ĐÂU LÀ BIA MIỆNG? 5
-Trăm năm bia đá thì mòn
Ngàn năm bia miệng hãy còn trơ trơ!
-Nhưng mấy ai thoát được sự cám dỗ của danh lợi - quyền lực?
-Và mù quáng về nhận thức mà khuếch trương quyền lực là đáng sợ nhất!
---------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
Nguyễn Văn Linh (1 tháng 7 năm 1915 – 27 tháng 4 năm 1998) là Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam từ 1986 đến 1991. Thời kỳ là Tổng Bí thư, ông nổi tiếng với bút danh N.V.L. (sau này ông cho biết đó là "Nói Và Làm") với một loạt những bài báo trong chuyên mục Những việc cần làm ngay trên báo Nhân Dân
bàn về những việc cần phải chấn chỉnh trong xã hội. Ông được xem là
người mở đường và có công lớn trong công cuộc đổi mới nền kinh tế Việt
Nam[cần dẫn nguồn].
Năm 1929, tham gia học sinh đoàn do Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên lãnh đạo.
Ngày 1 tháng 5 năm 1930, Nguyễn Văn Linh bị thực dân Pháp bắt, do tuyên truyền chống lại Pháp. Ông bị kết án tù chung thân và đày đi Côn Đảo. Năm 1936, Mặt trận Bình dân Pháp lên nắm quyền ông được trả tự do.
Năm 1936, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương, hoạt động ở Hải Phòng. Tháng 4/1937, hội nghị thành lập Tỉnh ủy Hải Phòng gồm Nguyễn Văn Túc (Nguyễn Công Hòa), Đinh Văn Nhạ (tức Trần Quý Kiên), Nguyễn Văn Cúc (Nguyễn Văn Linh), Nguyễn Văn Vượng, Tư Thành, Hoàng Văn Trành, ... do Nguyễn Văn Túc làm Bí thư. Ban Tỉnh ủy mới vừa phát triển, củng cố tổ chức vừa phát động công nhân, lao động đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ làm đà cho cao trào Mặt trận Dân chủ (1936-1939). Sau đó ông chuyển lên hoạt động ở Hà Nội.
Năm 1939, ông tham gia Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Sài Gòn, sau đó được Đảng điều ra Trung Kỳ để lập lại Xứ ủy Trung kỳ.
Năm 1941, ông bị bắt ở Vinh, bị kết án 5 năm tù và bị đày ra Côn Đảo lần thứ hai.
Đến năm 1945, ông hoạt động ở miền Tây Nam Bộ, sau đó ở Sài Gòn - Chợ Lớn với cương vị Bí thư Thành ủy, Bí thư Đặc khu ủy Sài Gòn - Gia Định.
Năm 1947, Nguyễn Văn Linh là Ủy viên Xứ ủy Nam Bộ, đến 1949 là Thường vụ Xứ ủy Nam Bộ.
Từ 1955 tới 1960, ông là Bí thư Đặc khu ủy Sài Gòn-Gia Định.
Từ 1957 đến 1960, ông là Quyền Bí thư Xứ ủy Nam Bộ.
Năm 1960, tại Đại hội Đảng lần thứ III ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, làm Bí thư (1961 - 1964), rồi Phó Bí thư Trung ương Cục miền Nam. Ông có những đóng góp không nhỏ đối với chiến thắng của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong cuộc chiến tranh Việt Nam.
Năm 1976, khi Thành phố Sài Gòn đổi tên làm Thành phố Hồ Chí Minh, ông được cử làm Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh.
Tháng 12 năm 1976, tại Đại hội Đảng lần thứ IV ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương, giữ chức Trưởng ban Cải tạo Xã hội Chủ nghĩa của Trung ương, Trưởng ban Dân vận Mặt trận Trung ương, Chủ tịch Tổng Công đoàn Việt Nam đến 1980.
Trước Đại hội Đảng lần thứ V, Nguyễn Văn Linh xin rút ra khỏi Bộ Chính trị, trở lại làm Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (1981), thay ông Võ Văn Kiệt ra trung ương. Về sau, ông giải thích với ông Võ Trần Chí người sẽ giữ cương vị Bí thư Thành ủy: "Bởi vì mình thấy các anh ấy không muốn mình ở đó nên mình xin rút...". Ông trở thành một nhân vật quan trọng trong lịch sử của thành phố này.
Tháng 6 năm 1986, sau khi Lê Duẩn mất, Trường Chinh làm quyền Tổng bí thư, ông được bầu vào Ban Bí thư Trung ương Đảng, Thường trực Ban Bí thư. Gần cuối nhiệm kỳ V, ông được bầu bổ sung vào Bộ Chính trị.
Tháng 12 năm 1986, tại Đại hội Đảng lần thứ VI, Nguyễn Văn Linh được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương, Ủy viên Bộ Chính trị, giữ chức Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng, kiêm chức Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương (1987). Từ đây bắt đầu thời kỳ Đổi Mới và Cởi Mở của Việt Nam. Tuy nhiên sau khi sự kiện bức tường Bá Linh qua đi, đồng minh thân cận của Việt Nam như lãnh đạo Rumani Ceaucescu bị hạ bệ, các nhân vật bảo thủ trong đảng đã tìm cách bóp nghẹt tiến trình này.
Sau một nhiệm kỳ Tổng Bí thư (1986-1991), ông cương quyết rút lui không ra ứng cử trong nhiệm kỳ tiếp theo, dù nhiều người muốn ông làm thành viên của Ban Chấp hành Trung ương khóa VII sau khi Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI kết thúc vào năm 1991. Ông nói "dù không còn ở trong Trung ương nữa, nhưng với trách nhiệm là người đảng viên, tôi xin cố gắng cống hiến sự hiểu biết và kinh nghiệm nhỏ bé của mình cho cách mạng, cho Đảng cho đến hơi thở cuối cùng". Tại các Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (tháng 6 năm 1991) và lần thứ VIII (tháng 6 năm 1996), ông được cử làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương.
Ông là đại biểu Quốc hội khóa VIII.
Ông qua đời ngày 27 tháng 4 năm 1998, hưởng thọ 83 tuổi.
Cuối tháng 5 năm 1987, trên trang nhất báo Nhân Dân xuất hiện một bút danh mới N.V.L với mục Nói và Làm. Ông viết một loạt bài "Những việc phải làm ngay", ký tên NVL. Theo lời kể của nhà báo Hữu Thọ:
Từ năm 1986 đến 1991 trong nhiệm kỳ làm Tổng Bí thư, Nguyễn Văn Linh
đã góp phần có ý nghĩa quyết định làm xoay chuyển tình thế, mở đường cho
sự nghiệp đổi mới tiến lên. Nhằm khắc phục những bất cập, lạc hậu của
cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp của Việt Nam, ông đã đưa ra những ý
tưởng mới, quan niệm mới, cách làm mới. Kiên quyết làm gương về chống
tác phong quan liêu, xa dân, từ bỏ những đặc quyền đặc lợi, ông đã bỏ
chế độ lãnh đạo cấp cao đi máy bay chuyên cơ trong nước, đi công tác
bằng xe Lada không có máy điều hoà (tiêu chuẩn dùng cho cấp Thứ trưởng);
vào Nam ra Bắc đi máy bay chung với mọi người; cắt giảm chế độ bảo vệ
an ninh,...
Một nhà tưởng niệm ông được xây dựng tại quê hương.
Minh Diện (Blog Bùi Văn Bồng) – Ông Võ Trần Chí, nguyên Bí thư Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh, nói Nguyễn Văn Linh là người “Lội ngược dòng lịch sử!”. Ông Nguyễn Văn Linh cho rằng bản thân mình từng “Lên bờ xuống ruộng!”. Nguyễn Văn Linh còn là người “bước lỡ nhịp” và tên tuổi ông được gắn với một khái niệm đầy tai tiếng là “Giải pháp đỏ”.
Ngàn năm bia miệng hãy còn trơ trơ!
-Nhưng mấy ai thoát được sự cám dỗ của danh lợi - quyền lực?
-Và mù quáng về nhận thức mà khuếch trương quyền lực là đáng sợ nhất!
---------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
Nguyễn Văn Linh
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nguyễn Văn Linh | |
---|---|
Chức vụ
|
|
Nhiệm kỳ | Tháng 12 năm 1986 – Tháng 6 năm 1991 |
Tiền nhiệm | Trường Chinh |
Kế nhiệm | Đỗ Mười |
Chủ tịch Tổng Công đoàn Việt Nam
|
|
Nhiệm kỳ | Tháng 12 năm 1976 – Tháng 8 năm 1980 |
Tiền nhiệm | Hoàng Quốc Việt |
Kế nhiệm | Nguyễn Đức Thuận |
Nhiệm kỳ | 1975 – 1976 |
Tiền nhiệm | không |
Kế nhiệm | Võ Văn Kiệt |
Tiền nhiệm | Võ Văn Kiệt |
Kế nhiệm | Mai Chí Thọ |
Thông tin chung
|
|
Đảng phái | Đảng Cộng sản Việt Nam |
Sinh | ngày 1 tháng 7 năm 1915 Hà Nội, Việt Nam |
Mất | 27 tháng 4, 1998 (82 tuổi) TP. Hồ Chí Minh, Việt Nam |
Vợ | Ngô Thị Huệ |
Hoạt động và sự nghiệp
Nguyễn Văn Linh tên thật là Nguyễn Văn Cúc, còn gọi là Mười Cúc, sinh tại Thôn Yên Phú, xã Giai Phạm, huyện Yên Mỹ, Tỉnh Hưng Yên. Ông xuất thân trong một gia đình công chức.Năm 1929, tham gia học sinh đoàn do Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên lãnh đạo.
Ngày 1 tháng 5 năm 1930, Nguyễn Văn Linh bị thực dân Pháp bắt, do tuyên truyền chống lại Pháp. Ông bị kết án tù chung thân và đày đi Côn Đảo. Năm 1936, Mặt trận Bình dân Pháp lên nắm quyền ông được trả tự do.
Năm 1936, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương, hoạt động ở Hải Phòng. Tháng 4/1937, hội nghị thành lập Tỉnh ủy Hải Phòng gồm Nguyễn Văn Túc (Nguyễn Công Hòa), Đinh Văn Nhạ (tức Trần Quý Kiên), Nguyễn Văn Cúc (Nguyễn Văn Linh), Nguyễn Văn Vượng, Tư Thành, Hoàng Văn Trành, ... do Nguyễn Văn Túc làm Bí thư. Ban Tỉnh ủy mới vừa phát triển, củng cố tổ chức vừa phát động công nhân, lao động đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ làm đà cho cao trào Mặt trận Dân chủ (1936-1939). Sau đó ông chuyển lên hoạt động ở Hà Nội.
Hoạt động tại miền nam
Sau đó, ông vào hoạt động tại Sài Gòn và là cấp dưới trực tiếp của Bí thư Sài Gòn thời kì này - bà Nguyễn Thị Minh Khai.Năm 1939, ông tham gia Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Sài Gòn, sau đó được Đảng điều ra Trung Kỳ để lập lại Xứ ủy Trung kỳ.
Năm 1941, ông bị bắt ở Vinh, bị kết án 5 năm tù và bị đày ra Côn Đảo lần thứ hai.
Đến năm 1945, ông hoạt động ở miền Tây Nam Bộ, sau đó ở Sài Gòn - Chợ Lớn với cương vị Bí thư Thành ủy, Bí thư Đặc khu ủy Sài Gòn - Gia Định.
Năm 1947, Nguyễn Văn Linh là Ủy viên Xứ ủy Nam Bộ, đến 1949 là Thường vụ Xứ ủy Nam Bộ.
Từ 1955 tới 1960, ông là Bí thư Đặc khu ủy Sài Gòn-Gia Định.
Từ 1957 đến 1960, ông là Quyền Bí thư Xứ ủy Nam Bộ.
Năm 1960, tại Đại hội Đảng lần thứ III ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, làm Bí thư (1961 - 1964), rồi Phó Bí thư Trung ương Cục miền Nam. Ông có những đóng góp không nhỏ đối với chiến thắng của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong cuộc chiến tranh Việt Nam.
Năm 1976, khi Thành phố Sài Gòn đổi tên làm Thành phố Hồ Chí Minh, ông được cử làm Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh.
Tháng 12 năm 1976, tại Đại hội Đảng lần thứ IV ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương, giữ chức Trưởng ban Cải tạo Xã hội Chủ nghĩa của Trung ương, Trưởng ban Dân vận Mặt trận Trung ương, Chủ tịch Tổng Công đoàn Việt Nam đến 1980.
Trước Đại hội Đảng lần thứ V, Nguyễn Văn Linh xin rút ra khỏi Bộ Chính trị, trở lại làm Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (1981), thay ông Võ Văn Kiệt ra trung ương. Về sau, ông giải thích với ông Võ Trần Chí người sẽ giữ cương vị Bí thư Thành ủy: "Bởi vì mình thấy các anh ấy không muốn mình ở đó nên mình xin rút...". Ông trở thành một nhân vật quan trọng trong lịch sử của thành phố này.
Tháng 6 năm 1986, sau khi Lê Duẩn mất, Trường Chinh làm quyền Tổng bí thư, ông được bầu vào Ban Bí thư Trung ương Đảng, Thường trực Ban Bí thư. Gần cuối nhiệm kỳ V, ông được bầu bổ sung vào Bộ Chính trị.
Tháng 12 năm 1986, tại Đại hội Đảng lần thứ VI, Nguyễn Văn Linh được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương, Ủy viên Bộ Chính trị, giữ chức Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng, kiêm chức Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương (1987). Từ đây bắt đầu thời kỳ Đổi Mới và Cởi Mở của Việt Nam. Tuy nhiên sau khi sự kiện bức tường Bá Linh qua đi, đồng minh thân cận của Việt Nam như lãnh đạo Rumani Ceaucescu bị hạ bệ, các nhân vật bảo thủ trong đảng đã tìm cách bóp nghẹt tiến trình này.
Sau một nhiệm kỳ Tổng Bí thư (1986-1991), ông cương quyết rút lui không ra ứng cử trong nhiệm kỳ tiếp theo, dù nhiều người muốn ông làm thành viên của Ban Chấp hành Trung ương khóa VII sau khi Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI kết thúc vào năm 1991. Ông nói "dù không còn ở trong Trung ương nữa, nhưng với trách nhiệm là người đảng viên, tôi xin cố gắng cống hiến sự hiểu biết và kinh nghiệm nhỏ bé của mình cho cách mạng, cho Đảng cho đến hơi thở cuối cùng". Tại các Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (tháng 6 năm 1991) và lần thứ VIII (tháng 6 năm 1996), ông được cử làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương.
Ông là đại biểu Quốc hội khóa VIII.
Ông qua đời ngày 27 tháng 4 năm 1998, hưởng thọ 83 tuổi.
Sự kiện
Từ 12 đến 19 tháng 7 năm 1983, lúc Lê Duẩn đi nghỉ ở Liên Xô cũ; ba vị lãnh đạo cấp cao của Việt Nam là Trường Chinh, Phạm Văn Đồng và Võ Chí Công đang nghỉ ở Đà Lạt, Nguyễn Văn Linh (lúc đó là Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh) đã tổ chức "Hội nghị Đà Lạt" - Ông và một số Giám đốc các cơ sở kinh doanh sản xuất làm ăn có lãi đã trực tiếp gặp gỡ các vị lãnh đạo cấp cao (từ ngày 12 đến ngày 16 tháng 7) để báo cáo tình hình sản xuất, kinh doanh và đề đạt nguyện vọng. Ngày 17 tháng 7, Nguyễn Văn Linh mời các vị lãnh đạo thăm cơ sở chế biến tơ tằm và xí nghiệp chè của Thành phố Hồ Chí Minh tại Bảo Lộc. Ngày 19 tháng 7, Nguyễn Văn Linh có buổi làm việc riêng với các vị lãnh đạo này, ông đã báo cáo tất cả tâm tư mà cá nhân mình đang nung nấu. "Hội nghị Đà Lạt" diễn ra trong thời gian vừa đúng một tuần lễ. Nội dung tư tưởng của các cuộc gặp trong sự kiện này đã được Nguyễn Văn Linh vận dụng vào việc chuẩn bị văn kiện Đại hội Đảng VI của Đảng Cộng sản Việt Nam - Khởi xướng công cuộc Đổi mới của Việt Nam.Chính sách
Vào giữa những năm 80 của thế kỷ 20, lúc còn là Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, Nguyễn Văn Linh đã tiến hành thí điểm những đổi thay trong cơ chế quản lý kinh tế ở một số doanh nghiệp nhà nước tại thành phố đông dân nhất Việt Nam. Đây là những bước đột phá đầu tiên mặc dù chưa hoàn thiện nhằm xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp tồn tại ở Việt Nam trong nhiều năm. Đây cũng là những đòi hỏi và đã giúp Đảng Cộng sản Việt Nam hoạch định đường lối, chính sách cho thời kỳ đổi mới.Cuối tháng 5 năm 1987, trên trang nhất báo Nhân Dân xuất hiện một bút danh mới N.V.L với mục Nói và Làm. Ông viết một loạt bài "Những việc phải làm ngay", ký tên NVL. Theo lời kể của nhà báo Hữu Thọ:
“ | Lúc đó tôi công tác ở báo Nhân Dân. Tối 24-5-1987 là phiên tôi trực ban biên tập. Vào khoảng 17 giờ 30, khi mọi người đã về, tòa soạn chỉ còn tôi và ban thư ký trực hôm đó thì đồng chí thường trực ở cổng 71 Hàng Trống đưa vào một phong thư nói là của một người đứng tuổi đi xe ôtô Lada màu sữa gửi ban biên tập. Tuy không đóng dấu hỏa tốc nhưng do phong bì của Văn phòng Trung ương nên tôi mở ngay. Trong phong bì có thư và một bài báo viết tay. Bức thư thì ký tên Nguyễn Văn Linh, nói rõ là gửi bài báo, nếu ban biên tập thấy được thì đăng. Còn bài báo có đầu đề "Những việc cần làm ngay", ký tên NVL. | ” |
—Hữu Thọ
|
Quan điểm
“ | Phải đấu tranh chống cái cũ, chống bảo thủ trì trệ, chống giáo điều rập khuôn, chống chủ quan nóng vội, chống tha hóa biến chất, chống những thói quen lỗi thời dai dẳng. Đây là cuộc đấu tranh cách mạng gian khổ diễn ra trên mọi lĩnh vực và trong bản thân từng người chúng ta. | ” |
—Bài diễn văn đọc trong phiên khai mạc Đại hội VI ngày 15 tháng 12 năm 1986
|
- Ông cho rằng "báo chí là diễn đàn của mọi tầng lớp nhân dân". Trong một bài đăng ngày 24 tháng 6 năm 1987, ông đề cập đến:
“ | Từ sau Đại hội IV Đảng, nhà nước phát động phong trào nói thẳng, nói thật, ai làm tốt thì khen, ai làm không tốt thì phê bình, sửa chữa. Văn kiện Đại hội VI đã yêu cầu đấu tranh chống các biểu hiện lạc hậu, trì trệ, biểu hiện tiêu cực khác và đưa công khai trên báo, đài hoặc qua các sinh hoạt của tổ chức Đảng và đoàn thể quần chúng những vụ cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ cấp cao mắc sai lầm nghiêm trọng về phẩm chất. Điều đó chỉ làm tăng thêm niềm tin của nhân dân đối với Đảng. | ” |
—NVL
|
- Về vấn đề Đổi mới:
“ | Đảng chủ trương đổi mới toàn diện, nhưng đổi mới phải có nguyên tắc, đúng định hướng XHCN với hình thức, bước đi và cách làm thích hợp, phát huy dân chủ, đồng thời giữ vững kỷ luật kỷ cương, không chấp nhận đa nguyên, đa đảng, kiên quyết chống tệ tham nhũng, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân. | ” |
Tác phẩm
- Thành phố Hồ Chí Minh mười năm
- Đổi mới tư duy và phong cách
- Về công tác quần chúng
- Đổi mới để tiến lên (4 tập)
- Theo con đường Bác Hồ đã chọn
- ...
Đánh giá
“ | Có thể nói Nguyễn Văn Linh đã có một vai trò sáng giá trong những năm đầu sau Đại hội Đảng lần thứ VI. | ” |
—Chuyên gia sử kinh tế Đặng Phong
|
“ | Hiếm có một nhà lãnh đạo nào đã trải qua những chặng đường như đồng chí đã trải qua: vào rồi lại ra, rồi lại được Trung ương bầu lại vào Bộ Chính trị. Dù lịch sử có những lúc phải đi qua những chặng đường gồ ghề, khúc khuỷu; phải trải qua những lựa chọn hết sức khó khăn, nhưng cuối cùng là một lựa chọn đúng đắn và sáng suốt của Đảng ta: Đồng chí Mười Cúc - Nguyễn Văn Linh được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ sáu năm 1986 bầu giữ chức Tổng Bí thư của Đảng. | ” |
“ | Trong cuộc đời mình, tôi chưa từng thấy vị lãnh đạo nào dám lội ngược dòng chính trị, ngược dòng lịch sử - lội ngược mà không chìm như anh Nguyễn Văn Linh... Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV, đang nằm trong Bộ Chính trị thì đến cuối nhiệm kỳ, anh Linh đã xin rút rồi được phân công trở về làm Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh vào đúng thời kỳ cam go nhất. Anh đã vực dậy kinh tế TP, trở lại tham gia Bộ Chính trị rồi trở thành Tổng Bí thư. Mọi biến động, thăng trầm trong cuộc đời làm cách mạng, làm chính trị đi ngang qua anh và anh đón nhận tất cả với một thái độ bình thản đến lạ lùng. | ” |
“ | "Cho dù không thể đưa một xã hội đã bắt đầu thức tỉnh quay trở lại vào lồng, ông Nguyễn Văn Linh đã bỏ lỡ cơ hội để được lịch sử đánh giá như một tổng bí thư đổi mới." (Huy Đức - Bên thắng cuộc II) | ” |
“ | Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh (nhiệm kỳ 1986-1991) là một trong những người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người chiến sĩ cộng sản kiên cường, nhà lãnh đạo có uy tín lớn của Đảng, Nhà nước và nhân dân, người bạn tin cậy của bạn bè quốc tế...Cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí Nguyễn Văn Linh thật phong phú và oanh liệt. Dù ở đâu, làm gì, ở cương vị nào, đồng chí cũng hết lòng vì Đảng, vì dân, vững vàng trước mọi khó khăn thử thách, kiên định mục tiêu lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH, hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ và có những đóng góp to lớn cho Đảng, cho cách mạng. | ” |
—Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng
|
Phong tặng và vinh danh
- Ông được tặng thưởng Huân chương Sao vàng và nhiều huân chương khác.
- Tên ông được đặt cho nhiều đường, phố và các trường học ở nhiều nơi tại Việt Nam.
Một nhà tưởng niệm ông được xây dựng tại quê hương.
Gia đình
Phu nhân là bà Ngô Thị Huệ (sinh 1918, kết nạp Đảng năm 1936, hiện là Phó Chủ tịch Hội Bảo trợ bệnh nhân nghèo Thành phố Hồ Chí Minh. Trước đó là Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I đến khóa IV, nguyên Phó Bí thư Tỉnh ủy Tỉnh Vĩnh Long, nguyên Ủy viên Ban Thường vụ Thành ủy Sài Gòn, nguyên Vụ trưởng Vụ Cán bộ trực thuộc Ban Tổ chức TW Đảng Cộng sản Việt Nam). Hai ông bà có con gái đầu lòng tên Nguyễn Thi Hòa năm 1953, con gái thứ Nguyễn Thị Bình năm 1954 và con trai Nguyễn Hùng Linh (hay Nguyễn Văn Linh) khoảng năm 1957. Tên Nguyễn Văn Linh thực chất là bí danh, và được đặt theo tên người con trai út của ôngHậu họa “Giải Pháp Đỏ” của Nguyễn Văn Linh
Minh Diện (Blog Bùi Văn Bồng) – Ông Võ Trần Chí, nguyên Bí thư Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh, nói Nguyễn Văn Linh là người “Lội ngược dòng lịch sử!”. Ông Nguyễn Văn Linh cho rằng bản thân mình từng “Lên bờ xuống ruộng!”. Nguyễn Văn Linh còn là người “bước lỡ nhịp” và tên tuổi ông được gắn với một khái niệm đầy tai tiếng là “Giải pháp đỏ”.
Trong tiểu sử Nguyễn Văn Linh, ghi tên
thật của ông là Nguyễn Văn Cúc (Mười Cúc), sinh ngày 1-7-1915, tại xã
Giai Phạm, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên. Ngày 1-5-1930, ông bị thực dân
Pháp kết án tù chung thân, đày ra Côn Đảo.
Hình như có sự nhầm lẫn năm sinh, hoặc
năm ông bị bắt đi tù, bởi điều luật của nước Pháp không xử tù tuổi vị
thành niên. Ví dụ ông Nguyễn Hữu Đang, sinh năm 1913, hoạt động trong tổ
chức Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội, bị bắt 1930, năm 1931,
khi ra tòa đã 17 tuổi, vẫn được tha bổng vì còn vị thành niên. Nguyễn
Văn Linh khi ra tòa mới 14 tuổi 10 tháng, mà bị xử tù chung thân thì vô
lý?
Trong tiểu sử của Nguyễn Văn Linh, không
ghi ông học ở trường nào, trình độ văn hóa ra sao, hầu như cả cuộc đời
ông dấn thân hoạt động cách mạng, vào tù ra tội, gắn bó với phong trào
quần chúng, ở những nơi ác liệt.
Nguyễn Văn Linh
Từ năm 1957 đến năm 1960, Nguyễn Văn
Linh đã từng làm Bí thư đặc khu ủy Sài Gòn – Gia Định. Năm 1960, tại Đại
hội Đảng lần thứ III, ông được bầu vào Ban chấp hành Trung ương, làm Bí
thư (1961-1964), rồi Phó Bí thư Trung ương Cục miền Nam. Hình như từ
những năm tháng đó, Nguyễn Văn Linh đã “lên bờ xuống ruộng” rồi.
Ngày 10-4-1975, tại Trung ương cục miền
Nam, Lê Đức Thọ, từ Hà Nội vào công bố quyết định thành lập Bộ tư lệnh
chiến dịch Hồ Chí Minh, trao quyết định Bí thư đặc khu Sài Gòn-Gia Định
cho Võ Văn Kiệt, Lê Đức Thọ làm Phó bí thư. Nguyễn Văn Linh không còn là
Phó bí thư nữa, mà chỉ phụ trách mảng phong trào nổi dậy.
Cũng như các lần thay đổi trước, tổ chức
không nêu ra lý do, và Nguyễn Văn Linh cũng không băn khoăn, ông chấp
hành sự phân công một cách bình thản. Ông Võ Văn Kiệt và Võ Trần Chí cho
rằng, đó là một trong những phẩm chất đặc biệt của Nguyễn Văn Linh.
Năm 1976, Nguyễn Văn Linh lại được làm
Bí thư Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh, Võ Văn Kiệt làm Phó bí thư, kiêm
Chủ tịch Ủy ban nhận dân thành phố. Chưa đầy một năm, ngày 20-12-1976,
tại Đại hội đảng Toàn quốc lần thứ IV, Nguyễn Văn Linh được bầu tiếp vào
Ủy viên Trung ương đảng, Ủy viên Bộ chính trị, và Ban bí thư Trung
ương, nhưng phải nhường chức Bí thư Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh cho
ông Võ Văn Kiệt, Ủy viên dự khuyết Bộ chính trị. Nguyễn Văn Linh được
phân công làm Trưởng ban Cải tạo xã hội chủ nghĩa, Trưởng ban Dân vận Ủy
ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc VN, và Chủ tịch Liên đoàn lao động Việt
Nam. Ba cái ghế ấy không thể so sánh với cái ghế Bí thư Thành ủy thành
phố Hồ Chí Minh.
Mặc dù ở vị trí hữu danh vô thực như
vậy, Nguyễn Văn Linh vẫn chưa được yên. Ông Lê Duẩn cho rằng Nguyễn Văn
Linh quá nhẹ tay trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, nhẽ ra phải xóa bỏ
triệt để tư sản lại kêu gọi họ tự cải tạo, hòa nhập vào xã hội mới, đem
tài lực góp phần xây dựng đất nước. Có lần Nguyễn Văn Linh nói với tôi
và Đình Khuyến, Trưởng cơ quan Thường trú Thông tấn xã Việt Nam tại
thành phố Hồ Chí Minh: “Anh Ba, cũng như chúng tôi đã từng được những
nhà tư sản Sài Gòn cưu mang trong thời kỳ hoạt động bí mật, bây giờ
biến họ thành nạn nhân sao đành!”.
Ý thức “đền ơn đáp nghĩa” của Nguyễn Văn
Linh bị Đỗ Mười cho là hữu khuynh, không “không Bôn-sê-vích”. Đã xảy ra
những cuộc tranh luận căng thẳng giữa Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt và
Đỗ Mười. Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt bảo vệ quan điểm cải tạo từng
bước, phân biệt đối tượng cụ thể, tận dụng kinh nghiệm thương trường của
giới công thương chế độ cũ, đặc biệt đối với những người có công với
cách mạng để xây dựng và phát triển thành phố. Đỗ Mười bảo vệ quan điểm
của Lê Duẩn, phải xóa sạch tư sản. Kết quả, đầu năm 1978, Nguyễn Văn
Linh mất chức Trưởng ban Cải tạo xã hội chủ nghĩa.
Cũng trong thời gian đó, có người bới
lại chuyện Nguyễn Văn Linh sang Campuchia tháng 6-1975, đi suốt 200 km,
qua ba 3 tỉnh mà không phát hiện ra những thay đổi bất thường của Khmer
đỏ, để xảy ra những biến cố bất ngờ!
Đó là thời kỳ bĩ cực nhất của Nguyễn Văn Linh.
Ông đã xin rút ra khỏi Bộ chính trị vào cuối nhiệm kỳ.
Vốn là người hết sức trầm tĩnh, kín đáo,
nhưng Nguyễn Văn Linh đã tâm sự với Võ Trần Chí: “Bởi vì mình thấy các
anh ấy không muốn mình ở đó nên xin rút!”.
Đỗ Mười mang tinh thần “Bôn-sê-vích” và
“bàn tay sắt” vào miền Nam đánh tư sản. Ông ta thực hiện y trang như
những gì mình từng làm ở Hải Phòng năm 1955, Hà Nội 1960, xóa sạch tàn
dư tư bản chủ nghĩa, đề xây đựng nền kinh tế xã hội, với tham vọng 15
năm sau theo kịp Nhật Bản, như Tổng bí thư Lê Duẩn tuyên bố ngày
2-7-1976, tại kỳ họp đầu tiên của Quốc hội khóa VI.
Thực tế ngược lại hoàn toàn với tham
vọng ngông cuống và siêu thực đó. Sau cải tạo thành phố Hồ Chí Minh kiệt
quệ, các nhà máy xí nghiệp không có nguyên liệu sản xuất phải đóng cửa,
hàng triệu công nhân thất nghiệp, hệ thống giao thông vận tải ngưng
trệ, lưu thông phân phối tắc nghẽn, chợ búa gần như ngừng hoạt động, đời
sống của cán bộ nhân dân cùng cực. Tài liệu chính của Thành ủy thành
phố Hồ Chí Minh lúc đó công bố “Kế hoạch năm năm không đạt, tăng trưởng
âm, lạm phát phi mã, gần ba triệu dân thành phố thiếu đói”.
Đỗ Mười đã đẩy Sài Gòn “tiến” kịp Hà
Nội, biến “Hòn ngọc Viễn Đông” thành “Hòn than bùn xó bếp” như cách nói
của nhà báo Ba Dân lúc đó. Thật mỉa mai khi các nhà khoa học nổi tiếng
như Chu Phạm Ngọc Sơn, Châu Tâm Luân, được động viên nghiên cứu những
công trình khoa học như “Bo bo giàu dinh dưỡng hơn gạo”, “Khoai lang bổ
hơn bột mì”, “Thành phần đạm trong rau muống”…
Trước kia Hà Nội có thơ “Gia công gai
quy, lộn cổ sơ mi, bơm ruột bút bi, vá ni lon rách”, bây giờ Sài Gòn
cũng nổi tiếng không kém với “Nuôi lợn trên gác, phục hồi bu gi, gia
công cán mì, tái chế dép xốp!”.
Trong cái thế gần chạm đáy kiệt quệ ấy,
Nguyễn Văn Linh được tái bổ nhiệm Bí thư Thành ủy, thay Võ Văn Kiệt ra
Trung ương làm Chủ nhiêm Ủy ban Kế hoạch nhà nước.
Phải nói, nếu hơn mười năm trước Kim
Ngọc, Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phú đã dũng cảm tìm lối thoát cho nông dân
bằng biện pháp “khoán chui”, thì những năm 1980-1981, Nguyễn Văn Linh đã
cứu công nhân và nhân dân thành phố Hồ Chí Minh bằng “xé rào” thoát ra
khỏi cơ chế quan liêu bao cấp.
Nguyễn Văn
Linh đã tập hợp chung quanh mình một đội ngũ dám nghĩ, dám làm, dám chịu
trách nhiệm, có khả năng móc nối với tư bản nước ngoài để phá thế bị
bao vây cô lập. Những công ty Cholimex, Dereximco, Imexco lần lượt ra
đời, trực tiếp làm ăn với một số công ty Hồng Kong, Đài Loan, như
Globai, Thai Hing Long, nhập khẩu sợi dệt, xăng dầu, thuốc lá, men bia,
xuất khẩu đậu phộng, vừng, tôm khô, mực khô. Thực hiện việc trao đổi
hàng hóa, khoán sản phẩm, mua nguyên liệu bán sản phẩm v.v…
Nhờ việc xé rào này, 20.000 công nhân
ngành dệt có việc làm, ngành giao thông vận tải có xăng dầu hoạt động,
và bộ mặt Sài Gòn khởi sắc trở lại.
Cũng như “khoán chui” của Kim Ngọc, việc
“xé rào” của Nguyễn Văn Linh lọt tới “thiên đình” và cuồng phong nổi
lên, bắt đầu bằng cuộc ra quân của Bộ Tài chính.
Ngày 12-3-1982, đoàn thanh tra 28 thành
viên từ Hà Nội hùng hổ tiến vào Công ty Direximco, tuyên bố nội bất
xuất, ngoại bất nhập. Hơn ba tháng liên tục, moi móc hết 50 mặt hàng và
đến từng đơn vị làm ăn với Dereximco, kiểm tra từng tờ hóa đơn. Ngày
25-6- 1983, Đoàn thanh tra kết luận việc xé rào của thành phố Hồ Chí
Minh vi phạm nghiêm trọng chủ trương đường lối của đảng, chính phủ, chỉ
có 1 công nhưng 7 tội, cần phải xử lý nghiêm khắc. Ông Đỗ Mười lên
tiếng: “Làm bí thư Thành ủy mà để xảy ra như thế sao không từ chức!”.
May cho Nguyễn Văn Linh, lần này Lê Duẩn không vội nghe theo Đỗ Mười.
Tháng 3-1983, khi Lê Duẩn sang Liên Xô
chữa bệnh, các ông Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Chí Công vào Đà Lạt
nghỉ mát. Tranh thủ điều kiện thuận lợi, Nguyễn Văn Linh, Mai Chí Thọ và
các lãnh đạo chủ chốt của thành phố Hồ Chí Minh khéo léo tổ chức “Hội
nghị Đà Lạt” thành công.
Nguyễn Văn Linh bố trí một số giám đốc
nhà máy, xí nghiệp làm ăn được nhờ xé rào như Nguyễn Thị Đồng, nhà máy
dệt Thành Công, Bùi Văn Long, Tổng công ty dệt may, Nguyễn Văn Thụy,
Công ty thuốc lá, lên Đà Lạt trực tiếp gặp ba nhà lãnh đạo đảng, nhà
nước.
Tôi còn nhớ buổi sáng hôm ấy ở khách sạn Palace, ông Nguyễn Văn Linh nói với bà Nguyễn Thị Đồng và Bùi Văn Long: “Phải khéo léo thuyết phục các anh! Mời bằng được anh Năm xuống thăm cơ sở thì mới thấy hết cái việc mình làm!”.
Bà Nguyễn Thị Đồng với giọng nói rổn
rảng, không biết ngán ai bao giờ, bởi gia đình bà có tới hơn 10 người là
bộ đội, thương binh, liệt sĩ. Bà nói với ông Trường Chinh: “Anh hãy xuống nhà máy gặp công nhân, người ta vừa mới sống lại đấy. Rồi anh để họ sống thì để bóp chết thì bóp!?”
Trước thái độ cương trực của bà Đồng,
ông Trường Chinh đã phải mỉm cười gật đầu, thực hiện một chuyến đi thực
tế ý nghĩa nhất, và đó là tiền đề cho sự thay đổi tư duy, từ nền kinh tế
kế hoạch sang kinh tế thị trường của ông.
Đại hội đảng toàn quốc lần VI, với bài
diễn văn đúc kết từ thực tế “xé rào” ở thành phố Hồ Chí Minh, Nguyễn Văn
Linh đã nhận được sự ủng hộ của tuyệt đại đa số đại biểu, ông trở thành
Tổng bí thư của Đảng cộng sản Việt Nam. Có lẽ đây là một trường hợp hãn
hữu, một người được bầu làm Tổng bí thư của đảng, nhận được sự đồng
thuận của dân.
Sau đại hội đảng VI, Nguyễn Văn Linh đã
tiến hành nhiều cải cách quan trọng. Ông chọn khâu lưu thông phân phối
làm đột phá khẩu đổi mới. Ông nói: “Giải quyết vấn đề phân phối lưu
thông vì nó là cái gốc liên quan đến quá trình sản xuất, tới tổng thể cơ
chế quản lý nền kinh tế quốc dân”.
Những chính sách nổi bật trong thời kỳ
này là: Tách tài chính ra khỏi ngân hàng. Lập kho bạc nhà nước. Bơm tiền
lưu thông. Xóa bỏ ngăn sông cấm chợ. Lấy khoán 100 làm cơ sở khoán 10,
giao quyền tự chủ cho nông dân.
Chỉ trong một thời gian ngắn đã kéo lạm
phát từ 240% xuống 61%. Từ chỗ cả nước không đạt 21 triệu tấn lương
thực, phải nhập mỗi năm 500.000 tấn lương thực, năm 1989 đã dư 1 triệu
tấn gạo.
Về đối ngoại, Nguyễn Văn Linh muốn phá
thế bao vây của các nước phương Tây và Trung Quốc. Tại hội nghị Bộ chính
trị ngày 20-5-1988, đã ra Nghị quyết 13 về điều chỉnh đường lối đối
ngoại, theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa, giữ môi trường hòa bình,
phát triển kinh tế. Trả lời phỏng vấn trên tờ Thời báo New York, Nguyễn
Văn Linh nói về mối quan hệ với Mỹ: “Việt Nam luôn luôn muốn có
quan hệ với nhân dân và chính phủ Mỹ. Chiến tranh kết thúc 15 năm rồi mà
chưa có quan hệ bình thường là quá chậm. Việt Nam sẵn sàng giải quyết
mọi trở ngại trên con đường bình thường hóa quan hệ với Mỹ”.
Ngoài việc đổi mới về kinh tế, và đổi
mới về đối ngoại, Nguyễn Văn Linh còn đổi mới về văn hóa xã hội, dân
sinh, dân chủ. Chủ trương cởi trói cho văn nghệ sĩ nói riêng, trí thức
nói chung, ông đã vén bức màn đen tối, minh oan cho những nạn nhân bị
oan ức, đọa đày trong vụ “Nhân văn giai phẩm” và đã khích lệ giới cầm bút viết những tác phẩm chân thực.
Ngày 25- 5-1987, Nguyễn Văn Linh cho ra đời mục “Những việc cần làm ngay” trên báo Nhân dân, từ đó những bài viết của ông ký bút danh NVL liên tục xuất hiện trên mặt báo. Ông nói: “Chống
tiêu cực là đã thành nhiệm vụ quan trọng, dọn đường cho việc thực hiện
Nghị quyết đại hội VI, và các Nghị quyết của đảng, nhằm đưa nước nhà ra
khỏi khó khăn đến ổn định tình hình mọi mặt, làm dân bớt khổ”. Ông yêu cầu:“Nhà báo phải có tấm lòng cương trực, yêu người làm đúng, làm tốt để ca ngợi, ghét kẻ làm xấu để lên án”. Nguyễn Văn Linh xác định lấy báo chí làm vũ khí, nhà báo là lực lượng nòng cốt chống tiêu cực tham nhũng. Ông nói “đánh
giặc ngoại xâm chủ yếu bằng súng đạn, đánh giặc nội xâm phải dùng vũ
khí ngôn luận. Báo chí là sức mạnh, là thứ bọn tiêu cực sợ nhất!”, Nguyễn
Văn Linh chỉ thị tất cả các cơ quan đảng, chính quyền phải trả lời chất
vấn của báo chí, phải xử thật nghiêm những trường hợp tham nhũng, ăn
hối lộ, ức hiếp dân mà báo chí đã nêu. Nhiều vụ án tưởng đã chìm vào
quên lãng đã được đưa ra xét xử.
Ông thường xuyên gặp gỡ anh em làm báo,
ngoài hành lang các hội nghị, hoặc kêu tới nhà ông uống cà phê, ăn sáng
nói chuyện. Ông không phân biệt báo lớn, báo nhỏ, báo đảng báo đoàn thể,
nhưng rất coi trọng những nhà báo viết bài trung thực, có sức lan tỏa.
Khi gặp chúng tôi, ông thường hỏi: “Dân đang nghĩ gì, đang làm gì, và cần gì?”. Khi chúng tôi nói cho ông nghe những bức xúc của dân ông hỏi: “Nếu dân nghĩ vậy thì mình làm sao?”.
Nguyễn Văn Linh tỏ thái độ đồng tình với
Trần Xuân Bách về cơ chế dân chủ và đổi mới chính trị. Có lần ông nói
với anh em báo chí: “Anh Trần Xuân Bách nói rất đúng. Dân chủ không
phải là ban ơn, là mở rộng dân chủ, mà đó là quyền của dân với tư cách
người làm chủ lịch sử, không phải là ban phát, do tấm lòng của người
lãnh đạo này hay người lãnh đạo kia. Dân chủ là khởi động trí tuệ dân để
tháo gỡ khó khăn đưa đất nước theo kịp thời đại!”.
Nửa đầu của nhiệm kỳ Tổng bí thư, Nguyễn
Văn Linh là một con người như vậy. Đất nước đổi mới từng ngày, nhà cửa
mọc lên khang trang, nụ cười xuất hiện trên môi người, Việt kiều về quê
rất đông, và hầu như không có những vụ khiếu kiện tập thể… Đại hội VI
của đảng cộng sản Việt Nam xóa quan liêu bao cấp, thực hiện đổi mới và
mở rộng quan hệ đối ngoại, nhất là với Mỹ và phương Tây, đã làm Trung
Quốc rất khó chịu, tìm cách phá ngang.
Gần cuối nhiệm kỳ, Nguyễn Văn Linh bị
Trung Quốc cài bẫy. Trong bài này, sự tác động do Liên Xô, Đông Âu sụp
đổ và vai trò của Đỗ Mười thế nào chưa bàn đến. Nhưng đó là nguyên nhân
chính đã làm cho Nguyễn Văn Linh thay đổi hẳn quan điểm, dẫn tới
dân-nước và bạn bè quốc tế bị bất ngờ và thất vọng.
Có thể nói cái mốc ấy bắt đầu từ Hội
nghị Thành Đô, Trung Quốc từ 3 đến 5-1990 đến bây giờ, dù những người tư
liệu còn hạn chế, nhưng nhìn lại một cách khách quan, vẫn vừa tiếc, vừa
buồn, vừa trách Nguyễn Văn Linh.
Với Hội nghị Thành Đô, Việt Nam như bị Trung Quốc… nướng
Theo ông Trần Quang Cơ, nguyên Thứ
trưởng Bộ Ngoại giao, ngày 29-8-1990, đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy,
gặp Nguyễn Văn Linh ở Hà Nội, chuyển thông điệp của Giang Trạch Dân,
Tổng bí thư đảng cộng sản Trung Quốc, và Lý Bằng, Thủ tướng Quốc vụ viện
Trung Quốc, mời Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng sang Thành Đô
(tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc) ngày 30-8-1990 để hội đàm bí mật về vấn đề
Campuchia và vấn đề bình thường hòa quan hệ hai nước.
Trương Đức Duy nói mập mờ rằng, Đặng
Tiểu Bình có thể gặp Phạm Văn Đồng, và lấy cớ Bắc Kinh đang tổ chức Á
vận hội ASIAD, sợ lộ bí mật nên phải gặp nhau ở Thành Đô.
Đây là chuyện rất đột ngột, bởi mới 5
ngày trước, Trung Quốc khăng khăng không muốn bàn chuyện bình thường
hóa, mà đòi phải giải quyết vấn đề Campuchia trước, tại sao bây giờ họ
lại bàn vấn đề bình thường hóa?
Ông Nguyễn Cơ Thạch, Bộ trưởng Ngoại
giao nhận định: Sự thay đổi đột ngột của Trung Quốc là do họ cần thực
hiện 4 hiện đại hóa, nhưng bị Mỹ, Nhật, Liên Xô và các nước cấm vận sau
vụ đàn áp Thiên An Môn, nên phải tìm cách thoát ra.
Bên cạnh đó, Trung Quốc thấy Mỹ, Nhật,
đặc biệt là các nước trong khối ASEAN, tỏ thái độ thân thiện với Việt
Nam, nên muốn phá ta.
Quan điểm của Nguyễn Văn Linh lại khác.
Ông triệu tập họp Bộ chính trị và nếu ý kiến: “Tranh thủ Trung Quốc, hợp tác với Trung Quốc, để bảo vệ Xã hội chủ nghĩa” (!?).
Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông
Âu, đặc biệt là Rumani mà Nguyễn Văn Linh vừa thăm đã tác động rất lớn
tới ông, lảm cho ông mất bình tĩnh.
Mặc dù Nguyễn Cơ Thạch, Võ Chí Công,
Trần Xuân Bách can ngăn, nhưng Nguyễn Văn Linh không nghe, vẫn giữ quan
điểm: “Hợp tác với Trung Quốc, bảo vệ XHCN chống đế quốc!”. Quan điểm
của Nguyễn Văn Linh được Lê Đức Anh, Đỗ Mười, Đào Duy Tùng… ủng hộ.
Và thế là, ngày 2-9-1990, dù đang kỷ
niệm Quốc khánh lần thứ 45 năm, Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng
vẫn đi Thành Đô, với sự tháp tùng của Hồng Hà, Chánh văn phòng Trung
ương đảng và Hoàng Bích Sơn, Thứ trưởng ngoại giao. Nguyễn Văn Linh
không cho Nguyễn Cơ Thạch đi, vì Nguyễn Cơ Thạch không đồng quan điểm,
Trung Quốc không thích Nguyễn Cơ Thạch.
Theo Trần Quang Cơ, Trung Quốc đã đánh
lừa Việt Nam một cách trắng trợn. Họ nói Đặng Tiểu Bình sẽ gặp Phạm Văn
Đồng nhưng Đặng không xuất hiện. Ông Võ Văn Kiệt nói: “Nhẽ ra anh Tô không nên đi!”. Mà
Đặng Tiểu Bình là gì mà chính Phạm Văn Đồng cũng muốn gặp để rồi bị
dính chùm trong vụ tham dự Hội nghị Thành Đô? Từ đó Trung Quốc thêm vinh
danh và đạt được ý đồ thâm hiểm lâu dài là kìm hãm, phá ngang đường lối
đổi mới và kéo Việt Nam đi theo quỹ đạo của Trung Quốc. Cũng từ quan
điểm đưa ra đầy thỏa hiệp Trung-Việt này mà cái ‘bào thai’ đẻ ra con
ngáo ộp “Diễn biến hòa bình” và sau này củ cà rốt đỏ chót “16 chữ vàng”,
“4 tốt” trở thành vòng kim cô thít chặt Việt Nam…
Vấn đề Campuchia, Trung Quốc vẫn giữ
thái độ như ngày 24-8-1990, đòi cấu trúc thành phần chính phủ hòa hợp
dân tộc Campuchia theo công thức: 6+2+2+2+1 (6 người phe chính phủ Hun
sen, 2 người phe Khmer đỏ, 2 người phe Hoàng gia, 2 người phe đảng dân
chủ, và Sihanouk). Điều này hoàn toàn trái với công thức: 6+2 +2 +2 mà
Hun Sen và Siha Nouk đã thỏa thuận tại Tokyo.
Ông Trần Quang Cơ viết: “Hội nghị Thành
Đô có 8 điểm, hai điểm về quốc tế, 5 điểm về Campuchia, chỉ có một điểm
về Việt Nam. Nguyễn Văn Linh nêu ‘Giải pháp Đỏ’, Trung Quốc hoan nghênh
nhưng không mặn mà!”.
Cái gọi là “Giải pháp Đỏ” của Nguyễn Văn Linh là “Kéo Trung Quốc lại, thay thế Liên Xô, làm chỗ dựa vững chắc bảo vệ phe Xã hội chủ nghĩa!”.
Nguyễn Văn Linh mê muội phe chủ nghĩa xã hội, tìm mọi cách bảo vệ phe
xã hội chủ nghĩa, quên quyền lợi và danh dự của dân tộc mình và làm mất
niềm tin của bạn bè!
Khi Trung Quốc đưa công thức 6+2+2+2+2+1
ra, ông Phạm Văn Đồng nhắc Nguyễn Văn Linh thận trọng. Phía Trung Quốc
liền mời Phạm Văn Đồng ra chỗ khác để Nguyễn Văn Linh ký. Ông Phạm Văn
Đồng đã thấy nguy, nhắc Nguyễn Văn Linh sửa sai, nhưng Nguyễn Văn Linh
nói: “Không sao đâu!”.
Từ Thành Đô về, Nguyễn Văn Linh và Lê
Đức Anh sang Campuchia gặp Hengsomrin và Hunsen trao đổi về Hội nghị
Thành Đô. Nhưng Campuchia không chấp nhận công thức ấy và nói thẳng Việt
Nam, Trung Quốc không có quyền can thiệp vào Campuchia. Xương máu của
hàng ngàn cán bộ chiến sĩ quân đội ta đổ trên chiến trường Campuchia đã
bị Nguyễn Văn Linh bán rẻ cho Trung Quốc!
Trung Quốc nói giữ bí mật Hội nghị Thành
Đô nhưng chính họ thông báo cho thế giới biết toàn bộ nội dung cuộc
“họp bí mật” đó. Tờ Bangkok Post và tờ Tạp chí kinh tế Viễn Đông, ngày
4-10-1990, đăng bài bình luận “Củ cà rốt và chiếc gậy” nói Việt Nam đã
nhượng bộ nhiều hơn làm vừa lòng Trung Quốc.
Nguyễn Văn Linh đã thất bại trong sách
lược “Giải pháp Đỏ”, bị Trung Quốc tách ra khỏi các mối quan hệ với
phương Tây với nhiều mở hướng tốt đẹp cho sự nghiệp đổi mới, chỉ vì nghe
Trung Quốc xúi cho bùi tai là làm thành trì bảo vệ Xã hội chủ nghĩa.
Nói đúng hơn Nguyễn Văn Linh đã bị Trung Quốc lừa một vố đau.
Theo ông Trần Quang Cơ: “Sở dĩ ta bị
mắc lừa ở Thành Đô vì chính ta lừa ta! Ta ảo tưởng Trung Quốc giương cao
ngọn cờ Xã hội chủ nghĩa, thay thế Liên Xô làm chỗ dựa vững chắc cho
cách mạng Việt Nam và XHCN thế giới, chống lại hiểm họa “Diễn biến hòa
bình” của chủ nghĩa đế quốc do Mỹ đứng đầu. Sai lầm đó đã dẫn đến sai
lầm Thành Đô cũng như sai lầm “Giải pháp Đỏ”.
Ông Nguyễn Cơ Thạch nói: “Trung Quốc
đã sử dụng Hội nghị Thành Đô để phá mối quan hệ Việt Nam với các nước,
chia rẽ nội bộ ta, kéo lùi tiến trình đổi mới của ta!”
Phạm Văn Đồng tỏ ra ân hận vì không ngăn
được Nguyễn Văn Linh ký thỏa thuận Thành Đô. Nguyễn Văn Linh tránh trớ:
“Anh Tô nhớ lại xem! Không phải tôi đồng ý. Tôi chỉ nói nghiên cứu xem
xét và bây giờ tôi vẫn nghĩ thế là đúng”.
Cái gọi là “đúng” của Nguyễn Văn Linh là
từ luận điểm câu nhử, đe dọa của Trung Quốc: “Âm mưu đế quốc Mỹ chống
phá xã hội chủ nghĩa ở châu Á, cả Cu Ba. Nó đã phá Trung Quốc trong vụ
Thiên An Môn rồi, nay chuyển sang phá ta!”. Và, không hiểu Trung Quốc
làm cách nào mà nó như thứ bùa mê thuốc lú để Nguyễn Văn Linh lý giải:
“Dù Trung Quốc bành trướng thế nào thì Trung Quốc vẫn là một nước Xã hội
chủ nghĩa!”.
Từ Hội nghị Thành Đô trở về hình như Nguyễn Văn Linh là một con người khác. Ngày 28-8-1990, tuyên bố chấm dứt “Những việc cần làm ngay”. Ông nói “Bận quá! Vả lại tôi viết để “mồi” cho các nhà báo viết tiếp để đấu tranh kiên quyết liên tục!”. Ông còn viết: Không nên đi xe ngoại, rằng: “Ta về ta tắm ao ta”…
Đó là một lời nói dối, bởi sợi dây trói
vừa được cởi ra trong khoảng thời gian 3 năm 4 tháng đã bị thít lại chặt
hơn, và chính ông là người đầu tiên đã liên kết với Đào Duy Tùng,
Nguyễn Hà Phan, Đỗ Mười đánh dập vùi Trần Xuân Bách, một người được coi
là có trí tuệ nhất trong Bộ chính trị lúc đó.
Nguyễn Văn Linh đã đưa Việt Nam tiến lên
một bước, nhưng rồi chính ông lại kéo Việt Nam lùi lại, ông mở cái cửa
nhỏ thoát ra khỏi một ngõ cụt nhưng rồi chính ông lại đóng sập cánh cửa
ra biển lớn của dân tộc vì ý thức bảo thủ và giáo điều của ông!
Nguyễn Văn Linh đã tự lội xuống ruộng,
đúng hơn tự dìm mình vào vũng bùn Thành Đô, và để mất sự kính trọng nhẽ
ra ông được hưởng.
http://www.bvbong.blogspot.com/2013/02/hau-hoa-giai-phap-o-cua-nguyen-van-linh.html
Chuyện tình của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh
Gặp nhau được vài lần, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh gửi thư cầu hôn bà Ngô Thị Huệ. 50 năm là vợ chồng nhưng ông bà sống cảnh người Bắc, kẻ Nam hơn 15 năm ròng.
Bà Huệ tên thật là Ngô Thị Ngỡi, sinh năm 1918 tại xã Mỹ Qưới, huyện
Ngã Năm, tỉnh Kiên Giang (nay là huyện Phước Long, tỉnh Sóc Trăng). Bà
là con thứ 7 trong một gia đình có 8 con, nên thường được gọi là Bảy
Huệ. 11 tuổi bà đã thoát ly gia đình đi cách mạng với vai trò giao liên
và vào đảng khi mới 18 tuổi. 22 tuổi, bà Ngô Thị Huệ đã là Phó bí thư
Tỉnh ủy Vĩnh Long, tham gia lãnh đạo cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ. Bà đã nhiều
lần bị bắt và bị kết án tù chung thân khổ sai. Đến tháng 6/1945, sau
một số lần tổ chức phá khám vượt ngục, bà được giải thoát về Bạc Liêu.
Bà tham gia Tỉnh ủy lâm thời, tổ chức cách mạng tháng Tám và cướp chính
quyền ở Bạc Liêu.
Đầu năm 1941, ông Nguyễn Văn Cúc (tức Mười Cúc - Nguyễn Văn Linh)
bị địch bắt ở Vinh, đưa về Sài Gòn xử án 5 năm tù và đày ra Côn Đảo lần
thứ hai. Cách mạng tháng 8/1945 thành công, ông và các bạn tù ở Côn Đảo
được đưa về Nam Bộ hoạt động và đây là lần đầu tiên ông gặp bà Ngô Thị
Huệ.
Bà Huệ kể lại: "Ngày đó, khi đoàn tàu đưa các đồng chí bị giam cầm từ
Côn Đảo về Sóc Trăng, tôi là người được thay mặt Tỉnh ủy Bạc Liêu đi
đón. Tôi được gặp đồng chí Mười Cúc cùng với các anh Lê Duẩn, Lê Văn Sỹ,
Phạm Hùng... đều ở Ban Xứ ủy Đảng Cộng sản Đông Dương".
Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh và phu nhân Ngô Thị Huệ. Ảnh tư liệu.
|
Một năm sau hai người gặp lại nhau trong lần bà đi họp Quốc hội khóa
đầu tiên trở về. Bà là một trong 3 nữ đại biểu Quốc hội đại diện miền
Nam Việt Nam trong số 10 nữ đại biểu Quốc hội khóa I của nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa. "Hôm đó tôi được giao liên đưa vào Bến Phú Lâm, qua
cầu An Lạc đến rạch Chanh đi xuồng tới trạm dừng chân đã thấy anh Mười
ngồi đợi sẵn. Thái độ ân cần, lo lắng của anh khiến tôi xúc động. Nhưng
mờ sáng hôm sau tôi lại phải theo giao liên lên Chiến khu Đồng Tháp
Mười, đến Xứ ủy và cơ quan Phụ nữ Nam Bộ", bà cho hay.
Trong xấp thư nhờ chuyển đến hai cơ sở trên, ông Mười Cúc còn gửi riêng
cho bà Huệ một lá. Phu nhân của Tổng bí thư bộc bạch: "Anh làm tôi bất
ngờ khi ngỏ lời cầu hôn. Dù cảm động nhưng tôi vẫn hồi âm là chưa nghĩ
đến hôn sự khi bản thân còn ngổn ngang công việc, còn mẹ già ly tán...
Nhưng anh vẫn thành tâm giữ ý định".
Mãi đến khi có dịp công tác gần nhau, hiểu nhau hơn, bà Huệ mới nhận
lời cầu hôn của ông Mười Cúc. Tháng 5/1948, đám cưới của bà Huệ và ông
Mười Cúc - Bí thư Thành ủy Sài Gòn lúc bấy giờ được tổ chức giản dị tại
nhà một đồng chí ở Gòn Xoài (nay là huyện Bình Chánh, TP HCM). Đôi vợ
chồng trẻ được một người bạn tù Côn Đảo ở Đồng Tháp mừng cưới bằng...
100 trái gòn khô chở bằng thuyền lên để may gối.
50 năm là vợ chồng nhưng Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh và phu nhân phải sống cảnh người Bắc, kẻ Nam hơn 15 năm ròng. Ảnh: Thư viện quốc gia.
|
"Nhưng lúc đó làm gì có vải để may, với lại 3 ngày sau chúng tôi đã
phải chia xa. Tôi ra Bắc dự Hội nghị phụ nữ Nam Bộ, còn anh đảm nhiệm
vai trò Bí thư Thành ủy Sài Gòn với những bộn bề trước mắt...", bà Huệ
cho biết.
Năm 1955, vợ chồng bà vui mừng đón con gái đầu lòng, đặt tên là Nguyễn
Thị Hòa, sau đó là người con thứ hai tên Nguyễn Thị Bình và con trai út
là Nguyễn Văn Linh sinh tại Campuchia. "Do không được ở bên khi
con trai chào đời nên anh lấy tên nó làm bí danh cho mình. Dù bận công
tác liên tục nhưng anh là người chồng, người cha có trách nhiệm. Mỗi khi
về thăm gia đình, anh luôn tự tay giặt tã cho con và nấu những món ăn
tôi ưa thích", bà Huệ nhắc về chồng, giọng đầy trìu mến. Năm 1959, bà
Huệ được phân công làm Vụ trưởng Vụ tổ chức cán bộ thuộc Ban Tổ chức
trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Năm 1961, khi con trai út được 18 tháng, bà Huệ đưa 3 con ra Bắc công
tác trong hoàn cảnh rất khó khăn. Sau đó các con họ phải sơ tán mỗi
người một nơi tận Sơn Tây. Mỗi chiều cuối tuần, bà lại đạp xe chở thực
phẩm đến thăm các núm ruột của mình. Cứ thế, suốt 15 năm bà Huệ và ông
Nguyễn Văn Linh sống cảnh kẻ Nam người Bắc, có khi 2-3 năm mới gặp
nhau.
Bà Ngô Thị Huệ trao đổi với nguyên Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị
Bình và lãnh đạo TP HCM tại hội thảo "Đồng chí Nguyễn Văn Linh với cách
mạng miền Nam, với Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định, TP HCM" được tổ chức
hôm 22/6. Ảnh: A.P.
|
Gần đến ngày đất nước thống nhất, bà Huệ bị bệnh phải đi Đức chữa trị.
Ngày về nước, bà được một đoàn cán bộ ra sân bay đón, trong đó có Mười
Cúc nhưng phải sau một lúc ngỡ ngàng, bà mới nhận ra người chồng thương
yêu của mình. Con gái đầu tròn 20 tuổi, gia đình ông bà mới được đoàn
tụ.
"Sau khi nghỉ hưu, mọi người thuyết phục mãi anh Mười mới đồng ý
tổ chức đám cưới vàng 50 năm. Nhưng chỉ còn vài hôm là đến ngày vui ấy
anh lại ra đi, không kịp thực hiện lời hứa với con cháu", bà Huệ ngậm
ngùi.
Luôn xem lý tưởng, ước mơ, lẽ sống của chồng là của mình, phu nhân cố Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh nói:
"Tình yêu, hạnh phúc cũng như những tù tội, đau đớn, thử thách chúng
tôi cùng trải qua trong ngục tối của cũng không thể bằng nỗi đau của dân
tộc. Hiểu được như vậy sẽ dễ cảm thông, sẽ biết sống và hy sinh cho
nhau hơn".
Trung Sơn
Nhận xét
Đăng nhận xét