ĐÃ THÀNH BIA MIỆNG? 3

 -Trăm năm bia đá thì mòn 
Ngàn năm bia miệng hãy còn trơ trơ!
-Nhưng mấy ai thoát được sự cám dỗ của danh lợi - quyền lực?


--------------------------------------------

(ĐC sưu tầm trên NET)




Cứ tưởng sẽ không bao giờ phải nhìn một khuôn mặt phương phi cười cợt, như cố khoe hai hàm răng chắc khỏe dưới cái đầu láng mướt, cái cằm bạnh trên cái cổ áo thắt cà vạt đỏ chót.

Nhưng hôm kia tôi lại phải nhìn khuôn mặt ấy đi dự khánh thành nhà máy thủy điện Sơn La. Đấy là khuôn mặt “nhà cách mạng lão” Nông Đức Mạnh, nguyên Tổng bí thư đảng cộng sản Việt Nam.
Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam trải hơn 82 năm có 9 người đã và đang làm Tổng bí thư.
Ông Trần Phú chỉ làm TBT 314 ngày, nhưng đã để lại bản “Luận cương chính trị” và lời nói bất hủ “Hãy giữ vững chí khí chiến đấu!”.
Ông Nguyễn Văn Cừ làm TBT gần hai năm, đã vạch ra quyết sách đúng đắn chống tả khuynh, đề phòng hữu khuynh, và mới 28 tuổi để lại tác phẩm “Tự chỉ trích” đáng nhớ.
Ông Trường Chinh hai lần làm TBT, lần trước vạch đường lối cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trong tác phẩm “Kháng chiến nhất định thắng lợi”, lần thứ hai đặt nền móng cho công cuộc đổi mới.
Ông Lê Duẩn làm TBT 16 năm 101 ngày, là cha đẻ của “Đề cương cách mạng miền Nam”, cũng là người cảnh báo kẻ thù lâu dài và nguy hiểm của Việt Nam là bá quyền Trung Quốc.
Ông Nguyễn Văn Linh làm TBT một nhiệm kỳ 5 năm, đã có một vai trò sáng giá trong cuộc phá bỏ nền kinh tế kế hoạch quan liêu bao cấp, mở đầu kinh tế thị trường, có “Những việc cần làm ngay” tháo gỡ kho khăn, cởi trói trí thức.
Ông Đỗ Mười làm TBT từ 1991- 1997, một quyền uy đủ sức răn đe.
Ông Lê Khả Phiêu làm TBT gần ba năm, làm được việc những người tiền nhiệm không muốn và không dám làm: dẹp bỏ một siêu cơ quan quyền lực là Ban cố vấn trung ương đảng, bớt đi một tầng nấc lãnh đạo quan liêu.
Bảy đời Tổng bí thư, bảy con người kể trên chưa ai hoàn hảo về tài năng, đức độ và nhân cách, nhưng mỗi người đều ghi một dấu ấn trong một giai đoạn lịch sử nhất định, đề lại một chân dung đậm nét với tư cách người “công dân số 1” của Việt Nam.
Ông Nông Đức Mạnh làm Tổng bí thư hai nhiệm kỳ 9 và 10, với thời gian 9 năm 272 ngày, đứng thứ 3 về thời gian sau Lê Duẩn, Trường Chinh. Ngày 12-1-2011 ông đọc bài diễn văn cuối cùng, rồi 8 ngày sau đó ra về ,để lại một câu hỏi chưa có lời giải đáp: “Nông Đức Mạnh, ông là ai?”.
Ai cũng biết Nông Đức Mạnh không trải qua tù đày, chinh chiến, không phải trăn trở lo toan từ hạt gạo, hạt muối, manh áo, manh quần đến viên đạn cho người lính ngoài mặt trận, không phải nhọc lòng cúi mặt ngửa tay xin từng đồng viện trợ của nước ngoài. Ông bước thẳng từ cửa rừng vào con đường chính khách, làm Chủ tịch Quốc hội rồi nhảy phắt lên ghế Tổng bí thư trong giai đoạn kinh tế Việt Nam sung mãn nhất, chính thức bước vào sự nghiệp đổi mới. Sự mất cơ vận của Việt Nam nhất là khi bước vào sự nghiệp đổi mới lại có một Tổng Bí thư phát huy vai trò đảng lãnh đạo quá yếu; thêm sự kém tâm, thấp tầm, lại bảo thủ và nhiều điểm yếu khác.
Khi Nông Đức Mạnh làm chủ tịch Quốc hội, ông khá đĩnh đạc trong những phiên họp Đại biểu quốc hội, đặc biệt là điều hành những phiên chất vấn ở nghị trường. Bấy giờ nhiều người ca ngợi ông và loan truyền những tin đồn như huyền thoại, có người không giấu giếm rằng đây chính là một gương mặt kế thừa!? Chính vì thế một nhà báo nước ngoài đã hỏi thẳng Nông Đức Mạnh: “Có phải ông là con Hồ Chí Minh ?”. Nông Đức Mạnh trả lời: “Ở Việt Nam ai cũng là con cháu Bác Hồ!”. Cái cách trả lời nước đôi có ý “bắt quàng” như vậy càng đẩy sự đồn đại đa chiều, phức tạp thêm. Thà nói thẳng ra bố tôi là Nông X cũng được! Và, có lẽ đấy cũng là một yếu tổ để ông thong dong bước lên vị trí số một của Đảng cộng sản Việt Nam.
Từ khi làm Tổng bí thư, Nông Đức Mạnh đã đánh mất niềm tin mọi người dành cho ông.
Suốt hai nhiệm kỳ ông không chủ động đưa ra được một chiến lược, sách lược kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao, và không có một tác phẩm lý luận đúng tầm mà với cương vị Tổng bí thư phải có. Ngược lại, chẳng những ông không sáng tạo mà không học thuộc bài của những người tiền nhiệm, cả về lý luận và thực tiễn.
Ông như một cái bóng mờ nhạt, có người gọi là “bù nhìn”, mọi việc khoán trắng cho Nhà nước, Chính phủ, còn ông đi thăm thú, điệu hạnh khắp nơi, chỗ nào cũng thuộc lòng để phát lên câu nói của Bác Hồ: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; thành công, thành công đại thành công”. Câu nói đó từ trẻ học sinh lớp 1 đến ông già ai chẳng thuộc. Nhưng đoàn kết với ai, đoàn kết thế nào, làm gì để thành công? Thì Nông Đức Mạnh không đưa ra được kế sách, quyết đoán nào thể hiện rõ vai trò lãnh đạo của một đảng cầm quyền, thực thi dân chủ phát huy sức mạnh tòn dân tộc thế nào cũng mờ nhạt nhất so với 7 vị TBT tiền bối…Ngươi fta nói, suốt hai nhiệm kỳ Nông Đức Mạnh làm TBT, Chính phủ như phủ chúa Trịnh, còn Đảng như cung vua thời Lê mạt !
Tôi đã sưu tầm sách báo cố tìm ra một nét riêng cựu TBT Nông Đức Mạnh, một lời nói thể hiện cái tâm cái tầm, một hành động thể hiện bản lĩnh để có thể tự hào về ông, nhưng thất vọng. Đọc những bài diễn văn, những lời phát biểu và ngay cả những bài báo ký tên ông toàn thấy hình thức sáo rỗng.
Cụ Tổng Nông cứ nhắc đi nhắc lại phải học tập và làm theo Hồ Chủ tịch, nhưng hình như bản thân ông lại không thực hiện được những lời dạy của Hồ Chủ tịch.
Trong hai nhiệm kỳ của ông để lại một “dấu ấn” rõ nhất là sự xuống cấp về đạo đức của cán bộ lãnh đạo. Ông đã làm biến đổi chất lượng của một đảng cấm quyền. Việc mua quan bán chức, chạy quy hoạch cán bộ không còn là hiện tượng cá biệt mà trở thành phổ biến. Việc ban phát quyền lực theo kiểu “nhất thân nhì thế tam chế tứ tiền” trở thành cẩm nang hành động. Tiêu cực, tham nhũng nảy sinh và phát triển ngay ở thượng tầng kiến trúc và tạo thành một hệ thống che đậy cho nhau từ trên xuống dưới từ trong ra ngoài. Ai giới thiệu, ai nâng đỡ những Bùi Tiến Dũng, Nguyễn Việt Tiến, những “con sâu” PMU 18? Chính là TBT Nông Đức Mạnh vào thời điểm xảy ra vụ việc đó. Ai tạo ra cái tiền lệ con nối ngôi cha? Đó chính là TBT Nông Đức Mạnh. Ộng ta tìm mọi cách đưa Nông Quốc Tuấn, một người con chỉ có cái vốn kiến thức mấy năm đi hợp tác lao đông ở nước ngoài vào Ban Thường vụ Trung ương đoàn, từ đó nhảy vùn vụt lên các nấc thang quyền lực.
Phải nói thẳng, cái gọi là “một bộ phận không nhỏ, suy thoái về chính trị, tha hóa về đạo đức lối sống” mà Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nói, đã được hình thành và dung dưỡng suốt mười năm với hai nhiệm kỳ Tổng bí thư của ông Nông Đức Mạnh.
Từ tháng 10 - 2010, Trung tướng Nguyễn Hòa, nguyên Ủy viên Trung ương đảng khóa V-VI-VII đã viết đơn tố cáo những sai lầm và suy thoái đạo đức của ông Nông Đức Mạnh, trong đó có đoạn: “Là người nắm chức vụ cao nhất trong đảng, nhưng đồng chí Nông Đức Mạnh đưa con của đồng chí không đủ tâm đủ tầm làm Chủ tịch Hội Liên hiệp thanh niên, và có ý định đưa làm Bí thư Thứ nhất Trung ương đoàn, vừa mưu cầu danh vọng vừa dụng ý gây dựng lực lượng của mình lâu dài”.
Không chỉ riêng Trung tướng Nguyễn Hòa, mà cả Đại tướng Võ Nguyên Giáp và nhiều người lên tiếng, tố cáo ông vụ “Sáu Sứ”, “Năm Cam”… nhưng tất cả đều chìm vào im lặng. Nông Đức Mạnh đã lấy quyền Tổng bí thư ém nhẹm đi.
Những người bị tố cáo chẳng những không bị điều tra, xử lý một cách nghiêm túc, dân chủ, công khai như điều lệ đảng mà trái lại, đươc trọng dụng. Vì dụ như Nông Quốc Tuấn được làm Bí thư Tỉnh ủy trước thềm đại hội XI của đảng, rồi giành một suất cơ cấu Ủy viên Trung ương đảng, mà dư luận cho rằng đó là sự mặc cả của Nông Đức Mạnh.
Người ngoài nói rất nhiều về sai trái, lỗi lầm của Nông Đức Mạnh đối với dân với nước, con ông lại “vạch áo cho người xem lưng” về nhân cách của một người cha, sự lừa đảo của bà dì là Đại biểu Quốc hội. Đọc lá thư của con gái ông gửi báo ‘Người cao tuổi’, tôi thấy xấu hổ thay cho ông.
Tất cả những điều tôi viết trên đây có lẽ góp được một phần nhỏ để trả lời câu hỏi: Nông Đức Mạnh - ông là ai? Cái lớn hơn, chính tôi cũng đang tìm câu trả lời là: Phải chăng Nông Đức Mạnh là người đã có công tạo những thuận lợi cho Trung Quốc nhảy vào tận ngã ba biên giới Đông Dương chiếm vị trí “thượng phong” về quân sự cả vùng để…khai thác Bauxte Tây Nguyên? Cả những khu rừng rộng lớn ở Lạng Sơn cho Trung Quốc thuê 50 năm chẳng lẽ không phải “anh thợ rừng, đội phó đội khai thác gỗ họ Nông” cho phép? Nhưng, từ 1991 váo Bộ Chính trị đến ngày 19-1-2011, suốt 20 năm hai khóa Chủ tịch Quốc hội, hai nhiệm kỳ Tổng bí thư, ông đã làm được những gì có giá trị và để lại dấu ấn cho dân cho nước. Nhất là việc buông lỏng vai trò lãnh đạo, làm mất sức chiến đầu và hạ uy tín Đảng nhanh như vậy, để rồi đến Đại hội XI phải chỉnh đốn, phải giải quyết hậu họa do hai khóa IX và X để lại, lo gạn đục khơi trong không xong, với vai trò người đứng đầu, do ông hay do ai? Câu hỏi đó ông Mạnh phải trả lời, ông không trả lời thì lịch sử sẽ trả lời thay ông.
Nhân dân khắp các vùng miền đều biết “công lao” của Tổng bí thư đời thứ 8 Nông Đức Mạnh là 10 năm đứng đầu vị trí lãnh đạo đảng cầm quyền đã kéo thụt lùi sự phát triển của đất nước cả trăm năm. Đến mức phát biểu bế mạc tại Hội nghị Trung ương 6 (khóa XI), Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nói: “Mặc dù nhiều khuyết điểm, hạn chế có từ các khoá trước, nhưng với trách nhiệm chính trị của cơ quan lãnh đạo hiện nay, Bộ Chính trị và từng Uỷ viên Bộ Chính trị tự nhận thấy sâu sắc trách nhiệm chính trị của mình trước những khuyết điểm, hạn chế đó”.
Một điều người viết bài này cần phải rạch ròi với Nông Đức Mạnh: Khi trả lời phỏng vấn báo nước ngoài, ông nói: “Ở Việt Nam ai cũng là con cháu Bác Hồ”, là một cách nói nước đôi, lấp lửng, không minh bạch và thiếu trung thực để ai hiểu thế nào thì hiểu, may có chút dính dáng trong dư luận nhằm phần nào đó giải quyết khâu oai chăng? Chẳng lẽ ông không biết cái cách trả lời lấp lửng thiếu trách nhiệm như thế với nhà báo nước ngoài vùa bất hiếu với ông bà, cha mẹ lại phạm thượng, công khai hạ uy tín Hồ Chủ tịch? Nhưng ông nói thế là không đúng. Tôi là một người Việt Nam, tôi khẳng định với ông rằng, tôi không phải là con cháu Bác Hồ. Tôi có ông bà cha mẹ đàng hoàng, sống trên mảnh đất Việt Nam, khi chết tôi theo ông bà cha mẹ tôi. Đó là sự thật.
Khổng Tử nói “Tu thân-tề gia - trị quốc - bình thiên hạ”, Nông Đức Mạnh đến già chưa tu nổi cái thân mà giao cho ông ta những 20 năm trọng trách “trị quốc, bình thiên hạ” thì thật là sai lầm.

M.D( 26-12-2012)
Nguồn: http://www.viet-studies.info/kinhte/NongDucManhLaAi_BVB.htm

Mar

Có phải vậy không? - Thưa bác Nông Đức Mạnh



Tại nhà riêng bác Mạnh ở Na Rì
Tôi biết bác Nông Đức Mạnh (nguyên Tổng Bí Thư) từ thời bác ấy đang làm Bí Thư Tỉnh ủy Bắc Thái. Gọi là biết, thực ra tôi chỉ nhòm thấy bác ấy chứ chưa được tiếp xúc, trò chuyện. Mãi đến khi tỉnh Bắc Thái chia tách thành Bắc Cạn và Thái Nguyên (1/1/1997), tôi được tổ chức điều động lên Bắc Cạn, sau đó bổ nhiệm làm Phó Tổng Biên Tập của tờ báo này, tôi mới có dịp được gặp bác Mạnh. Đó là những lần bác ấy về thăm tỉnh nhà (Bắc Cạn) và thăm học viên lớp cao cấp chính trị là người Bắc Cạn, đang theo học ở Phân viện Hà Nội, khóa 1998-1999, trong đó có tôi. Trong thời gian học ở Hà Nội, tôi còn được đến nhà bác Mạnh ở 66 Phan Đình Phùng (Hà Nội) và dự lễ tân gia của bác ấy tại Na Rì (Bắc Cạn).

Tôi nhớ, dịp ấy vào cuối năm 1998, bác Mạnh gọi điện mời ông Đàm Văn Thảo, học cùng lớp với tôi, đang là Chủ tịch UBND huyện Na Rì, — quê bác Mạnh, — đến nhà để bàn công chuyện.

Ông Thảo không thạo đường Hà Nội nên rủ tôi đi cùng. Thời ấy, bác Mạnh đang là Chủ Tịch Quốc Hội. Bữa đó, bác Mạnh mang ra chai rượu ngon, tự tay rót rượu mời chúng tôi rất thân mật, rồi tham khảo ý kiến chúng tôi nên tổ chức vào nhà mới như thế nào? Đó là ngôi nhà sàn, mới làm trên đất nhà vợ (là bà Lý Thị Bang, đã quá cố) ở xã Lương Hạ, huyện Na Rì. Ngôi biệt thự mà gia đình bác Mạnh đang ở là của Nhà nước. Trước đây, thời làm Bí thư Tỉnh Ủy Bắc Thái, bác Mạnh đã làm ngôi nhà ở phường Trưng Vương, TP Thái Nguyên; gần nhà cũ của tôi. Sau khi về Hà Nội, bác Mạnh bán ngôi nhà này cho ông Ma Thanh Toàn, nguyên Tư Lệnh Quân khu 1.

Bác Mạnh tâm sự với chúng tôi, làm xong ngôi nhà, phấn khởi lắm nhưng không biết nên tổ chức lễ tân gia như thế nào? Nếu tổ chức linh đình, mời mọc rộng rãi thì mang tiếng xa hoa lãng phí; mà không mời rộng rãi thì bà con chê cười rằng, làm cán bộ Trung ương đã quên hết tình làng nghĩa xóm. Dân mình, các chú còn lạ! Rồi bác Mạnh nhờ ông Thảo, nếu về quê, có dịp tiếp xúc với bà con địa phương thì hãy giải thích cho mọi người hiểu nỗi lòng của bác và cảm thông cho bác. Quay sang tôi, bác Mạnh bảo, hôm ấy nếu Cao Thâm không bận học thì về dự với gia đình cho vui. Có lẽ tiện thể, bác Mạnh mời xã giao, nhưng tiện xe, tôi cũng lên Na Rì, dự lễ tân gia nhà bác Mạnh.


Lễ tân gia của bác Mạnh hôm ấy thật giản dị, thân mật và ấm áp. Khách ở Hà Nội chỉ một số người trong Văn phòng Quốc Hội, ngồi cùng chiếc xe 12 chỗ với gia đình bác Mạnh. Ở địa phương chỉ một số quan chức tới dự, còn lại chủ yếu là bà con dân bản. Ngôi nhà này chính thức là nơi gia đình bác Mạnh thờ cúng tổ tiên, bởi trước đó, ở quê, bác Mạnh không có nhà. Hàng năm, vào ngày giỗ bố mẹ, hoặc ngày Tết, ngày Thanh Minh, gia đình bác Mạnh thường về quê. Mỗi lần về quê, bác Mạnh phải nghỉ ở nhà khách UBND huyện Na Rì.


Ngoài cùng, bên phải: Ông Đàm Văn Thảo
Ngoài cùng, bên trái: Tác giả
Vậy mà, sau khi làm ngôi nhà sàn này, bác Mạnh bị nhiều tai tiếng. Rằng, bác Mạnh cho xây dựng cả sân bay; cho làm cả con đường mấy chục cây số từ TX Bắc Cạn về quê... Sự thật không phải vậy! Quê bác Mạnh ở xã Cường Lợi — một xã heo hút, cách thị trấn Na Rì chừng 7 cây số. Tôi nhớ, năm 1994, khi làm phóng viên Báo Bắc Thái, tôi đã tháp tùng ông Nguyễn Ngô Hai, Bí Thư Tỉnh ủy lên Cường Lợi. Đoạn đường về quê bác Mạnh vô cùng bất khuất. Có lẽ do xa xôi, hiểm trở nên bác Mạnh cho làm ngôi nhà sàn trên đất nhà vợ, ở xã Lương Hạ, gần thị trấn hơn. Ngôi nhà sàn của bác Mạnh ở cạnh cánh đồng rộng. Nếu bác Mạnh về quê bằng trực thăng thì đỗ đâu chẳng được, cần gì phải làm sân bay! Còn con đường từ TX Bắc Cạn về quê bác Mạnh, qua đèo Áng Toòng, 16 cây số, rất hiểm trở. Thời làm Bí Thư Tỉnh ủy Bắc Thái, bác Mạnh đã từng đi bộ chừng 40 cây số từ Chợ Mới, qua Bình Văn, Yên Hân, Yên Cư mới về quê. Khi tỉnh Bắc Cạn thành lập lại (năm 1997), con đường lên Ba Bể được ưu tiên làm trước, để khai thác tiềm năng du lịch của Hồ Ba Bể; đường vào Na Rì, quê bác Mạnh làm sau và đến nay, đoạn mở rộng đèo Áng Toòng, về quê bác Mạnh vẫn chưa làm xong. Đồn vậy là oan cho bác Mạnh!

Tôi có thời gian dài sống và làm báo ở Thái Nguyên, Bắc Cạn, thấy rằng, đồng bào nơi đây rất kính trọng và tự hào về bác Mạnh. Đến nỗi, trong các cuộc vui, người ta hát, nhại theo điệu “Hò sông Mã” thế này:

“Giấc mơ ngàn đời của dân Thanh Hóa
Dô tá dô tà!
Là cành rau má to bằng lá sen
Dô tá dô tà!
Giấc mơ ngàn đời của dân Thái Nguyên (hoặc Bắc Cạn)
Dô tá dô tà
Là Tổng Bí thư được làm hai khóa
Dô tá dô tà...”

Dân Thái Nguyên, Bắc Cạn kính trọng, tự hào bác Mạnh như vậy nhưng trong suốt 2 khóa làm Chủ tịch Quốc Hội, 2 khóa làm Tổng Bí thư, bác Mạnh chưa “kéo” ai (và chưa hẳn bác Mạnh đã “kéo”) là người địa phương vào Trung Ương; ngoài ông Mai Thế Dương, nguyên Bí Thư Tỉnh ủy Bắc Cạn, hiện là ủy viên Trung Ương Đảng, Phó Chủ nhiệm UBKT Trung Ương và ông Nông Quốc Tuấn, con trai bác Mạnh, hiện là Bí Thư Tỉnh ủy Bắc Giang. Bố mẹ bác Mạnh (đã mất) sinh ba người con, bác Mạnh là cả. Người em trai là Nông Văn Dung, nom rất giống bác Mạnh, là nông dân ở Na Rì; em gái (tôi không nhớ tên) lấy chồng ở Ba Bể. Cuộc sống của họ cũng nghèo như nhiều người dân ở vùng cao Bắc Cạn. Nếu ở vị trí như bác Mạnh, có thể lôi kéo anh em, họ hàng, bạn bè vào những vị trí quan trọng, nhưng với bác Mạnh thì tôi chưa thấy ai là con cháu, anh em của bác về Trung Ương, trừ con trai bác, như đã nêu trên.

Nếu ai đã được tiếp xúc với bác Mạnh, sẽ thấy bác cởi mở, ân cần và thận trọng. Mọi lời nói, việc làm của bác đều cân nhắc kỹ lưỡng, chẳng hạn như việc tổ chức tân gia kể trên. Vậy mà, mới đây, lướt trên mạng thấy rộ lên chuyện bác Mạnh cưới vợ mới và những lời đồn đại không mấy tốt đẹp về người vợ mới của bác. Tôi không muốn tin và cũng không muốn tò mò, xúc phạm đến đời tư của người khác. Bây giờ bác Mạnh đã nghỉ hưu; vợ bác Mạnh đã mất, Bác Mạnh có quyền được vun vén cho hạnh phúc riêng tư. Nhưng trên các trang mạng xã hội cứ phơi bày ảnh và những thông tin làm ảnh hưởng đến uy tín của bác và ảnh hưởng đến thanh danh của Đảng. Có phải vậy không bác Mạnh? Hay bọn “đế quốc sài sang” lại dựng chuyện hòng hạ thấp uy tín của bác như đã từng đặt điều bác cho xây sân bay, làm đường? Hay là..?

Quy hoạch khai thác quặng bô-xít ở Đắc Nông


SỨC ÉP CỦA TRUNG QUỐC
VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA TBT NÔNG ĐỨC MẠNH


Nguyên Phong


Mặc dầu bị kiểm duyệt và khiển trách, từ tháng 10.2008 đến nay, báo chí Việt Nam đã công bố nhiều phát biểu, kiến nghị của các nhà khoa học, nghiên cứu, văn hoá và cách mạng lão thành yêu cầu dừng ngay dự án khai thác quặng bô-xít ở Đắc Nông với Trung Quốc.
bundo
Bãi bùn đỏ Nalco Damanjodi (Ấn), sau khi khaithác bôxit
(không cỏ mọc, không một loại vi sinh, không sự sống).
Những tài liệu được công bố đưa ra những luận cứ xác đáng cho thấy tai hại và nguy cơ về nhiều mặt của dự án này : phi kinh tế, tiếp tục bán rẻ tài nguyên, đi ngược chủ trương phát triển bền vững, gây ra những hậu quả ghê gớm là phá hoại môi trường (làm cạn kiện nguồn nước của một khu vực đang đứng trươc nguy cơ thiếu nước ; biến Đắc Nông thành một vùng bùn đỏ), huỷ diện không gian sinh tồn, xã hội và văn hoá của đồng bào các dân tộc hiện đang sinh sống ở Đắc Nông (1).
Điều mà các tài liệu ấy không dám nói tới hoặc chỉ nói bóng gió là nguy cơ về an ninh, quốc phòng : sự có mặt của nhân viên Trung Quốc (hiện là hàng trăm, sẽ lên tới từ 10 000 đến 20 000 người, có nhiều dấu hiệu chứng tỏ đây là những quân nhân mặc thường phục) tại « nóc nhà của Đông Dương », một khu vực mà ngay thời kì thịnh trị nhất của chế độ Pol Pot, Trung Quốc cũng chưa thể có mặt.
Trong cuộc họp báo ngày 4.2, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã biện minh cho dự án sai lầm nguy hiểm này bằng cách nói rằng dự án này « đã được nêu trong nghị quyết đại hội X của Đàng và Bộ chính trị đã ba lần nghe, kết luận về phát triển bôxít Tây Nguyên ». Nhưng, như Hoà Vân đã chỉ rõ trong bài Bô-xít và Tây Nguyên (đã đăng trên Diễn Đàn), nếu trong báo cáo kinh tế được Đại hội X thông qua có một câu « căn cứ vào nguồn lực và hiệu quả, Nhà nước tập trung đầu tư hoặc hỗ trợ đầu tư để phát triển những sản phẩm quan trọng của nền kinh tế, như : lọc hoá dầu, khai thác quặng và luyện thép, phân bón, hoá chất, xi măng, khai thác bô - xít và sản xuất alumin, bột giấy gắn với trồng rừng, một số sản phẩm cơ khí chế tạo », thì chính Đại hội X ấy cũng đã thông qua Bản báo cáo chính trị (quan trọng hơn) trong đó không còn chuyện bôxít nữa, mà thậm chí còn nhấn mạnh « có chính sách hạn chế xuất khẩu tài nguyên thô ».
Tìm lại các văn kiện của Đảng cộng sản Việt Nam trong 10 năm qua, càng thấy rõ phương án bôxít Tây Nguyên này do Trung Quốc đề ra từ năm 2001 và liên tục làm sức ép đối với Việt Nam. Và trong việc này, trách nhiệm của cá nhân tổng bí thư Nông Đức Mạnh là không thể chối cãi.
Thật vậy, trong « Tuyên bố về hợp tác toàn diện trong thế kỷ mới giữa nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Công hòa nhân dân Trung Hoa » công bố ngày 25.12.2000 (lúc đó tổng bí thư ĐCS Việt Nam là Lê Khả Phiêu, ĐCS Trung Quốc là Giang Trạch Dân) hoàn toàn không nói gì tới khai thác quặng bô xít, mà thậm chí còn nhấn mạnh tới việc hợp tác khoa học kĩ thuật trong cả lĩnh vực « bảo vệ môi trường » (xem toàn văn tuyên bố trên mạng của Đại sứ quán Việt Nam tại Hoa Kì).
Lần đầu tiên danh từ bôxít xuất hiện là ngày 3.12.2001 trong « Tuyên bố chung Việt Nam - Trung Quốc nhân chuyến thăm hữu nghị chính thức nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa của Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nông Đức Mạnh » (xem toàn văn : mạng của Đại sứ quán Việt Nam tại Hoa Kì) cụ thể là trong điểm thứ 6 :
« 6- Hai bên xác định trong thế kỷ mới cần tiếp tục tăng cường và mở rộng hợp tác kinh tế, thương mại, khoa học-kỹ thuật và các lĩnh vực khác giữa hai nước theo phương châm bình đẳng, cùng có lợi, chú trọng hiệu quả, bổ sung ưu thế cho nhau, hình thức đa dạng, cùng nhau phát triển; tích cực khuyến khích và ủng hộ các doanh nghiệp hai bên khai thác thêm thị trường hàng hóa của hai nước, tăng cường đầu tư và hợp tác, mở rộng quy mô hợp tác kinh tế và kỹ thuật, thực hiện các dự án hợp tác đem lại hiệu quả kinh tế và xã hội thiết thực. 
Nhân dịp này, hai bên đã ký Hiệp định khung giữa Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về việc Trung Quốc cung cấp cho Việt Nam khoản tín dụng ưu đãi và Hiệp định hợp tác kinh tế kỹ thuật giữa Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ; và nhất trí sẽ tích cực thúc đẩy các doanh nghiệp hợp tác lâu dài trên dự án bô-xít nhôm Đắc Nông. 
Việt Nam nhiệt liệt chúc mừng Trung Quốc trở thành thành viên Tổ chức thương mại thế giới. Trung Quốc tích cực ủng hộ Việt Nam sớm gia nhập Tổ chức thương mại thế giới. »
Trước hết, một nhận xét về hình thức : cả đoạn này nói về khuôn khổ chung hợp tác hợp tác « kinh tế, thương mại, khoa học kĩ thuật và các lĩnh vực khác », nhưng bỗng nhiên lại gài một điểm cụ thể, và chỉ một điểm đó thôi « nhất trí sẽ tích cực thúc đẩy các doanh nghiệp hợp tác lâu dài trên dự án bô-xít nhôm Đắc Nông ». Có lẽ đây là một văn kiện độc nhất vô nhị trong lịch sử ngoại giao quốc tế : tại bất cứ một trường ngoại giao nào, nếu một sinh viên viết một tuyên bố chung như vậy, chắc sẽ bị đánh trượt và đưa ra khỏi trường ngay lập tức.
tinhtay
Suối Tịnh Tây (Quảng Tây, Trung Quốc) trong xanh nay trở thành suối máu. Trung Quốc đã ngừng khai thác mỏ bô-xit ở đây và đang "khẩn trương" mở suối máu, bãi bùn đỏ ở Tây Nguyên
Vậy mà văn kiện đó đã được kí kết và công bố. Điều chắc chắn là « dự án bô-xít nhôm Đắc Nông » này không do phía Việt Nam nêu ra, và « Bộ chính trị » chưa hề « nghe », chứ chẳng nói gì là « kết luận ». Vậy thì đó là đề nghị của Trung Quốc. Câu hỏi đặt ra : tổng bí thư Nông Đức Mạnh có đọc thấy câu văn quái gở ấy trước khi đặt bút kí không ?
Bốn năm sau, tháng 11.2005, ông Hồ Cẩm Đào sang thăm Việt Nam. Thông báo chung công bố ngày 2.11.2005 (xem bản tin của VietNamNet) không thấy nói gì tới việc này (2).
Tháng 11.2006, ông Hồ Cẩm Đào sang Việt Nam chuyến nữa. Lần này thông báo viết : « Từng bước cải thiện cơ cấu mậu dịch, cố gắng thực hiện phát triển cân bằng và tăng trưởng bền vững thương mại hai chiều. Tích cực ủng hộ và thúc đẩy doanh nghiệp hai nước hợp tác lâu dài và cùng có lợi trong các lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng, công nghiệp chế tạo, khai thác nguồn nhân lực, năng lượng, chế biến khoáng sản và các lĩnh vực quan trọng khác. Khẩn trương bàn bạc và thực hiện các dự án lớn như bô-xít Đắc Nông… ». Một lần nữa, dự án Đắc Nông lại được nêu ra, và chỉ có nó được kể tên. Hai chữ « tích cực » của năm 2001 (khi ông Mạnh đặt bút kí lần đầu) nay được thay bằng « khẩn trương ». Thôi thúc như đòi nợ, hay mệnh lệnh, uy hiếp ?
Tóm lại, do sự nhẹ dạ năm 2001, lãnh đạo ĐCSVN, đứng đầu là tổng bí thư Nông Đức Mạnh đã tự đặt mình vào một thế lưỡng nan : chịu sức ép của Trung Quốc, thực hiện dự án Đắc Nông, thì sẽ phạm một sai lầm và tội ác to lớn, và sẽ mất hết uy tín trong dân và trong đảng, và sẽ bị cộng đồng quốc tế khinh bỉ ; huỷ bỏ dự án này, thì sẽ bị Trung Quốc trả đũa, thậm chí dùng những biện pháp săng-ta với những cá nhân lãnh đạo.
Tuy nhiên, trong mọi cuộc săng-ta, kẻ làm săng-ta cũng phải tính tới lợi ích xa hơn là lợi ích trước mắt. Nếu đủ sáng suốt, ông tổng bí thư, hay ít nhất các đồng chí của ông trong Bộ chính trị, cũng có thể kiên trì giải thích cho ông Hồ Cẩm Đào thấy bàn tay quá lộ liễu của Trung Quốc sẽ gây ra những phản ứng dây chuyền có thể làm cho họ mất cả chì lẫn chài.
Về phần công luận Việt Nam, tất nhiên không có cách nào khác hơn là nghiêm chỉnh tố cáo một sai lầm, một tội ác, ở thời điểm này, còn tránh được.

Nguyên Phong


(1) Ngoài những bài đã đăng hay được giới thiệu trên Diễn Đàn, độc giả có thể đọc thêm bài của Nguyễn Trung trên Tuần Việt Nam và của  Dương Thanh Tùng trên mạng của Cơ quan thanh tra Chính phủ.
(2) Theo những nguồn tin « nội bộ » đáng tin cậy, thì trong chuyến đi này, ông Hồ Cẩm Đào đã yêu cầu gặp toàn thể Bộ chính trị ĐCS Việt Nam. Tại cuộc gặp này, họ Hồ nói một câu đại ý : Trung Quốc không can dự vào việc sắp xếp nhân sự sắp tới của Đại hội X, nhưng chỉ yêu cầu « một điều », là « không thay đổi tổng bí thư ». 5 tháng sau, ông Nông Đức Mạnh tái cử tổng bí thư ĐCSVN (tháng 4.2006).

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

TT&HĐ I - 9/d

MUÔN MẶT ĐỜI THƯỜNG III/104

MỌC CÁNH