văn, văn phong xen cài nhiều thể loại, từ đó bật trội những ám ảnh của tình người, của tương lai hòa hợp dân tộc, của những vấn đề hậu chiến nóng bỏng, mà sau đó dần dần phát lộ trong đời sống đương đại
Từ năm 2010, Sơn Tùng bị xuất huyết não và yếu đi nhiều do vết thương cũ tái phát nên nhiều việc ông giao cho gia đình quyết định. Bà Phan Hồng Mai vợ nhà văn đã làm hồ sơ xin xét tặng giải thưởng Hồ Chí Minh cho nhà văn. Tháng 8 năm 2011, Sơn Tùng là 1 trong số 56 tác giả lọt vào danh sách đề cử Giải thưởng Nhà nước. Tuy nhiên, vào ngày 18 tháng 8, gia đình nhà văn đã nộp đơn xin rút khỏi giải thưởng.
Ngàn năm bia miệng hãy còn trơ trơ!
-Nhưng mấy ai thoát được sự cám dỗ của danh lợi - quyền lực?
-Và khi đã mù quáng về nhận thức mà lại còn khuếch trương quyền lực thì thật là đáng sợ!
--------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
Nhà văn Sơn Tùng: Một con người trí mệnh!
20/02/2015 - 11:41 (GMT+7)
Nhà văn Sơn Tùng thực sự là “người có trí mệnh” như lời Đại tướng Võ Nguyên Giáp dành cho ông.
Trong số những
nhà văn Việt Nam, Sơn Tùng là một trường hợp đặc biệt. Ông đặc biệt
không chỉ bởi là nhà văn duy nhất cho đến nay được phong tặng danh hiệu
Anh hùng Lao động, mà bởi ông là thương binh hạng nặng 1/4, mang trên
mình tới 14 vết thương, ba mảnh đạn còn găm trong sọ não, nhưng bằng
nghị lực và trí lực phi thường, ông sống và sáng tác, tạo nên dấu ấn đậm
nét trong nền văn học nước nhà. Ông thực sự là “người có trí mệnh” như
lời Đại tướng Võ Nguyên Giáp dành cho ông.
Nhà văn Sơn Tùng |
Một sáng đầu năm 2015, trời Hà Nội rét
buốt, tôi đến thăm nhà văn Sơn Tùng ở ngõ nhỏ của Khu tập thể Văn Chương
cũ kỹ của Hà Nội. Ông nằm bất động trên chiếc giường cá nhân chật hẹp.
Mặc dù không nói được nhưng ông vẫn nhận ra khách tới thăm. Ông nắm chặt
tay tôi. Nhìn ông, tôi thực sự đau lòng. Hơn 60 năm qua ông đã sống,
lao động một cách phi thường, mặc dù trong người có tới 14 vết thương và
còn ba mảnh đạn găm trong sọ não. Nhưng rồi, cơn tai biến cách đây ba
năm đã “quật ngã” nhà văn. Căn phòng ông ở vẫn vậy: chật hẹp, cũ kỹ. Vẫn
cái căn phòng này đây, bao nhiêu năm qua từng đón tiếp biết bao nhiêu
các nhà hoạt động chính trị, nhà ngoại giao, nhà văn hóa, các văn nghệ
sỹ, nhà báo, những “tao nhân mặc khách” ở trong nước và nước ngoài.
Tôi vào phòng làm việc của ông thăm lại
tấm phản nơi vẫn được coi là “Chiếu văn” của khách thập phương. Trước
đây, khi ông còn khỏe, khách tới, chủ và khách đều “ngồi bệt” dưới tấm
phản này. Có không biết bao nhiêu câu chuyện: Chính trị, văn chương,
nhân tình thế thái... trong mấy chục năm qua đã được bàn luận trên
“Chiếu văn” này. Cũng trên “Chiếu văn” này ông Nguyễn Minh Triết khi
đang là Chủ tịch nước cũng đã đến thăm lại người đồng đội cùng chiến đấu
ở chiến trường Đông Nam bộ của mình - nhà văn Sơn Tùng.
Trên bức tường cũ kỹ vẫn những bức ảnh
ghi dấu ấn lịch sử cuộc đời ông. Trên đó là bức ảnh anh nhà báo trẻ Sơn
Tùng đứng cạnh Bác Hồ đang ghi ghi chép chép. Đấy là sân đình làng Lỗ
Khê, Đông Anh sáng mồng Một Tết. Khi ấy cả nước đang học tập noi gương
Hoa Xuân Tứ, một người “tàn nhưng không phế” do Sơn Tùng phát hiện và
viết. Hôm ấy Bác gặp lại Sơn Tùng, thân mật hỏi vui: “Này, chú viết
gương Hoa Xuân Tứ tàn mà không phế chú bịa mấy chục phần trăm khai thật
với Bác đi!”. Sau này nhà văn kể lại, đó là lần cuối cùng ông được gặp
Bác.
Lại kia nữa, cũng trên vách tường nhà.
Thủ tướng Phạm Văn Đồng đang thân thiết ôm lấy nhà văn. Đó là lần Thủ
tướng sau khi đọc “Búp sen xanh”, biết được hoàn cảnh khó khăn của nhà
văn đã mời ông đến cùng ăn cơm chuyện trò. Còn bên cạnh là ảnh nhà văn
trong vòng tay ôm siết thân thiết của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Ngay bên
cạnh đó là tấm bằng Anh hùng Lao động của nhà văn do Nhà nước phong
tặng ngày 14/7/2011.
Tác giả trong một lần đến thăm nhà văn Sơn Tùng |
Sơn Tùng SN 1928, tại làng Hoa Lý (nay
là Diễn Kim, Diễn Châu, Nghệ An) - một vùng đất ngay bên bờ biển. Sơn
Tùng lớn lên trong một cộng đồng dân chài lấy thuyền làm nôi và tiếng
sóng vỗ bờ làm lời ru của mẹ. Chính cái mênh mông, phóng khoáng của biển
cả đã hun đúc nên khí phách phóng túng pha chút ngang tàng của Sơn
Tùng. Nhưng “gã thuyền chài” ấy lại được giáo dưỡng trong một gia đình
nhà nho nghèo có truyền thống “trọng chữ hơn trọng miếng ăn”. Trước lúc
qua đời, ông đồ nho còn cầm tay con mà dặn: “Nếu sau này chẳng may có
gặp chuyện oan ức thì cũng chỉ được nhận là nạn nhân chứ không thể là
sát nhân”.
Còn mẹ, một người đàn bà hát phường vải
nổi tiếng xứ Nghệ thì luôn khuyên con cái phải tuân thủ lời thề của họ
Bùi là “muốn làm gì thì làm, nhưng dứt khoát không được làm quan!”. Có
lần ông tâm sự: “Mẹ tôi ít học hơn cha nên không hay dùng chữ, chỉ biết
dặn con cái những chuyện đại loại như: “Đi lấy phần thì nhường cho người
phần hơn, nhận về mình phần ít”; “Cho người vay gạo thì đong có ngọn,
khi người trả thì lấy ngón tay gạt ngang ống bơ mà nhận”... 7 anh chị em
nhà tôi lớn lên trong tinh thần ấy”. Có lẽ sinh ra và lớn lên trong môi
trường như thế nên đã hình thành một Sơn Tùng vừa bướng bỉnh, nhưng vị
tha; vừa kiên trì, nhưng lại dứt khoát...
"Phải
nói, đó là một con người có nghị lực… Đó là một con người có trí mệnh.
Mỗi lần anh gặp tôi thì tôi rất cảm động, bởi vì ngồi nói chuyện về Bác
Hồ nhưng phải cố gắng vì vết thương lại đau. Có khi cầm bút viết được,
có khi không… Đấy là một con người có chí hướng cách mạng, là một đảng
viên trung kiên… Còn đối với riêng tôi, anh là một người bạn chí
thiết…”.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp từng nói về nhà văn Sơn Tùng
|
Năm 1944, ở tuổi 16 tràn đầy nhiệt
huyết, Sơn Tùng tham gia hoạt động trong phong trào thanh niên ở địa
phương hòa vào dòng chảy của cơn lốc cách mạng. Những năm tháng sục sôi
cách mạng ấy, ông được gặp bà Nguyễn Thị Thanh (chị ruột Bác Hồ) và ý
thức việc sưu tầm tư liệu về Bác. Sau khi Hà Nội giải phóng, Sơn Tùng
vào học tại trường Đại học Nhân dân và sau đó trở thành cán bộ tuyên
truyền của Đảng. Năm 1961, ông về viết cho báo Nông nghiệp và từ cuối
năm 1962 là phóng viên của báo Tiền phong. Năm 1967, ông được điều vào
Nam thành lập và phụ trách tờ Thanh niên giải phóng. Năm 1971, ông bị
thương nặng và rời chiến trường miền Nam mang trên mình 14 vết thương,
ba mảnh đạn còn găm trong sọ não.
Năm 1971, tại căn cứ Tà Nốt chiến khu B
(thuộc tỉnh Tây Ninh), khi ông cùng đồng đội đang chuẩn bị lên khuôn cho
kỳ báo đặc biệt kỷ niệm 10 năm thành lập Đoàn TNCS HCM, thì máy bay Mỹ ồ
ạt tấn công với mưu đồ triệt phá cơ quan đầu não của Quân giải phóng.
Sơn Tùng bị thương rất nặng, mảnh đạn M79 găm khắp thân thể ông, từ vỏ
não tới các chi và lưng. Giữa bom đạn ác liệt ấy, có một thanh niên đã
lao ra bất chấp mưa bom bão đạn, cõng Sơn Tùng đi cấp cứu, đó là Đội
trưởng Đội bảo vệ cơ quan Sáu Phong (Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết
ngày nay), người đồng chí và là đồng nghiệp của Sơn Tùng ở Báo Thanh
niên giải phóng.
Nửa người bên phải hầu như bị liệt, thần
kinh chéo bị tổn thương nặng, mắt bên phải bị mờ. “Nhưng điều làm tôi
lo sợ nhất là sau khi tỉnh dậy tôi quên đi rất nhiều. Mình là Bùi Sơn
Tùng ở Diễn Châu, Nghệ An thì nhớ, nhưng thời nhỏ lớn lên như thế nào
thì không tài nào nhớ nổi. Mình hoảng quá, tự ôn lại cả quá trình đã
sống. Trời ơi, như một cuốn phim mốc, loang lổ...”, Sơn Tùng nhớ lại.
Ông được đưa sang Trung Quốc chữa bệnh và được vào viện điều dưỡng ba
năm liền. Sau đó ông xin về nhà và ... luyện khí công. Với nghị lực phi
thường ông khổ luyện từ 2h sáng tới 20h, sức khoẻ ông dần bình phục. Trí
nhớ cũng hồi phục dần. Khi tay phải duỗi ra được, chân tập tễnh bước
thấp bước cao, Sơn Tùng đã lao vào công việc.
Người có uy tín nhất viết về tiểu sử Hồ Chí Minh
Đánh giá về sự nghiệp văn chương của Sơn
Tùng, giáo sư Phan Ngọc viết: “Đó là con đường khiến anh trở thành con
người có uy tín nhất viết về tiểu sử Hồ Chí Minh” với một “Phong cách
Sơn Tùng”. Có lần nhà văn Sơn Tùng tâm sự: “Viết về Bác nếu chỉ đơn
thuần là những hiểu biết thông thường thì không thể viết được mà phải
viết bằng tâm linh”. Những tác phẩm văn học viết về đề tài Bác Hồ của
nhà văn Sơn Tùng không chỉ chứa đựng những cứ liệu lịch sử chân xác về
sự hình thành nhân cách và quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh gắn
liền với lịch sử của thời đại, mà còn là sự vận động không ngừng của sự
tiếp cận quy luật để nhận thức Chân - Thiện - Mỹ từ người sáng tạo nghệ
thuật. Đó chính là căn cốt của “Phong cách Sơn Tùng”.
Tác phẩm thành công nhất của Sơn Tùng,
cho đến nay, vẫn là “Búp sen xanh”. Đây cũng là công trình mà ông bỏ ra
nhiều thời gian và công sức nhất, bắt đầu từ năm 1948 và hoàn thành vào
năm 1980. Bằng những chuyến đi không biết mệt mỏi, những cuộc tìm kiếm
kiên trì, cuối cùng ông đã gặp được bà Lê Thị Huệ để rồi từ những câu
chuyện với bà Huệ ở tuổi 80, ông đã tái dựng lại một trong những quãng
đời gian khó, nhưng đẹp đẽ và thơ mộng nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Phát hiện của Sơn Tùng đã mở ra một bước ngoặt, một cách tiếp cận hoàn
toàn mới tới cuộc đời và sự nghiệp của Bác. Tháng 3/1982 “Búp sen xanh”
với 30.200 bản ra đời đã gây một tiếng vang lớn. Hơn 30 năm kể từ ngày
ra mắt (1982), với không ít những thăng trầm, đến nay tiểu thuyết “Búp
sen xanh” liên tục được tái bản tới hơn 30 lần, một điều hiếm thấy nếu
không muốn nói là duy nhất trong đời sống văn học Việt Nam.
Ngoài các tác phẩm viết về đề tài Bác Hồ
và các danh nhân văn hóa, Sơn Tùng còn có hai tiểu thuyết chiến tranh
là “Trái tim - Quả đất” viết về Chiến dịch Biên giới (1950) và “Lõm”
viết về Tổng tiến công Mậu Thân (1968). Ở tiểu thuyết đầu, tác giả có độ
lùi khá xa (hoàn thành năm 1989) và sử dụng những nguồn tư liệu lịch sử
để dựng nên những hình tượng và hoàn cảnh có tính điển hình.
Nhà văn Sơn Tùng và vợ |
Sẽ là không phải khi viết về Sơn Tùng mà
không nhắc tới một người phụ nữ bởi nếu thiếu bà thì cuộc đời ông chắc
gì đã được như ngày hôm nay. Đó là vợ ông, người phụ nữ đã chấp nhận
thôi làm y tá ở bệnh viện để về nhà làm hộ lý suốt đời cho ông. Bà vừa
là thư ký riêng, vừa là người dìu ông vào Nam ra Bắc đi sưu tầm tài
liệu. Một mối tình lãng mạn chẳng kém gì một bài thơ đẹp: Ngày xưa có cô
bé Phạm Hồng Mai ở tuổi trăng tròn được anh nhà báo Sơn Tùng biểu dương
trên báo Tiền phong. Không ngờ cô gái ấy đang là y tá tại một bệnh viện
đã gặp lại tác giả bài báo trong một trường hợp khắc nghiệt đến vậy. Cô
gái ấy đã tự nguyện đến với ông và Sơn Tùng có lại một cuộc đời... Bà
là người chăm sóc ông, là người nối dài cánh tay của nhà văn Sơn Tùng để
đánh máy hàng vạn trang viết của nhiều cuốn tiểu thuyết. Và cho tới
hôm nay, khi ông nằm đó bất động, bà vẫn bên cạnh ông, vẫn vì ông mà
nồng nàn hơi thở:
Anh không nhớ thời gian
Mà đếm tuổi cây bàng qua màu lá
Và đo tầm lớn của em qua cửa sổ
Qua chiều sâu thương nhớ giữa lòng anh.
(Trích “Cửa sổ xanh” của Sơn Tùng).
Mà đếm tuổi cây bàng qua màu lá
Và đo tầm lớn của em qua cửa sổ
Qua chiều sâu thương nhớ giữa lòng anh.
(Trích “Cửa sổ xanh” của Sơn Tùng).
Sơn Tùng (nhà văn)
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Sơn Tùng (nhà văn) | |
---|---|
Sinh | Bùi Sơn Tùng Diễn Châu, Nghệ An |
Nơi cư trú | Hà Nội, Việt Nam |
Quốc gia | Việt Nam |
Dân tộc | Kinh |
Quốc tịch | Việt Nam |
Công việc | Nhà văn |
Nổi tiếng vì | Búp sen xanh |
Lõm, Búp sen xanh, Trái tim quả đất, Nguyễn Hữu Tiến Mẹ về, Từ làng Sen |
Tiểu sử
Sơn Tùng sinh ngày 8 tháng 8 Âm lịch năm Mậu Thìn (tức ngày 21 tháng 8 năm 1928), tại làng Hoa Lũy (nay là Kim Lũy), Diễn Kim, Diễn Châu, Nghệ An. Làng Hoa Lũy là vùng bãi ngang nằm sát biển. Gia đình Sơn Tùng là một gia đình nhà nho nghèo nhưng trọng chữ, có quan hệ họ hàng với Hồ Chí Minh. Bà nội Sơn Tùng (cụ Hà Thị Tự) là cháu họ bà nội Hồ Chí Minh (Cụ Hà Thị Hy), và em trai ông nội của Sơn Tùng đỗ tú tài cùng khoa với em trai ông ngoại của Hồ Chí Minh.Từ 1944 đến 1971, trước khi trở thành nhà văn, là 27 năm Sơn Tùng tham gia hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, hoạt động trên các lĩnh vực tuyên huấn, tuyên truyền, huấn luyện, quân sự, phóng viên. Năm 1944, khi mới 16 tuổi Sơn Tùng đã sớm tham gia cách mạng, hoạt động trong phong trào thanh niên, sinh viên thủ đô. Sau khi Hà Nội giải phóng, Sơn Tùng vào học tại trường Đại học nhân dân và sau đó trở thành cán bộ tuyên truyền của Đảng. Năm 1961 ông về viết cho báo Nông nghiệp và từ cuối năm 1962 là phóng viên của báo Tiền phong.
Năm 1965, Sơn Tùng là đặc phái viên của báo Tiền Phong tác nghiệp chủ yếu tại vùng lửa đạn chiến sự ác liệt ở Quân khu 4, từ Thanh Hóa đến Quảng Bình và tuyến lửa Vĩnh Linh. Tới năm 1967, ông xung phong đi B, vào chiến trường Đông Nam Bộ thành lập và phụ trách tờ báo Thanh niên Giải phóng. Ông cùng đồng nghiệp bám sát các mặt trận, các đợt trinh sát, gần gũi dân, đến nhiều địa điểm nóng bỏng để phản ánh kịp thời cuộc sống và chiến đấu của bộ đội, đồng bào. Từ thực tế chiến trường, ngoài tin tức, bài vở đăng trên các số báo Thanh niên Giải phóng, Sơn Tùng còn viết ký, truyện gửi ra các báo ngoài Bắc với bút danh Sơn Phong, và miệt mài ghi chép tài liệu với ý thức chuẩn bị cho các tác phẩm dày dặn sau này.
Ngày 15 tháng 4 năm 1971 tại căn cứ Tà Nốt ở chiến khu Đ (thuộc tỉnh Tây Ninh), khi Sơn Tùng cùng đồng đội đang chuẩn bị lên khuôn cho kỳ báo đặc biệt kỷ niệm 10 năm thành lập Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh thì bị máy bay Mỹ tấn công. Ông bị thương rất nặng, mảnh đạn M79 găm khắp thân thể, chấn thương sọ não, vỡ xương vai, nửa người bên phải hầu như bị liệt không đi lại được, thần kinh chéo bị tổn thương nặng, tay phải co quắp, tay trái đạn cắt mất chỉ còn hai ngón, thị lực còn 1/10, tai bị rách phải khâu lại không biết bao nhiêu lần,
trí nhớ sụt giảm.
Sau chiến tranh, là một thương binh hạng 1/4, nặng nhất theo thang bậc thương binh ở Việt Nam, xuất ngũ với 14 vết thương trên mình và vẫn còn 3 mảnh đạn găm trong sọ não không thể mổ gắp ra được, mất 81% sức khỏe, bằng vốn chữ Nho tự học và chữ Quốc ngữ trường làng, Sơn Tùng vẫn tiếp tục cầm bút với vai trò là phóng viên cho các tờ báo và là cây bút chuyên viết về Hồ Chí Minh, những nhà cách mạng hiện đại cũng như các danh nhân văn hóa của dân tộc. Bệnh tật và những vết thương hành hạ nhà văn hàng ngày nhưng ông kiên cường làm việc, với sự hỗ trợ tận tụy như một thư ký của vợ, bà Phan Hồng Mai, người vốn là một y tá từng chữa trị cho ông từ mặt trận. Theo lời kể lại từ Hữu Thỉnh, có lúc người vợ Sơn Tùng còn phải buộc nhà văn vào ghế khi viết để tránh những cơn co giật xúc động làm cơ thể bị liệt của ông ngã xuống bàn viết.
Từ 1974 tới nay, Sơn Tùng đã cho ra đời hàng chục tiểu thuyết, tư liệu, tập truyện, được viết bằng bàn tay phải chỉ còn 3 ngón tay bị co quắp cầm bút vô cùng khó khăn, trong phòng văn rộng chưa tới 4 mét vuông bốn bên chất chồng sách cao tới tận trần, tại căn hộ tập thể nơi ngõ phố Khâm Thiên. Trong căn nhà nhỏ này còn có "Chiếu Văn" nơi ông thường cùng bạn bè trong giới văn nghệ sĩ đàm luận hàng tuần. Ngoài các tác phẩm lấy cảm hứng từ Hồ Chí Minh và các nhân vật cách mạng như Trần Phú, Nguyễn Hữu Tiến, Sơn Tùng còn có một số sáng tác khác như Lõm (viết năm 1976, in lần đầu năm 1994), Trái tim quả đất (viết năm 1988, in lần đầu năm 1990), nói về chiến tranh và xã hội, con người Việt Nam trong và sau khi kết thúc chiến tranh.
Các đề tài chính
Hồ Chí Minh
Năm 1948, ý tưởng tìm hiểu về Chủ tịch Hồ Chí Minh lần đầu tiên đến với người thanh niên Bùi Sơn Tùng khi ông đang công tác tại Tỉnh đoàn Thanh niên Lao động Nghệ An. Ông đã tìm và gặp chị gái, bà Nguyễn Thị Thanh và anh trai ruột, ông Nguyễn Sinh Khiêm, của chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm tìm kiếm tư liệu. Trong những năm kháng chiến cho đến khi chấm dứt chiến tranh Việt Nam, Sơn Tùng đã nỗ lực không ngừng tìm những nhân chứng liên quan tới đề tài Hồ Chí Minh.Trong cuộc đời cầm bút Sơn Tùng đã viết 21 tác phẩm văn học thì có tới 13 tác phẩm viết về Hồ Chí Minh. Bên cạnh Sáng ánh tâm đăng Hồ Chí Minh, Bác về, Bông sen vàng, Từ làng Sen, tác phẩm nổi tiếng nhất trong chủ đề về Hồ Chí Minh của Sơn Tùng là tiểu thuyết Búp sen xanh, cho đến nay đã được tái bản và nối bản tới 30 lần và dịch ra nhiều ngôn ngữ khác trên thế giới. Với Búp sen xanh, Sơn Tùng thực sự đã trở thành người đầu tiên mở một hướng mới khi viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh với tư cách là một con người bình thường, một người con xứ Nghệ.
Tuy nhiên không phải mọi sự đều xuôi chèo mát mái, Búp sen xanh khi mới ra mắt lần đầu, dù gây tiếng vang lớn song vẫn bị phê phán gay gắt vì "đời thường hóa" lãnh tụ, miêu tả mối tình của Nguyễn Tất Thành khi còn trẻ với cô Út Huệ(nhân vật Út Huệ theo nhà văn Sơn Tùng, là nhân vật có thật). Sau những hiểu nhầm và sự phê phán của một số nhà phê bình định kiến, thủ tướng Phạm Văn Đồng đã đọc Búp sen xanh và rất xúc động, đích thân viết lời tựa cho bản tái bản lần thứ nhất, khẳng định "tiếng nói có trọng lượng nhất thuộc về nhân dân, về bạn đọc". Lời đề tựa này mãi 25 năm sau mới được nhà văn cho in lại trọn vẹn.
Có rất nhiều cây bút tại Việt Nam cũng như trên thế giới thử sức với đề tài Hồ Chí Minh, nhưng giá trị của Búp sen xanh, cũng như nhiều cuốn sách khác về người lãnh tụ khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa này mà Sơn Tùng đã chấp bút, khiến nhiều nhà nghiên cứu và độc giả khẳng định Sơn Tùng là nhà văn viết về Bác Hồ nhiều nhất và thành công nhất, một nhà Hồ Chí Minh học thực thụ. Đã có tới 530 lần nhà văn được mời nói chuyện về Chủ tịch Hồ Chí Minh cho các cơ quan, trường học, viện nghiên cứu, trung tâm khoa học, câu lạc bộ. 88 học giả nước ngoài thuộc nhiều quốc gia từng tới thăm và phỏng vấn nhà văn về Hồ Chí Minh.
Người vẽ cờ Tổ quốc
Theo tìm hiểu của Sơn Tùng, Quốc kỳ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã được dùng lần đầu tiên trong cuộc Nam Kỳ khởi nghĩa năm 1940 và tác giả là Nguyễn Hữu Tiến, lúc đó thường được gọi là "ông Hai Bắc Kỳ" [9]. Năm 1981, tư liệu thành văn đầu tiên khẳng định Nguyễn Hữu Tiến là tác giả lá cờ được viết trong cuốn truyện Nguyễn Hữu Tiến của nhà văn Sơn Tùng do Nhà xuất bản Thanh Niên phát hành tháng 8 năm 1981 [10]. Tuy nhiên, trong công văn số 1393/VHTT-BTCM do Thứ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin Lưu Trần Tiêu ký ngày 18 tháng 4 năm 2001 có ghi: "Tất cả các nguồn tài liệu hiện có tại Cục Lưu trữ Trung ương Đảng, tại Viện Lịch sử Đảng trực thuộc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, Bảo tàng Hồ Chí Minh đều không có tài liệu nào chứng minh đồng chí Nguyễn Hữu Tiến là người vẽ lá cờ Tổ quốc".Chiến tranh
Sơn Tùng có 2 tiểu thuyết về đề tài chiến tranh, cuốn Trái tim quả đất viết về Chiến dịch Biên giới (1950) và Lõm viết về Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân (1968). Trái tim quả đất hoàn thành năm 1989, tức gần 40 năm sau sự kiện, tác giả đã có độ lùi thời gian khá xa, sử dụng chủ yếu là các nguồn tư liệu lịch sử để dụng nên những hình tượng và hoàn cảnh điển hình.Trong Lõm, tác giả với tư cách là người trong cuộc đã từng "lặn" vào nội đô Sài Gòn, và ngay sau khi đất nước thống nhất, Sơn Tùng đã "truy" tiếp tài liệu trong kho lưu trữ của chính quyền Sài Gòn để bắt tay vào viết, đến cuối năm 1976 hoàn thành. Tuy nhiên phải 18 năm sau, vào năm 1994, cuốn sách mới được xuất bản tại Nhà xuất bản Thanh Niên. Tác phẩm đầy ắp những ý tưởng có tính dự báo cao với cái nhìn sắc sảo, logic và nhân văn, văn phong xen cài nhiều thể loại, từ đó bật trội những ám ảnh của tình người, của tương lai hòa hợp dân tộc, của những vấn đề hậu chiến nóng bỏng, mà sau đó dần dần phát lộ trong đời sống đương đại
Tác phẩm
Văn xuôi
Sáng tác văn xuôi đã xuất bản của Sơn Tùng hầu hết là các tập truyện ngắn hay tiểu thuyết khá dày dặn, một số cuốn trong đó được tái bản nhiều lần. Đáng chú ý là các cuốn:- Bên khung cửa sổ (tập truyện ngắn, Nhà xuất bản Lao Động, 1974)
- Nhớ nguồn (Nhà xuất bản Phụ Nữ, 1975)
- Kỷ niệm tháng Năm (1976)
- Con người và con đường (lời tựa của Đặng Thai Mai, Nhà xuất bản Phụ nữ, 1976)
- Nguyễn Hữu Tiến (truyện, Nhà xuất bản Thanh Niên, 1981)
- Búp sen xanh (tiểu thuyết, Nhà xuất bản Kim Đồng, 1981. Sau tái bản nhiều lần, trong đó có bộ Búp sen xanh 2 tập khổ nhỏ, Nhà xuất bản Kim Đồng, 1996)
- Vườn nắng (Nhà xuất bản Thanh Niên, 1997)
- Trái tim quả đất (tiểu thuyết, Nhà xuất bản Thanh Niên, 2000)
- Trần Phú (truyện, Nhà xuất bản Thanh Niên, 2000)
- Bông sen vàng (tiểu thuyết, Nhà xuất bản Văn Nghệ, tp.Hồ Chí Minh, 2000)
- Bác về (Nhà xuất bản Phụ Nữ, 2000)
- Sáng ánh tâm đăng Hồ Chí Minh (Nhà xuất bản Công an Nhân dân, 2005)
- Bác Hồ cầu hiền tài (Thông Tấn, 2006)
- Mẹ về (Nhà xuất bản Phụ Nữ, in lần 3 năm 2006)
- Lõm (tiểu thuyết, Nhà xuất bản Thanh Niên, 2006)
- Hoa râm bụt (Nhà xuất bản Công an Nhân dân, 2005; Nhà xuất bản Thanh Niên, 2007)
- Bác ở nơi đây (Nhà xuất bản Thanh Niên, 2008)
- Cuộc gặp gỡ định mệnh (tài liệu phục vụ cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2008)
- Đào Tấn và gia đình cụ Nguyễn Sinh Sắc (Văn Hiến, số 5, 2011)
- Từ làng Sen (đồng tác giả với họa sĩ Lê Lam, người đã vẽ 25 bức tranh về Hồ Chí Minh trong sách, Nhà xuất bản Kim Đồng, 2009).
Kịch bản điện ảnh
Cuối năm 1987 Sơn Tùng hoàn thành kịch bản phim mang tên Cuộc chia ly trên bến Nhà Rồng và chuyển cho Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh. Nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng khi đó đã ủng hộ và thuyết phục Thành uỷ cấp kinh phí làm phim. Nhan đề bộ phim được lấy là Hẹn gặp lại Sài Gòn. Phim được thực hiện năm 1990 với đạo diễn Long Vân, quay phim Nguyễn Quang Tuấn. Thư ký của chủ tịch Hồ Chí Minh, ông Vũ Kỳ, được mời làm cố vấn chính trị. Diễn viên Tiến Hợi vào vai Chủ tịch Hồ Chí Minh. Do thiếu kinh phí, phim chỉ in ra 5 bản trong đó có 1 bản dành tặng Ấn Độ nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh Hồ Chủ tịch, và 4 bản chiếu trong nước. Phim được công chúng đón nhận nồng nhiệt vì lần đầu tiên, hình tượng Bác Hồ thời trẻ đã được tái tạo trên màn bạc trong một tác phẩm hoành tráng sinh động.Thơ
Sơn Tùng sáng tác tầm 100 bài thơ, trong đó có nhiều bài thơ hay. Thơ ông mang âm hưởng da diết lãng mạn, thơ và đời gắn kết với nhau. Đáng chú ý là bài Gửi em chiếc nón bài thơ (1955) và Cửa sổ xanh (1971). Bài Gửi em chiếc nón bài thơ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã được nhạc sĩ Lê Việt Hòa phổ nhạc, hiện thực hóa giấc mơ thống nhất đất nước của nhà văn sau 20 năm.Giải thưởng
Ngày 14 tháng 7 năm 2011, Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam Nguyễn Minh Triết đã ký Quyết định số 1083/QĐ-CTN phong tặng nhà văn Sơn Tùng là Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới, trở thành người thứ 4 thuộc Hội Nhà văn Việt Nam được nhận danh hiệu nàyTừ năm 2010, Sơn Tùng bị xuất huyết não và yếu đi nhiều do vết thương cũ tái phát nên nhiều việc ông giao cho gia đình quyết định. Bà Phan Hồng Mai vợ nhà văn đã làm hồ sơ xin xét tặng giải thưởng Hồ Chí Minh cho nhà văn. Tháng 8 năm 2011, Sơn Tùng là 1 trong số 56 tác giả lọt vào danh sách đề cử Giải thưởng Nhà nước. Tuy nhiên, vào ngày 18 tháng 8, gia đình nhà văn đã nộp đơn xin rút khỏi giải thưởng.
Nhận xét
Đăng nhận xét