ĐÃ THÀNH BIA MIỆNG? 3
-Trăm năm bia đá thì mòn
Ngàn năm bia miệng hãy còn trơ trơ!
-Nhưng mấy ai thoát được sự cám dỗ của danh lợi - quyền lực?
--------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
M.D( 26-12-2012)
SỨC
ÉP CỦA
TRUNG QUỐC
Nguyên Phong
Bãi bùn đỏ Nalco Damanjodi (Ấn), sau khi khaithác bôxit
Suối Tịnh Tây (Quảng Tây, Trung Quốc) trong xanh nay trở thành suối máu. Trung Quốc đã ngừng khai thác mỏ bô-xit ở đây và đang "khẩn trương" mở suối máu, bãi bùn đỏ ở Tây Nguyên
Ngàn năm bia miệng hãy còn trơ trơ!
-Nhưng mấy ai thoát được sự cám dỗ của danh lợi - quyền lực?
--------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
Minh Diện: Nông Đức Mạnh-Ông là ai?
Cứ tưởng sẽ
không bao giờ phải nhìn một khuôn mặt phương phi cười cợt, như cố khoe
hai hàm răng chắc khỏe dưới cái đầu láng mướt, cái cằm bạnh trên cái cổ
áo thắt cà vạt đỏ chót.
Nhưng hôm kia
tôi lại phải nhìn khuôn mặt ấy đi dự khánh thành nhà máy thủy điện Sơn
La. Đấy là khuôn mặt “nhà cách mạng lão” Nông Đức Mạnh, nguyên Tổng bí
thư đảng cộng sản Việt Nam.
Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam trải hơn 82 năm có 9 người đã và đang làm Tổng bí thư.
Ông Trần Phú
chỉ làm TBT 314 ngày, nhưng đã để lại bản “Luận cương chính trị” và lời
nói bất hủ “Hãy giữ vững chí khí chiến đấu!”.
Ông Nguyễn Văn
Cừ làm TBT gần hai năm, đã vạch ra quyết sách đúng đắn chống tả khuynh,
đề phòng hữu khuynh, và mới 28 tuổi để lại tác phẩm “Tự chỉ trích” đáng
nhớ.
Ông Trường
Chinh hai lần làm TBT, lần trước vạch đường lối cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp trong tác phẩm “Kháng chiến nhất định thắng lợi”, lần thứ
hai đặt nền móng cho công cuộc đổi mới.
Ông Lê Duẩn làm
TBT 16 năm 101 ngày, là cha đẻ của “Đề cương cách mạng miền Nam”, cũng
là người cảnh báo kẻ thù lâu dài và nguy hiểm của Việt Nam là bá quyền
Trung Quốc.
Ông Nguyễn Văn
Linh làm TBT một nhiệm kỳ 5 năm, đã có một vai trò sáng giá trong cuộc
phá bỏ nền kinh tế kế hoạch quan liêu bao cấp, mở đầu kinh tế thị
trường, có “Những việc cần làm ngay” tháo gỡ kho khăn, cởi trói trí
thức.
Ông Đỗ Mười làm TBT từ 1991- 1997, một quyền uy đủ sức răn đe.
Ông Lê Khả
Phiêu làm TBT gần ba năm, làm được việc những người tiền nhiệm không
muốn và không dám làm: dẹp bỏ một siêu cơ quan quyền lực là Ban cố vấn
trung ương đảng, bớt đi một tầng nấc lãnh đạo quan liêu.
Bảy đời Tổng bí
thư, bảy con người kể trên chưa ai hoàn hảo về tài năng, đức độ và nhân
cách, nhưng mỗi người đều ghi một dấu ấn trong một giai đoạn lịch sử
nhất định, đề lại một chân dung đậm nét với tư cách người “công dân số
1” của Việt Nam.
Ông Nông Đức
Mạnh làm Tổng bí thư hai nhiệm kỳ 9 và 10, với thời gian 9 năm 272 ngày,
đứng thứ 3 về thời gian sau Lê Duẩn, Trường Chinh. Ngày 12-1-2011 ông
đọc bài diễn văn cuối cùng, rồi 8 ngày sau đó ra về ,để lại một câu hỏi
chưa có lời giải đáp: “Nông Đức Mạnh, ông là ai?”.
Ai cũng biết
Nông Đức Mạnh không trải qua tù đày, chinh chiến, không phải trăn trở lo
toan từ hạt gạo, hạt muối, manh áo, manh quần đến viên đạn cho người
lính ngoài mặt trận, không phải nhọc lòng cúi mặt ngửa tay xin từng đồng
viện trợ của nước ngoài. Ông bước thẳng từ cửa rừng vào con đường chính
khách, làm Chủ tịch Quốc hội rồi nhảy phắt lên ghế Tổng bí thư trong
giai đoạn kinh tế Việt Nam sung mãn nhất, chính thức bước vào sự nghiệp
đổi mới. Sự mất cơ vận của Việt Nam nhất là khi bước vào sự nghiệp đổi
mới lại có một Tổng Bí thư phát huy vai trò đảng lãnh đạo quá yếu; thêm
sự kém tâm, thấp tầm, lại bảo thủ và nhiều điểm yếu khác.
Khi Nông Đức
Mạnh làm chủ tịch Quốc hội, ông khá đĩnh đạc trong những phiên họp Đại
biểu quốc hội, đặc biệt là điều hành những phiên chất vấn ở nghị trường.
Bấy giờ nhiều người ca ngợi ông và loan truyền những tin đồn như huyền
thoại, có người không giấu giếm rằng đây chính là một gương mặt kế
thừa!? Chính vì thế một nhà báo nước ngoài đã hỏi thẳng Nông Đức Mạnh:
“Có phải ông là con Hồ Chí Minh ?”. Nông Đức Mạnh trả lời: “Ở Việt Nam
ai cũng là con cháu Bác Hồ!”. Cái cách trả lời nước đôi có ý “bắt quàng”
như vậy càng đẩy sự đồn đại đa chiều, phức tạp thêm. Thà nói thẳng ra
bố tôi là Nông X cũng được! Và, có lẽ đấy cũng là một yếu tổ để ông
thong dong bước lên vị trí số một của Đảng cộng sản Việt Nam.
Từ khi làm Tổng bí thư, Nông Đức Mạnh đã đánh mất niềm tin mọi người dành cho ông.
Suốt hai nhiệm
kỳ ông không chủ động đưa ra được một chiến lược, sách lược kinh tế,
chính trị, quân sự, ngoại giao, và không có một tác phẩm lý luận đúng
tầm mà với cương vị Tổng bí thư phải có. Ngược lại, chẳng những ông
không sáng tạo mà không học thuộc bài của những người tiền nhiệm, cả về
lý luận và thực tiễn.
Ông như một cái
bóng mờ nhạt, có người gọi là “bù nhìn”, mọi việc khoán trắng cho Nhà
nước, Chính phủ, còn ông đi thăm thú, điệu hạnh khắp nơi, chỗ nào cũng
thuộc lòng để phát lên câu nói của Bác Hồ: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn
kết; thành công, thành công đại thành công”. Câu nói đó từ trẻ học sinh
lớp 1 đến ông già ai chẳng thuộc. Nhưng đoàn kết với ai, đoàn kết thế
nào, làm gì để thành công? Thì Nông Đức Mạnh không đưa ra được kế sách,
quyết đoán nào thể hiện rõ vai trò lãnh đạo của một đảng cầm quyền, thực
thi dân chủ phát huy sức mạnh tòn dân tộc thế nào cũng mờ nhạt nhất so
với 7 vị TBT tiền bối…Ngươi fta nói, suốt hai nhiệm kỳ Nông Đức Mạnh làm
TBT, Chính phủ như phủ chúa Trịnh, còn Đảng như cung vua thời Lê mạt !
Tôi đã sưu tầm
sách báo cố tìm ra một nét riêng cựu TBT Nông Đức Mạnh, một lời nói thể
hiện cái tâm cái tầm, một hành động thể hiện bản lĩnh để có thể tự hào
về ông, nhưng thất vọng. Đọc những bài diễn văn, những lời phát biểu và
ngay cả những bài báo ký tên ông toàn thấy hình thức sáo rỗng.
Cụ Tổng Nông cứ
nhắc đi nhắc lại phải học tập và làm theo Hồ Chủ tịch, nhưng hình như
bản thân ông lại không thực hiện được những lời dạy của Hồ Chủ tịch.
Trong hai nhiệm
kỳ của ông để lại một “dấu ấn” rõ nhất là sự xuống cấp về đạo đức của
cán bộ lãnh đạo. Ông đã làm biến đổi chất lượng của một đảng cấm quyền.
Việc mua quan bán chức, chạy quy hoạch cán bộ không còn là hiện tượng cá
biệt mà trở thành phổ biến. Việc ban phát quyền lực theo kiểu “nhất
thân nhì thế tam chế tứ tiền” trở thành cẩm nang hành động. Tiêu cực,
tham nhũng nảy sinh và phát triển ngay ở thượng tầng kiến trúc và tạo
thành một hệ thống che đậy cho nhau từ trên xuống dưới từ trong ra
ngoài. Ai giới thiệu, ai nâng đỡ những Bùi Tiến Dũng, Nguyễn Việt Tiến,
những “con sâu” PMU 18? Chính là TBT Nông Đức Mạnh vào thời điểm xảy ra
vụ việc đó. Ai tạo ra cái tiền lệ con nối ngôi cha? Đó chính là TBT Nông
Đức Mạnh. Ộng ta tìm mọi cách đưa Nông Quốc Tuấn, một người con chỉ có
cái vốn kiến thức mấy năm đi hợp tác lao đông ở nước ngoài vào Ban
Thường vụ Trung ương đoàn, từ đó nhảy vùn vụt lên các nấc thang quyền
lực.
Phải nói thẳng,
cái gọi là “một bộ phận không nhỏ, suy thoái về chính trị, tha hóa về
đạo đức lối sống” mà Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nói, đã được hình
thành và dung dưỡng suốt mười năm với hai nhiệm kỳ Tổng bí thư của ông
Nông Đức Mạnh.
Từ tháng 10 -
2010, Trung tướng Nguyễn Hòa, nguyên Ủy viên Trung ương đảng khóa
V-VI-VII đã viết đơn tố cáo những sai lầm và suy thoái đạo đức của ông
Nông Đức Mạnh, trong đó có đoạn: “Là người nắm chức vụ cao nhất trong
đảng, nhưng đồng chí Nông Đức Mạnh đưa con của đồng chí không đủ tâm đủ
tầm làm Chủ tịch Hội Liên hiệp thanh niên, và có ý định đưa làm Bí thư
Thứ nhất Trung ương đoàn, vừa mưu cầu danh vọng vừa dụng ý gây dựng lực
lượng của mình lâu dài”.
Không chỉ riêng
Trung tướng Nguyễn Hòa, mà cả Đại tướng Võ Nguyên Giáp và nhiều người
lên tiếng, tố cáo ông vụ “Sáu Sứ”, “Năm Cam”… nhưng tất cả đều chìm vào
im lặng. Nông Đức Mạnh đã lấy quyền Tổng bí thư ém nhẹm đi.
Những người bị
tố cáo chẳng những không bị điều tra, xử lý một cách nghiêm túc, dân
chủ, công khai như điều lệ đảng mà trái lại, đươc trọng dụng. Vì dụ như
Nông Quốc Tuấn được làm Bí thư Tỉnh ủy trước thềm đại hội XI của đảng,
rồi giành một suất cơ cấu Ủy viên Trung ương đảng, mà dư luận cho rằng
đó là sự mặc cả của Nông Đức Mạnh.
Người ngoài nói
rất nhiều về sai trái, lỗi lầm của Nông Đức Mạnh đối với dân với nước,
con ông lại “vạch áo cho người xem lưng” về nhân cách của một người cha,
sự lừa đảo của bà dì là Đại biểu Quốc hội. Đọc lá thư của con gái ông
gửi báo ‘Người cao tuổi’, tôi thấy xấu hổ thay cho ông.
Tất cả những
điều tôi viết trên đây có lẽ góp được một phần nhỏ để trả lời câu hỏi:
Nông Đức Mạnh - ông là ai? Cái lớn hơn, chính tôi cũng đang tìm câu trả
lời là: Phải chăng Nông Đức Mạnh là người đã có công tạo những thuận lợi
cho Trung Quốc nhảy vào tận ngã ba biên giới Đông Dương chiếm vị trí
“thượng phong” về quân sự cả vùng để…khai thác Bauxte Tây Nguyên? Cả
những khu rừng rộng lớn ở Lạng Sơn cho Trung Quốc thuê 50 năm chẳng lẽ
không phải “anh thợ rừng, đội phó đội khai thác gỗ họ Nông” cho phép?
Nhưng, từ 1991 váo Bộ Chính trị đến ngày 19-1-2011, suốt 20 năm hai khóa
Chủ tịch Quốc hội, hai nhiệm kỳ Tổng bí thư, ông đã làm được những gì
có giá trị và để lại dấu ấn cho dân cho nước. Nhất là việc buông lỏng
vai trò lãnh đạo, làm mất sức chiến đầu và hạ uy tín Đảng nhanh như vậy,
để rồi đến Đại hội XI phải chỉnh đốn, phải giải quyết hậu họa do hai
khóa IX và X để lại, lo gạn đục khơi trong không xong, với vai trò người
đứng đầu, do ông hay do ai? Câu hỏi đó ông Mạnh phải trả lời, ông không
trả lời thì lịch sử sẽ trả lời thay ông.
Nhân dân khắp
các vùng miền đều biết “công lao” của Tổng bí thư đời thứ 8 Nông Đức
Mạnh là 10 năm đứng đầu vị trí lãnh đạo đảng cầm quyền đã kéo thụt lùi
sự phát triển của đất nước cả trăm năm. Đến mức phát biểu bế mạc tại Hội
nghị Trung ương 6 (khóa XI), Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nói: “Mặc
dù nhiều khuyết điểm, hạn chế có từ các khoá trước, nhưng với trách
nhiệm chính trị của cơ quan lãnh đạo hiện nay, Bộ Chính trị và từng Uỷ
viên Bộ Chính trị tự nhận thấy sâu sắc trách nhiệm chính trị của mình
trước những khuyết điểm, hạn chế đó”.
Một điều người
viết bài này cần phải rạch ròi với Nông Đức Mạnh: Khi trả lời phỏng vấn
báo nước ngoài, ông nói: “Ở Việt Nam ai cũng là con cháu Bác Hồ”, là một
cách nói nước đôi, lấp lửng, không minh bạch và thiếu trung thực để ai
hiểu thế nào thì hiểu, may có chút dính dáng trong dư luận nhằm phần nào
đó giải quyết khâu oai chăng? Chẳng lẽ ông không biết cái cách trả lời
lấp lửng thiếu trách nhiệm như thế với nhà báo nước ngoài vùa bất hiếu
với ông bà, cha mẹ lại phạm thượng, công khai hạ uy tín Hồ Chủ tịch?
Nhưng ông nói thế là không đúng. Tôi là một người Việt Nam, tôi khẳng
định với ông rằng, tôi không phải là con cháu Bác Hồ. Tôi có ông bà cha
mẹ đàng hoàng, sống trên mảnh đất Việt Nam, khi chết tôi theo ông bà cha
mẹ tôi. Đó là sự thật.
Khổng Tử nói
“Tu thân-tề gia - trị quốc - bình thiên hạ”, Nông Đức Mạnh đến già chưa
tu nổi cái thân mà giao cho ông ta những 20 năm trọng trách “trị quốc,
bình thiên hạ” thì thật là sai lầm.
M.D( 26-12-2012)
Nguồn: http://www.viet-studies.info/kinhte/NongDucManhLaAi_BVB.htm
Mar
Có phải vậy không? - Thưa bác Nông Đức Mạnh
Tôi
biết bác Nông Đức Mạnh (nguyên Tổng Bí Thư) từ thời bác ấy đang làm Bí
Thư Tỉnh ủy Bắc Thái. Gọi là biết, thực ra tôi chỉ nhòm thấy bác ấy chứ
chưa được tiếp xúc, trò chuyện. Mãi đến khi tỉnh Bắc Thái chia tách
thành Bắc Cạn và Thái Nguyên (1/1/1997), tôi được tổ chức điều động lên
Bắc Cạn, sau đó bổ nhiệm làm Phó Tổng Biên Tập của tờ báo này, tôi mới
có dịp được gặp bác Mạnh. Đó là những lần bác ấy về thăm tỉnh nhà (Bắc
Cạn) và thăm học viên lớp cao cấp chính trị là người Bắc Cạn, đang theo
học ở Phân viện Hà Nội, khóa 1998-1999, trong đó có tôi. Trong thời gian
học ở Hà Nội, tôi còn được đến nhà bác Mạnh ở 66 Phan Đình Phùng (Hà
Nội) và dự lễ tân gia của bác ấy tại Na Rì (Bắc Cạn).
Tôi
nhớ, dịp ấy vào cuối năm 1998, bác Mạnh gọi điện mời ông Đàm Văn Thảo,
học cùng lớp với tôi, đang là Chủ tịch UBND huyện Na Rì, — quê bác Mạnh,
— đến nhà để bàn công chuyện.
Ông
Thảo không thạo đường Hà Nội nên rủ tôi đi cùng. Thời ấy, bác Mạnh đang
là Chủ Tịch Quốc Hội. Bữa đó, bác Mạnh mang ra chai rượu ngon, tự tay
rót rượu mời chúng tôi rất thân mật, rồi tham khảo ý kiến chúng tôi nên
tổ chức vào nhà mới như thế nào? Đó là ngôi nhà sàn, mới làm trên đất
nhà vợ (là bà Lý Thị Bang, đã quá cố) ở xã Lương Hạ, huyện Na Rì. Ngôi
biệt thự mà gia đình bác Mạnh đang ở là của Nhà nước. Trước đây, thời
làm Bí thư Tỉnh Ủy Bắc Thái, bác Mạnh đã làm ngôi nhà ở phường Trưng
Vương, TP Thái Nguyên; gần nhà cũ của tôi. Sau khi về Hà Nội, bác Mạnh
bán ngôi nhà này cho ông Ma Thanh Toàn, nguyên Tư Lệnh Quân khu 1.
Bác
Mạnh tâm sự với chúng tôi, làm xong ngôi nhà, phấn khởi lắm nhưng không
biết nên tổ chức lễ tân gia như thế nào? Nếu tổ chức linh đình, mời mọc
rộng rãi thì mang tiếng xa hoa lãng phí; mà không mời rộng rãi thì bà
con chê cười rằng, làm cán bộ Trung ương đã quên hết tình làng nghĩa
xóm. Dân mình, các chú còn lạ! Rồi bác Mạnh nhờ ông Thảo, nếu về quê, có
dịp tiếp xúc với bà con địa phương thì hãy giải thích cho mọi người
hiểu nỗi lòng của bác và cảm thông cho bác. Quay sang tôi, bác Mạnh bảo,
hôm ấy nếu Cao Thâm không bận học thì về dự với gia đình cho vui. Có lẽ
tiện thể, bác Mạnh mời xã giao, nhưng tiện xe, tôi cũng lên Na Rì, dự
lễ tân gia nhà bác Mạnh.
Lễ
tân gia của bác Mạnh hôm ấy thật giản dị, thân mật và ấm áp. Khách ở Hà
Nội chỉ một số người trong Văn phòng Quốc Hội, ngồi cùng chiếc xe 12
chỗ với gia đình bác Mạnh. Ở địa phương chỉ một số quan chức tới dự, còn
lại chủ yếu là bà con dân bản. Ngôi nhà này chính thức là nơi gia đình
bác Mạnh thờ cúng tổ tiên, bởi trước đó, ở quê, bác Mạnh không có nhà.
Hàng năm, vào ngày giỗ bố mẹ, hoặc ngày Tết, ngày Thanh Minh, gia đình
bác Mạnh thường về quê. Mỗi lần về quê, bác Mạnh phải nghỉ ở nhà khách
UBND huyện Na Rì.
Ngoài cùng, bên trái: Tác giả |
Vậy
mà, sau khi làm ngôi nhà sàn này, bác Mạnh bị nhiều tai tiếng. Rằng,
bác Mạnh cho xây dựng cả sân bay; cho làm cả con đường mấy chục cây số
từ TX Bắc Cạn về quê... Sự thật không phải vậy! Quê bác Mạnh ở xã Cường
Lợi — một xã heo hút, cách thị trấn Na Rì chừng 7 cây số. Tôi nhớ, năm
1994, khi làm phóng viên Báo Bắc Thái, tôi đã tháp tùng ông Nguyễn Ngô
Hai, Bí Thư Tỉnh ủy lên Cường Lợi. Đoạn đường về quê bác Mạnh vô cùng
bất khuất. Có lẽ do xa xôi, hiểm trở nên bác Mạnh cho làm ngôi nhà sàn
trên đất nhà vợ, ở xã Lương Hạ, gần thị trấn hơn. Ngôi nhà sàn của bác
Mạnh ở cạnh cánh đồng rộng. Nếu bác Mạnh về quê bằng trực thăng thì đỗ
đâu chẳng được, cần gì phải làm sân bay! Còn con đường từ TX Bắc Cạn về
quê bác Mạnh, qua đèo Áng Toòng, 16 cây số, rất hiểm trở. Thời làm Bí
Thư Tỉnh ủy Bắc Thái, bác Mạnh đã từng đi bộ chừng 40 cây số từ Chợ Mới,
qua Bình Văn, Yên Hân, Yên Cư mới về quê. Khi tỉnh Bắc Cạn thành lập
lại (năm 1997), con đường lên Ba Bể được ưu tiên làm trước, để khai thác
tiềm năng du lịch của Hồ Ba Bể; đường vào Na Rì, quê bác Mạnh làm sau
và đến nay, đoạn mở rộng đèo Áng Toòng, về quê bác Mạnh vẫn chưa làm
xong. Đồn vậy là oan cho bác Mạnh!
Tôi
có thời gian dài sống và làm báo ở Thái Nguyên, Bắc Cạn, thấy rằng,
đồng bào nơi đây rất kính trọng và tự hào về bác Mạnh. Đến nỗi, trong
các cuộc vui, người ta hát, nhại theo điệu “Hò sông Mã” thế này:
“Giấc mơ ngàn đời của dân Thanh Hóa
Dô tá dô tà!
Là cành rau má to bằng lá sen
Dô tá dô tà!
Giấc mơ ngàn đời của dân Thái Nguyên (hoặc Bắc Cạn)
Dô tá dô tà
Là Tổng Bí thư được làm hai khóa
Dô tá dô tà...”
Dân
Thái Nguyên, Bắc Cạn kính trọng, tự hào bác Mạnh như vậy nhưng trong
suốt 2 khóa làm Chủ tịch Quốc Hội, 2 khóa làm Tổng Bí thư, bác Mạnh chưa
“kéo” ai (và chưa hẳn bác Mạnh đã “kéo”) là người địa phương vào Trung
Ương; ngoài ông Mai Thế Dương, nguyên Bí Thư Tỉnh ủy Bắc Cạn, hiện là ủy
viên Trung Ương Đảng, Phó Chủ nhiệm UBKT Trung Ương và ông Nông Quốc
Tuấn, con trai bác Mạnh, hiện là Bí Thư Tỉnh ủy Bắc Giang. Bố mẹ bác
Mạnh (đã mất) sinh ba người con, bác Mạnh là cả. Người em trai là Nông
Văn Dung, nom rất giống bác Mạnh, là nông dân ở Na Rì; em gái (tôi không
nhớ tên) lấy chồng ở Ba Bể. Cuộc sống của họ cũng nghèo như nhiều người
dân ở vùng cao Bắc Cạn. Nếu ở vị trí như bác Mạnh, có thể lôi kéo anh
em, họ hàng, bạn bè vào những vị trí quan trọng, nhưng với bác Mạnh thì
tôi chưa thấy ai là con cháu, anh em của bác về Trung Ương, trừ con trai
bác, như đã nêu trên.
Nếu
ai đã được tiếp xúc với bác Mạnh, sẽ thấy bác cởi mở, ân cần và thận
trọng. Mọi lời nói, việc làm của bác đều cân nhắc kỹ lưỡng, chẳng hạn
như việc tổ chức tân gia kể trên. Vậy mà, mới đây, lướt trên mạng thấy
rộ lên chuyện bác Mạnh cưới vợ mới và những lời đồn đại không mấy tốt
đẹp về người vợ mới của bác. Tôi không muốn tin và cũng không muốn tò
mò, xúc phạm đến đời tư của người khác. Bây giờ bác Mạnh đã nghỉ hưu; vợ
bác Mạnh đã mất, Bác Mạnh có quyền được vun vén cho hạnh phúc riêng tư.
Nhưng trên các trang mạng xã hội cứ phơi bày ảnh và những thông tin làm
ảnh hưởng đến uy tín của bác và ảnh hưởng đến thanh danh của Đảng. Có
phải vậy không bác Mạnh? Hay bọn “đế quốc sài sang” lại dựng chuyện hòng
hạ thấp uy tín của bác như đã từng đặt điều bác cho xây sân bay, làm
đường? Hay là..?
Quy hoạch khai thác quặng bô-xít ở Đắc Nông
SỨC
ÉP CỦA
TRUNG QUỐC
VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA TBT
NÔNG ĐỨC MẠNH
Nguyên Phong
Mặc dầu bị
kiểm duyệt và khiển trách, từ
tháng 10.2008 đến nay, báo chí Việt
Nam đã công bố nhiều phát biểu,
kiến nghị của các nhà khoa học,
nghiên cứu, văn hoá và cách
mạng lão thành yêu cầu dừng
ngay dự án khai thác quặng bô-xít
ở Đắc Nông với Trung Quốc.
Bãi bùn đỏ Nalco Damanjodi (Ấn), sau khi khaithác bôxit
(không
cỏ mọc, không một loại vi sinh, không
sự sống).
Những tài
liệu được công bố đưa ra
những luận cứ xác đáng cho thấy
tai hại và nguy cơ về nhiều mặt
của dự án này : phi kinh tế, tiếp
tục bán rẻ tài nguyên, đi ngược
chủ trương phát triển bền vững,
gây ra những hậu quả ghê gớm là
phá hoại môi trường (làm cạn
kiện nguồn nước của một khu vực
đang đứng trươc nguy cơ thiếu
nước ; biến Đắc Nông thành
một vùng bùn đỏ), huỷ diện
không gian sinh tồn, xã hội và văn
hoá của đồng bào các dân
tộc hiện đang sinh sống ở Đắc
Nông (1).
Điều mà
các tài liệu ấy không dám nói
tới hoặc chỉ nói bóng gió là
nguy cơ về an ninh, quốc phòng : sự có
mặt của nhân viên Trung Quốc (hiện
là hàng trăm, sẽ lên tới từ
10 000 đến 20 000 người, có nhiều
dấu hiệu chứng tỏ đây là
những quân nhân mặc thường phục)
tại « nóc nhà của Đông
Dương », một khu vực mà ngay
thời kì thịnh trị nhất của chế
độ Pol Pot, Trung Quốc cũng chưa thể
có mặt.
Trong cuộc họp
báo ngày 4.2, thủ tướng Nguyễn
Tấn Dũng đã biện minh cho dự án
sai lầm nguy hiểm này bằng cách nói
rằng dự án này « đã
được nêu trong nghị quyết đại
hội X của Đàng và Bộ chính
trị đã ba lần nghe, kết luận về
phát triển bôxít Tây Nguyên ».
Nhưng, như Hoà Vân đã chỉ rõ
trong bài
Bô-xít
và Tây Nguyên (đã đăng trên Diễn Đàn), nếu
trong báo cáo kinh tế được Đại
hội X thông qua có một câu « căn
cứ vào nguồn lực và hiệu quả,
Nhà nước tập trung đầu tư
hoặc hỗ trợ đầu tư để
phát triển những sản phẩm quan trọng
của nền kinh tế, như : lọc hoá
dầu, khai thác quặng và luyện thép,
phân bón, hoá chất, xi măng, khai thác
bô - xít và sản xuất alumin, bột
giấy gắn với trồng rừng, một số
sản phẩm cơ khí chế tạo »,
thì chính Đại hội X ấy cũng
đã thông qua Bản báo cáo chính
trị (quan trọng hơn) trong đó không
còn chuyện bôxít nữa, mà thậm
chí còn nhấn mạnh « có
chính sách hạn chế xuất khẩu
tài nguyên thô ».
Tìm lại các
văn kiện của Đảng cộng sản
Việt Nam trong 10 năm qua, càng thấy rõ
phương án bôxít Tây Nguyên
này do Trung Quốc đề ra từ năm
2001 và liên tục làm sức ép
đối với Việt Nam. Và trong việc
này, trách nhiệm của cá nhân
tổng bí thư Nông Đức Mạnh là
không thể chối cãi.
Thật vậy,
trong « Tuyên
bố về hợp tác
toàn diện trong thế kỷ mới giữa
nước Cộng hòa Xã hội chủ
nghĩa Việt Nam và nước Công hòa
nhân dân Trung Hoa » công bố ngày
25.12.2000 (lúc đó tổng bí thư
ĐCS Việt Nam là Lê Khả Phiêu, ĐCS
Trung Quốc là Giang Trạch Dân) hoàn
toàn không nói gì tới khai thác
quặng bô xít, mà thậm chí còn
nhấn mạnh tới việc hợp tác khoa
học kĩ thuật trong cả lĩnh vực
« bảo vệ môi
trường »
(xem toàn văn tuyên bố trên mạng của Đại
sứ quán Việt Nam tại Hoa Kì).
Lần
đầu tiên danh từ bôxít xuất
hiện là ngày 3.12.2001 trong « Tuyên
bố chung Việt Nam - Trung Quốc nhân chuyến
thăm hữu nghị chính thức nước
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa của Tổng
Bí thư Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Cộng sản Việt Nam Nông Đức
Mạnh » (xem toàn văn : mạng của Đại
sứ quán Việt Nam tại Hoa Kì) cụ thể là
trong điểm thứ 6 :
« 6-
Hai bên
xác định trong thế kỷ mới cần
tiếp tục tăng cường và mở
rộng hợp tác kinh tế, thương mại,
khoa học-kỹ thuật và các lĩnh
vực khác giữa hai nước theo phương
châm bình đẳng, cùng có lợi,
chú trọng hiệu quả, bổ sung ưu
thế cho nhau, hình thức đa dạng, cùng
nhau phát triển; tích cực khuyến
khích và ủng hộ các doanh nghiệp
hai bên khai thác thêm thị trường
hàng hóa của hai nước, tăng cường
đầu tư và hợp tác, mở rộng
quy mô hợp tác kinh tế và kỹ
thuật, thực hiện các dự án hợp
tác đem lại hiệu quả kinh tế và
xã hội thiết thực.
Nhân dịp này,
hai bên đã ký Hiệp định
khung giữa Chính phủ nước Cộng
hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và
Chính phủ nước Cộng hòa Nhân
dân Trung Hoa về việc Trung Quốc cung cấp
cho Việt Nam khoản tín dụng ưu đãi
và Hiệp định hợp tác kinh tế
kỹ thuật giữa Chính phủ nước
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam và Chính phủ nước Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa ; và nhất trí sẽ
tích cực thúc đẩy các doanh
nghiệp hợp tác lâu dài trên dự
án bô-xít nhôm Đắc Nông.
Việt Nam nhiệt liệt chúc mừng
Trung Quốc trở thành thành viên Tổ
chức thương mại thế giới. Trung
Quốc tích cực ủng hộ Việt Nam
sớm gia nhập Tổ chức thương mại
thế giới. »
Trước hết,
một nhận xét về hình thức : cả
đoạn này nói về khuôn khổ
chung hợp tác hợp tác « kinh
tế,
thương mại, khoa học kĩ thuật và
các lĩnh vực khác », nhưng
bỗng nhiên lại gài một điểm
cụ thể, và chỉ một điểm đó
thôi « nhất
trí sẽ tích
cực thúc đẩy các doanh nghiệp
hợp tác lâu dài trên dự án
bô-xít nhôm Đắc Nông ».
Có lẽ đây là một văn kiện
độc nhất vô nhị trong lịch sử
ngoại giao quốc tế : tại bất cứ
một trường ngoại giao nào, nếu
một sinh viên viết một tuyên bố
chung như vậy, chắc sẽ bị đánh
trượt và đưa ra khỏi trường ngay lập tức.
Suối Tịnh Tây (Quảng Tây, Trung Quốc) trong xanh nay trở thành suối máu. Trung Quốc đã ngừng khai thác mỏ bô-xit ở đây và đang "khẩn trương" mở suối máu, bãi bùn đỏ ở Tây Nguyên
Vậy mà văn
kiện đó đã được kí
kết và công bố. Điều chắc
chắn là « dự án bô-xít
nhôm Đắc Nông » này không
do phía Việt Nam nêu ra, và « Bộ
chính trị » chưa hề « nghe »,
chứ chẳng nói gì là « kết
luận ». Vậy thì đó là
đề nghị của Trung Quốc. Câu hỏi
đặt ra : tổng bí thư Nông Đức
Mạnh có đọc thấy câu văn quái gở ấy trước khi đặt bút kí
không ?
Bốn năm sau,
tháng 11.2005, ông Hồ Cẩm Đào
sang thăm Việt Nam. Thông báo chung công
bố ngày 2.11.2005
(xem bản
tin của VietNamNet)
không thấy nói gì tới việc này
(2).
Tháng 11.2006, ông
Hồ Cẩm Đào sang Việt Nam chuyến
nữa. Lần này thông báo viết :
« Từng bước cải
thiện cơ
cấu mậu dịch, cố gắng thực hiện
phát triển cân bằng và tăng
trưởng bền vững thương mại hai
chiều. Tích cực ủng hộ và thúc
đẩy doanh nghiệp hai nước hợp tác
lâu dài và cùng có lợi trong
các lĩnh vực xây dựng cơ sở
hạ tầng, công nghiệp chế tạo,
khai thác nguồn nhân lực, năng lượng,
chế biến khoáng sản và các
lĩnh vực quan trọng khác. Khẩn
trương
bàn bạc và thực hiện các dự
án lớn như bô-xít Đắc
Nông… ». Một lần nữa, dự
án Đắc Nông lại được
nêu ra, và chỉ có nó được
kể tên. Hai chữ « tích cực »
của năm 2001 (khi ông Mạnh đặt bút
kí lần đầu) nay được thay
bằng « khẩn trương ».
Thôi thúc như đòi nợ, hay mệnh
lệnh, uy hiếp ?
Tóm lại, do
sự nhẹ dạ năm 2001, lãnh đạo
ĐCSVN, đứng đầu là tổng bí
thư Nông Đức Mạnh đã tự
đặt mình vào một thế lưỡng
nan : chịu sức ép của Trung Quốc, thực
hiện dự án Đắc Nông, thì
sẽ phạm một sai lầm và tội ác
to lớn, và sẽ mất hết uy tín
trong dân và trong đảng, và sẽ bị cộng đồng quốc tế khinh bỉ ; huỷ bỏ
dự án này, thì sẽ bị Trung
Quốc trả đũa, thậm chí dùng
những biện pháp săng-ta với những
cá nhân lãnh đạo.
Tuy nhiên, trong
mọi cuộc săng-ta, kẻ làm săng-ta
cũng phải tính tới lợi ích xa
hơn là lợi ích trước mắt.
Nếu đủ sáng suốt, ông tổng
bí thư, hay ít nhất các đồng
chí của ông trong Bộ chính trị,
cũng có thể kiên trì giải thích
cho ông Hồ Cẩm Đào thấy bàn
tay quá lộ liễu của Trung Quốc sẽ
gây ra những phản ứng dây chuyền
có thể làm cho họ mất cả chì
lẫn chài.
Về phần công
luận Việt Nam, tất nhiên không có
cách nào khác hơn là nghiêm
chỉnh tố cáo một sai lầm, một
tội ác, ở thời điểm này,
còn tránh được.
Nguyên Phong
(1)
Ngoài những bài đã đăng hay được giới thiệu trên Diễn Đàn, độc giả có
thể đọc thêm bài của Nguyễn
Trung trên Tuần Việt Nam và của Dương
Thanh Tùng trên mạng của Cơ quan thanh tra Chính phủ.
(2)
Theo những nguồn tin « nội bộ » đáng tin cậy, thì
trong chuyến đi này, ông Hồ Cẩm Đào đã yêu cầu gặp toàn thể Bộ chính
trị ĐCS Việt Nam. Tại cuộc gặp này, họ Hồ nói một câu đại ý : Trung
Quốc không can dự vào việc sắp xếp nhân sự sắp tới của Đại hội X, nhưng
chỉ yêu cầu « một điều », là « không thay
đổi tổng bí thư ». 5 tháng sau, ông Nông Đức Mạnh tái cử tổng
bí thư ĐCSVN (tháng 4.2006).
Nhận xét
Đăng nhận xét