Thứ Sáu, 17 tháng 7, 2015

BÍ ẨN KHẢO CỔ 33

(ĐC sưu tầm trên NET)

Vén bức màn văn minh tiền sử: (Phần 7) Những phát hiện khảo cổ đủ để thay đổi sách giáo khoa hiện đại

 

[Chanhkien.org]Vén bức màn văn minh tiền sửlà một cuốn sách về văn hóa tiền sử, một phần trong tủ sách được xuất bản bởi Chánh Kiến Net.
Nhìn lại những khám phá khảo cổ được đề cập trong cuốn sách này, chúng ta không thể không tự hỏi – tại sao những ý kiến được trình bày trong các phát hiện này lại khác biệt rất lớn với quan điểm hiện tại, thậm chí xung khắc với nội dung trong sách giáo khoa chúng ta đang học? Tôi nhớ rằng sách giáo khoa của chúng ta tuyên bố rằng lịch sử nền văn minh nhân loại không quá 10.000 năm. Nếu sự phát triển của văn minh nhân loại thực sự như những gì sách giáo khoa nói, thì chúng ta giải thích thế nào với các công cụ kim loại và những di chỉ khác của văn minh nhân loại mà đã có từ hàng triệu năm trước?
Các câu hỏi đặt ra từ những phát hiện khảo cổ này cung cấp cho chúng ta một cơ hội để nghiên cứu lại, và xem xét lại tính chính xác của sự phát triển lịch sử loài người. Thật không may, đa số các nhà khoa học lại không trân quý cơ hội này. Thay vào đó, họ không thể đột phá, đơn giản bởi vì các phát hiện này trái ngược với học thuyết mà họ rao giảng. Tại sao? Có lẽ chính là bởi vì chúng thách thức cả mô hình về thuyết tiến hóa. Các lý thuyết và học thuyết được phát triển từ mô hình thuyết tiến hóa đã tồn tại trong hơn 100 năm qua, và có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của khoa học và xã hội hiện đại. Nhiều nhà khoa học đã bị bẫy trong những học thuyết đó và không thể nghĩ được gì ngoài cái khung này. Những quan niệm ấy đã khiến họ lờ đi những khám phá không nằm trong sự mô tả của thuyết tiến hóa, và họ hoàn toàn phản đối những khám phá này.
Năm 1880, nhà địa chất J. D. Whitney đến từ California, Hoa Kỳ đã cho xuất bản một bài báo dài, trong đó mô tả các công cụ được tìm thấy trong những mỏ vàng tại California. Những công cụ này bao gồm vài mũi giáo, bát đá và chày đá. Chúng được tìm thấy trong một lớp đá núi nửa chưa từng được động tới, nằm sâu dưới mỏ vàng. Các nhà địa chất đã xác nhận rằng những lớp đá này có thể đã được hình thành từ 9 đến 55 triệu năm trước. Tuy nhiên, ông Holmes, một thành viên của Viện Smithsonian, đồng thời là một bình luận viên nổi tiếng của kênh Khám phá California Thế kỷ 19, đã bình luận: “Có lẽ, nếu giáo sư đã hoàn toàn hiểu được lịch sử tiến hóa của nhân loại như con người ngày nay, ông dường như đã chần chừ trong việc công bố các kết luận cho thấy con người đã tồn tại ở Bắc Mỹ thời tiền sử, cho dù các phát hiện của ông thật là thú vị.” Nói cách khác, nếu sự thật được khám phá không phù hợp với các quan niệm phổ biến hiện nay, bất kể bằng chứng là thuyết phục như thế nào, chúng sẽ vẫn bị bài xích và không được chấp nhận bởi dòng khoa học chủ lưu. Những khám phá khảo cổ quan trọng này có thể chỉ được trình bày như những phát hiện “ngầm”, chứ không thể được đi sâu và trình bày trước công chúng.
Ngoài việc bác bỏ những bằng chứng thách thức học thuyết thống trị hiện tại, cũng có những trường hợp mà bằng chứng giả được “phát minh” ra để bảo vệ các học thuyết đương đại trong lĩnh vực khoa học. Trong số đó, nổi tiếng nhất là vụ lừa đảo Piltdown Man. Đầu thế kỷ 20, một nhà sưu tập nghiệp dư, Charles Dawson, phát hiện thấy một số sọ người ở Piltdown. Không lâu sau, các nhà khoa học Arthur Smith Woodward đến từ Bảo tàng Anh quốc và Pierre Teilhard de Chardin đã tham gia vào nỗ lực khảo cổ này. Họ đã tìm thấy một xương hàm vượn Orangutan và vài mẫu hóa thạch động vật có vú cổ đại. Dawson và Woodward nghĩ rằng nếu họ ghép cái sọ người với xương hàm Orangutan, họ sẽ tạo ra một hóa thạch người nguyên thủy có vào đầu kỷ Pleistocene hay cuối kỷ Pliocene, và sự nhào nặn này sẽ là một bằng chứng mạnh mẽ chứng thực thuyết tiến hóa. Họ lập tức công bố phát hiện Piltdown Man cho giới khoa học. Tuy nhiên, 40 năm sau, J. S. Weiner, K. P. Oakley và các nhà khoa học Anh khác đã vạch trần vụ lừa đảo này. Vụ việc được thao túng bởi những người rất quen thuộc với công nghệ khoa học chuyên nghiệp hiện đại. Hãy nhìn qua những cái tên cừ khôi sau: Arthur Smith Woodward từ Bảo tàng Anh quốc, Arthur Keith từ Bảo tàng Hunter cùng các nhà vật lý Đại học Hoàng gia. William Sollas đến từ Viện Địa chất Cambridge, nhà giải phẫu học nổi tiếng Eliot Smith, Dawson và Pierre Teilhard de Chardin. Đây đều là những chuyên gia rất được trọng vọng! Sau khi vạch trần vụ lừa đảo, Weiner nói: “Nếu người Piltdown không tồn tại (một người theo thuyết Đác-uyn có thể từng nói), ‘chúng tôi đã phát minh ra anh ta’. Nếu một mắt xích bị thiếu được tìm thấy, nó chắc chắn minh chứng rằng con người không tiến hóa từ tổ tiên giống loài vượn hiện đại, và nếu mắt xích bị thiếu được tìm thấy tại Anh, thì sẽ tốt hơn nhiều…”
Sự xuất hiện những vụ lừa đảo tương tự đã hoàn toàn cho thấy rằng xuất phát từ thái độ nghiên cứu lệnh lạc, một số nhà khoa học đã đánh mất những phẩm chất đáng kính trọng nhất là về sự chính trực và trung thực, và sẽ tìm mọi cách bù đắp những lỗ hổng trong các học thuyết hiện tại chỉ để duy trì hay đạt được chỗ đứng trong cộng đồng khoa học của họ. Nếu các nhà khoa học có thể xem xét mọi bằng chứng với thái độ khách quan và chính trực, những nghiên cứu như vậy sẽ tiết lộ bộ mặt thật của lịch sử. Thực ra, các quan niệm mới sẽ tự nhiên được trân trọng khi được chấp nhận. Thuyết tiến hóa đã phải đối mặt với một tình huống tương tự khi nó lần đần tiên ra mắt công chúng; sự khác biệt duy nhất là nó được nghiên cứu sâu hơn sau này. Tuy nhiên, cơ sở cho nghiên cứu về thuyết tiến hóa có thể đã được thay đổi nếu không có những người giấu giếm và bài xích các trường hợp có thể bác bỏ thuyết tiến hóa. Những người này không xem xét mọi bằng chứng một cách khách quan; thay vào đó, họ cố ý lọc ra những bằng chứng mâu thuẫn với thuyết tiến hóa. Tuy nhiên, khi chúng ta khảo sát và so sánh nhiều phát hiện khảo cổ, chúng có thể chỉ ra sự hạn chế của các học thuyết hiện đại về sự phát triển của loài người. Nếu chúng ta có thể liên hệ những phát hiện khảo cổ này, bao gồm dấu chân người, di chỉ những sinh vật cổ, các nền văn minh tiền sử với tôn giáo và lịch sử, thì chúng có thể giúp chúng ta xây dựng một đường hướng khác về sự phát triển nhân loại.
Lấy ví dụ, trong kinh Phật, Phật Thích Ca Mâu Ni nói rằng Ông đã đắc Đạo từ hàng ức kiếp về trước, tức là những người tu luyện cổ đại cho rằng sự tồn tại của con người (hay ít nhất là những người tu Đạo) có lịch sử lên tới hàng trăm triệu năm. Tuyên bố này phù hợp với phát hiện về bọ ba thùy. Tất nhiên, kết luận này cần phải được nghiên cứu thêm, nhưng nó nhắc nhở chúng ta rằng nếu chúng ta sẵn sàng thay đổi các thái độ và quan niệm của mình, một con đường rộng lớn hơn sẽ mở ra trước mắt chúng ta, và nghiên cứu này là tuyệt đối đáng để bỏ thời gian và công sức! Nếu con người không tiến hóa từ vượn, nếu những di tích tiền sử có từ hàng chục triệu năm trước này đã thực sự đã được lưu lại bởi con người từ các chu kỳ khác nhau, thì những nghiên cứu của chúng ta về các phát hiện này có thể giúp chúng ta giải mã lịch sử về con người tiền sử đã phát triển như thế nào, đạt đỉnh điểm và đi tới hủy diệt ra sao. Điều này không chỉ giúp chúng ta hiểu thêm về chính mình, mà còn giúp đưa chúng ta tới một tương lai tươi sáng.
Dịch từ:
http://pureinsight.org/node/1660

Những thành phố tiền sử dưới đáy biển: Cần phải nghĩ lại về nguồn gốc nhân loại chúng ta

 
“Chúng nhận ra rằng những người đó đã chống lại và quyết định tiêu diệt chúng. Hàng ngàn con báo rời hang động và xé xác người đàn ông đã cầu khẩn con quỷ trợ giúp. Nhưng con quỷ vẫn không lay chuyển bởi những lời cầu xin của họ. Thấy thế, Inti, thần mặt trời đã khóc. Nước mắt của nàng chứa chan khiến trong 40 ngày thung lũng tràn ngập nước” – Huyền thoại của người Inca về Hồ Titicaca.
Hãy xem xét một giả thuyết nhân loại học thừa nhận khả năng trên Trái Đất đã từng tồn tại một nhân loại tiền sử có trình độ phát triển kỹ thuật cao cấp. Một vài bằng chứng khẳng định rằng những người tiền sử dường như đã sở hữu một nền khoa học kỹ thuật cao hơn rất nhiều so với tưởng tượng của chúng ta. Nhiều bằng chứng ủng hộ cho ý tưởng này là việc khám phá ra hàng tá những thành phố cổ đại nằm dưới đáy các đại dương khắp hành tinh.
Yogaguni1

Những trường hợp đáng ngạc nhiên như những cấu trúc kim tự tháp Yogaguni ở vùng bờ biển Nhật Bản, hay thành phố ngầm “Mega city” được khám phá một cách tình cờ ở vùng bờ biển Đông Bắc Cuba, tiếp tục khiến các nhà nghiên cứu liên hệ đến những điều từng một thời chỉ được xem như những thần thoại địa lý – những câu chuyện kể như về châu Atlantis, lục địa Mu, hay là vùng đất Thule. Việc cứ mỗi vài năm lại khám phá ra thêm một công trình ngầm dưới biển nào đó ủng hộ cho giả thuyết về đế chế tiền sử này.

Kiến trúc đô thị ở một thời đại không thể tin nổi

Một ví dụ điển hình của các tàn tích khảo cổ học mô tả ở trên được tìm thấy tại độ sâu 120 bộ dưới mực nước biển tại vịnh Cambay, thuộc vùng bờ biển Tây Ấn Độ. Thành phố khổng lồ này tình cờ được khám phá trong một cuộc điều tra nghiên cứu về vấn đề ô nhiễm môi trường, theo ước đoán có thể tồn tại từ cách đây khoảng 9.000 năm.

Dùng một máy dò siêu âm, các nhà điều tra nghiên cứu đã thành công trong việc nhận diện các cấu trúc hình học xác định tại độ sâu khoảng 120 bộ. Tại hiện trường, họ khám phá ra những vật liệu xây dựng, đồ gốm, các mảng tường, những bồn chứa, những tác phẩm điêu khắc, xương và răng người. Các giám định niên đại bằng phóng xạ Cacbon C14 chứng tỏ rằng những mẫu vật này khoảng 9.500 năm tuổi.
Trước khám phá đó, những nhà nhân loại học nghĩ rằng vùng này không tồn tại nền văn minh nào 2.500 Trước công nguyên trở về trước. Thành phố cổ đại này, vì thế, còn cổ hơn cả nền văn minh Harapa, một thời được tin rằng là nền văn minh cổ nhất tiểu lục địa Ấn Độ.
Một trường hợp đáng ngạc nhiên khác vào năm 1967, khi tàu ngầm Aluminaut một tàu ngầm nghiên cứu thăm dò có khả năng lặn sâu hơn bất kỳ tàu nào khác trong thời đó – ngẫu nhiên khám phá ra một “con đường” nằm dưới vùng bờ biển Florida, Georgia, và Nam Carolina. Tìm thấy tại độ sâu gần 3.000 bộ, con đường trải dài thẳng tắp đến hơn 15 dặm Anh.
Còn đáng ngạc nhiên hơn, con đường này được lát bằng một loại xi măng phức tạp tạo thành từ nhôm, silic, canxi, sắt, và manhê. Bất kể tuổi của nó, con đường được khám phá không có mảnh vỡ vụn nát bởi một dòng chảy ngầm đã giữ nó sạch sẽ.
Con đường bị quên lãng này vẫn chứng tỏ nó là một đại lộ quan trọng khi những chiếc bánh lái đặc biệt của tàu Aluminaut cho phép nó thực sự du hành dọc theo con đường cái bí ẩn này. Sau đó, các nhà khoa học đang thăm dò khu vực này đã khám phá ra một loạt những kiến trúc làm bằng đá nguyên khối tại một đầu của con đường. Công nghệ kỹ thuật nào có thể kiến tạo ra một con đường lát đá dài mà có thể giữ được tình trạng tốt qua 10.000 năm?
Một khám phá tương tự gần đây hơn xảy ra vào năm 2004, khi sóng thần đánh liên tục vào các bờ biển Đông Nam Á cũng làm bóc ra hàng tấn cát khỏi bờ biển Tamil Nadu, Ấn Độ. Cơn bão đã dọn sạch cát bụi bao phủ nhiều năm dẫn đến việc khám phá ra thành phố cổ bí ẩn của Mahabalipuram.
Theo như huyền thoại địa phương, thành phố Mahabalipuram đã gánh chịu một cơn lũ lớn, nhấn chìm nó trong vòng một ngày cách nay 1.000 năm, khi những vị Thần trở nên ghen tị vì vẻ đẹp của nó. Những dân cư địa phương kể lại chi tiết rằng 6 ngôi đền bị bao phủ bởi nước, nhưng ngôi đền thứ 7 vẫn còn nằm trên bờ biển. Một đội 25 thợ lặn từ Cơ quan nghiên cứu khảo cổ Ấn Độ (Archaeological Survey of India) đã thăm dò khu vực bao quanh bao phủ bởi những cấu trúc nhân tạo, nằm tại độ sâu khoảng từ 15 đến 25 bộ dưới mặt nước biển.
Quy mô của những đống đổ nát ngầm dưới đáy biển bao phủ vài dặm vuông, cách bờ biển khoảng 1 dặm. Những đánh giá thủ cựu về niên đại của những kiến trúc này là khoảng từ 1.500 đến 1.200 năm tuổi, mặc dù một số nhà nghiên cứu cho rằng chúng có thể lên đến 6.000 tuổi.
Các cấu trúc kim tự tháp Yonaguni
Được đánh giá bởi một số nhà khoa học là khám phá khảo cổ học của thế kỷ, các cấu trúc tình cờ được phát hiện ở vùng bờ biển Nhật Bản cho thấy kiến trúc cổ trong dạng thức những cây cột trụ, những hình lục giác, những cầu thang, những đại lộ, những hành lang cuốn, và ngay cả một kim tự tháp có bậc thang.
Trong khi hầu hết những kẻ bảo thủ cho rằng các cấu trúc Yonaguni là sản phẩm của hoạt động địa chất lớn của khu vực, những góc xác định của những tảng đá và sự sắp xếp của chúng trong mối liên hệ lẫn nhau cho thấy địa điểm này có thể là di tích của một thành phố đã bị ngập chìm.
Bằng chứng ủng hộ lập trường này bao gồm cấu tạo hóa học của những tảng đá phấn (không tồn tại một cách tự nhiên trong khu vực), 2 lỗ cửa sâu khoảng 6,5 bộ sát ngay các cấu trúc này – mà không nhà khảo cổ học nào dám phân loại chúng như là một kiến tạo tự nhiên. Toàn thể thành phố ngầm của Yonaguni được ước tính bởi một số chuyên gia ít nhất khoảng 10.000 năm tuổi.
Khảo cố học đại dương chỉ mới trở thành một ngành học thuật khả dĩ trong vòng 50 năm trở lại đây với sự xuất hiện của thiết bị lặn dùng khí ép. Theo nhà khảo cổ học đại dương Tiến sĩ Nick Flemming, ít nhất 500 địa điểm nằm ngầm dưới mặt nước biển là những phần còn lại của một vài dạng cấu trúc hay đồ tạo tác nhân tạo đã được tìm thấy khắp thế giới. Một vài tính toán cho thấy gần 1/5 những địa điểm này là nhiều hơn 3.000 năm tuổi.
Tất nhiên, một số địa điểm đã bị cuốn sạch bởi các trận lụt, nhưng những địa điểm khác có thể được tìm thấy tại đáy biển thông qua các dịch chuyển kiến tạo địa chất. Bởi nhiều nơi trong số này lúc ban đầu được xây dựng trên những vùng đất khô ráo vững chắc, Trái Đất về mặt địa lý có thể khác hẳn so với những gì chúng ta biết hiện nay.
Hơn nữa, những con người này có thể đến từ một kỷ nguyên nào đó xa xôi hơn nhiều so với những gì chúng ta hiểu vào buổi đầu của nền văn minh nhân loại.
Nếu thế, có phải nền văn minh đương đại của chúng ta là loài người vĩ đại nhất đã từng được biết đến, hay chỉ là một đỉnh cao nhỏ bé trong nhiều đỉnh cao của cuộc tuần hoàn trải dài vào trong quá khứ xa xăm? Câu trả lời có thể được tìm thấy tại đáy của các đại dương.
(Theo The Epoch Times)

Vén bức màn văn minh tiền sử: (Phần 4) Hoạt động hàng không của người tiền sử

 
Tác giả: Ban biên tập Chánh Kiến

I-3 Hoạt động hàng không của người tiền sử:
[Chanhkien.org]
Con người ngày nay nghĩ rằng một người Ý tên là Galileo đã phát minh ra chiếc kính viễn vọng đầu tiên có thể hoạt động được từ khoảng ba trăm năm trước, dựa trên các phiên bản thế kỷ 16, được sản xuất bởi những người sản xuất thấu kính Hà Lan, từ đó đặt nền móng cho các hoạt động thiên văn học hiện đại. Những thấu kính thô sơ từ sớm hơn nhiều đã được tìm thấy tại đảo Crete và vùng Tiểu Á, có niên đại từ năm 2.000 TCN. Những thấu kính hình bầu dục rất tốt, có niên đại tới 1.000 năm tuổi đã được tìm thấy tại một địa điểm của người Viking trên đảo Gotland, có thể chúng được làm bởi những thợ thủ công Byzantine hoặc Đông Âu. Các nhà văn La Mã, Pliny và Seneca đã đề cập tới các thấu kính được sử dụng bởi những thợ chạm khắc. Câu hỏi thực tế là tại sao, từ khi thấu kính được sử dụng thường xuyên để nhóm lửa, phóng to vật thể nhỏ, thậm chí dùng cho kính đeo mắt, và loài người quan tâm đến quan sát các hiện tượng thiên văn hoặc ngắm nhìn bầu trời, thật lâu dài như vậy để tạo ra một kính thiên văn có thể dùng được. Một phát hiện khảo cổ đã cung cấp bằng chứng để tin rằng có lẽ người Châu Âu không phải là những người đầu tiên sản xuất chúng. Viện bảo tàng ICA ở Peru có một tảng đá khắc hình người với niên đại ít nhất 500 năm trước. Điều đáng chú ý của hòn đá khắc đó là hình mô tả một người đang khảo sát bầu trời với một ống kính thiên văn trong tay. Ngoài ra, còn có một thiên thể trong hình khắc, có thể là một ngôi sao chổi với cái đuôi của nó, thứ mà có vẻ như người đàn ông đang quan sát. Một khám phá độc nhất như vậy đã làm lung lay niềm tin hiện đương đại rằng người Châu Âu đã phát minh ra kính viễn vọng vào thế kỷ 16.
Một tảng đá ở Viện bảo tàng tư nhân của Tiến sĩ Javier Cabrera tại Peru với hình khắc, trong đó một người đàn ông quan sát bầu trời với một kính thiên văn, thứ thường được tin là được phát minh bởi những nhà sản xuất kính đeo mắt Hà Lan. (Ảnh tặng của labyrinthina.com)
Tiến sĩ Javier Cabrera ở Peru đã thu thập nhiều loại đá khắc như vậy. Ngoài thiên văn học, những đề tài của các bức tranh trên đá của ông bao gồm cấy ghép nội tạng, truyền máu, và săn khủng long, trong số nhiều thứ khác. Rất khó khăn để xác định tuổi của những miếng đá này. Một cuốn lịch sử niên đại của Tây Ban Nha từng đề cập rằng những miếng đá như vậy đã được tìm thấy trong các ngôi mộ cổ của Đế chế Inca. Từ đó, người ta suy luận rằng những tảng đá chứa thông tin thiên văn học có ít nhất 500 năm tuổi. Nói một cách lô-gíc, những tảng đá miêu tả các sinh vật như loài khủng long có thể là cổ hơn rất nhiều so với niềm tin ban đầu.
Nếu thực sự đó là một kính thiên văn đã được khắc trên tảng đá tại Viện bảo tàng ICA, và các thiết bị đó đã được phổ biến trên toàn cầu, thì điều này có thể giúp các nhà khoa học để hiểu lý do tại sao Dogon, một bộ lạc ở châu Phi, đã phát triển những kiến thức thiên văn học tiên tiến như vậy. Bộ lạc Dogon sống ở khúc quanh lớn của sông Niger tại miền nam Mali, miền tây Châu Phi. Họ sống một cuộc sống chủ yếu là nông thôn và du mục. Không có ngôn ngữ viết, họ truyền đạt kiến thức bằng miệng từ thế hệ này sang thế hệ khác. Trong học thuyết tôn giáo của họ, mà đã được truyền lại trong hơn 400 năm, các nhà thiên văn học đã gọi một ngôi sao là Sirius B, một ngôi sao đồng hành của Sirius, đã được mô tả chính xác. Điều này làm ngạc nhiên những nhà thiên văn học hiện đại.
Sirius B là rất mờ nhạt và vô hình trước mắt của con người. Dựa trên các quan sát ghi lại được bằng cách sử dụng thiết bị hiện đại, các nhà thiên văn đã phát hiện ra Sirius B trong thế kỷ 19. Những người Dogon được cho là đã không hề sở hữu bất kỳ thiết bị công nghệ hiện đại nào, nhưng từ thế hệ này qua thế hệ khác, họ đã truyền lại những truyền thuyết về Sirius, trong đó bao gồm việc đề cập đến hệ thống Sirius gồm hai ngôi sao. Theo truyền thuyết, ngôi sao nhỏ là rất nặng, và nó quay quanh ngôi sao Sirius theo một quỹ đạo hình elip. Một số người cao tuổi Dogon có thể vẽ quỹ đạo của hai ngôi sao trên mặt đất, và chúng khá tương tự như kết quả tính toán của các nhà thiên văn học hiện đại. Ví dụ này có thể chỉ ra rằng những người Dogon cổ đại đã giữ lại kiến thức của thiên văn học từ rất lâu.
Các mẫu chạm khắc đá ở Peru, giống như các kiến thức thiên văn của người Dogon, hé lộ về kiến thức và kỹ thuật huyền bí mà các nền văn minh trước đây sở hữu. Khoa học hiện đại chỉ có thể khám phá lại kiến thức thu được từ trước đó. Hãy nhìn vào một vài phương thức bay mà người cổ đại đã biết.
Sử dụng máy bay
Các sách Trung Quốc cổ đại ghi lại rằng trong thời Xuân Thu (770-475 TCN), Lỗ Ban đã tạo ra máy bay. Điều này dẫn đến việc Lỗ Ban được công nhận là cha đẻ của tất cả các nghề thủ công. Cuốn Mozi·Luwen viết: “Lỗ Ban cắt tre và gỗ, và làm một con chim bằng gỗ. Nó ở lại trên bầu trời trong vòng ba ngày.” Lỗ Ban cũng đã làm một chiếc diều gỗ lớn để do thám quân địch trong một cuộc chiến tranh. Cuốn Hongshu viết: “Lỗ Ban đã làm một chiếc diều gỗ để do thám các thành phố ở nước Tống.” Bên cạnh đó, Lỗ Ban đã làm một chiếc máy bay chở khách. Theo cuốn Youyang Zazu [Một bộ sưu tập các bài viết từ Youyang] trong thời nhà Đường, Lỗ Ban có một lần làm việc ở một nơi rất xa quê mình. Ông nhớ vợ mình rất nhiều, vì vậy ông đã làm một con chim bằng gỗ. Sau khi được thiết kế lại nhiều lần, chiếc diều làm bằng gỗ đã có thể bay được. Lỗ Ban trở về nhà bằng chiếc diều để gặp vợ và trở lại làm việc vào ngày hôm sau.
Cũng có một ví dụ thú vị ở phương Tây liên quan đến một con chim bằng gỗ. Năm 1898, nhà khảo cổ Pháp Lauret đã đào được một con chim bằng gỗ từ một ngôi mộ cổ Ai Cập ở Saqqara. Nó có niên đại khoảng năm 200 TCN. Bởi vì người dân không có khái niệm ‘bay’ vào thời gian đó, nó đã được gọi là “chim gỗ” và bị bỏ mặc hơn 70 năm trong một Viện bảo tàng ở Cairo. Vào năm 1969, Messiha Khalil, một bác sỹ Ai Cập, người thích làm những mô hình, đã tình cờ thấy được nó. Con chim gỗ này gợi nhớ cho Messiha về những kinh nghiệm ban đầu khi làm các mô hình máy bay của ông. Ông nghĩ rằng nó là không hẳn là một con chim, vì nó không có móng vuốt, không có lông, và không có lông đuôi ngang. Đáng ngạc nhiên, đuôi của nó là thẳng đứng, và nó có phần cánh ngang, đủ điều kiện để nó là một mô hình máy bay. Ông đã làm một bản sao. Mặc dù ông không biết làm thế nào người Ai Cập cổ đại làm cho nó bay, khi ông thử ném các mô hình, ông thấy nó có thể lướt nhẹ. Các thí nghiệm khác cho thấy nó không chỉ có thể lướt nhẹ, mà còn có thể bay như chiếc tàu lượn.
“Chim gỗ” được tìm thấy trong ngôi mộ cổ Ai Cập, hiện đang được trưng bày ở Viện bảo tàng Cairo (Ảnh: Dawoud Khalil Messiha)
Sau đó, các nhà khoa học đã khám phá ra rằng mô hình này rất giống với tàu lượn hiện đại, thứ có thể tùy ý bay trong không khí. Với một động cơ nhỏ, chúng có thể bay ở tốc độ 45-65 dặm/giờ (hoặc 72-105 km/giờ), và thậm chí có thể mang lượng đáng kể hàng hóa. Bởi vì những thợ thủ công Ai Cập cổ đại thường làm các mô hình trước khi xây dựng những đối tượng thực tế, có thể là loại chim bằng gỗ đã từng được sử dụng để vận chuyển, giống như chiếc diều gỗ mà Lỗ Ban đã làm.
Những nghiên cứu hiện đại về máy bay bắt đầu khoảng 200 năm trước. Năm 1903, sau khi anh em nhà Wright hoàn thành chuyến bay có người lái đầu tiên, các lý thuyết hàng không bắt đầu được xây dựng. Tuy nhiên, Lỗ Ban và người Ai Cập cổ đại dường như đã biết cách sử dụng các lý thuyết như vậy từ một thời gian rất lâu trước đây. Điều này đưa ra lý do để xem xét lại lịch sử phát triển văn hoá mà con người hiện đại bây giờ tin vào. Có thể là người cổ đại đã biết nhiều điều hơn người so với người hiện đại tưởng.
Chiếm lĩnh bầu trời
Một khám phá khác thậm chí còn đáng kinh ngạc hơn. Nó chỉ ra rằng lãnh thổ của người xưa có thể đã vượt quá bầu trời, và có thể có ngay cả vươn đến không gian bên ngoài.
Năm 1959, Hoa Kỳ đã nhận được thành công hình ảnh đầu tiên của Trái đất từ một vệ tinh nhân tạo đặt ngoài không gian. Nó không hoàn hảo, nhưng đây là lần đầu tiên con người quan sát Trái đất mà chúng ta sống từ khoảng cách rộng lớn [17.000 dặm]. Kể từ đó, có rất nhiều nghiên cứu khoa học liên quan đến kỹ thuật chụp ảnh bằng vệ tinh. Trong số đó, một bức ảnh địa lý thật sự đáng ngạc nhiên.
Các nhà khoa học đã cài đặt một máy ảnh trên tàu không gian, và nó có thể chụp ảnh thành phố Cairo từ ngoài không gian. Những bức ảnh chụp được cho thấy các cảnh tượng đáng kinh ngạc. Vì ống kính của máy ảnh tập trung vào Cairo, tất cả mọi thứ trong một khu vực lấy trung tâm là Cairo với đường kính 5.000 dặm được trông thấy rất rõ ràng. Tuy nhiên, những thứ bên ngoài 5.000 dặm trở nên mờ đi. Điều này là do Trái đất là hình cầu, các lục địa và vùng đồng bằng bắt đầu mờ và bị bẻ cong khi cách xa trung tâm. Ví dụ, lục địa Nam Mỹ bị dài ra ở trong hình. Các nguyên tắc tương tự cũng áp dụng cho hình ảnh được chụp bởi các phi hành gia từ Mặt trăng. Tuy nhiên, khi các nhà khoa học so sánh các hình ảnh vệ tinh với một bản đồ Thổ Nhĩ Kỳ cổ đại, họ ngạc nhiên khi thấy sự tương đồng rõ rệt. Các dãy núi trên Nam Cực bị bao phủ bởi băng và tuyết trong hàng trăm năm, và không được vẽ lên bản đồ cho đến năm 1952 bởi các nhà khoa học sử dụng máy dò bằng âm thanh. Tuy nhiên, chúng xuất hiện trên một bản đồ cổ thuộc Đô đốc Piri Reis, một tư lệnh Hải quân Thổ Nhĩ Kỳ. Ngoài ra, các bản đồ chính xác ghi lại các chu tuyến, kinh độ và vĩ độ cho cả lục địa Châu Mỹ và Châu Phi. Trớ trêu thay, tấm bản đồ này đã được làm vào thế kỷ 16 dựa trên các tấm bản đồ còn cổ xưa hơn.
Một tấm bản đồ thế kỷ 16 của Đô đốc Piri Reis, chỉ huy hải quân Thổ Nhĩ Kỳ. Ông đã ghép nhiều tấm bản đồ cổ với nhau. Nó rất giống với hình ảnh vệ tinh hiện đại.
Bản đồ mô phỏng được đặt tâm điểm tại Cairo. (Ảnh tặng của Adventures Unlimited Press)
Khám phá kinh ngạc này đã khiến nhiều nhà khoa học bị sốc. Sau những nghiên cứu bổ sung, họ đã đưa ra các kết luận sau đây: 1) Tấm bản đồ này được tạo thành bằng cách ghép 6 bản đồ cổ vào với nhau. 2) Tất cả bản đồ cổ đại đã sử dụng cùng một kỹ thuật đòi hỏi kiến thức về hình học phẳng. 3) Những tấm bản đồ cổ được đặt tâm điểm tại Cairo. Khá là rõ ràng là các tấm bản đồ của Đô đốc Piri Reis đòi hỏi công nghệ tiên tiến giống như ngày nay. Tuy nhiên, trước thế kỷ 16, loài người chỉ có thể làm chủ được các kỹ thuật định vị theo thiên văn, và bầu trời rõ ràng nằm ngoài khả năng của họ. Người cổ đại đã sử dụng công nghệ gì để làm ra các tấm bản đồ chính xác như vậy? Có thể họ đã từng đã bay trên bầu trời?
Dịch từ:
http://www.zhengjian.org/zj/articles/2003/3/20/20904.html
http://pureinsight.org/node/1569

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét