TT&HĐ V - 49/k



                             Toán học ngôn ngữ của vũ trụ : Hình học trong đời sống hằng ngày

PHẦN V:     THỐNG NHẤT 
"Khoa học là một sức mạnh trí tuệ lớn nhất, nó dốc hết sức vào việc phá vỡ xiềng xích thần bí đang cầm cố chúng ta."
Gorky 
 
"Mỗi một thành tựu lớn của nhà khoa học chính là xuất phát từ những ảo tưởng táo bạo". 
JohnDewey
"Chân lý chỉ có một, nó không nằm trong tôn giáo, mà nằm trong khoa học."
Leonardo da Vinci
 
"Cái khó hiểu nhất chính là hiểu được thế giới" 
Albert Einstein
 "Có hai cách để sống trên đời: một là xem như không có phép lạ nào cả, hai là xem tất cả đều là phép lạ".
Albert Einstein
      
“Chính qua cuộc đấu tranh nhằm thống nhất một cách hợp lý cái đa dạng mà đã đạt được những thành công lớn nhất, dù rằng chính ý đồ đó có thể gây ra những nguy cơ lớn nhất để trở thành con mồi của ảo vọng”.
Albert Einstein


“Người nhìn thấy cái đa dạng mà không thấy cái đồng nhất thì cứ trôi lăn trong cõi chết”.

Upanishad       


  CHƯƠNG X (XXXXIX): LỜI "LẢM NHẢM" SAU CÙNG
 
“Điều gì đã thổi sức sống vào các phương trình và làm cho chúng có thể mô tả Vũ Trụ?”
Stephen Hawking

“Không có thiên tài nào mà không pha lẫn sự điên rồ trong đó”
Arixtốt

“Thiên tài khác ngu ngốc ở chỗ thiên tài có giới hạn”
A. Anhxtanh

“Nếu thực tại không tương đồng với lý thuyết, hãy thay đổi thực tại”
A. Anhxtanh

“Có thật nhiều thứ để tìm hiểu, nhưng cũng thật ít thứ đã được tìm hiểu thấu đáo”
Robert A. Heinlein

“Từ Vũ Trụ, tôi không còn nhìn thấy biên giới các quốc gia! Trái đất xanh một màu xanh vĩnh cửu”. Gagarin

“...Đặt cược cho một vũ trụ duy nhất và sự tồn tại của một nguyên lý sáng tạo chịu trách nhiệm cho việc điều chỉnh Vũ Trụ một cách vô cùng chính xác... Nguyên lý này không đại diện bởi một vị Chúa rậm râu; đó là một nguyên lý phiếm thần biểu hiện qua các định luật của tự nhiên.”
Trịnh Xuân Thuận

“Chắc chắn rằng, tựa như tình cảm tôn giáo, niềm tin rằng thế giới là lý tính, hay ít nhất là có thể hiểu được, chính là cơ sở của mọi công trình khoa học. Niềm tin này tạo nên quan niệm của tôi về Chúa. Đó là quan niệm của Spinoza”. 
Albert Einstein

"Có một thứ chúng ta thấy ngay từ khi chào đời và hầu như thường xuyên trong cuộc đời, nhưng chúng ta vẫn tưởng là chưa từng thấy, đó là không gian. Có một thứ chúng ta tưởng thực sự tồn tại như dòng trôi cuốn chúng ta đi nhưng không biết trôi về đâu, đó là thời gian. Ngày nay, chưa ai nhận thức được hoặc nhận thức vẫn sai lầm về chúng. Chỉ khi nào loài người nhận thức chính xác và cặn kẽ hai thứ thiết yếu ấy, thì nhiệm vụ khoa học của loài người mới có cơ may hoàn thành".
TC
 
"Sau nhiều năm nghiền ngẫm, ở chặng cuối cuộc đời tôi mới ngộ ra: Vũ Trụ không hỗn độn như chúng ta tưởng mà là một khối gắn kết thống nhất vĩ đại, không phải vì phục tùng ý Chúa (làm gì có Chúa!) mà vì chính bản thân nó: Tồn Tại. Vạn vật trong lòng nó luôn vận động để tránh Hư Vô, nghĩa là vận động cho nó và vì nó, luôn tự giác răm rắp tuân theo một nguyên lý chung nhất và duy nhất: nguyên lý Tự Nhiên". 
 NTT

""Của dân,do dân và vì dân" là nguyên tắc cơ bản của mọi nhà nước trong việc duy trì và bảo toàn xã hội chứ không phải sở hữu riêng của NNVN". 
NTT




(Tiếp theo)
 

Chúng ta quay ngắm lại đoạn đường đã đi qua mà lòng bất giác tự hào. Sự hoang tưởng thực sự là không có bao lực nào ngăn cản được. Hỡi những gã nhà quê, những tiện dân nghèo hèn, những thân phận quanh năm bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, hãy hoang tưởng đi, vì hoang tưởng là phương tiện có một không hai được Tạo Hóa ban tặng để có thể chè chén mọi của ngon vật lạ, để chu du khắp chân trời góc bể, để nhìn ngắm tận mặt, sờ tận tay bất cứ kỳ quan nào của Vũ Trụ (Trái Đất không ăn nhằm gì!) mà không phải… tốn một đồng xu cắc bạc nào mà ngay những đám nhà giàu nhiều tiền lắm của, có muốn cũng đành chào thua.
Viết đến đây, chúng ta chợt nhớ tới Donki Hotê. Có lẽ giờ này lão ta vẫn đang mải mê gần gũi với một lỗ đen khổng lồ nào đó ở thế giới cực vĩ mô. Trên đời này có lẽ chỉ có hai người được tôn vinh là bậc thánh về tài hoang tưởng và là những kẻ đi chinh phục bạt mạng nhất nếu xét về lòng dũng cảm. Một người chính là Donki Hotê, xứ Mantra, người lập nên biết bao nhiêu chiến tích từ toàn những thất bại ê chề. Người thứ hai là Tôn Ngộ Không ở xứ Hoa Quả Sơn, người ngược lại, bách chiến bách thắng nhưng không được ghi dấu bất cứ chiến công nào.
Nhiều người cứ mỗi lần gặp họ lại ôm bụng cười lăn cười bò. Không cười sao được khi hai người, dù ở những nghịch cảnh rất khác nhau, đều đóng vai những anh hề hết sức tài tình. Riêng đối với chúng ta thì không chỉ có thế. Sâu thẳm trong tận đáy lòng mình, chúng ta coi họ là những bậc vĩ nhân và cố công học đòi về sự hoang tưởng cực kỳ khoáng đạt, về lòng nhân hậu, về sự quả cảm có một không hai, trước mọi hiểm nguy. Chúng ta mượn vài lời của những danh nhân để nói về “hai lão” ấy:
- “Tôi hoàn toàn đồng tình với những nhà văn cho rằng, đặc điểm nổi bật nhất phân biệt sự khác nhau giữa con người và loài vật chính là ý thức về đạo đức hay lương tâm mà quyền lực được thể hiện trong một chữ ngắn ngủi nhưng đầy sức truyền cảm mạnh mẽ: chữ “phải”, chính cái bản tính kín đáo đó khiến con người có thể hy sinh không chút do dự cuộc sống của mình cho những người xung quanh. Chính cái bản tính đó buộc người ta phải suy nghĩ sâu sắc về sự công bằng và nghĩa vụ để hiến thân cho sự nghiệp vĩ đại. Bản tính đó là đặc điểm cao thượng nhất của con người.”
S. Dác Uyn (Anh)
- “Không có sự vĩ đại ở nơi nào không có sự giản dị, lòng tốt và sự thật.”
L. Tônxtôi (Nga)
- “Những phẩm chất trong tâm hồn không thể bị tổn hại vì vẻ ngoài xấu xí, trong khi vẻ đẹp của tâm hồn cũng ánh cả ra bên ngoài làm vẻ ngoài cũng trở nên đẹp đẽ.”
L. Xê-nê-ca (La Mã)
- “Người nào có tấm lòng vàng thì dù có mặc quần áo nghèo khổ cũng vẫn cao quí.”
G. Phây-tác (Đức)
- “Không có thiên tài nào mà không pha lẫn sự điên rồ trong đó.”
Arixtốt (Hy Lạp)
- “Can đảm không thể bắt chước được, ấy là một đức tính thoát ra ngoài vòng giả tạo.”
Napoleon (Pháp)
Đúng là không thể bắt chước được về lòng can đảm. Nhưng dũng cảm là gì? Thật khó nói! Thú thực là chúng ta cũng chỉ cảm nhận được nó một cách mơ hồ mà thôi. Một kẻ phóng xe bạt mạng trên đường phố có gọi là dũng cảm không? Sợ độ cao, không dám đi máy bay có phải là hèn nhát không? Có một câu chuyện châm ngôn thế này: ngày xưa, Tô Đông Pha (đại văn hào Trung Quốc) gặp một người bạn bên một dòng sông lớn có một cái cầu mỏng manh bắc ngang. Lúc đó là tiết đông, trời thì lạnh, nước sông chảy xiết cuồn cuộn và gió thổi vun vút, dòm chiếc cầu lắc lư, không ai dám qua. Người bạn trỏ chiếc cầu hỏi Tô Đông Pha rằng có dám đi qua cầu rồi quay trở về không. Tô Đông Pha lắc đầu nói không dám. Người bạn hiền đi qua cầu và quay trở về, sắc mặt có vẻ thích thú và tự đắc hỏi Tô Đông Pha: “Bạn thấy tôi thế nào?”. Tô Đông Pha cười nhẹ nhàng mà rằng: “Sau này bạn sẽ trở thành kẻ giết người! Trên đời này sinh mạng là thứ quí giá nhất! Sinh mạng của bạn, bạn còn không tiếc thì bạn tiếc mạng ai?...” Thật là một câu trả lời tham thúy và chí lý!
***
Tôi choàng tỉnh dậy… Đã 6 giờ sáng! Lâu lắm rồi, đêm qua mới được một giấc ngủ thẳng giấc, ngon lành...!
Nắng ban mai tràn ngập, chan hòa. Đã gần đến Noel nên tiết trời buổi sáng hơi se lạnh. Ở xứ sở chỉ có hai mùa mưa nắng này, những buổi sáng sớm mai như vậy thường gợi lòng nhớ về những mùa đông đã trôi xa vời đâu đó trong dĩ vãng; những mùa đông của tuổi thơ lớn lên trên đất Bắc, chập chững ở thành phố cảng Hải Phòng, tung tăng đến trường trong thủ đô Hà Nội, mò cua bắt cá chăn trâu ở những vùng quê ngày sơ tán, những mùa đông lạnh thấu xương, co ro cúm rúm trong bộ quần áo lính thùng thình một thời thiếu sinh quân ở Quế Lâm (Trung Quốc), những mùa đông tuyết rơi trắng xóa đời sinh viên với hàng dấu chân bên nhau của mối tình đầu thiết tha mà dang dở đã in sâu, hóa thạch trong ký ức đến tận bây giờ. Đã ngót nghét 30 năm nay không còn gặp mùa đông. Còn dịp không hay là vĩnh biệt? Thật là khó tin, trong một thời đại mà khoảng cách không còn là điều phải bận tâm nữa lại có một con người chẳng biết bao giờ mới gặp lại mùa đông, dù mùa đông hiện diện rất gần, độ hơn một giờ bay mà thôi.
Số phận đã đưa đẩy tôi đến vùng đất trời thừa mưa dư nắng nhưng lại thiếu Xuân vắng Đông này và chôn chặt luôn kiếp đời thèm khát phiêu lãng trong thành phố Sài Gòn, thành phố của thoắt mưa thoắt nắng, thành phố có những chiều đầy gió xôn xao lá rụng và những sớm nắng trong, tinh khiết đến se lạnh. Số phận đã bắt đôi chân của tôi, vốn chỉ muốn tung tăng chạy nhảy thăm thú thế gian, bị gò bó chung thân thành đôi chân bon chen, quanh quẩn những đường cùng, hẻm cụt mưu kế sinh nhai, trốn chạy nghèo hèn đến bở hơi tai. Ôi đôi chân khốn khổ, sau bao năm bươn chải, giờ vẫn còn phải cố đứng vững để cưu mang một gia cảnh đáng thương, một cơ thể đang rã rời với linh hồn hoảng loạn và trĩu nặng cô buồn.
Trời sáng nay se lạnh. Nhưng nắng thì cứ chan hòa. Tôi có cảm tưởng rằng nếu không có cái chan hòa ấy của nắng thì sáng nay đích thực là một sáng lập đông. Tôi ra sân hướng về phía mặt trời và bắt đầu hít thở khí công. Chỉ mới cách đây 2 năm thôi, tôi chẳng bao giờ tin vào những điều như gọi hồn, người phát quang, con mắt thứ ba hay sự tiên tri, trò chuyện với người đã khuất… Nhưng giờ đây quan niệm của tôi đã thay đổi cơ bản. Cách nhìn duy vật biện chứng sẽ trở nên cực đoan và bảo thủ nếu không chấp nhận những hiện tượng thực tại mang tính tâm linh. Sự huyền bí là tất yếu hiện hữu trước một nhận thức chưa hoàn thiện về thế giới khách quan. Thực hành khí công không phải vô cớ mà tồn tại được suốt mấy ngàn năm nay. Sự huyền diệu của nó đối với sức khỏe con người ngày càng được chứng thực tuy chưa ai giải thích được cặn kẽ căn nguyên của nó. Chúng ta cho rằng một tư duy sáng suốt là một tư duy thừa nhận tâm linh nhưng không mê tín dị đoan!
Tôi đã tập thở khí công được hai năm và đã cảm nhận được sự lan tỏa của “khí” trong cơ thể. Mỗi buổi sáng, sau 15 phút tập hít thở khí công, tôi cảm thấy sảng khoái, cơ thể nhẹ lâng lâng và tâm hồn thanh thản lạ thường. Đó là sự thực! Các bạn hãy thử đi, thử một cách thành tâm rồi các bạn sẽ cảm nhận được rất cụ thể sinh khí của ban mai, thậm chí còn ngửi thấy được cả mùi thơm năng lượng tỏa ra từ bông hoa mặt trời nữa.
Sau khi làm những điều cần thiết của một buổi sáng xong, tôi thường ngồi vào bàn làm việc lúc 7h30’. Công việc của tôi, các bạn biết cả rồi, chỉ là ngồi thu thập thông tin từ anh chàng Hoang Tưởng gởi về, sắp xếp lại tương đối hệ thống một chút rồi viết lia viết lịa, ngày này qua tháng nọ nhưng cũng có khi ngồi đờ đẫn từ sáng đến chiều như một kẻ tâm thần. Đó là những lúc mà anh chàng Hoang Tưởng bí tị, nói nhảm lung tung không đầu không đũa, truyền thông tin về cả đống hỗn độn chẳng hiểu đầu cua tai nheo ra sao cả, đành bó tay. Phải mất đến vài ngày ngồi đồng như vậy, tôi mới chọn lọc ra được những điều cần viết và những điều cần bỏ, chứ nếu phơi cả cái đống hỗn độn đó lên giấy thì ôi thôi… không nói nữa, sợ anh Hoang Tưởng nghe được lại phật lòng.
Sáng nay tôi ngồi vào bàn làm việc muộn hơn thường lệ, khoảng 8h30’. Chẳng có gì phải gấp gáp nữa. Nguyên mấy ngày qua chờ mãi mà chẳng nhận được thêm bất cứ thông tin nào từ anh Hoang Tưởng. Không biết anh ta giờ này ở đâu, đã ra khỏi “miền ánh sáng diệu kỳ” chưa? Hoang tưởng là chúa lang thang, sểnh một cái là đố ai biết anh ta lủi vào góc trời nào!
Tôi ngồi vào bàn, người cứ thừ ra một cách vô tích sự. Thật là hi hữu, chưa bao giờ luồng thông tin thần giao cách cảm giữa tôi và Hoang Tưởng bị đứt đột ngột và kéo dài lâu đến thế. Đã mấy lần vận công phát khí mệt cả người mà vẫn bặt vô âm tín. Có điều gì nghiêm trọng xảy ra không đây? Tôi đâm lo! Chẳng may Hoang tưởng có mệnh hệ gì thì niềm vui sống cuối cùng của tôi đồng thời cũng mất đi. Mới chớm nghĩ đến đó thôi mà tôi thấy ớn lạnh cả người.
- Ông làm sao thế? – Vợ tôi đột ngột xuất hiện làm tôi giật bắn mình.
- Ủa, tưởng bà đi chợ rồi mà? – Tôi hoàn hồn – Về lúc nào thế?
- Lâu rồi!... Lúc nãy về qua mặt ông mà ông không thấy hả? Giờ này mà bắt tôi lang thang ngoài chợ chắc chết luôn quá! Ông biết mấy giờ rồi không? Mười một giờ rồi ông ạ! – Mà mặt ông sao đỏ phừng lên như thế. Có nóng sốt gì không?
- Không!... Có lẽ huyết áp tăng do… đói bụng. Sáng giờ đã ăn gì đâu! Tưởng còn sớm mà!
Vợ tôi hứ hé, ngoáy đít bỏ đi xuống bếp. Tôi bật tức cười, không phải vì cái ngoáy đít của mụ vợ mà bởi vì sự đỏng đảnh của Thời gian. Có lẽ Hoang Tưởng đã đúng khi cho rằng Thời Gian chỉ là sự qui ước và chỉ khi so sánh sự dài ngắn của các quá trình vận động nào đó, chúng ta mới cảm nhận được sự trôi của Thời Gian. Và sự trôi của Thời Gian không đều đặn như chúng ta tưởng vì nó phụ thuộc vào chủ quan cảm nhận nữa. Ngày còn cắp sách đến trường, sự chờ đợi đến kỳ nghỉ hè là một khoảng thời gian dài đằng đẵng. Bây giờ thì quay đi ngoảnh lại đã năm hết Tết đến rồi. Mới sáng vừa tỉnh dậy đây thôi, ngồi ngẫm ngợi chút xíu đã trưa trật.
Sự đỏng đảnh của Thời Gian đã làm lao tâm khổ trí biết bao nhiêu bậc thiên tài, hiền triết suốt mấy ngàn năm nay. Nó tồn tại nhưng cũng không có thật, chẳng ai thấy nó cả nhưng nó cứ ẩn hiện, chưa ai xác định được đầu đuôi của nó nhưng vẫn công nhận nó có quá khứ, hiện tại và tương lai, nó chẳng thương ghét ai nhưng có kẻ quên người nhớ nó; nó hững hờ và vô cảm nhưng người ta thì không, cắm đầu cắm cổ chạy đua với nó hoặc đợi chờ nó đến mỏi mòn. Thời Gian là không có thực nhưng không một sự kiện nào thoát được bàn tay nhào nặn của nó, kể cả bản thân nó. Đó chính là điều kỳ lạ nhất về khái niệm thời gian và cũng chính là điều kỳ lạ nhất của Tự Nhiên Tồn Tại!...
Đấy, mới có nói thế thôi mà trời đã xế, về chiều. Tiết chiều gần Noel ở Sài Gòn cũng se lạnh, vương vấn hơi hướng mình đang ở xứ Bắc. Sân nhà tôi nhỏ tẹo và um tùm cành lá. Tôi thích cảnh tiêu sơ nên cứ để cho cành lá phát triển đua chen tự nhiên, cứ để cho bức tường bao quanh tha hồ phong rêu. Mấy năm nay, nhà tôi bỗng như một thung lũng nhỏ giữa bốn bề bủa vây bởi những nhà lầu ba, bốn tầng, như một ốc đảo giữa trùng điệp bê tông và khói bụi. Sân nhà tôi vì thế nhờ cây long nhãn cổ thụ xum xuê đứng theo thế vặn lưng trước gió mà cũng tựa như một khoảng rừng âm u còn sót lại của một thời xa xưa tiền sử. Ngồi trong sân nhà tôi thì nắng gắt cách mấy dội xuống cũng trở thành nắng nhạt, những ngày nóng nực nhất cũng vẫn cảm thấy mát mẻ. Chính vì vậy nên những chiều rét lạnh như chiều nay, khí hậu trong sân nhà tôi lại có vẻ như lạnh hơn, giống mùa đông hơn, mùa đông với những nỗi niềm cô quạnh.
Góc sân nhà tôi có đặt một bộ bàn ghế đá. Tôi hay ngồi uống rượu ở đó mỗi chiều tối, đôi khi là với một vài bạn bè nhưng thường là một mình. Bạn bè tôi rất đông nhưng bạn bè để tâm tình được lại rất ít và bạn tri kỷ thì không có. Theo như lời ông già tôi lúc sinh thời thì ngày xưa có bậc tiền bối nào đó đã nói đại ý rằng: trong đời có được một người bạn tri âm tri kỷ thôi đã là nhiều. Nghe sao mà thấm thía! Uống rượu với bạn bè hay độc ẩm đều có cái thú vị của nó. Uống rượu với bạn bè được cái vui, thư giãn, được cười nói thỏa thuê với đủ thứ chuyện tào lao xích đế. Những lúc ấy, sân nhà tôi rạo rực hẳn lên, ngay chiếc hồ nhỏ thường im lìm cũng đùng đùng cá quẫy góp vui. Nhưng uống rượu một mình lại có cái thú vị riêng của nó. Lúc đó ta không nói được, tha hồ mà trầm tư mặc tưởng. Khối u buồn giấu kín trong tâm can cứ tự nhiên tan chảy ra, dàn trải ra và ta nhấm nháp nó… làm vui. Ai mà tin được điều ấy. Biết vậy nên tôi chẳng bao giờ nói cho ai nghe vì nói ra thì chắc chắn mọi người sẽ cho rằng tôi xạo sự. Ông bà nói “trà tam tửu tứ” chứ làm gì có chuyện uống rượu một mình với trĩu nặng nỗi buồn mà vui được bao giờ. Đối với ai không biết nhưng đối với tôi là thế thật. Nỗi buồn đó theo suốt cuộc đời tôi và đã trở thành tri kỷ. Khi ngồi uống rượu một mình là khi tôi được kể lể, tâm tình với người bạn tri kỷ ấy, là khi tôi được sống lại những quãng đời tưởng đã lãng quên, nghiền ngẫm những dại khờ ngô nghê, lầm lạc của quá khứ rồi chặc lưỡi thở dài hoặc nhoẻn cười lặng lẽ... 
Nỗi buồn được sinh ra từ đâu? Tôi không biết! Chỉ nghiệm thấy rằng nỗi buồn đôi khi cũng được sinh ra từ hạnh phúc và không hẳn lúc nào cũng từ khổ đau! Có những nỗi buồn chỉ trỗi dậy khi tất cả những cay đắng, ngọt bùi, những hạnh phúc và khổ đau đã trôi qua, đã chìm vào dĩ vãng. Đó phải chăng là nỗi buồn được sinh ra từ sự tiếc nuối một kiếp đời? Còn có những nỗi buồn dịu êm và thánh thiện, những nỗi buồn mà nếu không có nó, lòng người đã hóa trơ sắt đá với sự tàn nhẫn và độc ác không thể kiềm chế được từ lâu rồi. Trong số những nỗi buồn mà Tạo hóa ban cho loài người, có một nỗi buồn mà tôi cho là đẹp nhất, thiêng liêng nhất và thánh thiện nhất, nỗi buồn phảng phất ở khắp các chùa chiền, khắp các nhà thờ, nỗi buồn phảng phất trên những khuôn mặt của Phật, của Chúa, của Thánh Alla, của những bậc hiền triết, nỗi buồn phảng phất trên khắp các phế tích ngàn xưa, ở khắp rừng sâu núi thẳm, từ những vùng dân cư heo hút đến tận những thành đô hào nhoáng và sung túc nhất. Sau bao nhiêu đêm trằn trọc, thao thức, giờ chúng ta mới ngộ ra, đó là nỗi buồn trắc ẩn về thân phận con người. Chính nỗi buồn ấy đã làm hình thành nên lòng vị tha và lòng vị tha đã và đang bao dung che chở và xoa dịu cho biết bao nhiêu nỗi đời bất hạnh, khổ đau. Thật may mắn cho loài người khi trong cộng đồng của nó vẫn còn đó những tấm lòng nhân hậu!
Chiều đã muộn! Tiếng chuông nhà thờ gióng lên ngân nga. Nhà tôi ở gần nhà thờ, ngày hai lần chuông ngân, lúc mờ sáng và lúc mờ chiều. Ai đã từng về làng quê, đi trên con đường đê trong một buổi chiều tà gần tắt nắng và nhẹ gió giữa đồng không mông quạnh chợt nghe tiếng chuông đổ thong thả mà vang vọng từ xa xa xóm đạo có tháp chuông nhà thờ cao vút mới cảm nhận hết được cái âm thanh thánh thót và huyền diệu ấy, mới thán phục tài đúc chuông của các nghệ nhân dân gian.
Tôi không theo đạo Phật, cũng không theo Thiên Chúa hay bất cứ đạo giáo nào, không hề tin tưởng những giải thích của các đạo ấy về thế giới, nhưng tôi thành tâm tôn trọng (đến bây giờ mới biết: chủ nghĩa cộng sản cũng là một đạo giáo!). Mọi đạo giáo chân chính, dù truyền thuyết của họ về Tự Nhiên Tồn Tại là mơ hồ và thậm chí là sai lầm, dù trong quá trình hình thành và phát triển đôi khi cũng mù quáng gây ra không ít bi thương, thì tinh thần xuyên suốt vẫn là gieo mầm và nuôi dưỡng lòng nhân hậu, vẫn là rao giảng và khuyên răn con người biết sống một cuộc sống vị tha, hướng thiện, vẫn là những lời an ủi dịu dàng và đồng cảm nhất đối với đại chúng nghèo hèn, vẫn là nơi nương tựa đáng tin cậy nhất cho những linh hồn khổ đau đang ở tận cùng của sự hối hận do lỗi lầm mình gây ra, hoặc đang bên bờ vực của sự tuyệt vọng đối với cuộc sống. Nếu phải chọn một lý lẽ làm tín ngưỡng về căn nguyên Vũ Trụ thì tôi sẽ chọn lý lẽ của anh Hoang Tưởng, tức triết học duy tồn, vì chỉ có nó mới có thể đưa tôi đến sự hiểu biết đúng đắn cuối cùng về thế giới (?)...
Trời đã tối hẳn. Nhờ vào ngọn đèn đường gần đó và ánh đèn hắt ra từ những nhà lầu xung quanh mà sân nhà tôi, nếu tắt hết đèn trong nhà tôi đi, lúc nào cũng như có ánh trăng. Hồi xưa, vào một tối tương tự như thế này, chúng ta đã dứt áo lên đường đầy hồ hởi. Mới đó mà tưởng chừng đã chục năm rồi. Thời gian qua nhanh quá!
Tối nay chúng ta (đến giờ này, xưng "tôi" hay "chúng ta", thì cũng là "một duộc"!) lại về đây, sau khi nghĩ ngợi khá lâu về cuộc đời, đã di đến quyết định: cuộc hành trình đi tìm cái gì đó hay cuộc ngao du giữa Thực Tại & Hoang Đường đến đây là kết thúc. Nó kết thúc không phải vì chúng ta đã mỏi chân (có đi đâu mà mỏi chân? Chỉ mỏi tay vì "tốc ký" thôi), mà vì đã đi lạc đâu mất anh Hoang Tưởng (hay ông bạn Hoang Tưởng đã "vui đâu...chầu đấy" rồi?!)- một người bạn song sinh mà nếu vắng anh ta thì không thể hành trình được (hay nếu thiếu ông bạn tri kỷ này thì cũng coi như mất hết “hồn vía”, "thà chết còn...sướng hơn"?!). Nhưng không sao, thế này cũng mãn nguyện lắm rồi. Chúng ta đã lờ mờ thấy được căn nguyên Vũ Trụ - một cái gì đó sờ sờ trước mặt mà xưa kia chúng ta đâu thấy gì, mà chúng ta muốn khám phá từ thời thơ ấu. Điều cơ bản là chúng ta coi như đã trả lời dứt khoát được câu hỏi ngàn đời: "Thế giới này Tồn Tại hay Hư Vô!?". Nếu cách nhìn của chúng ta đúng (chúng ta tin là nó đúng!), nếu sau này nó được mọi người thừa nhận là có lý (chúng ta biết chắc...như bắp rằng nó có lý?!), thì coi như chúng ta đã là người lính tiên phong mở ra đột phá khẩu thành công về tìm hiểu Vũ Trụ cho loài người tiếp tục tư duy trên nền tảng nhận thức mới, trước khi…bị diệt vong!

Quay đầu nhìn lại toàn bộ cuộc hành trình, chúng ta thấy trong số nhiều suy tưởng hợp lý, có không ít những suy tưởng quá đà, ngây ngô, thậm chí là nhảm nhí. Nhưng chúng ta quyết định không sửa mà giữ nguyên như vậy để "khoe" cho mọi người thấy rằng, con đường trầm tư mạc tưởng để tiếp cận chân lý của một kẻ "điếc không sợ súng" là bạt mạng đến cỡ nào, là huyên thuyên đến cỡ nào! Và như đã có lần từng tuyên bố trong trạng thái bốc đồng: "Nếu Trung Hoa có Tôn Ngộ Không, Tây Ban Nha có Đôn Kihôtê, thì Việt Nam có...chúng ta - những kẻ tài ba khờ khạo thích thú toàn chuyện tào lao! He, he...he!!! Và đến đây, xin kính dâng lên Tổ Quốc hai thành quả mà đời chúng ta, nhờ biết dựa vào  tầm vóc trí tuệ cao vợi của các bậc hoang tưởng tiền bối, đã "hái lượm" được từ "Hoa quả sơn" Vũ Trụ để góp vào tri thức loài người, đó là triết học Duy Tồn cùng với biểu thức có thể là nguồn gốc của mọi biểu thức vật lý:   mc2 = m0c2 + mv2 = m0c2 + Q + A= m0c2 + Q + A (với Q là nhiệt lượng, A là công sinh ra).
    Tổ Quốc Việt Nam hỡi, đừng ruồng bỏ mà hãy vui lòng nhận lấy những thành quả đó, dù chúng có thể chưa hoàn chỉnh, chưa toàn thiện và mới được dẫn xuất chưa chuẩn mực lắm thì vẫn cứ chính là những chỉ dẫn hướng tới "cửa mở" của tri thức thời đại mới, và từ đó rồi đây đồng thời cũng sẽ sáng chói lên niềm tự hào khôn xiết!...".  
Đó phải chăng cũng là một sự...rồ dại!? Có thể!...Nhưng có chuyện sau đây làm bằng chứng là sự rồ dại ấy cũng...có lý. Như chúng ta đã biết: vận tốc Vũ Trụ hay tốc độ Vũ Trụ   hay vận tốc thoát ly là tốc độ một vật cần có để nó chuyển động theo quỹ đạo tròn gần bề mặt của một vật thể khác hoặc thoát ra khỏi trường hấp dẫn của vật thể khác. Người ta phân biệt bốn cấp tốc độ Vũ Trụ. Trong trường hợp của Thái Dương Hệ thì có thể giải thích các cấp độ này như sau:
  1. Tốc độ vũ trụ cấp 1 nếu vận tốc đủ lớn để trở thành vệ tinh của một hành tinh nào đó: Với Trái Đất là 7,9 km/s
  2. Tốc độ vũ trụ cấp 2 nếu đủ lớn để trở thành vật thể bay xung quanh Mặt Trời: khoảng 11,2 km/s
  3. Tốc độ vũ trụ cấp 3 nếu đủ lớn để thoát ra khỏi lực hấp dẫn của Mặt Trời: khoảng 16,6 km/s
  4. Tốc độ vũ trụ cấp 4 nếu đủ lớn để thoát ra khỏi lực hấp dẫn của dải Ngân Hà: 525 km/s  

Từ điều kiện lực hấp dẫn bằng lực quán tính ly tâm, ta suy ra:
{\displaystyle mg={\frac {mv^{2}}{R}}}
{\displaystyle v={\sqrt {gR}}}
Ở đây:
Với Trái Đất thì vận tốc vũ trụ cấp 1 xấp xỉ bằng 7,9 km/s:
{\displaystyle v={\sqrt {9,80\,\mathrm {m/s^{2}} \cdot 6378\,\mathrm {km} }}}
v1 = {\displaystyle v=7,9\,\mathrm {km/s} }
Chú ý, gia tốc trọng trường g có thể được tính theo công thức định luật vạn vật hấp dẫn của Newton:
{\displaystyle g={\frac {GM}{R^{2}}}}
với Ghằng số hấp dẫnM là khối lượng thiên thể chủ.
Tốc độ vũ trụ cấp 2, còn gọi là vận tốc vũ trụ cấp 2 hay vận tốc thoát ly, là giá trị vận tốc tối thiểu một vật thể cần có để có thể thoát ra khỏi trường hấp dẫn của một hành tinh. Với Trái Đất giá trị này vào khoảng 11,2 km/s, theo công thức {\displaystyle v_{2}={\sqrt {2}}\cdot v_{1}}, với v_{1}vận tốc vũ trụ cấp 1.
Sau đây là cách dùng định luật bảo toàn cơ năng để xác lập biểu thức này:
Cơ năng nơi phóng = {\displaystyle {\frac {mv_{2}^{2}}{2}}-{\frac {GMm}{R}}}
Cơ năng khi vật thoát khỏi lực hấp dẫn= động năng + thế năng
Vận tốc tối thiểu được xác định trong trường hợp giá trị vận tốc của vật khi thoát khỏi lực hấp dẫn Trái Đất bằng 0 tức là động năng bằng 0. Mà khi đó thế năng hẫp dẫn cũng bằng 0 do vật đã thoát ra khỏi trường hấp dẫn của hành tinh, do đó trong trường hợp này cơ năng khi vật thoát khỏi trường hấp dẫn = 0. Áp dụng định luật bảo toàn cơ năng:
Cơ năng nơi phóng = Cơ năng khi vật thoát khỏi lực hấp dẫn=0
{\displaystyle {\frac {mv_{2}^{2}}{2}}-{\frac {GMm}{R}}=0}
{\displaystyle v_{2}={\sqrt {\frac {2GM}{R}}}={\sqrt {2}}.v_{1}}
{\displaystyle v_{1}={\sqrt {\frac {GM}{R}}}}.
Trong trường hợp vật phóng từ Trái Đất với vận tốc lớn hơn v_{2} nhưng nhỏ hơn vận tốc vũ trụ cấp 3 thì vật đó sẽ chuyển động quanh Mặt Trời.
Đó là toàn bộ quan niệm ngày nay về các giá trị vận tốc Vũ Trụ. Theo chúng ta thì cần phải coi lại các giá trị vận tốc Vũ Trụ từ  vũ trụ cấp 2 trở đi, vì chỉ cần v2 > v1=7,9 km/s chút ít (tức không cần phải bằng 11,2 km/s), thì theo lý thuyết, cũng đủ vượt thoát sức hút của Trái Đất! Theo quan niệm của chúng ta, động năng của một vật bằng  mv2 chứ không phải bằng 1/2 mv2 Do đó:
{\displaystyle v_{2}={\sqrt {\frac {2GM}{R}}}={\sqrt {2}}.v_{1}}là một biểu thức sai mà chúng ta đang dùng. Đúng ra phải là v2 > {\displaystyle v_{1}={\sqrt {\frac {GM}{R}}}} 
  Như đã biết Anhxtanh công bố Thuyết tương đối Tổng quát của ông vào năm 1915, khi Schwarzschild, nhà vật lý tài năng người Đức, đang ở trên mặt trận Nga-Đức.  Schwarzschild là người đầu tiên giải được những nghiệm đặc biệt cho những phương trình đó, dẫn ra được bán kính Schwarzschild nổi tiếng, nó chính là kích thước của chân trời sự kiện của một Lỗ đen không quay, rồi ông gửi chúng cho Anhxtanh. Anhxtanh đã suy nghĩ rất nhiều rồi cá nhân ông trình bày trước Viện Hàn lâm Khoa học Phổ, sau đó cho công bố chúng. Ông chết sau đấy một năm do bệnh tự miễn dịch trong khi ông đang điều trị vết thương ở mặt trận Nga-Đức. Một nhà vật lý khác, ông
Eddingtion, nói về ông như sau: “Chiến tranh đòi hỏi gây thiệt hại sinh mạng, và khoa học không được cứu rỗi. Ở phía chúng tôi, chúng tôi không quên sự ra đi của nhà vật lí Moseley, tại ngưỡng cửa của một sự nghiệp lớn; nay từ phe địch lan đến tin tức Schwarzschild qua đời giữa độ xuân hoa nở rộ của đời ông. Cái chết của ông là một câu chuyện buồn của sự chịu đựng dài ngày từ một chứng bệnh khủng khiếp nhiễm phải trên chiến trường, mang theo sự kiên nghị và lòng nhẫn nại to lớn. Thế giới mất đi một nhà thiên văn có trí tuệ ưu hạng.”
Ban đầu Schwarzschild trình bày các kết quả của ông trong khuôn khổ của Thuyết Tương đối Tổng quát, nhưng người ta cũng có thể thu được quan điểm cơ bản đó bằng vật lí học Newton đơn giản. Hãy tưởng tượng một khối lượng M tập trung vào một quả cầu không quay bán kính R. Nếu chúng ta bắn một viên đạn khối lượng m lên từ bề mặt của quả cầu đó với vận tốc v, thì nó sẽ không thể thoát ra khỏi sức hút hấp dẫn của quả cầu nếu động năng của chuyển động của nó, ½ mv2, không đủ để kháng lại thế năng hấp dẫn GMm / R do quả cầu tác dụng lên viên đạn. Tốc độ nhanh nhất mà viên đạn có thể chuyển động sẽ là c, tức là tốc độ ánh sáng. Vì thế, nếu GMm / R > ½ mc2, thì ngay cả ánh sáng cũng không thể thoát ra khỏi quả cầu. Lưu ý rằng chúng ta có thể chia hai vế của bất đẳng thức này cho m; nếu sau khi làm vậy ta giải tìm R, ta thấy R < 2GM / c2. Cho nên, nếu khối lượng M nằm bên trong một quả cầu bán kính 2GM / c2, thì không có ánh sáng (và không có thông tin) nào có thể thoát ra khỏi quả cầu. Đại lượng 2GM / c2 được gọi là bán kính Schwarzschild, và bề mặt của hình cầu có tâm tại tâm của khối lượng M và có bán kính là bán kính Schwarzschild được gọi là Chân trời sự kiện.
Đại khái, đó là quan niệm của vật lý học ngày nay về sự hình thành và tồn tại cái gọi là "Lỗ đen" trong Vũ Trụ. Nhưng theo quan niệm của chúng ta, vì Vũ Trụ là một Tự Nhiên Tồn Tại, mà Lỗ đen lại là một chỉ thị về cõi Hư Vô, nên dứt khoát không thể có Lỗ đen trong thực tại khách quan, mà chỉ có trong tưởng tượng của loài người. Dù sao, đó vẫn là một niềm trắc ẩn lớn lao vì chưa có thực chứng. Một lần chúng ta, Hiện Thực, đi hỏi Hoang Tưởng về chuyện này thì nghe lão ta ngửa cổ cười ha hả và trả lời:
- Ôi dào ơi! Tôi đã hành trình hầu khắp góc bể chân trời Vũ Trụ rồi mà có thấy Lỗ đen nào đâu? Mà việc gì phải tìm kiếm đâu cho xa xôi, chỉ cần suy ra từ vật lý cổ điển Niutơn cũng thấy không thể tồn tại Lỗ đen rồi. Này nhé, theo ví dụ trên thì viên đạn bay sẽ không thoát khỏi quả cầu nếu động năng của nó (theo chúng ta là mv2) không lớn hơn thế năng hấp dẫn của quả cầu đối với nó. Thế năng hấp dẫn lúc viên đạn chưa bay là GMm0/R (với m0 là khối lượng nghỉ của viên đạn). Theo Anhxtanh, khối lượng của một vật tăng dần với sự tăng của vận tốc, nghĩa là khi vận tốc viên đạn bằng c, khối lượng của nó sẽ tăng lên vô cùng lớn. Lúc này sẽ không xác định được bán kính bán kính Schwarzschild vì R <  GMm0/mc2 là bất định. Còn nếu khối lượng của viên đạn không đổi khi vận tốc tăng thì khi v = c, ta có: GMm/R = m0c2+ mv2 và m = o lúc đó GMm/R = o < hf , với f là tần số ánh sáng (tức thế năng hấp dẫn của quả cầu lên "viên đạn" (?) triệt tiêu) nên cũng không tồn tại bán kính  Schwarzschild...
                                        ***
Chúng ta định viết một, hai chương nữa về cơ học lượng tử, mở ra gợi ý về tính thống nhất tất yếu của vật lý học, đã chuẩn bị đầy đủ tư liệu, nhưng đột nhiên quên hết kể từ khi anh Hoang Tưởng bỏ đi biệt tăm biệt tích. Viết về vật lý học mà thiếu anh Hoang Tưởng thì đành chịu chết! Nhưng chúng ta tin tưởng rằng từ biểu thức E =mc2 có thể dẫn dắt ra hàm sóng của cơ học lượng tử... 

Nhưng thôi, xin chào tất cả và…hãy "đợi đến" (!?) thế kỷ XXIII, khi có một nhà si mê tìm hiểu Vũ Trụ , biết  hoang tưởng nào đó vô tình nhặt được “THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG” , biết “nâng niu” những viên ngọc mà nó hàm chứa, và nhất là biết "trầm tư mặc tưởng", thì lúc đó sẽ tràn trề hy vọng: “Vừng ơi!...Mở ra!” cho mọi người. Còn bây giờ, xin nói lời cuối cùng này trước khi... "tắt đài":

 “Thứ nhất là không có thiên tạo gợi ý, mở đường chỉ lối thì không thể có nhân tạo. Nhờ sự phơi bày của tự nhiên và được tự nhiên dạy dỗ mà con người mới hun đúc được kiến thức, bắt chước tự nhiên và có khả năng sáng tạo những công trình mà trước đó tự nhiên chưa hề có, cùng với vô vàn những lý thuyết đúng có sai có. Có như thế là vì tư duy trừu tượng của họ luôn có xu thế thoát ly thực tại. Toán học chính là kết quả vừa tự nhiên vừa phi tự nhiên, vừa hợp lý vừa bất hợp lý của khối tư duy trừu tượng đó. Trước đống tạo dựng hỗn độn đúng-sai đó, loài người đã tưởng mình là tài giỏi và tỏ ra ngạo mạn. Loài người đâu biết rằng bằng trí tưởng tượng "quá lố" của họ đã hướng dẫn họ đi đến hình dung một Vũ Trụ ảo phi lý đến cỡ nào để tự ru ngủ chính mình. Loài người tuyệt vời là ở chỗ ấy và tầm thường cũng chính là ở chỗ ấy. Thứ hai là loài người ngu ngốc và mù quáng cần phải biết ơn tự nhiên đã ban cho mình một tư duy, biết trân trọng thiên nhiên hữu hạn đã chắt lọc cho mình một trí tuệ, biết kiêu hãnh và tự hào vì Tạo Hóa đã ban cho mình một trí tưởng tượng phong phú, nhưng hãy cảnh giác chứ đừng coi mình là vô địch, đừng ngạo mạn khinh khi sự sống của các giống loài sinh vật khác. Ý nghĩ cho rằng loài người là chúa tể, có thể khuất phục được thiên nhiên, bắt thiên nhiên và cả thế giới sinh vật làm nô lệ vô điều kiện cho mình là một ý nghĩ lố bịch, điên rồ và thật sự nguy hiểm. Dù có tài giỏi tới đâu, loài người cũng không thể biến thành Tạo Hóa của tự nhiên, cũng không thể đứng trên thiên nhiên mà ngự trị thiên nhiên được, bởi vì nó chỉ là bộ phận nhỏ của thế giới sinh vật sống nhờ thiên nhiên, không thể tách rời khỏi thiên nhiên. Tóm lại, Tự Nhiên mới là chủ thể của mọi sáng tạo, còn loài người chỉ là đám thừa sai, học đòi, là lũ xây-phá ngông cuồng, viển vông, hoang tưởng và mê sảng, là thủ phạm đang tự giết mình một cách ngu xuẩn bằng việc tàn phá đến xơ xác cái nôi Trái Đất ru mình sống còn, tàn phá đến tan hoang thiên nhiên vĩ đại.”!

                                   - HẾT -

------------------------------------------------------------------



Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

TT&HĐ I - 9/d

MUÔN MẶT ĐỜI THƯỜNG III/104

MỌC CÁNH