Thứ Sáu, 11 tháng 2, 2022

TT & HĐ V - 50/f


 
Khám phá vũ trụ: Hố đen vũ trụ - bí mật được giải mã

PHẦN V: THỐNG NHẤT
 
"Khoa học là một sức mạnh trí tuệ lớn nhất, nó dốc hết sức vào việc phá vỡ xiềng xích thần bí đang cầm cố chúng ta."
Gorky

"Mỗi một thành tựu lớn của nhà khoa học chính là xuất phát từ những ảo tưởng táo bạo".
JohnDewey

"Chân lý chỉ có một, nó không nằm trong tôn giáo, mà nằm trong khoa học."
Leonardo da Vinci

"Cái khó hiểu nhất chính là hiểu được thế giới"
Albert Einstein

"Có hai cách để sống trên đời: một là xem như không có phép lạ nào cả, hai là xem tất cả đều là phép lạ".
Albert Einstein

“Chính qua cuộc đấu tranh nhằm thống nhất một cách hợp lý cái đa dạng mà đã đạt được những thành công lớn nhất, dù rằng chính ý đồ đó có thể gây ra những nguy cơ lớn nhất để trở thành con mồi của ảo vọng”.
Albert Einstein


“Người nhìn thấy cái đa dạng mà không thấy cái đồng nhất thì cứ trôi lăn trong cõi chết”.
Upanishad

CHƯƠNG IX (XXXXX): CÁCH NHÌN MỚI VỀ BỨC TRANH

"Tư tưởng luôn luôn là sự khái quát, và sự khái quát là một thuộc tính của tư duy. Khái quát nghĩa là tư duy."
"Cái gì có lý là sự thật, và cái gì là sự thật sẽ có lý."
"Lòng dũng cảm với sự thật là điều kiện đầu tiên cho nghiên cứu triết học."
"Không phải tính tò mò, không phải sự kiêu căng, không phải việc cân nhắc lợi ích, không phải trách nhiệm hay vì làm theo lương tâm mà chính là cơn khát không chịu chấp nhận thỏa hiệp, đầy khốn khổ và không thể dập tắt, dẫn chúng ta đến sự thật."
"Sự thật trong triết học có nghĩa là khái niệm và hiện thực bên ngoài phù hợp với nhau."
Hegel

"Nếu những người đi trước thiếu tinh thần mạo hiểm, ngày nay sẽ không có đèn điện, ra đa, máy bay, vệ tinh nhân tạo, cũng không có chất penicillin và xe hơi."
F. Kedwell (Mỹ)
 
"Chân lý chỉ có một, nó không nằm trong tôn giáo, mà nằm trong khoa học."
Da Vinci (Ý)

"Người nghiên cứu mẫu mực không phải là người thấy và thông báo lại cái mà những người quan sát bình thường đã thấy và thông báo lại, mà là người thấy trong các sự vật quen thuộc cái mà chưa ai thấy"
Norwood Russell Hanson
 
"Triết học là lời phủ dụ của con người về tự nhiên, là ngọn đèn tỏa ánh sáng gợi mở cho nhận thức tiến lên mỗi khi khoa học mù lòa và khoa học là sự cố gắng phá tan màn đêm bế tắc đó bằng ngọn đèn triết học, nhờ thi ca toán học."
NTT
 
"Không thể hình dung nổi con người ngày nay lại sống thiếu toán học Không có toán học, con người trở thành mù tịt. Nhưng có toán học, thì tư duy trừu tượng bị lũng đoạn thái quá bởi tính trừu tượng chủ quan vô độ của con người làm cho nhận thức khoa học về Vũ Trụ trở nên ảo tưởng, xa rời thực tại và chân lý"
Thầy Cãi

"Loài người có thể hiểu được sự thực của Vũ Trụ như nó vốn dĩ, trước khi họ bị diệt vong!?"
NTT 




(Tiếp theo)

                                              ***

Sự cố gắng một cách tự nhiên để sống còn cộng với khả năng biết tư duy trừu tượng đã giúp con người tiếp cận được lối sống định cư lâu dài nhờ trồng trọt - chăn nuôi và hợp quần xã hội để hợp tác mưu sinh. Việc phát hiện ra phương thức trồng trọt - chăn nuôi và chế biến cây lương thực (cây lúa, cây ngô...) để làm thực phẩm nuôi sống cộng đồng đã là một cuộc cách mạng vĩ đại, không những giải quyết căn cơ việc kiếm ăn trong thiên nhiên của loài người, giúp loài người có đời sống ổn định hơn, mà còn tạo điều kiện cho loài người biết đến lao động thặng dư trong mưu sinh, từ đó tiến thẳng lên văn minh. Như vậy, ngoài cuộc sống vật chất như một tồn tại sinh học đơn thuần được đảm bảo, cuộc sống văn hóa - tinh thần giàu sắc thái tình cảm cũng phát triển ngày càng phong phú.
Khi đã làm đáp ứng tương đối dư dả miếng ăn và đạt đến năng lực lao động thặng dư thì do sẵn tính chủ động - thích nghi nên con người, ngoài việc kiếm miếng ăn trực tiếp (lương thực, thực phẩm), còn phát triển lao động thủ công nhằm sáng tạo ra những thứ phi lương thực - thực phẩm để đáp ứng nhu cầu sử dụng phát sinh trong trong cuộc sống ngày càng văn minh của mình (như công cụ lao động, vât dụng sinh hoạt, quần áo...).
Nhờ lao động có tư duy sáng tạo mà loài người có được thặng dư. Nhờ có lao động thăng dư mà con người phát triển lên sản xuất. Sản xuất là lao động có hệ thống và cho ra thặng dư.  Nền sản xuất đầu tiên mà loài người biết tới là nền sản xuất nông nghiệp có tính tự cung tự cấp. Khi nền sản xuất nông nghiệp đã đáp ứng đầy đủ mức độ tiêu dùng và tích lũy thì phần sản phẩm dôi ra hoặc chưa tối cần thiết cho nhu cấu tiếu dùng sẽ được đem đi quanh vùng để trao đổi những sản phẩm khác chủng loại hay còn thiếu. Khi sự trao đổi ấy đã thành tập quán thì người ta cũng sáng tạo ra những hình thức trao đổi mới tiện lợi hơn, vừa bảo toàn giá trị sản phẩm sau nhiều lần trao đổi, vừa tích lũy để dành làm của cải. Lượng sản phẩm trao đổi này càng tăng đã dần tạo nên một bộ phận con người độc lập đảm đương vai trò trao đổi, sống nhờ vào công việc trao đổi đó: lực lượng gọi là thương lái, con buôn. Đó là nguyên nhân ra đời của hình thức sản xuất có tên "sản xuất hàng hóa".
Xuyên suốt thời đại phong kiến là nền sản xuất hàng hóa nông nghiệp. Nền sản xuất này vẫn mang nặng tính tự cung tự cấp.
Thời đại phong kiến suy tàn không phải vì nền sản xuất của nó không phát triển mà có lẽ là do tác dụng tổng hợp của các yếu tố nguyên nhân sau:
      -Sự tiêu dùng xa hoa, phung phí của tầng lớp thống trị
      -Sự bị bóc lột thậm tệ của đông đảo tầng lớp bị trị
      -Hình thức tư hữu của cải đã được công nhận từ thời tư bản nguyên thủy, càng được củng cố thành lẽ hiển nhiên trong thời phong kiến cộng với ước muốn được tự do làm giàu vô giới hạn của tầng lớp có của trên con đường tìm kiếm danh lợi.
       -Chiến tranh dành giật danh lợi triền miên giữa các tập đoàn phong kiến, phe phái tôn giáo.
       -Sự phát triển của khoa học kỹ thuật
       -Sự khám phá ra các vùng đất mới giàu tài nguyên thiên nhiên và mở rộng thị trường.
       -Sản xuất hành hóa đã phát triển đến trình độ đòi hỏi phải tách sản xuất hàng tiêu dùng phi thực phẩm ra khỏi sản xuất nông nghiệp, tồn tại độc lập thành những ngành sản xuất tập trung, có qui mô ngày một lớn, gọi chung là sản xuất công nghiệp.
Kế thừa hình thái kinh tế xã hội phong kiến là hình thái kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa. Theo Wikipedia thì:
"Chủ nghĩa tư bản là một hình thái kinh tế – xã hội của xã hội loài người, xuất hiện đầu tiên tại châu Âu, phôi thai và phát triển từ trong lòng xã hội phong kiến châu Âu và chính thức được xác lập như một hình thái xã hội tại Hà Lan và Anh ở thế kỷ XVII. Sau cách mạng Pháp cuối thế kỷ XVIII, hình thái chính trị của "nhà nước tư bản chủ nghĩa" dần dần chiếm ưu thế hoàn toàn tại châu Âu và loại bỏ dần hình thái nhà nước của chế độ phong kiến, quý tộc. Và sau này hình thái chính trị – kinh tế – xã hội tư bản chủ nghĩa lan ra khắp châu Âu và thế giới.

Một động cơ hơi nước Watt: động cơ hơi nước được sử dụng nhiên liệu bằng than thúc đẩy cuộc cách mạng công nghiệp ở Vương quốc Anh.

(...).
Đặc điểm đặc trưng nhất của chủ nghĩa tư bản là nhìn nhận quyền sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, quyền này được Nhà nước tư bản chủ nghĩa bảo vệ về mặt luật pháp. Trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa không loại trừ hình thức sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể và đôi khi ở một số nước tư bản chủ nghĩa, tại một số thời điểm tỷ trọng của các hình thức sở hữu này chiếm không nhỏ (hay còn gọi là mô hình kinh tế hỗn hợp), nhưng điều cơ bản phân biệt xã hội của chủ nghĩa tư bản với xã hội đối lập với nó là xã hội cộng sản chủ nghĩa là trong xã hội tư bản chủ nghĩa quyền tư hữu đối với phương tiện sản xuất được xã hội và pháp luật bảo vệ, sự chuyển đổi quyền sở hữu phải thông qua giao dịch dân sự được pháp luật và xã hội quy định. Còn chủ nghĩa cộng sản và phần lớn trường phái chủ nghĩa xã hội công nhận quyền sở hữu toàn dân, tập thể và nhà nước đối với các tư liệu sản xuất (ví dụ như đất đai và tài nguyên khoáng sản).
(...).
Chủ nghĩa tư bản đã bắt đầu tồn tại trên quy mô nhỏ trong nhiều thế kỷ xuất hiện dưới dạng các hoạt động buôn bán, cho thuê và cho vay và đôi khi là ngành công nghiệp quy mô nhỏ với một số lao động làm công ăn lương. Đã có một lịch sử rất dài trong trao đổi hàng hóa đơn giản và sản xuất hàng hóa đơn giản, đó là nền tảng ban đầu cho sự phát triển của tư bản từ trao đổi thương mại. "Thời kỳ chủ nghĩa tư bản" theo Karl Marx có từ các thương gia thế kỷ 16 và các thành phố đô thị nhỏ. Marx biết rằng lao động tiền lương đã tồn tại trên một quy mô nhỏ trong nhiều thế kỷ trước khi ngành công nghiệp tư bản chủ nghĩa. Các nước Hồi đã giáo sớm ban hành chính sách kinh tế tư bản, di cư sang châu Âu thông qua các đối tác thương mại từ các thành phố như Venice. Chủ nghĩa tư bản trong hình thức hiện đại có thể được bắt nguồn từ sự xuất hiện của chủ nghĩa tư bản nông nghiệp và chủ nghĩa trọng thương trong thời kỳ Phục hưng.

Tiêu chuẩn vàng đã hình thành cơ sở tài chính của nền kinh tế quốc tế từ 1870 đến 1914.
Trong toán học và nghệ thuật, hai đại lượng được gọi là có tỷ số vàng hay tỷ lệ vàng nếu tỷ số giữa tổng của các đại lượng đó với đại lượng lớn hơn bằng tỷ số giữa đại lượng lớn hơn với đại lượng nhỏ hơn. Tỷ lệ vàng thường được ký hiệu bằng ký tự (phi) trong bảng chữ cái Hy Lạp nhằm tưởng nhớ đến Phidias, nhà điêu khắc đã xây dựng nên đền Parthenon.
Tỷ lệ vàng được biểu diễn như sau:


Các hình thức tư bản và trao đổi thương mại đã tồn tại nhiều năm trong phần lớn lịch sử, nhưng nó không dẫn đến sự công nghiệp hóa hay chi phối quá trình sản xuất của xã hội. Do nó đòi hỏi rất nhiều các điều kiện, bao gồm các công nghệ cụ thể về sản xuất hàng loạt, khả năng độc lập, tư nhân và buôn bán phương tiện sản xuất, một tầng lớp công nhân sẵn sàng bán sức lao động của mình để kiếm sống, khung pháp lý thúc đẩy thương mại, cơ sở vật chất cho phép lưu thông hàng hóa một quy mô lớn và an ninh cho sự tích lũy cá nhân. Nhiều điều kiện trong số này không tồn tại ở nhiều nước thế giới thứ ba, mặc dù có nhiều vốn và lao động. Những trở ngại cho sự phát triển của thị trường tư bản do đó ít kỹ thuật và xã hội, văn hóa và chính trị hơn..
(...).
Chủ nghĩa tư bản đã được mở rộng ra thế giới bởi các quá trình toàn cầu hóa và đến cuối thế kỷ 18 đã trở thành hệ thống kinh tế chiếm ưu thế. Sau đó trong thế kỷ 20, chủ nghĩa tư bản đã vượt qua thách thức của các nền kinh tế kế hoạch tập trung và hiện là hệ thống bao trùm toàn cầu,với nền kinh tế hỗn hợp là hình thức thống trị của nó trong thế giới công nghiệp hóa phương Tây.
Công nghiệp hóa cho phép sản xuất giá rẻ các mặt hàng gia dụng bằng cách sử dụng quy mô kinh tế trong khi tăng dân số nhanh tạo ra nhu cầu bền vững cho hàng hóa. Toàn cầu hoá trong giai đoạn này được định hình bởi chủ nghĩa đế quốc ở thế kỷ 18".
Khi cuộc sống loài người đã vượt thoát mông muội tiến lên văn minh và nhờ được tranh bị tư duy trừu tượng mà có được một cuộc sống tinh thần phong phú với một hệ thống tình cảm đa dạng sâu sắc thì ước mơ tột cùng của con người dần dần qui tụ lại thành một mục tiêu duy nhất là được sống một cuộc sống tự do, bình đẳng, bác ái, no đủ, hạnh phúc trong hòa bình. Mong ước ấy là chính đáng, hợp lý và không mâu thuẫn với tự nhiên. Chính vì thế mà hình thái kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa chưa phải là hình thái xã hội cuối cùng của xã hội loài người. Trong xã hội tư bản ngày nay vẫn còn những hiện tượng xảy ra trái với ước mong cuộc sống con người, trái với nhân tính thánh thiện của con người như chiến tranh, người bóc lột người, phân định giàu - nghèo thái quá, lao động kiếm ăn còn căng thẳng..., sự ham hố danh lợi và đam mê quyền lực vẫn còn ngự trị thường xuyên trong tâm hồn con người.
Ngay từ thời tư bản nguyên thủy, khi con người đã biết đến tư hữu của cải (trong đó bao gồm cả tư hữu về tư liệu sản xuất) và tranh đoạt danh lợi từ người khác, nghĩa là biết bóc lột thặng dư để làm giàu cho cá nhân mình, đã xuất hiện hiện tượng đấu tranh chống bóc lột, đòi công bằng. Cuộc đấu tranh ấy tùy vào mức độ của bóc lột, áp bức cường quyền mà có lúc đơn lẻ, lúc phong trào, lúc có thể hòa giải, lúc một mất một còn, và kéo dài đến ngày nay chưa dứt.
Cuộc đấu tranh ấy nổi lên đặc biệt mạnh mẽ vào nửa đầu thế kỷ XX khi có sự cạnh tranh tự do khốc liệt trong nội bộ tầng lớp tư sản nhằm tích lũy tư bản để mưu cầu phát triển, đảm bảo sống còn. Sự bóc lột thậm tệ, thu hoạch giá trị thăng dư đến tận cùng khả năng (lạm thu) của tầng lớp thống trị đối với tầng lớp bị trị đã thổi bùng ngọn lửa đấu tranh đòi chia lại giá trị thặng dư (đòi tăng lương, giảm giờ làm việc,...) của những người làm công ăn lương - đại diện cho tầng lớp bị trị lúc bấy giờ. Cuộc đấu tranh của thời kỳ đầu tư bản chủ nghĩa, khi mà sản xuất thặng dư được thu hoạch (quá mức) chủ yếu từ sức lao động, vì đều có tính sống còn đối với cả hai tầng lớp thống trị và bị trị, nên vô cùng nóng bỏng, đối kháng gay gắt và không thể dung hòa. Tình hình đó thúc đẩy các nhà hoạt động chính trị, các nhà triết học nỗ lực lý giải, phân tích, tìm lời giải thích cho hiện tượng đó và đề xướng ra các mô hình xã hội tương lai. Trong bối cảnh ấy, triết học Mác - Lênin và học thuyết về chủ nghĩa cộng sản ra đời. Phải thừa nhận rằng, dù vẫn phạm sai lầm trong những quan niệm cơ bản của nó về tự nhiên - xã hội, dù hô hào phải biện chứng nhưng thực ra vẫn cực đoan, cứng ngắc trong lập luận, nhận thức, thì triết học Mác - Lênin cũng đã có nhiều luận điểm đúng, nội dung của chủ nghĩa cộng sản đã rất gần với hiện thực khách quan, đã giải thích được có phần hợp lý mâu thuẫn thời đại và chỉ ra cách thức giải quyết mâu thuẫn ấy cho đông đảo tầng lớp bị trị cần lao, chỉ hướng cho loài người tiến đến một hình thái kinh tế xã hội mới vô cùng tươi đẹp, gọi là hình thái xã hội cộng sản chủ nghĩa - hình thái xã hội cuối cùng của xã hội loài người. Thế là nhờ vào sự tuyên truyền tập trung quần chúng của những người cấp tiến, số đông quần chúng cần lao đang lầm than đã tin vào luận thuyết của chủ nghĩa cộng sản, nâng cuộc đấu tranh dành quyền lợi với tầng lớp tư sản, mà thực chất là tầng lớp thống trị, thành cuộc đấu tranh cách mạng với tên gọi "cuộc cách mạng vô sản" với mục đích đầu tiên và sắt máu của nó: xóa bỏ chế độ tư bản, triệt tiêu bóc lột, thủ tiêu cái gọi là giai cấp tư sản, xây dựng chính quyền của giai cấp công - nông. Bắt đầu từ cuộc cách mạng Tháng Mười Nga và nhờ sự hậu thuẫn của cuộc cách mạng ấy, hàng loạt cuộc cách mạng vô sản đã thành công ở một số nước và làm hình thành nên một hệ thống các nước theo chủ nghĩa xã hội, lấy triết học Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng, lấy học thuyết cộng sản chủ nghĩa làm kim chỉ nam cho hành động, đối lập với hệ thống theo chủ nghĩa tư bản. Sau hơn nửa thế kỷ tồn tại một cách khiên cưỡng và thất bại trong việc xây dựng mô hình của hình thái kinh tế xã hội cộng sản, hệ thống ấy bị chính hậu duệ của những người xây dựng nó đạp đổ tan tành, đưa về, hòa nhập trở lại với hệ thống tư bản chủ nghĩa. Vài ba nước cộng sản còn lại, tuy vẫn bảo thủ theo chủ nghĩa cộng sản, nhưng đó chỉ là tuyên bố rỗng tuếch có tính hình thức, gắn nhãn mác. Để tránh sự sụp đổ, những nước đó dù hô hào trung thành với lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản, thì vẫn phải hoạt động tuân theo những nguyên tắc cơ bản của kinh tế tư bản chủ nghĩa.

                                                   ***
Từ buổi đầu nảy sinh khái niệm tư hữu, tranh dành danh lợi, xuất hiện bất công và quá trình đấu tranh đòi quyền sống cơ bản của đại đa số quần chúng cần lao của tầng lớp bị trị đối với tầng lớp thống trị cho tới nay, đã có không ít hình thái xã hội được cho là tốt đẹp mà con người hình dung ra, tưởng tượng ra và cố gắng đạt tới. Nhưng tất cả những hình thái xã hội ấy đều là những bức tranh đậm màu chủ quan của tư duy trừu tượng và ước vọng, do đó đều thiếu cơ sở khoa học, đều không phải là kết quả tất yếu cùa vận động tự nhiên, không hoang đường, không tưởng thì cũng lý tưởng, viễn tưởng, nghĩa là đều vô vọng. Con người, trong quá trình cố gắng mưu sinh, khi lâm vào cuộc sống khổ ải, thường khát khao, mơ tưởng đến cuộc sống an lành hơn, được sống trong một hình thái xã hội ấm no, hạnh phúc hơn, tươi đẹp hơn. Trong số những hình dung về hình thái xã hội tươi đẹp, đầy mộng mơ đó có ba kiểu in đậm trong tâm khảm, khó xóa nhòa trong tâm hồn nhiều người, đó là: Thiên Đàng, Niết Bàn và Chủ nghĩa Cộng Sản.
Nguồn gốc Phật giáo (và cả thiền nữa!), như chúng ta từng hoài nghi, bắt nguồn từ Đạo Giáo. Nhưng điều đó chỉ là suy đoán, không được xác minh với bất cứ bằng chứng cụ thể nào. Chỉ biết chắc rằng Đạo Giáo có xuất xứ từ Đạo Gia của Lão Tử. Theo chúng ta nhận định, Đạo Gia là trường phái triết học duy vật đầu tiên của nhân loại giải thích đúng đắn nhất về thế giới mà trước tác bất hủ của nó là "Đạo đức kinh". Dù luận giải triết học của trường phái còn chất phác, ngây thơ, đôi khi là hời hợt do nhận thức và cách diễn tả bằng văn tự của thời đại bấy giờ, nhưng những kết luận của nó lại vô cùng thâm thúy, sâu sắc. Những di ngôn của nó cho tới tận ngày nay còn hừng hực tính chân lý. Cũng do sự hồ nghi của chúng ta về nguồn gốc Đạo Phật còn thấm đẫm mơ hồ nên vẫn phải theo sự diễn giải truyền thống. Trong Wikipedia có viết thế này:
"Phật giáo được Thích Ca Mâu Ni (Shakyamuni) truyền giảng ở miền bắc Ấn Độ vào thế kỷ 6 TCN.Được truyền bá trong khoảng thời gian 49 năm khi Phật còn tại thế ra nhiều nơi đến nhiều chủng tộc nên lịch sử phát triển của đạo Phật khá đa dạng về các bộ phái cũng như các nghi thức hay phương pháp tu học. Ngay từ buổi đầu, Bổn Sư Thích Ca, người sáng lập đạo Phật, đã tổ chức được một giáo hội với các giới luật chặt chẽ. Nhờ vào sự uyển chuyển của giáo pháp, đạo Phật có thể thích nghi với nhiều hoàn cảnh xã hội, nhiều dạng người, nhiều tập tục ở các thời kỳ khác nhau, và do đó ngày nay Phật giáo vẫn tiếp tục tồn tại và ngày càng phát triển rộng rãi trên toàn thế giới ngay cả trong các nước có nền khoa học tiên tiến như Hoa Kỳ và Tây Âu.
(...)
Về địa lý, phía Bắc của Ấn Độ là dãy Himalaya cao lớn và dài tạo nên một hàng rào cô lập các vùng bình nguyên của xứ này với các vùng còn lại. Để liên lạc với bên ngoài thì chỉ có con đường núi xuyên qua Afghanistan. Nền văn hóa chính ngự trị thời bấy giờ là văn hóa Vệ Đà (Veda). Các bộ lạc du mục người Aryan đã mở mang và xâm chiếm các vùng lãnh thổ Tây Bắc Ấn và lan rộng ra hầu hết bán đảo Ấn Độ khoảng 1000 năm trước công nguyên
Văn hoá Vệ Đà nghiêng về thờ phụng nhiều thần thánh cũng như có các quan điểm thần bí về vũ trụ. Những sự phát triển về sau đã biến Vệ Đà thành một tôn giáo (đạo Bà La Môn) và phân hoá xã hội thành bốn giai cấp chính trong đó đẳng cấp Bà La Môn (tầng lớp tăng lữ) là giai cấp thống trị
Tư tưởng luân hồi cho rằng sinh vật có các vòng sinh tử thoát thai từ đạo Bà La Môn (hay sớm hơn từ tư tưởng Vệ Đà). Đạo Bà La Môn còn cho rằng tồn tại một bản chất của vạn vật, đó là Brahman (hay Phạm Thiên). Việc giai cấp tăng lữ được đề cao và được hưởng mọi ưu đãi bổng lộc trong xã hội đã tạo điều kiện cho việc phân hoá thành phần này ra rất nhiều hướng triết lý hay hành đạo khác nhau và đôi khi chống chọi phản bác nhau. (...)
Ngay sau khi thành đạo (vào khoảng giữa sau thế kỉ thứ 6 TCN - có tài liệu cho đó là vào năm 589 TCN theo Phật giáo Nam Tông hay năm 593 TCN theo Phật giáo Bắc Tông) thì Thích Ca đã quyết định thuyết giảng lại hiểu biết của mình. 60 đệ tử đầu tiên là những người có quan hệ gần với Thích Ca đã hình thành tăng đoàn (hay giáo hội) đầu tiên. Sau đó, những người này chia nhau đi khắp nơi và mang về thêm ngày càng nhiều người muốn theo tu học. Để làm việc được với một lượng người theo tu học ngày càng đông, Phật đã đưa ra một chuẩn mực cho các đệ tử có thể dựa vào đó mà thu nhận thêm người. Các chuẩn mực này phần chính là việc quy y tam bảo - tức là chấp nhận theo hướng dẫn của chính Phật, những lời chỉ dạy của Phật (Pháp), và cộng đồng tăng đoàn.
Trong thời đức Phật Thích Ca còn tại thế thì các tu sĩ Phật giáo được tập hợp trong tổ chức được gọi là Tăng đoàn, trực tiếp chịu sự hướng dẫn của Thích Ca về giáo lý và phương cách tu tập. Tăng đoàn là tổ chức thống nhất, bình đẳng giữa mọi thành viên không phân biệt giới tính, tuổi tác, địa vị xã hội và có mục tiêu tối cao là đem lại giác ngộ cho mọi thành viên. Nhờ vào tổ chức có tính bình đẳng và qui củ nên Tăng đoàn tránh được nhiều chia rẽ.
Kỷ luật của giáo hội dựa trên nguyên tắc tự giác. Trong các kì họp, giới luật được nêu lên, sau đó thành viên tự xét và nhận vi phạm nếu có. Những điều lệ chính được đề cập là nhẫn nhục, hành thiện tránh ác, tự chủ và kiềm chế trong ăn nói và tinh tấn.
Ngoài những người xuất gia, Phật còn có rất nhiều đệ tử tại gia hay cư sĩ.Giới cư sĩ cũng được Phật thuyết giảng và ngược lại tham gia ủng hộ tăng đoàn về nhiều mặt..
Sau khi Phật nhập niết bàn thì Tôn giả Ma-ha-ca-diếp (Maha Kassapa) thay phần lãnh đạo giáo hội.(...)
Asoka (A Dục) là hoàng đế của đế chế Mauryan, ra đời khoảng năm 273 TCN. Trước khi trở thành Phật tử, ông có tính khí rất hung bạo, đã giết nhiều anh em của mình để cướp ngôi vua cũng như đã xua quân chiếm lãnh thổ Kalinga (ngày nay thuộc bang Orissa) phía Đông Ấn Độ. Nhưng ngay sau đó nhờ gặp được Sa di Nigrodha, ông theo Phật giáo cải hối và làm rất nhiều điều thiện, chống lại bạo lực. Ông là người có công lớn khuyến khích Phật giáo, xây dựng hàng chục ngàn chùa chiền, bảo tháp Phật giáo.
Đây là giai đoạn đánh dấu sự phát triển của Phật giáo ra ngoài lãnh thổ Ấn Độ. Nhiều đoàn truyền giáo đạo Phật đã được cử đến khắp nơi từ Âu sang Á, đến tận Hy Lạp, các nước tại Trung Á, Trung Đông, cũng như Trung Quốc, Miến Điện và Sri Lanka. Hiện còn một vấn đề đang được tranh luận là liệu đoàn thuyết pháp của vua Asoka đã đến được Việt Nam hay không. Câu hỏi này còn trông chờ vào việc tìm ra thêm các bằng chứng về khảo cổ ở Việt Nam..."Do đòi hỏi bởi tình trạng ngột ngạt của sự áp bức của tầng lớp thống trị đối với tầng lớp bình dân bị trị Ấn Độ, Đạo Phật ra đời như một học thuyết triết học duy tâm chủ quan nhằm giải thích nguyên nhân gây ra nỗi khổ đau, bất hạnh của con người và đề ra cách sống, cách luyện tập để thoát khỏi những khổ đau và bất hạnh ấy. Từ đó mà có khái niệm "Niết Bàn". Wikipeđia đã viết về khái niệm này:
"Niết-bàn (zh. 涅槃, sa. nirvāṇa, pi. nibbāna, ja. nehan) là từ được dịch âm từ gốc tiếng Phạn nirvāṇa hoặc tiếng Pāli nibbāna. Nirvāṇa nguyên là phân từ thụ động quá khứ của động từ niḥ-√vā (2) nirvāti với nghĩa "thổi tắt", "dập tắt" (một ngọn lửa) và như thế thì nirvāṇa mang nghĩa đã bị dập tắt, thổi tắt. Qua đó mà thuật ngữ nirvāṇa cũng được dịch nghĩa là Khổ diệt, Diệt (zh. 滅), Diệt tận (zh. 滅盡), Diệt độ (zh. 滅度), Tịch diệt (zh. 寂滅), Bất sinh (zh. 不生), Viên tịch (zh. 圓寂), và vì khổ diệt được hiểu là mục đích tối cao trong đạo Phật nên nirvāṇa cũng được dịch ý là Giải thoát (zh. 解脫).
Tóm lược lại thì Niết-bàn có thể được hiểu là: Tình trạng ngọn lửa tham lam, sân hận, ngu si đã bị dập tắt.
Niết-bàn là mục đích tu hành cứu cánh của mọi trường phái Phật giáo. Trong đạo Phật nguyên thủy, Niết-bàn được xem là đoạn triệt Luân hồi (zh, 輪回, sa., pi. saṃsāra). Đó là sự tận diệt gốc rễ của ba nghiệp bất thiện (zh. 不善, sa. akuśala, pi. akusala) là tham, sân và si".
Trong bài "Niết Bàn là cõi như thế nào?" đăng trên mạng (https://chuahanson.com/phat-giao-va-doi-song/niet-ban-la-coi-nhu-the-nao-92.html) có viết thế này:
"Một cách đơn giản, mọi người Phật tử đều hiểu rằng đó là cảnh giới giải thoát của các bậc chứng ngộ, đắc đạo. Như vậy, Niết-bàn được hiểu theo nghĩa đối đãi với cảnh giới phàm tục, cảnh giới của những người chưa đạt được giải thoát.
Khi chưa giải thoát, con người chìm đắm trong khổ não, nên Niết bàn hẳn là cảnh không còn khổ não. Khi chưa giải thoát, con người phải chịu sanh già bệnh chết, nên Niết-bàn hẳn là cảnh không còn sanh già bệnh chết… Tương tự như vậy, mọi người hiểu Niết-bàn theo như cách ngược lại với cõi thế tục này…

(...)
Nhưng Niết-bàn an lạc, yên vui như thế nào, chỉ có khi chứng ngộ rồi người ta mới có thể tự cảm nhận lấy mà thôi.
(...)
Niết bàn là cảnh giới như thế nào, Niết bàn là gì… Những điều ấy hoàn toàn không cần thiết đối với chúng ta khi còn đang chìm đắm trong những đau khổ của cuộc đời. Điều tối thiểu chúng ta cần biết chỉ là: Niết bàn là cảnh giới an lạc của giải thoát, của các bậc chứng ngộ, và nếu chúng ta kiên trì tu tập, bản thân chúng ta cũng sẽ có thể tự mình chứng đắc vào cảnh giới ấy. Thay vì để tâm tìm hiểu Niết bàn là gì, chúng ta nên chuyên tâm vào việc học tập và hành trì lý Tứ đế, thực hành Bát chánh đạo… Một khi đã tự mình chứng ngộ, chúng ta sẽ tự mình hiểu rõ Niết-bàn là gì, không cần phải nhọc tâm tìm hiểu".
Như vậy, Đạo Phật chỉ ra rằng mọi đau khổ gặp phải trong cuộc đời của mỗi người đều có nguyên nhân từ tham, sân, si và chủ yếu do chính bản thân con người đó gây ra. Đức Phật Thích Ca dạy rằng, muốn diệt khổ, giải thoát được khổ đau, nghĩa là đạt đến cõi Niết Bàn, đạt đến an lạc, thì mỗi con người phải tự thân tu tập kinh Phật. Và cõi Niết Bàn là một thứ gì đó có thật, nhưng không biết là thứ gì, không thể hình dung mà cũng không cần phải hình dung, ai chứng ngộ người đó biết (!)
Đối với chúng ta, chúng ta không bao giờ tin cách giải thích của đạo Phật về thế giới. Nhưng vẫn cho là hay đối với các bài nói chuyện của các sư, tăng nhan nhản trên mạng xã hội và ở đâu đó trên báo chí, vì chúng có tác dụng phủ dụ, giảm bớt khổ đau, nuôi hy vọng sống cho tâm hồn con người trong cái xã hội đã chết tên "đời là bể khổ" này!
(Còn tiếp) 
--------------------------------------------------------------

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét