TT & HĐ V - 50/e
(Tiếp theo)
***
Trong Wikipedia có viết:
"Chiến tranh là hiện tượng chính trị –
xã hội có tính chất lịch sử, sự tiếp tục của chính trị bằng bạo lực
giữa các tập đoàn xã hội trong một nước hoặc giữa các nước hay liên minh
các nước với nhau. Đặc trưng của chiến tranh là đấu tranh vũ trang có
tổ chức, theo những quy tắc nhất định và thường kết hợp với các hình
thức đấu tranh khác (chính trị, kinh tế, ngoại giao,...).
(...) .
Nói tóm lại, chiến tranh là sự xung đột
do từ mâu thuẫn ý thức giữa các tư tưởng khác nhau. Nguyên nhân của
những mâu thuẫn này xuất phát từ tham vọng riêng của từng thực thể con
người. Khi những tham vọng này đối chọi nhau đến mức độ căng thẳng cao
độ thì chiến tranh xảy ra. Chỉ khi nào tồn tại hai bên đối nghịch nhau
thì chiến tranh mới bùng nổ. Những hình thức chiến tranh đi từ hình thức
thô thiển như chiến tranh vũ trang đến thể loại chiến tranh vi tế như
sử dụng văn hóa để công kích.
(...) .
Hậu quả của chiến tranh không chỉ có sự hoang tàn mà còn có cả sự tiến
bộ. Chiến tranh là thành phần không thể thiếu trong quá trình tiến hóa
của tất cả các sinh vật, đoàn thể, tổ chức hầu đạt được mục tiêu sống
còn và phát triển.
(...).
Những người theo thuyết lịch sử chú ý đến khía cạnh bất khả kháng của
chiến tranh, họ cho rằng nó ngẫu nhiên như là một tai nạn giao thông.
Có thể có các điều kiện, tình huống giống như là sắp xảy ra chiến tranh
nhưng người ta không thể tiên đoán được thời gian và địa điểm xảy ra
chiến tranh. Các nhà xã hội học
phê phán cách tiếp cận này, họ cho rằng sự bắt đầu của các cuộc chiến
tranh là do một số nhà lãnh đạo đưa ra, đó không phải là tai nạn thuần
túy. Vẫn còn có những bất đồng nhưng thực sự rất khó khăn trong việc xây
dựng một hệ thống tiên đoán về chiến tranh.
Theo các học thuyết tâm lý chiến tranh (...), (...), cho rằng đó
là "bản năng xâm lược" của con người, là "hành vi" của con người. Các
đại diện của thuyết này như E.F.M. Durban và John Bowlby cho rằng loài
người đặc biệt là đàn ông sinh ra đã có thói quen xung đột. Thông thường
những loại xung đột này bị kìm nén bởi xã hội, nó cần một cơ hội để
giải thoát các xung đột bằng chiến tranh.
Học thuyết nhân khẩu có 2 nhóm: những người theo thuyết Malthus và những người theo thuyết bùng nổ dân số trẻ.
Học giả người Anh Thomas Robert Malthus (1766 - 1834)
cho rằng dân số luôn tăng dù chúng bị hạn chế bởi chiến tranh, bệnh tật
và đói kém. Đây là lý thuyết được tính toán với xã hội trước đây khi mà
nền sản xuất chưa phát triển và tỷ lệ tăng dân số không điều khiển
được. Theo thuyết Malthus thì sự mất cân bằng giữa việc tăng dân số và
tăng thức ăn là nguồn gốc của xung đột. Nghĩa là trong khi dân số tăng
theo cấp số nhân thì nguồn tài nguyên, của cãi lại tăng theo cấp số cộng
tạo ra sự mất cân đối dẫn đến chiến tranh. Lý thuyết bùng nổ dân số trẻ
lại quan niệm do sự mất cân đối giữa những lực lượng trẻ được đào tạo,
đến tuổi trưởng thành, cần có việc làm và số lượng những vị trí có thể
cho họ trong xã hội là nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự nổi loạn trong xã
hội (bao gồm cả chiến tranh). Theo các học thuyết này "con người cần
thức ăn, cần vị trí nên họ bắn nhau".
Theo học thuyết của chủ nghĩa Márx: chiến
tranh là hiện tượng chính trị – xã hội mang tính lịch sử, là hoạt động
đấu tranh giữa các giai cấp, các nhà nước, các lực lượng chính trị có
địa vị, lợi ích đối lập nhau trong một nước hoặc giữa các nước nhằm đạt
được mục đích chính trị nhất định.
(...) .
Chiến
tranh có nguồn gốc từ chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và
đối kháng giai cấp không thể điều hòa. Trong đó, chế độ chiếm hữu tư
nhân là nguồn gốc kinh tế – nguồn gốc sâu xa; đối kháng giai cấp là
nguồn gốc xã hội – nguồn gốc trực tiếp của chiến tranh.
Nguyên nhân:
Nguyên
nhân chung: Là sự tác động giữa phương thức sản xuất bóc lột và những
hiện tượng chính trị xã hội do phương thức sản xuất đó sinh ra dưới hình
thức bạo lực vũ trang của giai cấp này đối với giai cấp khác.
Nguyên nhân đặc thù: Là sự tác động của những chính sách hiếu chiến,
phản động của giai cấp thống trị, những kẻ cầm đầu nhà nước, tổ chức
hoặc nhóm cực đoan.
Nguyên nhân đơn nhất: Là sự tác động có tính đột biến, tức thì từ
những nhân tố cá biệt như cá tính bất thường của cá nhân cầm đầu tổ chức
hoặc diễn biến không chuẩn xác của các thông tin, của phương tiện tiến
hành chiến tranh,...trong những tình huống nhất định.
Trong các nguyên nhân trên, nguyên nhân chung là cơ bản, xuyên suốt của mọi cuộc chiến tranh trong lịch sử loài người.
(...). Bản
chất của chiến tranh thể hiện trên hai mặt cơ bản luôn có sự thống nhất
với nhau: Mặt chính trị và mặt bạo lực vũ trang. Chính trị là mục đích,
bạo lực vũ trang là phương thức, biện pháp để thực hiện mục đích chính
trị. Mặt chính trị và mặt phương thức bạo lực vũ trang không tách rời
nhau".
Triết học duy tồn cho rằng các trường phái triết học, kể cả
triết học Mác - Lênin, khi nói về chiến tranh đều có phần đúng và phần
sai, phần sai là chủ yếu.
Theo quan niệm của triết học duy tồn, suy
cho cùng thì xã hội là một hiện tượng của thế giới tự nhiên, cho nên sự
hình thành , tồn tại và phát triển của nó phải tuân theo các qui luật
cơ bản của tự nhiên, phải nhận thức nó như nhận thức các hiện tượng tự
nhiên khác. Nhưng đồng thời, xã hội cũng là kết quả có được từ sự chi
phối của quá trình tiến hóa - thích nghi, là sản phẩm có được từ tư duy
trừu tượng, từ đòi hỏi của lao động sáng tạo, cho nên sự hình thành, tồn
tại và phát triển của nó cũng có những nét đặc thù của thế giới sinh
vật, thuộc về thế giới sinh vật. Nguyên nhân nguồn cội làm nên mọi
nguyên nhân gây ra các hiện tượng trong thế giới tự nhiên, của Tự Nhiên
Tồn Tại là nguyên lý tự nhiên, thì nguyên nhân sâu xa gây ra các hiện
tượng trong vận động xã hội cũng suy ra được từ nguyên lý số một ấy.
Chẳng hạn. hiện tượng biến đổi nhưng bảo toàn khối lượng của vật chất có
thể được giải thích trên cơ sở cố gắng duy trì tồn tại vốn có của chúng, thì
sự biến đổi hình thái xã hội qua các thời kỳ cũng có thể giải thích
được, dựa vào sự cố gắng duy trì tồn tại ấy, nhưng để giải thích rõ ràng
hơn, có thể dựa vào sự thể hiện đặc thù của nguyên lý tự nhiên trong
thế giới sinh vật: cố gắng sinh tồn (sự phát triển tư liệu và lực lượng
sản xuất, gọi chung là trình độ sản xuất).
Phải cho rằng, lối sống
lập thành xã hội không phải chỉ ở loài người mới có, mà ở các loài sinh
vật đã thấy những hình thức sống quần cư khác nhau, các cá thể có liên
quan với nhau mặt này hay mặt khác, lỏng lẻo hay chặt chẽ, có huyết
thống hay không có huyết thống, nhằm tạo điều kiện hơn trong mưu sinh,
trong việc tăng cường bảo vệ sự sống giống loài trước những tại họa đến
từ môi trường. Lối sống hợp thành quần cư ở loài ong, loài kiến ...,
nhất là lối sống hợp thành bầy đàn ở một số loài động vật hoang dã có
thể coi là những hình thức manh nha, sơ khai của hình thức sống theo
cộng đồng xã hội, một lối sống chủ yếu và cơ bản ở loài người biết tư
duy trừu tượng. Sự thể đó bày ra một cảm tưởng rằng, lối sống theo cộng
đồng xã hội là một sự lựa chọn tất yếu của loài có tư duy trừu tượng
trong quá trình đấu tranh, vật lộn với môi trường thiên nhiên hữu hạn để sinh
tồn. Không tìm ra cây lương thực này thì loài người cũng sẽ tìm được cây
lương thực khác để chuyển phương thức sống cơ bản từ săn bắt - hái lượm
sang trồng trọt - chăn nuôi, từ du cư, di cư sang định cư lâu dài, tạo
điều kiện sống quây quần xã hội, hợp tác sản xuất nông nghiệp, vì đây
chính là sự lựa chọn có tính chất tất yếu, có tính chất tối ưu, lựa chọn
mà như không lựa chọn trên bước đường kiếm kế mưu sinh của mình.
Tóm
lại, phương thức sống theo hợp quần xã hội là tất yếu đối với mọi loài
được trang bị tư duy trừu tượng do có sự chi phối bởi qui luật phát
triển lạm phát về số lượng cá thể sinh vật trong một môi trường thiên
nhiên hữu hạn. Nhờ cuộc đấu tranh sinh tồn lâu dài để tiến hóa - thích
nghi thông qua biến dị - di truyền trong một môi trường sống đặc thù và
thường xuyên biến đổi, loài người đã hun đúc được một thứ vũ khí vô cùng
lợi hại trong việc mưu sinh, cố gắng sống còn mà không loài sinh vật
nào khác có được, đó là tư duy trừu tượng. Nhờ sự hối thúc thường xuyên
của tư duy trừu tượng trong sự tích cực tìm cách mưu sinh tốt hơn, loài
người, từ kiếp sống lang thang bầy đàn, đã đến được với lao động sáng
tạo rồi từ đó mà có trồng trọt - chăn nuôi, tự cung tự cấp, sống ổn định
lâu dài, liên kết thành xã hội tạo điều kiện hợp tác sản xuất, bắt
chước thiên nhiên tạo ra các thứ dưỡng sinh, theo phương châm:
Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại thành hòn núi cao.
Không
phải xã hội đã hoàn thiện ngay từ buổi đầu xuất hiện. Xã hội hình
thành, tồn tại và phát triển cũng như một thực thể sống, có thể gọi là
thực thể sống ảo, tức là cũng sinh ra từ liên kết vật chất, từ cố gắng
tồn tại, cũng trong vòng ảnh hưởng của cuộc đấu tranh sinh tồn, làm
như cũng tiến hóa - thích nghi, cũng vận động và phát triển từ thấp đến
cao, từ đơn giản đến phức tạp, đạt đến hoàn thiện và suy tàn theo sự
phát triển và suy tàn của cuộc sống loài người. Tương tự như thế giới tự
nhiên mang tính đầy đủ, vận động tự do, chuyển hóa ra muôn vàn trạng
thái, miễn là không Hư Vô, vận động xã hội cũng vậy, miễn tồn tại xã hội
được bảo toàn. Chính vì vậy mà vận động nội tại xã hội thể hiện ra
thành các lực lượng tương phản, đối kháng nhau, đấu tranh với nhau theo nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn mà triết học duy vật biện chứng đã mường tượng ra. Có
lẽ nhận thức về xã hội của triết học duy vật biện chứng còn nhiều sai
lầm dẫn đến một học thuyết cải tạo xã hội đậm màu lý tưởng, dẫn đến
triệt tiêu sự tồn tại xã hội. Song, không phải vì thế mà tất cả những
nhận thức về xã hội của nó đều sai lầm. Trong "Giáo trình triết học Mác -
Lênin" (NXB chính trị quốc gia - 2004) viết:
"(...). Quá trình
phát triển của tự nhiên đã sản sinh ra sự sống và theo qui luật tiến
hóa, trong những điều kiện nhất định, con người đã xuất hiện từ động
vật.
Sự ra đời của con người không chỉ là kết quả của các quá
trình sinh học mà quan trọng hơn là kết quả của quá trình lao động. Đây
là quá trình con người tác động vào giới tự nhiên, khai thác và cải biến
giới tự nhiên để đáp ứng nhu cầu tồn tại của mình. Chính trong quá
trình lao động, cấu tạo cơ thể của con người ngày càng hoàn thiện hơn và
cũng chính trong quá trình lao động, nhu cầu trao đổi, hợp tác đã làm
ngôn ngữ xuất hiện. Lao động và ngôn ngữ là hai sức kích thích chủ yếu
của sự chuyển biến bộ não của loài vật thành bộ não của loài người, tâm
lý loài vật thành ý thức.
Sự hình thành con người gắn liền với sự
hình thành các quan hệ giữa người với người, quá trình chuyển biến từ
động vật thành người cũng là quá trình chuyển biến từ cộng đồng mang
tính bầy đàn, hành động theo bản năng thành một công đồng mới khác hẳn
về chất, ta gọi là xã hội. Đây cũng là quá trình chuyển biến từ vận động
sinh học thành vận động xã hội.
(...).
Xã hội là hình thái
vận động cao nhất của thế giới vật chất. Hình thái vận động này lấy con
người và sự tác động lẫn nhau giữa người với người làm nền tảng. (...).
Như
vậy, xã hội là bộ phận đặc thù của tự nhiên. Tính đặc thù của bộ phận
này thể hiện: Phần còn lại của tự nhiên chỉ có những nhân tố vô ý thức
và mù quáng tác động lẫn nhau; còn trong xã hội, nhân tố hoạt động là
những con người có ý thức, hành động có suy nghĩ và theo đuổi những mục
đích nhất định. Hoạt dộng của con người không chỉ tái sản xuất ra chính
bản thân mình mà còn tái sản xuất ra giới tự nhiên.
(...) xã hội
vừa phải tuân theo những qui luật của tự nhiên, vừa phải tuân theo những
qui luật chỉ vốn có đối với xã hội. Cũng như các qui luật tự nhiên, các
qui luật xã hội mang tính khách quan.
(...).
Như vậy, qui
luật của tự nhiên được hình thành xuyên qua vô số những tác động tự
phát, mù quáng của các yếu tố tư nhiên, còn qui luật xã hội được hình
thành trên cơ sở hoạt động có ý thức của con người. (...). Cho nên, cũng
giống như các qui luật tự nhiên, qui luật xã hội là những mối liên hệ
khách quan, tất yếu và phổ biến giữa các hiện tượng và các quá trình xã
hội. Có nghĩa là, trước tiên, qui luật xã hội phải mang đầy đủ những đặc
trưng cơ bản của qui luật nói chung, đó là tính khách quan, tất yếu và
phổ biến.
Tính khách quan của qui luật xã hội thể hiện ở chỗ, tuy
qui luật xã hội được biểu hiện thông qua hoạt động của con người nhưng
nó không phụ thuộc vào ý thức, ý chí của bất kỳ một cá nhân, hay một lực
lượng xã hội nào..."
Có thể khẳng định, sự hình thành xã hội là
một quá trình tất yếu, do đòi hỏi của con người từ lao động sáng tạo,
tìm tòi vươn lên sản xuất, hình thức kiếm ăn hiệu quả nhất trong việc
cấp dưỡng, duy trì sống còn. Sản xuất là dạng lao động sáng tạo hiệu
quả cao có chủ đích và được công cụ hỗ trợ. Sản xuất xã hội là sản xuất
ra của cải vật chất cho cá nhân con người nói riêng, đồng thời cho tồn
tại và phát triển xã hội nói chung. Thông qua quá trình sản xuất mà tình
cảm con người ngày càng được củng cố và trở nên sâu sắc. Do đó, ngày
nay, sản xuất đã trở thành đặc trưng cơ bản, chính yếu cho xã hội loài
người. Sự phát triển của trình độ sản xuất qua các thời kỳ lịch sử đã
phản ánh lên cấu trúc xã hội, thể hiện ra thành các trạng thái xã hội có
thể phân biệt được tương đối với nhau. Triết học duy vật biện chứng
cũng nói: "Mỗi xã hội được đặc trưng bằng một phương thức sản xuất nhất
định. Phương thức sản xuất đóng vai trò quyết định đối với tất cả các
mặt của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Sự thay
thế kế tiếp nhau của các phương thức sản xuất trong lịch sử quyết định
sự phát triển của xã hội loài người từ thấp đến cao".
Loài vượn
người - loài vượn cổ chưa chuyển hóa thành người hoặc mới chập chững
những bước đi đầu tiên của con người, như số đông các loài động vật
hoang dã khác, vẫn sống theo lối bầy đàn, kiếm ăn được chăng hay chớ, di
cư thường xuyên mưu sinh trong một phạm vi môi trường rộng lớn Với số
lượng cá thể ngày càng đông trong khi nguồn thức ăn bị giới hạn, sự cố
gắng sống còn đã hối thúc loài vượn người mở rộng nguồn thức ăn, tìm tòi
những thức ăn mới ngoài săn bắt - hái lượm. Bên cạnh đó, cuộc đấu tranh
sinh tồn trong điều kiện hoàn cảnh môi trường đặc thù nào đó bắt chúng
tiến hóa - thích nghi theo hướng nảy sinh ra tư duy trừu tượng, tạo nên
nhữnh yếu tố tiền đề cần và đủ cho lao động sáng tạo ra đời. Từ đó, loài
vượn người chuyển hóa thành người vượn, thế hệ loài người đầu tiên,
tăng tốc quá trình phát triển đi lên của giống loài.
Trong quá
trình phát triển ấy, tác dụng tổng hợp của tư duy trừu tượng và lao động
sáng tạo đã giúp loài người khám phá ra một phương thức mới hiệu quả
hơn hẳn phương thức săn bắt - hái lượm trong việc đảm bảo sống còn, đó
là trồng trọt - chăn nuôi. Nhưng có được trồng trọt - chăn nuôi rồi, con
người, về hình thức, vẫn chưa dứt khoát vượt thoát khỏi đời sống của
loài vật hoang dã, vẫn sống theo lối bầy đàn, hầu như vẫn chưa có các
khái niệm như tư hữu, để dành, tích lũy...Phát hiện ra cây lương thực
(lúa nước), trồng "đại trà", đảm bảo nguồn thức ăn ổn định, lâu dài,
giải phóng con người khỏi phần lớn những công việc kiếm ăn thuần túy
thường ngày đầy khó khăn, vất vả, tạo điều kiện cho con người có lối sống
định cư, có văn hóa, tiến thẳng lên văn minh, chính là cuộc cách mạng vĩ đại thứ hai
trời long đất lở (sau cuộc cách mạng tìm ra công dụng của lửa và ăn thức
ăn chín). Lần đầu tiên con người biết đến sản xuất, trình độ cao nhất
của lao động sáng tạo, lao động ra giá trị thặng dư. Cuộc cách mạng đó vĩ đại đến
nỗi cho đến ngày nay, nhiều người vẫn không biết rằng, loài người sinh
ra từ đâu, cứ đinh ninh loài người sinh ra từ Chúa hoặc Thánh. Nhờ cuộc
cách mạng vĩ đại đó, loài người bước vào đời sống hợp quần xã hội, tổ
chức sản xuất nông nghiệp, thoát ly kiếp sống theo bầy đàn của loài động
vật hoang dã, chính thức làm người.
Nhưng làm người là gì? Có lẽ
đó là một câu hỏi chưa ai trả lời đích xác được. Trước những câu hỏi đại
loại về con người như vậy, thường người ta vẫn trả lời theo hướng thiên
vị, tự cho loài người là giống loài đẹp đẽ tối cao, đã là người thì
phải đẹp đẽ, hoàn thiện. Thực ra đâu phải như vậy. Loài người đẹp đẽ
nhất và cũng xấu xí nhất trong thế giới sinh vật. Phải chăng nên trả lời
như thế!? Cũng chưa được vì chưa phân biệt dứt khoát được giữa con vật
với con người, Anh bạn Hoang Tưởng của chúng ta có lần nói: "Con người
là con vật ý thức được tương lai và hành động theo nhận thức quá khứ, có
sáng tạo và khống chế được những hối thúc bản năng". Chúng ta nhớ lại
và ngẫm nghĩ, hóa ra đó có thể là câu trả lời thỏa đáng nhất.
***
Loài người, sau khi tiếp cận được lối sống cộng đồng xã hội và sở hữu
được lối mưu sinh bằng lao động sản xuất ra giá trị thặng dư, tiến lên nền sản xuất hành hóa (mà trước
đó chưa hề có), thì đã có đủ "thời gian rảnh rỗi" để bắt đầu có đủ khả
năng xây dựng những công trình vĩ đại (như kim tự tháp, vạn lý trường
thành...), bắt đầu tiến lên văn minh như vũ bão, đã có vẻ như đã hóa thánh: không có mang nhưng bơi, lặn giỏi hơn cá,
không có cánh nhưng bay lượn thuần thục hơn chim. Nhưng không phải vì thế mà con
người giảm bớt được tính mù quáng trong hoạt động sống của nó, trái lại
tính mù quáng đó ngày càng trở nên tồi tệ hơn, phạm vi ngày càng sâu
rộng hơn, không còn là sự mù quáng đơn thuần của con vật nữa, mà là sự
mù quáng trong sáng suốt, minh tuệ của con người. Bằng chứng rõ ràng
nhất, không thể chối cãi được là sự gây hấn chiến tranh, phổ biến sự giết
chóc tàn sát dã man ngay chính đồng loại mình. Ở thế giới sinh vật hoang
dã, đâu có thấy phổ biến hiện tượng tìm kiếm sống còn bằng cách đi ngược lại với cố gắng bảo toàn
sống còn ấy!?
Nếu Trái Đất đã may mắn có được thiên nhiên - một
môi trường tự nhiên phù hợp để dung túng thế giới sự sống, thì sự tự
giác tích cực mưu sinh kết hợp với tư duy trừu tượng đã tạo ra được xã
hội - một môi trường sống nhân tạo không thể từ bỏ của lối sống đại đa
số con người. Chính lối sống hợp quần xã hội và sinh tồn bằng lao động
thặng dư trong qui mô sản xuất và ăn chia thành quả nhất định không
những đã dẫn đến đáp ứng cho sự sống còn sinh học, mà còn đáp ứng cho
một hình thái sống còn thứ hai, chỉ loài người tư duy trừu tượng mới có,
không thể thiếu được và làm nên văn hóa nhân loại, đó là sự sống còn
tinh thần. Nếu mục đích chủ yếu của đấu tranh sinh tồn cho sự sống còn
sinh học là cái ăn, thì mục đích của đấu tranh sinh tồn cho sự sống còn
tinh thần là danh lợi. Thực ra lợi là những thứ cần thiết cho sự sống
còn của con người (trong đó tất nhiên có cả đời sống tinh thần), gồm
thực phẩm và những thứ tiêu dùng thiết yếu phi thực phẩm, nảy sinh trong
quá trình tiến lên văn minh của loài người. Còn danh là thứ làm thỏa
mãn đời sống tinh thần (là lợi), đồng thời cũng gián tiếp sinh ra lợi
(quyền lực, lợi ích). Trong xã hội loài người, mọi hoạt động của con
người đều nhằm mục đích danh lợi. Cho nên, muốn giải thích được thỏa
đáng những hiện tượng xảy ra trong xã hội, tiên quyết phải dựa vào luận
điểm này.
Môi trường sống xã hội, dù nhân tạo, thì xét cho cùng,
cũng bị chi phối bởi các qui luật của môi trường thiên nhiên, chỉ có
điều dưới những dạng đặc thù (chẳng hạn qui luật đấu tranh sinh tồn, qui
luật cung cầu...). Tư duy trừu tượng, do bị áp lực thường xuyên bởi các
qui luật ấy trong suốt quá trình lao động sản xuất xã hội lúc gặp thuận
lợi cũng như lúc khó khăn, và nhất là qui luật phát triển lạm phát về
số lượng cá thể sinh vật khi gặp điều kiện thuận lợi, đã nhào nặn con
người thành những sinh linh có tâm hồn với đầy đủ các sắc thái tình cảm
"hỉ, nộ, ái, ố" sâu sắc, hình thành đủ mọi khái niệm như sướng - khổ,
giàu - nghèo, yêu - ghét, vị tha - hận thù...Tình hình đó nhất thiết dẫn
dắt con người tới sự tranh giành, cướp đoạt lẫn nhau gây nên sự chết
chóc đồng loại. Và chiến tranh là không tránh khỏi.
Theo triết học
duy tồn, chiến tranh là hình thái cực đoan của tranh giành danh lợi
(danh lợi và quyền lợi) của hai hay nhiều xã hội, của hai hay
nhiều tập đoàn người. Vì chiến tranh là tranh giành danh lợi cực đoan
nên sự giết chóc, tàn sát lẫn nhau, phá hoại thành quả của nhau giữa
người với người là đương nhiên khi con người vẫn còn chìm đắm trong mù
quáng nhận thức.
Xã hội hình thành là một đòi hỏi tự nhiên từ sự
tự giác sống còn và chủ động mưu sinh của con người. Xã hội tồn tại nhằm
tạo điều kiện làm ra của cải, vật chất (danh lợi) bằng cách thức sản
xuất. Xã hội tồn tại dần dần hun đúc nên cuộc sống tinh thần của con
người với đầy đủ những sắc thái chia ra làm hai mặt tốt - xấu của nó.
Nói chung mặt tốt là mặt có tác dụng gắn kết, duy trì sự tồn tại xã hội,
còn mặt xấu là mặt có tác dụng phá hoại, làm phân rã xã hội.
Khi
xét mức sống dân cư của một thời đoạn xã hội thì phải dựa trên trình độ
tiêu dùng của dân cư thời đoạn xã hội đó mà đánh giá. Mức sống ngày nay
chắc chắn là văn minh hơn, nhưng không thể gọi là cao hơn, sung túc hơn
mức sống thời nguyên thủy. Có lẽ hình thái đầu tiên của xã hội loài
người là hình thái Cộng sản nguyên thủy. đặc điểm của hình thái này là sở hữu chung về tư liệu sản xuất, lao động tập thể và hưởng chung
thành quả lao động; công cụ sản xuất thô sơ, lực lượng sản xuất phát
triển ở trình độ thấp. Dù "Cộng sản nguyên thủy" là một khái niệm
xuất phát từ Karl Marx và Friedrich Engels, nhưng quan niệm của chúng
ta có khác. Chúng ta cho rằng, vào thời Cộng sản nguyên thủy, chế độ
sống theo vợ chồng mẫu hệ đã manh nha hình thành, manh nha trở thành tế bào xã
hội, đời sống dân cư sung túc, của cải dồi dào, chưa có nhà nước, chưa
có khái niệm danh lợi, chưa phân định giàu - nghèo, chưa có khái niệm tư
hữu, chưa phân tầng giai cấp...Xã hội thời kỳ đó thực sự bình đẳng,
thực sự tự do, hồn nhiên hết mực.
Do những biến động thiên nhiên cũng như sự chuyển
hóa xã hội ảnh hưởng đến sản xuất, sản xuất không theo kịp mức sống
trung bình xã hội dẫn đến những giai đoạn thịnh - suy xã hội kế tiếp
nhau. Điều đó làm cho một loạt những khái niệm cũng như phong phú sắc
thái tình cảm liên quan đến đời sống con người như: của cải, vơ vét,
tích lũy, giàu - nghèo, sướng - khổ, lười nhác - siêng năng, thiếu thốn -
dư thừa, hạnh phúc - khổ đau, vui - buồn...được hình thành và ngày
càng trở nên sâu sắc. Xuất hiện những hiện tượng không làm cũng có ăn. Kiếm được cái ăn không phải nhờ tự bản thân lao động mà đôi khi chỉ nhờ vào có sức trấn áp, đe dọa đồng loại, tức nhờ vào bạo lực. Cũng từ đó, mặt xấu về cuộc sống tinh thần của con
người trong xã hội hình thành và ngày càng phát tác tiêu cực đến đoàn
kết xã hội, có nguy cơ làm phân rã xã hội. Tình hình đó đương nhiên đòi hỏi sự ra
đời của nhà nước để điều hành, trị an xã hội, tăng cường sự đoàn kết,
hoạt động đồng bộ xã hội, bảo toàn xã hội.
Như vậy, mục đích tự
nhiên đầu tiên, nguyên thủy, xuyên suốt và thiết yếu của nhà nước là trị an xã hội.
Chính vì thế mà bản chất tự nhiên đầu tiên, nguyên thủy của nhà nước
cũng là hoạt động vì đại đa số dân cư trong xã hội, nghĩa là "của dân,
do dân và vì dân".
Học thuyết Mác - Lênin đã quan niệm chưa thuyết
phục về sự ra đời của nhà nước khi cho rằng, lực lượng sản xuất phát
triển đã dẫn đến sự ra đời chế độ tư hữu và từ đó xã hội phân chia thành
các giai cấp đối kháng và cuộc đấu tranh giai cấp không thể đều hòa
được xuất hiện. Điều đó dẫn đến nguy cơ các giai cấp chẳng những tiêu
diệt lẫn nhau mà còn tiêu diệt luôn cả xã hội. Để thảm họa đó không
diễn ra, một cơ quan quyền lực đặc biệt đã ra đời. Đó là nhà nước.
Nhà
nước đầu tiên trong lịch sử là nhà nước chiếm hữu nô lệ, xuất hiện trong
cuộc đấu tranh không điều hòa giữa giai cấp chủ nô và giai cấp nô
lệ...Mác - Ăngghen đã viết: "nhà nước chẳng qua chỉ là một bộ máy của
một giai cấp này dùng để trấn áp một giai cấp khác". Rốt cục, theo họ,
bản chất của nhà nước, theo nguyên nghĩa, là nhà nước của giai cấp bóc
lột. Từ quan niệm sai lầm đó, các nhà cách mạng mácxít đã đi đến nhận
định, cho dù được che giấu dưới hình thức tinh vi như thế nào, cho dù có
bị khúc xạ qua những lăng kính phức tạp ra sao, nhà nước trong mọi xã
hội có giai cấp đối kháng cũng chỉ là công cụ bảo vệ lợi ích của giai
cấp thống trị. Vì thế mà các nhà cách mạng mácxít đi đến một chủ trương
đầy tính cực đoan: xóa bỏ chế độ tư bản, dùng chuyên chính vô sản tiêu
diệt giai cất tư sản, đập tan nhà nước tư sản, xây dựng nhà nước vô sản
của giai cấp công nhân, tiến lên xóa bỏ nhà nước.
Thực ra, do Tự Nhiên Tồn Tại khi vận động
và chuyển hóa xét cho cùng chỉ phải tuân theo một nguyên lý duy nhất là
nguyên lý tự nhiên nên nó tồn tại một cách vừa tự do tối đa lại vừa bị
ràng buộc tuyệt đối, tức là muốn chuyển hóa thành cái gì cũng được miễn
có khả năng, nhưng không được Hư Vô. Từ đó dẫn đến một đặc trưng quan
trọng của Tự Nhiên Tồn Tại là đầy đủ. Đầy đủ là thứ gì cũng có, chỉ
không có Hư Vô. Vì đầy đủ nên Tự Nhiên Tồn Tại vô cùng phong phú, đa
dạng, có thể phân thành vi mô - vĩ mô, có thể thấy vừa liên tục vừa gián
đoạn, và đặc biệt có thể phân thành tầng lớp, có thể được nhìn nhận như
một thế giới tương phản, gồm các lực lượng đối nghịch nhau. Và xã hội,
vì là bộ phận của Tự Nhiên Tồn Tại, của tự nhiên, của thiên nhiên, của
thế giới sinh vật, có thể coi là bức tranh thu nhỏ của Trái Đất nên cũng
có những đặc tính tương tự như của Tự Nhiên Tồn Tại, tương tự như của
thiên nhiên Trái Đất, cũng có những đặc trưng về tính đầy đủ nhưng thể
hiện ra dưới dạng đặc thù của riêng xã hội, mà triết học cổ đại Trung
Hoa từ lâu đã gọi là hai lực lượng Âm - Dương và có lẽ
được xây dựng nên từ ý niệm ban đầu là lưỡng phân lưỡng hợp được quan
sát và nhận biết tuyệt đích của người Việt cổ (!), coi như chỉ xã hội
loài người mới có. Một trong những biểu hiện nổi bật của tính đầy đủ
trong xã hội loài người là sự phân định dân cư xã hội thành hai lực
lượng tương phản giàu - nghèo. Lúc đầu, sự phân tầng giàu - nghèo chỉ có
tính ngẫu nhiên, hời hợt, nghĩa là sự phân tầng giàu - nghèo hình thành
từ những yếu tố tự nhiên (như gặp thời tiết thuận hòa,
thiên
nhiên ưu đãi...). Theo quan niệm của chúng ta, sự phân tầng giàu nghèo
do yếu tố tự nhiên (hoặc không do bóc lột thặng dư), không được coi là
phân tầng giai cấp. Nhưng do các yếu tố thuận lợi - bất lợi, nhất là các
quá trình thịnh - suy xã hội tác động đến tính chủ động tích cực đảm
bảo sự sống còn của con người, dần dần làm cả mặt tích cực cũng như mặt
tiêu cực của đời sống tinh thần của con người ngày càng phát triển,
nghĩa là các sắc thái tình cảm ngày càng trở nên sâu sắc. Đó là nguyên
nhân làm xuất hiện hàng loạt khái niệm mới, như của cải, tích cốc phòng
cơ, cướp bóc, tranh giành, căm thù, tư hữu, phè phỡn, đói khổ, tốt - xấu,
khinh - trọng, thừa - thiếu, đạo đức...
Cuối thời Cộng sản nguyên
thủy, mặt trái của đời sống tinh thần dân cư nổi trội tàn phá xã hội
mạnh mẽ. Nguy cơ phá vỡ sự đoàn kết tồn tại xã hội buộc đông đảo dân cư
(đại biểu là tầng lớp giàu có) phải tập hợp lại, tìm cách hoàn thiện
loại hình nhà nước - loại hình tổ chức đặc biệt, đã tồn tại tự nhiên từ
trước như một dạng nhà nước sơ khai, đóng vai trò duy nhất là điều hòa
hoạt động xã hội, đảm bảo sự ổn định xã hội. Mục đích hoàn thiện nhà
nước là để cho nó có đủ năng lực thực hiện trị an xã hội, duy trì đời
sống xã hội, giúp cho dân cư toàn xã hội được kiếm ăn, mưu sinh thuận
lợi, trôi chảy. Việc làm đó là cần thiết để bảo vệ sự sống còn xã hội,
nhưng đồng thời vô hình dung cũng bảo vệ như một lẽ đương nhiên công
cuộc làm ăn cho tầng lớp giàu có. Đi đôi với quá trình kiện toàn bộ máy
nhà nước là quá trình chuyển hóa xã hội: hình thái cộng sản nguyên thủy
tan rã, hình thành hình thái mới có tên tư bản nguyên thủy (tạm đặt tên
như thế vì trên thế giới chưa ai thừa nhận hình thái xã hội này trong
lịch sử xã hội loài người; chúng ta là những người đầu tiên nêu ra!),
trình độ sản xuất đã được nâng cao hơn, đã xuất hiện sơ khai hình thức
sản xuất hàng hóa, con người đã bắt đầu biết tích lũy của cải, sở hữu
công cụ lao động và tư liệu sản xuất, chế độ vợ chồng ra đời....
Trong thời tư bản nguyên
thủy, lòng tham (sự ham muốn) đã trở thành như bản chất con người, cuộc
sống gắn kết gia đình (vợ chồng và con cái) được củng cố, đóng vai trò
như tế bào làm nên xã hội (chúng ta tin hình thức hợp thành gia đình sẽ
trở nên nhạt nhòa khi hình thái cộng sản chủ nghĩa trở thành xã hội hiện
thực). Cũng trong thời tư bản nguyên thủy, nhà nước biến thái dần thành
nhà nước của tầng lớp giàu có, bênh vực tầng lớp giàu có. Dân cư trong
xã hội đã nhận thức rõ thế nào là danh lợi, quyền lực và tranh giành
quyền - lợi trong xã hội cũng chính là hoạt động nhằm cố gắng sống còn. Sự đấu tranh đã xảy ra một cách phổ biến. (Chiến tranh là cuộc gây chết chóc lẫn nhau vì danh lợi nói chung, còn đấu tranh là cuộc đi xóa bỏ bất công trong hưởng thụ danh lợi, tình trạng cực đoan của đấu tranh là chiến tranh!). Lúc này sự phân định giàu -
nghèo trong xã hội không còn mang yếu tố tự nhiên thuần túy nữa mà chủ
yếu là mang yếu tố nhân tạo: nghèo do nhà nước áp chế, chèn ép, bóc lột
mà nghèo đi, giàu do nhà nước ưu tiên, bênh vực dung túng, do cướp bóc
được mà giàu lên. Chính sự phân tầng giàu - nghèo bất chính ấy là
nguyên nhân xuất hiện giai cấp.
Như vậy, phải cho rằng sự hình
thành nhà nước là tiến đề xuất hiện giai cấp chứ không phải ngược lại
như quan niệm của Mác - Lênin. Hơn nữa, không phải lúc nào trong xã hội
cũng phân tầng giai cấp và sự tồn tại các giai cấp đạt mâu thuẫn đối
kháng; khi nhà nước còn mang chức năng ban đầu (bản chất nguyên thủy là
của dân, do dân và vì dân) thì không có phân tầng giai cấp và lịch sử xã
hội loài người đã chỉ ra, chưa từng có sự phân tầng giai cấp nào khác
ngoài sự phân tầng ra hai giai cấp thống trị - bị trị, nghĩa là tầng lớp
công nhân, nông dân, vô sản, tư sản chưa từng tồn tại như những giai
cấp có sức sống độc lập mà Mác - Lênin đã lầm tưởng để từ đó hô hào
cuộc cách mạng kinh thiên động địa, đầy ảo tưởng gọi là cách mạng vô
sản, đấu tranh giai cấp khốc liệt, phá - xây điên cuồng, hướng tới lý
tưởng xã hội tươi đẹp bằng cách bước đầu tiên là đạp đổ chế độ cũ, tiêu diệt giai cấp tư sản bóc lột, nhưng rốt cuộc... chẳng đến đâu cả, không những không xóa bỏ được giai cấp tư sản, mà còn làm xuất sinh từ bản thân mình một tầng lớp "ăn tàn phá hại", đục khoét mục ruỗng xã hội còn hơn cả giai cấp tư sản, đó là bè lũ "tư sản đỏ"!
Qua thời
tư bản nguyên thủy thì đến thời chiếm hữu nô lệ. Đặc trưng của thời kỳ
này là nhà nước chuyển hóa thành một thứ công cụ bạo lực đứng về phía
tầng lớp giàu có, sẵn sàng trấn áp xã hội và được gọi là nhà nước chủ
nô (chức năng nguyên thủy ban đầu đã thoái hóa xuống mức tối thiểu). Xã hội phân chia lực lượng dân cư thành hai tầng lớp mâu thuẫn đối
kháng nhau rõ ràng là tầng lớp thống trị và tầng lớp bị trị. Sự tư hữu
đã đạt đến mức độ tới hạn của nó: những gia đình có của không những chia
nhau chiếm hữu hầu hết tư liệu sản xuất, mà còn chiếm hữu cả lực lượng
lao động (chiếm hữu nô lệ), biến lực lượng lao động thành một dạng công
cụ sản xuất, một đồ chơi giải trí đặc biệt. Sự làm giàu bất chính nhờ
được nhà nước "cảnh sát" bảo hộ của tầng lớp thống trị và sự bị đày đọa
cùng cực, bị vô sản hóa của tầng lớp bị trị đã ngày càng khoét sâu mâu
thuẫn về quyền lợi giữa hai giai cấp, nung nấu sự bùng nổ cách mạng xã
hội, làm xuất hiện hình thái xã hội phong kiến thay thế hình thái chiếm
hữu nô lệ.
Cuối thời chiếm hữu nô lệ, những đòi hỏi phá bỏ những
ràng buộc, xiềng xích nô lệ, được tự do mưu cầu danh lợi đã làm cho
chiến tranh trở thành hiện tượng phổ biến. Sự mở rộng và phát triển của
sản xuất hàng hóa yêu cầu nâng cao hơn nữa việc chiếm hữu đất đai và trình độ sản xuất đã là
nguyên nhân chủ yếu dọn đường cho hình thái xã hội phong kiến ra đời
thay cho chế độ chiếm hữu nô lệ đã trở nên lạc hậu. Đây là thời kỳ tồn
tại tầng lớp điền chủ giàu có, sống xa hoa, phè phỡn, lãng phí nhờ thu
điền tô của tầng lớp nông dân, nông nô trong xã hội. Đặc trưng của thời
đại phong kiến là nhà nước khẳng định chế độ độc tài (chế độ quân chủ),
cha truyền con nối như một lẽ tự nhiên. Chiến tranh huynh đệ tương tàn,
giành giật danh lợi trong nội bộ tầng lớp thống trị và khởi nghĩa nông
dân xảy ra triền miên chống sự áp bức, bóc lột tàn nhẫn của tầng lớp
thống trị. Cứ ngỡ với tình trạng như thế, chế độ phong kiến rất nhanh
suy tàn, chịu sự thay thế của một hình thái kinh tế xã hội mới. Nhưng
không, thật lạ lùng, dù có lúc thịnh lúc suy, chế độ phong kiến vẫn tồi
tại dai dẳng hàng ngàn năm, "thọ" nhất trong số các hình thái kinh tế xã
hội đã từng tồn tại cho đến nay. Điều đó làm chúng ta suy nghĩ rất
nhiều để cố tìm ra lời giải thích thỏa đáng. Có lẽ do trình độ sản xuất hàng hóa đã chưa đủ để tiến lên sản xuất tập trung, qui mô lớn!
Như chúng ta đã khẳng
định, thế giới này chỉ có Tự Nhiên Tồn Tại chứ không thể có Hư Vô. Do
đó, đặc tính cơ bản nhất của Tự Nhiên Tồn Tại là tồn tại và chuyển hóa.
Khi tồn tại thì nó (Tự Nhiên Tồn Tại) phải cố gắng tồn tại (thể hiện ra
là quán tính), và khi chuyển hóa thì biến đổi từ dạng tồn tại này sang
dạng tồn tại khác. Sinh vật cũng tương tự, ra đời để sống cho dù đến mức
hạn định thì phải chết đi (chuyểng sang dạng tồn tại khác). Do đó,
trong một thiên nhiên chịu ảnh hưởng bởi qui luật tăng trưởng lạm phát
về số lượng cá thể và nguồn thức ăn có tính hạn định, thì qui luật đấu
tranh sinh tồn là qui luật cơ bản nhất trong thế giới sinh vật. Nhờ có
qui luật đấu tranh sinh tồn mà quá trình tiến hóa - thích nghi được
triển khai để thế giới sinh vật chuyển hóa thành đa dạng giống loài và
hoàn thiện các cấu trúc cơ thể, các chức năng tìm kiếm thức ăn như ngày
nay. Một trong những kết quả tưởng ngẫu nhiên nhưng thực ra là tất yếu
của quá trình tiến hóa - thích nghi là làm xuất hiện loài người - loài
có tư duy trừu tượng (ở bất cứ nơi nào có môi trường giống Trái Đất đều
phải sinh ra loài có tư duy trừu tượng!). Loài có tư duy trừu tượng là
loài tích cực nhất trong đấu tranh sinh tồn. Do đó, việc tìm ra lối sống
tối ưu để đảm bảo sống còn là hướng đi tất yếu của nó. Và lối sống tối
ưu ấy là định cư lâu dài cùng với sự đoàn kết, hợp quần thành cộng đồng
xã hội.
Cần phải cho rằng, hình thức sống theo lối cộng đồng xã
hội ở loài người có tư duy trừu tượng là tiếp nối hình thức sống theo
lối quần thể, bầy đàn theo bản năng ở các loài sinh vật. Nếu mục đích
của lối sống quần thể, bầy đàn là tăng cường hiệu quả trong hoạt động
sống còn, trong việc kiếm ăn, thì mục đích của lối sống cộng đồng xã hội
cũng tương tự, là nhằm tăng cường khả năng sống còn, tăng cường hiệu
quả trong lao động, sản xuất, và cuối cùng là tạo khả năng tìm kiếm danh
lợi ở mỗi cá thể. Trong thời đại phong kiến, tuy sự bóc lột của tầng
lớp thống trị đối với tầng lớp bị trị không ngừng tăng lên làm suy tàn
xã hội, song sự phát triển của trình độ sản xuất hàng hóa xã hội và hình
như cả sự xuất hiện chiến tranh liên miên cũng góp phần tích cực vào sự
duy trì chế độ phong kiến (?). Điều đặc biệt là hình thức nhà nước độc
tài (nhà nước quân chủ) đã như một hình thức nhà nước tối ưu, mặc định.
Mọi cuộc chiến tranh, sau khi lật đổ được chế độ quân chủ này, ông vua
này, thì rồi cũng dựng nên một chế độ quân chủ khác, ông vua khác. Phải
chăng chế độ độc tài mang những yếu tố tự nhiên cần có, nghĩa là hợp lý,
của mọi chế độ xã hội?
Tuy vậy, chế độ phong kiến rồi cũng đến
thời kỳ suy tàn. Nhờ vào sự phát triển vũ bão của khoa học - kỹ thuật,
và có lẽ do sự "đuối sức" của nền sản xuất hàng hóa thủ công, mang tính
tự cung tự cấp trước sự lớn lên không ngừng về số lượng hàng tiêu dùng
phi thực phẩm cộng với sự chi phí quá mức xa hoa, phung phí như tiệc
tùng thừa mứa, xây dựng những cung điện, đền đài nguy nga, đồ sộ, ...của
tầng lớp thống trị, làm phát sinh đòi hỏi mở rộng nền sản xuất hàng hóa
cũ để thiết lập một nền sản xuất có trình độ cao hơn, rộng lượng hơn,
tập trung hơn để đạt hiệu quả cao hơn, gọi là nền sản xuất công nghiệp.
Nhưng muốn có nền sản xuất công nghiệp thì chế độ quân chủ trở nên không
còn phù hợp nữa, phải xây dựng chế độ mới có khuynh hướng tự do hơn,
dân chủ hơn quen gọi là chế độ tư bản. Và thế là một hình thái kinh tế
xã hội mới ra đời, thay thế hình thái kinh tế xã hội phong kiến, được
gọi là hình thái kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa. Hiện nay chúng ta đang
sống trong hình thái xã hội này.
(Còn tiếp)
-------------------------------------------------------------------
Nhận xét
Đăng nhận xét