Thứ Hai, 14 tháng 2, 2022

TT & HĐ V - 50/g

 
Khám phá cội nguồn của phật giáo


PHẦN V: THỐNG NHẤT
 
"Khoa học là một sức mạnh trí tuệ lớn nhất, nó dốc hết sức vào việc phá vỡ xiềng xích thần bí đang cầm cố chúng ta."
Gorky

"Mỗi một thành tựu lớn của nhà khoa học chính là xuất phát từ những ảo tưởng táo bạo".
JohnDewey

"Chân lý chỉ có một, nó không nằm trong tôn giáo, mà nằm trong khoa học."
Leonardo da Vinci

"Cái khó hiểu nhất chính là hiểu được thế giới"
Albert Einstein

"Có hai cách để sống trên đời: một là xem như không có phép lạ nào cả, hai là xem tất cả đều là phép lạ".
Albert Einstein

“Chính qua cuộc đấu tranh nhằm thống nhất một cách hợp lý cái đa dạng mà đã đạt được những thành công lớn nhất, dù rằng chính ý đồ đó có thể gây ra những nguy cơ lớn nhất để trở thành con mồi của ảo vọng”.
Albert Einstein


“Người nhìn thấy cái đa dạng mà không thấy cái đồng nhất thì cứ trôi lăn trong cõi chết”.
Upanishad

CHƯƠNG IX (XXXXX): CÁCH NHÌN MỚI VỀ BỨC TRANH

"Tư tưởng luôn luôn là sự khái quát, và sự khái quát là một thuộc tính của tư duy. Khái quát nghĩa là tư duy."
"Cái gì có lý là sự thật, và cái gì là sự thật sẽ có lý."
"Lòng dũng cảm với sự thật là điều kiện đầu tiên cho nghiên cứu triết học."
"Không phải tính tò mò, không phải sự kiêu căng, không phải việc cân nhắc lợi ích, không phải trách nhiệm hay vì làm theo lương tâm mà chính là cơn khát không chịu chấp nhận thỏa hiệp, đầy khốn khổ và không thể dập tắt, dẫn chúng ta đến sự thật."
"Sự thật trong triết học có nghĩa là khái niệm và hiện thực bên ngoài phù hợp với nhau."
Hegel

"Nếu những người đi trước thiếu tinh thần mạo hiểm, ngày nay sẽ không có đèn điện, ra đa, máy bay, vệ tinh nhân tạo, cũng không có chất penicillin và xe hơi."
F. Kedwell (Mỹ)
 
"Chân lý chỉ có một, nó không nằm trong tôn giáo, mà nằm trong khoa học."
Da Vinci (Ý)

"Người nghiên cứu mẫu mực không phải là người thấy và thông báo lại cái mà những người quan sát bình thường đã thấy và thông báo lại, mà là người thấy trong các sự vật quen thuộc cái mà chưa ai thấy"
Norwood Russell Hanson
 
"Triết học là lời phủ dụ của con người về tự nhiên, là ngọn đèn tỏa ánh sáng gợi mở cho nhận thức tiến lên mỗi khi khoa học mù lòa và khoa học là sự cố gắng phá tan màn đêm bế tắc đó bằng ngọn đèn triết học, nhờ thi ca toán học."
NTT
 
"Không thể hình dung nổi con người ngày nay lại sống thiếu toán học Không có toán học, con người trở thành mù tịt. Nhưng có toán học, thì tư duy trừu tượng bị lũng đoạn thái quá bởi tính trừu tượng chủ quan vô độ của con người làm cho nhận thức khoa học về Vũ Trụ trở nên ảo tưởng, xa rời thực tại và chân lý"
Thầy Cãi

"Loài người có thể hiểu được sự thực của Vũ Trụ như nó vốn dĩ, trước khi họ bị diệt vong!?"
NTT 


(Tiếp theo)


Kitô Giáo ra đời sau đạo Phật, vào thời đoạn Đế quốc La Mã còn thịnh trị, tức là tầng lớp thống trị của nó còn đủ sức mạnh áp bức quần chúng cần lao bị trị. Đạo này (trong quá trình tồn tại của nó, có lẽ tiếp thu những quan niệm của đạo Phật, sau này bị lũng đoạn không ít bởi tầng lớp thống trị để phục vụ cho việc cai trị, xóa nhòa tính đối kháng trong mâu thuẫn quyền lợi giữa tầng lớp thống trị và tầng lớp bị trị) giải thích một cách mơ hồ và yếm thế nguyên nhân gây ra những khổ đau, đầy ải bất hạnh trong xã hội và cách thức giải thoát chúng. Theo Wikipedia thì:
"Đức Chúa Giê-su sáng lập Kitô giáo vào khoảng năm 26 ở Do Thái. Đức Chúa Giê-su giáng sinh vào năm 1 Công Nguyên, tại làng Bethlehem xứ Judea. Trú quán của Giê-su là làng Nazareth, xứ Galilee. Đức chúa Giê-su khởi hành truyền bá Phúc Âm trong xứ Galilee lúc khoảng 30 tuổi.
Các tôn giáo trên thế giới đều dạy con người phải tự mình làm các điều lành thánh thiện, tu tâm dưỡng tính để tự cứu mình hay để được siêu thoát hoặc thi hành nghiêm túc các giới cấm của đạo để được lên thiên đàng. Cơ Đốc Giáo khẳng định là mọi người sinh ra đều mắc phải tội tổ tông truyền(do phạm luật Chúa Cha đã truyền dạy " Các ngươi được phép ăn tất cả trái cây trong vườn địa đàng, nhưng không được ăn cây ở giữa khu vườn nếu ăn các ngươi sẽ phải chết ") do nghe lời con rắn xúi dục, tham lam muốn bằng Thiên Chúa nên đã bị phạt làm người phải chịu chết và sinh con đau đớn, nên Chúa Cha đã ban Con Một của mình là Đức Chúa Giê-su xuống thế gian chịu chết trên thập giá để làm giá cứu chuộc. Nếu ai muốn được cứu thì chỉ cần chấp nhận và tin tưởng vào sự ban cho như không này như lời tiên tri I-sai-a: "Hỡi những kẻ nào khát, hãy đến suối nước! Và người nào không có tiền bạc, hãy đến, mua mà ăn! Hãy đến, mua rượu và sữa mà không cần tiền, không đòi giá" I-sai-a.
Cuộc đời của Chúa Giê-su được ghi lại trong bốn sách Phúc Âm Tin Mừng theo thánh Mát-Thêu (Mathew), Maco, Lu-ca và Gio-an. Phúc Âm Mát-Thêu cho biết gia phả của Chúa Giê-su thuộc dòng dõi của vua Đa-vít và sanh bởi Đức nữ đồng trinh Ma-ri-a. Hai điều này làm ứng nghiệm lời tiên tri: "Có một chồi sẽ nứt từ gốc Y-sai, một nhánh từ rễ nó sẽ ra trái" và "Nầy, một gái đồng trinh sẽ chịu thai và sanh một con trai" (I-sai-a). Phúc Âm Ma-thi-ơ đã trưng dẫn tất cả 16 lần các lời tiên tri nói về Đấng Mê-si ở Cựu Ước được ứng nghiệm trong Đức Chúa Giê-su ở Tân ước để thuyết phục người Do Thái chấp nhận Đức Chúa Giê-su là Đấng Mê-si của mình. Phúc Âm Mác bày tỏ Đức Chúa Giê-su là Con của Đức Chúa Trời và là Đấng Cứu Thế của nhân loại. Phúc Âm Lu-ca bày tỏ Đức Chúa Giê-su là Con của Đấng Rất Cao, Chúa Con sẽ ngồi trên ngôi Đa-vít trị vì đời đời, nước Chúa vô cùng. Phúc Âm Giăng bày tỏ Đức Chúa Giê-su là Đức Chúa Trời Ngôi Hai trở thành nhục thể để đem sự cứu chuộc đến cho nhân loại.
Trong thời gian ba năm rao giảng tin mừng, Đức Chúa Giê-su làm nhiều phép lạ như: hóa nước thành rượu, làm người chết sống lại, người mù được sáng, người què được đi... hầu để chứng tỏ Giê-su là Đấng Mê-si hay Đấng Christ, đã đến trong thế gian để làm ứng nghiệm các lời tiên tri trong Cựu Ước. Ngoài các dấu kỳ phép lạ, Đức Chúa Giê-su công khai xác nhận mình là Đấng Mê-si hay Đấng Christ, "Ta, người đang nói với ngươi đây, chính là Đấng đó" (Giăng). Ngoài các dấu kỳ phép lạ đã làm, Đức Chúa Giê-su còn giảng dạy là mỗi người phải hết lòng yêu mến Đức Chúa Trời và thương kẻ lân cận như mình. Chúa Giê-su kêu gọi mọi người phải thay đổi lòng mình, ăn năn và tin nhận Thiên Chúa để được cứu rỗi và thừa hưởng nước Trời.
Sau 3 năm giảng dạy về nước Trời, dân Do Thái tin theo Dức chúa Giê-su rất đông làm cho các nhà lãnh đạo Do Thái Giáo coi chúa Giê-su là một mối đe dọa cho Do Thái Giáo. Nên họ đã bắt chúa Giê-su đem đến trường án vội vã kết tội chúa Giê-su đã phạm thượng, vì đã xưng mình là Con của Đức Chúa Trời, rồi họ đóng đinh chúa Giê-su trên thập tự giá cho đến chết.
Các sách Phúc Âm kể tiếp: Sau khi người ta đã đem chúa Giê-su chôn trong mồ, đến ngày thứ ba, Đức Chúa Giê-su sống lại. Sau khi sống lại, Chúa hiện ra với các môn đồ trong 40 ngày để ban Chúa Thánh Thần và sai các ông đi rao giảng và làm chứng cho Ngài đến tận cùng Trái Đất. Sau đó,chúa Giê-su thăng thiên trước sự chứng kiến của các môn đồ. Như sách Công vụ các Sứ đồ 1:9-11 ghi: Sau khi nói chuyện với các môn đồ lần chót xong, Đức Chúa Giê-su được cất lên trời. Các môn đồ ngó theo cho đến khi có một đám mây đến tiếp Chúa khuất đi, không thấy nữa. Đoạn, có hai thiên sứ mặc áo trắng hiện đến bảo các môn đồ rằng:chúa "Giê-su này đã được cất lên trời khỏi giữa các ngươi, cũng sẽ trở lại như cách các ngươi đã thấy Chúa lên trời vậy". Chúa Giê-su cùng các thánh đồ sẽ trở lại thế gian này đánh bại Sa-tan để thành lập vương quốc của Chúa. Chúa sẽ ngồi trên ngôi Đa-vít trị vì đời đời, nước Chúa vô cùng. Bấy giờ "họ sẽ lấy gươm rèn lưỡi cày, lấy giáo rèn lưỡi liềm. Nước này chẳng còn giá gươm lên nghịch cùng nước khác, người ta chẳng còn tập sự chiến tranh. Muông sói sẽ ở với chiên con, beo nằm với dê con; bò con, sư tử con với bò nuôi mập cùng chung một chỗ, một đứa con trẻ sẽ dắt chúng nó đi. Bò cái sẽ ăn với gấu; các con nhỏ chúng nó nằm chung, sư tử ăn cỏ khô như bò. Trẻ con đương bú sẽ chơi kề rắn hổ mang, trẻ con thôi bú sẽ thò tay vào hang rắn lục. Nó chẳng làm hại, chẳng giết ai" (I-sai).
Sau khi Chúa Giê-su thăng thiên độ 10 ngày, đến ngày lễ Ngũ Tuần, các môn đồ của Chúa Cứu Thế đang nhóm lại để ăn lễ Ngũ Tuần theo truyền thống của Do Thái Giáo thì "thình lình, có tiếng từ trời đến như tiếng gió thổi ào ào, đầy khắp nhà môn đồ ngồi. Các môn đồ thấy lưỡi rời rạc từng cái một, như lưỡi bằng lửa hiện ra, đậu trên mỗi người. Hết thảy đều được đầy dẫy Đức Thánh Linh" (CV 2:2-4).
Sau khi nhận được Đức Thánh Linh, các môn đồ của Đức Chúa Giê-su đi ra rao giảng cho mọi người biết Chúa Giê-su là Đấng Cứu Thế đã chết trên thập tự giá để chuộc tội cho nhân loại. Nếu ai bằng lòng tin nhận Chúa Giê-su và sự chết của Chúa trên thập tự giá là để đền tội cho mình thì người đó được cứu chuộc bởi ân điển của Đức Chúa Trời. Như Sứ đồ Phi-e-rơ xác định trước Toà Công Luận Do Thái rằng: "Chẳng có sự cứu rỗi trong đấng nào khác; vì ở dưới trời, chẳng có danh nào khác ban cho loài người, để chúng ta phải nhờ đó mà được cứu" (CV 4:12). Sứ đồ Phao lô vốn là một thành viên của môn phái Pha-ri-seu, từng hăng say bắt bớ và sát hại người tin theo chúa Giê-su. Nhưng sau khi trở lại tin nhận Chúa và trở thành một sứ đồ đầy lòng nhiệt huyết rao giảng Tin Mừng, ông tuyên bố: "Thật vậy, tôi không hổ thẹn về Tin Mừng đâu, vì là quyền phép của Đức Chúa Trời để cứu mọi kẻ tin" (Rô 1:16).
Dù Cơ Đốc Giáo bị Do Thái Giáo bắt bớ từ năm 35 đến năm 44, và sau đó bị các Hoàng Đế La Mã bách hại từ năm 64 đến năm 312, Cơ Đốc Giáo vẫn bành trướng mạnh trong đế quốc La Mã. Vào thế kỷ II, Cơ Đốc Giáo đã trở thành một tôn giáo có tổ chức hoàn bị với các giáo lý chính xác. Đến thế kỷ IV, Cơ Đốc Giáo đã lan tràn đến Tây Ban Nha, Ba-Tư và miền đông Ấn Độ.
Đến cuối thế kỷ IV, các Hội Thánh Cơ Đốc Miền Đông nằm trong lãnh thổ của Đông Đế quốc La Mã được chia ra làm bốn giáo khu. Bốn giáo khu đó là Constantinople (Thổ Nhĩ Kỳ), An-ti-ốt (Syria), Giê-ru-sa-lem (Do-Thái) và Alexandria (Ai Cập). Các giáo khu này trực thuộc Đông Giáo hội, đặt dưới quyền quản trị của một Giáo Trưởng, tòa thánh ở Constantinople, Thổ Nhĩ Kỳ. Các Hội Thánh Cơ Đốc Miền Tây nằm trong lãnh thổ của Tây Đế quốc La Mã trực thuộc Giáo Khu Rô-ma, cũng gọi là Tây Giáo hội. Tây Giáo hội đặt dưới quyền quản trị của một Giám mục, tòa thánh ở La Mã, Ý. Đông Giáo hội và Tây Giáo hội có nhiều bất đồng về giáo lý và quyền hạn giữa chức Giám mục ở La Mã và Giáo trưởng ở Constantinople. Sự việc này là mầm móng gây ra mối chia rẽ giữa hai giáo hội từ thế kỷ V. Đến năm 1054, Tây Giáo hội và Đông Giáo hội chính thức dứt phép thông công lẫn nhau, rồi xem nhau như thù nghịch từ dạo đó cho đến nay.
Năm 1517, Tu sĩ Martin Luther phát khởi phong trào Cải Chánh Giáo hội Công giáo Rôma. Martin Luther cho rằng: Sự cứu chuộc là nhờ ân điển bởi đức tin vào sự ban cho của Đức Chúa Giê-su mà thôi, không phải nhờ làm việc lành để được cứu. Điều Martin Luther tin tưởng trái với truyền thống của Giáo hội Công giáo Rôma đã có hơn một ngàn năm trăm năm qua là "sự cứu chuộc là nhờ ân điển bởi đức tin vào công lao của Đức Chúa Giê-su cộng thêm việc làm phước đức của tín hữu". Vì giáo lý cứu rỗi khác biệt với Giáo hội Công giáo Rôma, nên Martin Luther và nhóm người theo phái Cải Chánh của Martin Luther tách rời khỏi Giáo hội Công giáo Rôma để thành lập Giáo hội Tin Lành Lutheran. Cũng trong thế kỷ 16 này và các thế kỷ kế tiếp, một số Giáo hội Cải Chánh khác được thành lập như: Reformed and Presbyterian, Anglican Communion, Báp-tít, Anh Em (Quakers), Congregationalists, Giám Lý, Ngũ Tuần, Disciple of Christ, Unitarians, Universalists, Evangelicals, Fundamentalists...
Đến năm 1962, Công đồng Vatican II của Giáo hội Công giáo Rôma không còn coi Tin Lành Cải Chánh là "Thệ Phản" hay "Đạo Lạc", nhưng coi là "Anh Em Tách Rời".
Tạp chí Life, xuất bản tháng 12 năm 1999 cho biết: Dầu phải trải qua các cuộc bắt bớ của Do Thái Giáo và các cơn bách hại của các Hoàng Đế La Mã, Cơ Đốc Giáo đã trở thành một tôn giáo lớn nhất thế giới, có số tín hữu vào khoảng trên hai tỷ người, với khoảng 2.000 hệ phái".
Cũng theo Wikipedia:
"Thiên đàng hay Thiên đường (chữ Hán 天堂; thiên: trời, tầng trời, cõi trời; đường hay đàng: cái nhà, cõi) là khái niệm về đời sau được tìm thấy trong nhiều tôn giáo và các tác phẩm triết học.
Những người tin vào thiên đàng cho rằng thiên đàng (hoặc Hoả ngục) là chỗ ở trong đời sau của nhiều người hoặc toàn thể nhân loại. Trong một số trường hợp, có những người, theo truyền thuyết hoặc theo lời chứng, có những trải nghiệm cá nhân giúp hiểu biết về Thiên đàng. Họ tin rằng những trải nghiệm họ có được là để thuật lại cho người khác biết về sự sống, Thiên đàng và Thiên Chúa.
(...). Thiên đàng thường được hiểu là nơi chốn của phước hạnh, đôi khi được hiểu là chỗ ở phước hạnh vĩnh cửu.
Trong phần lớn các giáo hội thuộc cộng đồng Cơ Đốc giáo, thiên đàng là sự trở lại tình trạng trước khi sa ngã của loài người, sự tái lập Vườn Eden, ở đó con người được tái hợp với Thiên Chúa trong tình trạng toàn hảo và tự nhiên của sự sống đời đời. Tín hữu Cơ Đốc tin rằng sự tái hợp này giữa con người và Thiên Chúa được hoàn tất qua sự hi sinh của Chúa Giê-su Cơ Đốc khi ngài chết trên thập tự giá vì tội lỗi của loài người.
Quan niệm phổ biến của hầu hết các tôn giáo là khi vừa lìa đời, con người sẽ bước ngay vào thiên đàng. Tuy nhiên, không phải tất cả tín hữu Cơ Đốc chia sẻ niềm tin này. Nhiều người trong cộng đồng Cơ Đốc giáo tin rằng trước khi vào thiên đàng cần phải chờ đợi "cho đến khi thế gian này qua đi".
Trong thần học Cơ Đốc, có hai khái niệm hỗ tương về thiên đàng thường được gọi là "sự sống lại của thân xác" và "sự bất diệt của linh hồn". Trong khái niệm đầu, linh hồn sẽ không lên thiên đàng cho đến khi có sự phán xét sau cùng là lúc thân xác được hồi sinh và mọi người chịu xét xử. Trong khái niệm sau, linh hồn lên thẳng thiên đàng sau khi chết. Cả hai khái niệm này được kết hợp trong học thuyết hai lần phán xét, theo đó linh hồn chịu phán xét lần đầu sau khi chết để vào ở một nơi phước hạnh tạm thời (paradise) trong khi chờ đợi sự phán xét lần thứ hai trong ngày tận thế.
(...).
Thuyết Phổ độ nói rằng, chúng ta đều biết là trên chín tầng mây có thiên đàng còn dưới lòng đất chẳng có gì cả vì lòng đất không có không khí, tối như mực, nhiệt độ lại quá cao không gì có thể ở được. Những người sinh thời sống tốt khi chết đi sẽ lên thiên đàng, thành hồn ma tốt còn những người sinh thời sống không tốt khi chết đi vẫn lên thiên đàng, thành hồn ma xấu.
Những người không tôn giáo có vẻ đều tin vào thuyết này và họ tin rằng, họ đang cần có phước hạnh vĩnh cửu. Theo niềm tin của họ, hỏa ngục (tức địa ngục) cùng ma quỷ chỉ là mê tín, vì dưới lòng đất chẳng có gì và nhiệt độ quá cao.
(...)
Theo dòng lịch sử, một trong những nguyên nhân chia cắt Cơ Đốc giáo là các quan điểm dị biệt về điều kiện được vào thiên đàng. Từ thế kỷ 16 đã hiện hữu ba quan điểm của ba trào lưu Cơ Đốc chính yếu: Công giáo Rôma, Chính Thống giáo và Kháng Cách. 
(...)
Giáo huấn Công giáo về thiên đàng được trình bày trong Giáo lý của Giáo hội Công giáo: "Những ai chết trong ân điển và tình bằng hữu của Thiên Chúa được thanh tẩy hoàn toàn và sống đời đời... Sự sống trọn vẹn này với Thiên Chúa... được gọi là thiên đàng. Đó là mục tiêu tối hậu và là sự ứng nghiệm đầy trọn những khao khát sâu xa nhất của con người, đó là tình trạng phước hạnh tuyệt đối và vĩnh hằng."
Sau khi chết, mỗi linh hồn phải đối diện với "sự phán xét đặc biệt" để hoặc sẽ vào thiên đàng sau khi ở Luyện ngục (Purgatory), hoặc vào thẳng thiên đàng, hoặc vào Hỏa ngục. Ý niệm này khác với quan điểm "sự phán xét chung" hoặc "sự phán xét sau cùng" khi Chúa Cơ Đốc trở lại để phán xét kẻ sống và kẻ chết.
(...)
Thiên đàng là nơi chốn dành cho những ai đã được thanh tẩy, người chết trong tội lỗi không được phép vào. "Những ai chết trong ân sủng và tình bằng hữu của Thiên Chúa và được thanh tẩy hoàn toàn sẽ sống đời đời với Chúa Kitô. Họ đời đời giống Thiên Chúa, vì họ "nhìn thấy Ngài" mặt đối mặt." (Giáo lý Giáo hội Công giáo 1023) "Những ai chết trong ân sủng và tình bằng hữu của Thiên Chúa và được thanh tẩy không trọn vẹn, dù không được chắc chắn sự cứu rỗi đời đời, phải trải qua sự thanh tẩy sau khi chết, cũng sẽ đạt được sự thánh khiết cần thiết để bước vào sự vui thoả của Thiên Chúa." (Giáo lý Giáo hội Công giáo 1054).
Nếu một người chịu rửa tội đúng cách, khi chết người ấy sẽ lên thiên đàng (theo đức tin Công giáo Rôma, thánh lễ rửa tội (báp têm) xoá sự trừng phạt hiện thời hay vĩnh cửu của mọi tội). Nếu một người không bao giờ phạm trọng tội, trong khi đã được xoá các khinh tội trước khi chết, người ấy sẽ vào thiên đàng.
Song, đa phần sẽ vào thiên đàng sau khi qua Luyện ngục (hoặc "nơi thanh tẩy"). Trong Luyện ngục, linh hồn phải chịu trừng phạt vì những tội đã phạm khi còn sống, nhưng không phải luôn luôn như vậy. Nếu một người dự thánh lễ, xưng tội đúng cách, cũng như đã được đại xá (plenary indulgence), sau khi chết sẽ vào thiên đàng. Có nhiều cách để được đại xá, chiếu theo các thánh chỉ của Giáo hoàng. Để được đại xá, cần phải dự thánh lễ xưng tội đúng cách, ăn năn, dự Bí tích Thánh thể đúng cách, đọc một số lần các kinh như Kinh Lạy Cha, Kinh Kính Mừng, Kinh Sáng Danh và làm số công đức. Hơn nữa, người ấy cần phải giữ mình khỏi mọi tội, trọng tội cũng như khinh tội, trong khi thực thi những điều này...".
Phải cho rằng sự ra đời của hai tôn giáo ấy là kết quả nỗi bức xúc tích tụ trong thời gian dài của tầng lớp bình dân cần lao trong quá trình đấu tranh đòi quyền lợi với tầng lớp thống trị trong xã hội. Vì xảy ra trong một thời đoạn mà bạo lực được khẳng định, sự áp bức bất công của tầng lớp thống trị đối với tầng lớp cần lao bị trị tồn tại như một lẽ đương nhiên, thêm nữa là có ưu thế hầu như áp đảo trước sự phản kháng liên tục của tầng lớp bị trị, và nhất là về sau còn bị sự phủ dụ của tầng lớp thống trị lũng đoạn,  nên những luận giải của hai "đạo" đó về mọi gian nan, khổ ải, đói nghèo... xảy ra trên thế gian của quần chúng bình dân đều mê tín, mù quáng, đều hầu như có nguyên nhân "tự mình", và như thế, đều sai lầm. Từ sai lầm đó mà dẫn đến việc đề ra những tiêu chí hành động "diệt khổ" đầy yếm thế, cải lương và cũng sai lầm nốt.
Hãy đọc bài "Nguồn Gốc của Khổ và sự Diệt Khổ" ( Tương Ưng BK IV, phần số XI: Bhagandha-Hatthaha, tr 512-517 ) đăng trên mạng: " Một thời Thế Tôn đang trú tại một thị trấn  tên là Uruvelakappa của người dân Mallas. Lúc đó viên trưởng thôn là Bhadraka đến tiếp kiến Thế Tôn, đảnh lễ Ngài, ngồi xuống một bên và thưa rằng:
            -Bạch Thế Tôn, thật lành thay nếu Thế Tôn giảng cho con nghe về nguồn gốc của khổ và sự diệt khổ .
            - Này trưởng thôn, nếu ta giảng cho ông về nguồn gốc của khổ và sự diệt khổ dựa vào sự kiện trong quá khứ, nói rằng: ‘trong quá khứ nó như vậy ’, có thể ông sẽ khởi lên  hoang mang và nghi ngờ. Và nếu ta giảng cho ông về nguồn gốc của khổ và sự diệt khổ dựa vào sự kiện trong tương lai, nói rằng, ‘trong tương lai nó sẽ như vậy’, có thể ông sẽ khởi lên  hoang mang và nghi ngờ. Này trưởng thôn, thay vào đó, khi ta đang ngồi đây, và ông đang ngồi ở đó, ta sẽ giảng cho ông nghe về nguồn gốc của khổ và con đường diệt khổ. Hãy lắng nghe và chú tâm thật kỹ, ta sẽ nói.
             - Thưa vâng, bạch Thế Tôn,” Bhadraka đáp lại.
            Thế Tôn nói như sau :
             - Này trưởng thôn, ông nghĩ thế nào? Nếu có người nào ở tại Uruvelakappa này bị hành hình, bị tù tội, bị trừng phạt hay bị chỉ trích, ông có khởi tâm buồn rầu, than tiếc, đau đớn, thất vọng, hay tuyệt vọng không ?
            - Thưa có những người như thế, bạch Thế Tôn
            - Nhưng có người nào trong cùng hoàn cảnh như vậy mà ông không khởi tâm buồn rầuthan tiếc, đau đớn, thất vọng, hay tuyệt vọng không ?
            - Thưa có những người như thế, bạch Thế Tôn
             - Này trưởng thôn, tại sao đối với một số người ở tại Uruvelakappa ông có khởi tâm buồn rầu, than tiếc, đau đớn, thất vọng hay tuyệt vọng khi họ bị hành hình, bị tù tội, bị trừng phạt hay bị chỉ trích, trong lúc đối với một số người khác ông lại không khởi tâm như thế ?
            - Bạch Thế Tôn, đối với những người ở Uruvelakappa mà con có khởi tâm buồn rầu, than tiếc, đau đớn, thất vọng hay tuyệt vọng khi họ bị hành quyết, bị tù tội, bị trừng phạt hay bị chỉ trích, đó là những người con có lòng ái dục đối với họ. Nhưng đối với những người ở Uruvelakappa mà con không khởi lên những cảm xúc ấy, đó là những người con không có lòng ái dục đối với họ.
             – Này trưởng thôn, bằng nguyên tắc này đã được trông thấy, hiểu biết, đo lường và thấu đạt, hãy áp dụng phương pháp này đối với quá khứ và tương lai, như sau : “Bất cứ khổ đau nào  đã khởi lên trong quá khứ, tất cả những gì đã sinh khởi đều bắt nguồn từ ái dục, với ái dục là cội nguồn; vì ái dục là gốc rễ của khổ đau. Bất cứ khổ đau nào sinh khởi trong tương lai, tất cả những gì sẽ sinh khởi đều bắt nguồn từ ái dục, với ái dục là cội nguồn; vì ái dục là gốc rễ của khổ đau ”.
            - Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật tuyệt vời thay, bạch Thế Tôn ! Thật khéo nói thay lời dạy này của Thế Tôn: ‘Bất cứ khổ đau nào đã khởi lên trong quá khứ, tất cả những gì đã sinh khởi đều bắt nguồn từ ái dục, vì ái dục là gốc rễ của khổ đau’. Bạch Thế Tôn, con có người con trai tên là Ciravāsi sống ớ căn nhà ngoài xa. Con thường dậy sớm và gởi một người đi đến đó, nói với anh ta,’Anh hãy đi đến đó và thăm hỏi xem nó như thế nào.’ Bạch Thế Tôn, cho đến khi anh ấy trở về, con cảm thấy lo âu bồn chồn, nghĩ rằng, ‘Hy vọng cậu bé không bị ốm đau gì !’
            -  Này trưởng thôn, ông nghĩ thế nào ? Nếu Ciravāsi bị hành quyết, bị tù tội, bị trừng phạt hay bị chỉ trích, ông có khởi tâm buồn rầu, than tiếc, đau đớn, thất vọng hay tuyệt vọng không ?
            -   Bạch Thế Tôn, nếu Ciravāsi bị hành quyết, bị tù tội, bị trừng phạt hay bị chỉ trích, thậm chí đời con sẽ trở thành vô nghĩa, làm sao con không khởi tâm buồn rầu, than tiếc, đau đớn, thất vọng hay tuyệt vọng ?
            -  Này trưởng thôn, cũng vậy bằng phương cách này, có thể hiểu như sau: ‘Bất cứ khổ đau nào  khởi lên, tất cả những gì sinh khởi đều bắt nguồn từ ái dục, với ái dục là cội nguồn, vì ái dục là gốc rễ của khổ đau .’
            -  Này trưởng thôn, ông nghĩ thế nào ? Trước đây khi ông chưa trông thấy hay nghe nói về vợ ông, ông có khởi sinh lòng ham muốn, luyến ái đối với bà ấy không ?
            -  Thưa không, bạch Thế Tôn.
            -  Này trưởng thôn, vậy thì có phải chỉ sau khi ông trông thấy hay nghe nói về vợ ông, ông mới khởi sinh lòng ham muốn, luyến ái đối với bà ấy?
            - Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
            -  Này trưởng thôn, ông nghĩ thế nào ? Nếu vợ ông bị hành quyết, bị tù tội, bị trừng phạt hay bị chỉ trích, ông có khởi tâm buồn rầu, than tiếc, đau đớn, thất vọng hay tuyệt vọng không ?
            -  Bạch Thế Tôn, nếu vợ con bị hành quyết, bị tù tội, bị trừng phạt hay bị chỉ trích, thậm chí đời con sẽ trở hành vô nghĩa, làm sao con không khởi tâm buồn rầu, than tiếc, đau đớn, thất vọng hay tuyệt vọng ?
            -  Này trưởng thôn, cũng vậy bằng phương cách này, có thể hiểu như sau: ‘ Bất cứ khổ đau nào khởi lên, tất cả những gì sinh khởi đều bắt nguồn từ ái dục, với ái dục là cội nguồn, vì ái dục là gốc rễ của khổ đau' ."
Nhưng đạo Phật vẫn chưa giải thích được đến tận cùng: nguồn gốc của duyên khởi, của ái dục. Thử hỏi, nếu những thứ đó không hiện diện, thì con người có còn hiện diện nữa hay không? Đạo Ki - Tô ra đời cũng với những giáo lý giải thích nguyên nhân nỗi khổ đau và cách thức tiêu trừ khổ đau cho quần chúng cần lao theo xu hướng tương tự như Đạo Phật, tức là cũng đầy tín ngưỡng mê lầm, mù quáng, yếm thế và cải lương. Tuy nhiên, với quan niệm đầy bi quan, bất lực, bế tắc bị hạn chế bởi nhận thức thế giới của thời đại bấy giờ về một xã hội mà quần chúng cần lao được sống một cuộc sống tươi vui, hạnh phúc hơn, hai thứ tôn giáo ấy cũng vẽ nên được hai bức tranh tuyệt đẹp, đẹp đến không thể mô tả cụ thể được là Niết Bàn và Thiên Đàng, về cuộc sống con người khi đã "gột rửa" hết mọi tội lỗi gọi là Niết Bàn và Thiên Đàng. Thực ra đó là hai ảo tưởng hình thái xã hội được cho là tuyệt đối tốt đẹp, có tính thần thánh mà hai tôn giáo đã hình dung ra được để phủ dụ quần chúng cần lao. Dù bị cho là yếm thế, mù quáng, cải lương nhưng những giáo điều của hai tôn giáo ấy về khổ và diệt khổ cũng có những nét hợp lý, nhất là nét hiền dịu, giàu lòng nhân ái và hai hình dung về hình thái xã hội dẹp đẽ lý tưởng đã phủ dụ được tầng lớp cần lao tin theo, đã phù hợp với nguyện vọng ngàn đời về cuộc sống con người. Điều vừa nói phải chăng là lời giải thích cho sự tồn tại hàng ngàn năm nay của đạo Phật và đạo Ki - Tô.

(Còn tiếp)
----------------------------------------------------------------




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét