Thứ Sáu, 18 tháng 9, 2015

BÍ ẨN LỊCH SỬ 99

(ĐC sưu tâm trên NET)

Hé lộ nghi vấn đặc biệt về mộ vua Quang Trung ở Quảng Nam


HỌC MỖI NGÀY. Báo Công An TP Đà Nẵng ngày 16 tháng 9 có bài viết: Hé lộ nghi vấn đặc biệt về mộ vua Quang Trung ở Quảng Nam của T.Tân , V. Hoàng. Theo đó
"Từ trước đến nay, việc mộ vua Quang Trung được chôn cất ở đâu vẫn là điều bí mật. Thế nhưng gần đây, Phòng PA83 CA tỉnh Quảng Nam phát hiện một tài liệu về chánh cung hoàng hậu của vua Quang Trung mang họ Phạm ở Quảng Nam, không phải ở Tuy Viễn (Bình Định) như sử sách lâu nay đề cập. Từ tình tiết này, Phòng PA83 CA tỉnh Quảng Nam cùng các cơ quan chức năng đã tiếp tục điều tra, nghiên cứu và dần hé lộ ra những tình tiết đặc biệt liên quan đến mộ vua Quang Trung."



Phát hiện lịch sử
Cuối tháng 8-2014, từ một nguồn thông tin đặc biệt, Phòng PA83 CA tỉnh Quảng Nam phát hiện một tài liệu viết bằng chữ Hán Nôm, có nội dung đề cập đến thân thế một phụ nữ được vua Quang Trung phong làm Chánh cung hoàng hậu. Tài liệu này là gia phả của một tộc Phạm tại một huyện của tỉnh Quảng Nam. Sau khi nhờ các chuyên gia Hán Nôm dịch nghĩa và đánh giá về độ tin cậy của tài liệu, đến nay toàn bộ nội dung của bộ gia phả đã được dịch ra tiếng Việt.
Theo đó, một cuốn gia phả và một cuốn ghi danh sách những người trong họ tộc để xướng tên trong lễ cúng tế được viết vào ngày 18 tháng 2 năm Bảo Đại thứ ba (1927). Trong cuốn gia phả và cuốn sớ xướng tên trong lễ cúng tế có đề cập đến một người tên là Phạm Văn Phước, thuộc đời thứ 4 của tộc Phạm này. Vào giai đoạn cuối thời chúa Nguyễn trấn thủ ở Đàng Trong, ông làm quan ở Xá sai ti, trấn Quảng Nam. Trong cuốn gia phả ghi rõ, hai người con gái của ông Phạm Văn Phước là Hoàng chánh hậu Phạm Thị Ngọc Dẫy và Tả cung Đức Bá Phạm Thị Doanh.
Sau khi bộ gia phả này được dịch, P.V đã cùng cán bộ Phòng PA83, Sở VH-TT&DL, Bảo tàng Quảng Nam tổ chức điền dã khảo cứu đến địa danh trong cuốn gia phả họ Phạm, quê hương của ông Phạm Văn Phước (địa danh xin được giấu-P.V). Thật bất ngờ, chúng tôi được dân làng kể về một câu chuyện hơn 200 năm trước. Theo dân làng, lúc hành quân từ Bình Định ra Phú Xuân (Huế), do mưa to gió lớn nên Nguyễn Huệ đã dừng chân lại nơi này.
Tại đây, Nguyễn Huệ đến ở tư gia của một viên quan họ Phạm có hai người con gái và đem lòng yêu thương người chị. Nguyễn Huệ đã đưa người chị ra Phú Xuân sinh sống, người em cũng được đi theo để hầu hạ chị. Sau một thời gian, người chị mất, người em được triều đình cho về quê và xây dựng một ngôi chùa để thờ tự chị mình. Sau khi mất, người em được chôn gần ngôi chùa. Do mộ người em được xây dựng khá đẹp và được thắp đèn dầu suốt đêm nên dân làng ai cũng cho rằng đó là mộ bà Phạm Đức Bá.


Từ trái qua: Trong gia phả họ Phạm thể hiện: Hoàng chánh hậu Phạm Thị Ngọc Dẫy (hàng dọc thứ 2 tính từ phải qua); Tả cung Đức Bá Phạm Thị Doanh (hàng dọc thứ 3 tính từ phải qua). Trong gia phả họ Phạm thể hiện Phạm Văn Phước, trước là Xá sai ti ở trấn Quảng Nam, từ năm Kỷ Dậu được phong tặng Đại tư không thiển quận công (dòng hàng dọc 2 và 3 bên phải sang).


Ngôi mộ nghi vấn
Lần theo câu chuyện, chúng tôi tìm được ngôi chùa trên. Đại đức Thích Văn Chánh, trụ trì chùa xác nhận, trong lịch sử ngôi chùa có ghi rõ, bà Phạm Đức Bá là người sáng lập chùa. Trước đây, chùa có giữ sắc phong thời Quang Trung ban hành việc xây dựng chùa và trong chùa có bài vị "Tiền nhân Phạm Đức Bá chi linh vị", nhưng do chiến tranh tài liệu đã bị thất lạc. Liên hệ thân thế của bà Phạm Thị Ngọc Dẫy, Phạm Thị Doanh với câu chuyện dân gian và ngôi mộ mang tên Phạm Đức Bá, chúng tôi nhận thấy có nhiều điểm trùng khớp với nhau. Trong gia phả ghi, người chị là Hoàng chánh hậu Phạm Thị Ngọc Dẫy, còn người em là Tả cung Đức Bá Phạm Thị Doanh.
Trong câu chuyện dân gian, người chị được vua lấy làm vợ, người em cũng được đi theo vào cung để hầu hạ. Theo tìm hiểu trong sử sách, dưới triều vua Quang Trung, cung nữ được chia làm 2 cung, Tả cung và Hữu cung. Như vậy, khả năng người em trong câu chuyện dân gian chính là Tả cung Đức Bá Phạm Thị Doanh trong gia phả họ Phạm. Vì có chị là vợ vua nên người em được đặt thêm mỹ tự là "Đức Bá" theo điển lệ triều đình là giả thuyết rất thuyết phục.
Trong khi đó, ngôi mộ được cho là mộ bà Phạm Đức Bá hiện nay có nhiều đặc điểm rất đặc biệt so với các ngôi mộ cổ khác. Năm 1978, một số người đã dùng thuốc nổ để công phá ngôi mộ này nhằm tìm vàng bạc châu báu nhưng họ chỉ phá được lớp mu rùa trên mộ, còn phần đáy mộ thì không khai quật được. Hiện nay ngôi mộ vẫn còn và một phần thành mộ lộ thiên, có hoa văn thuộc triều Tây Sơn, nhìn bên ngoài có màu xám nhạt, có lẫn vôi sống, vỏ sò. Ngoài ngôi mộ trên, gần đó còn hai ngôi mộ khác cũng cùng thời Tây Sơn.
Theo ông Tôn Thất Hướng - Phó phòng nghiệp vụ Sở VH-TT&DL Quảng Nam cho biết, ở Việt Nam, mộ hợp chất thường có niên đại từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII. Hợp chất này là tổng hòa các chất như cát, mật đường, nhựa thực vật, vôi sò giã nhuyễn... Nó cứng hơn đá và "bất khả phân ly" không thể phá vỡ. Chính vì sự bền vững ấy nên chỉ có tầng lớp quý tộc mới được mộ táng bằng hợp chất. Và cũng vì được xây bằng hợp chất mà các đối tượng xấu không đào được phần dưới của ngôi mộ...
Với những tài liệu chúng tôi tiếp cận và hiện trạng ngôi mộ cổ hiện nay, cộng thêm câu chuyện trong dân gian, có cơ sở để nhận định rằng, Hoàng chánh hậu của vua Quang Trung là người Quảng Nam, như trong gia phả họ Phạm ghi rất rõ "Hoàng chánh hậu Phạm Thị Ngọc Dẫy" chứ không phải Chánh cung Phạm Thị Liên (Tuy Viễn, Bình Định) như sử sách lâu nay đề cập.
Đặc biệt, nhiều tư liệu thu thập được cho thấy ngôi mộ trên có nhiều nghi vấn là mộ vua Quang Trung-Nguyễn Huệ chứ không phải mộ của Tả cung Đức Bá Phạm Thị Doanh. Tuy nhiên, để có kết luận chính xác, rất cần các cơ quan chức năng vào cuộc để thẩm định. Và đây cũng là nguyện vọng chính đáng của người dân và dòng tộc Phạm ở địa phương.

Những nội dung liên quan đến sự phát hiện lịch sử này chúng tôi sẽ tiếp tục thông tin đến bạn đọc trong thời gian sớm nhất.

T.Tân-V.Hoàng

Nguyễn Huệ

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Quang Trung Hoàng đế
Hoàng đế Việt Nam
Quang Trung statue 03.jpg
Tượng đài Quang Trung ở Quy Nhơn
Hoàng đế nhà Tây Sơn
Trị vì 22 tháng 12 năm 178816 tháng 9 năm 1792
Đăng quang 22 tháng 12 năm 1788
Tiền nhiệm Thái Đức Hoàng đế
Kế nhiệm Cảnh Thịnh Hoàng đế
Thông tin chung
Thê thiếp Chính Cung hoàng hậu Phạm Thị Liên
Chính Cung hoàng hậu Bùi Thị Nhạn
Bắc Cung hoàng hậu Lê Ngọc Hân
Trần Thị Quỵ
Nguyễn Thị Bích
một vài người khác
Hậu duệ
Tên thật Hồ Thơm
Nguyễn Huệ
Tước hiệu Bắc Bình Vương, Hoàng đế
Niên hiệu Quang Trung: 1788 - 1792
Thụy hiệu Vũ Hoàng Đế
Miếu hiệu Tây Sơn Thái Tổ
Triều đại Nhà Tây Sơn
Thân phụ Nguyễn Phi Phúc
Sinh 1753
Bình Định, Việt Nam
Mất 16 tháng 9 năm 1792
Phú Xuân, Việt Nam
Nguyễn Huệ (chữ Hán: 阮惠; 17531792), còn được biết đến là Quang Trung Hoàng đế (光中皇帝), vua Quang Trung hay Bắc Bình Vương (北平王), là vị hoàng đế thứ hai của nhà Tây Sơn (ở ngôi từ 1788 tới 1792) sau Thái Đức Hoàng đế Nguyễn Nhạc. Ông là một trong những lãnh đạo chính trị tài giỏi với nhiều cải cách xây dựng đất nước, quân sự xuất sắc trong lịch sử Việt Nam trong cuộc nội chiến và cả khi chống giặc ngoại xâm. Do có nhiều công lao, Nguyễn Huệ cũng được xem là người anh hùng áo vải của dân tộc Việt Nam.
Nguyễn Huệ và hai người anh em của ông, được biết đến với tên gọi Anh em Tây Sơn, là những lãnh đạo của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn đã chấm dứt cuộc nội chiến kéo dài giữa hai tập đoàn phong kiến Trịnh ở phía bắc và Nguyễn ở phía nam, lật đổ hai tập đoàn này cùng nhà Hậu Lê. Ngoài ra, Nguyễn Huệ còn là người đánh bại các cuộc xâm lược Đại Việt của Xiêm La từ phía nam, của Đại Thanh (Trung Quốc) từ phía bắc; đồng thời còn là người đề ra nhiều kế hoạch cải cách tiến bộ xây dựng Đại Việt. 
Sau 20 năm liên tục chinh chiến và trị quốc, Nguyễn Huệ lâm bệnh và đột ngột qua đời ở tuổi 40. Sau cái chết của ông, nhà Tây Sơn suy yếu nhanh chóng. Những người kế thừa ông không đủ bản lĩnh để lãnh đạo Đại Việt, lâm vào mâu thuẫn nội bộ và thất bại trong việc tiếp tục chống lại kẻ thù của Tây Sơn. Cuộc đời hoạt động của Nguyễn Huệ được một số sử gia đánh giá là đã đóng góp quyết định vào sự nghiệp thống nhất đất nước của triều đại Tây Sơn. 
Cuộc đời ông được biết đến qua các bộ sử của nhà Hậu Lênhà Nguyễn, các sử gia cận đại, hiện đại và cả trong văn học dân gian.

Thân thế


Nguồn gốc dòng Tây Sơn
Có giả thuyết cho rằng tổ tiên nhà Tây Sơn vốn họ Hồ ở làng Hương Cái, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An, dòng dõi Hồ Quý Ly.  Họ theo chân chúa Nguyễn vào lập nghiệp miền Nam khi chúa Nguyễn vượt Lũy Thầy đánh ra đất Lê - Trịnh tới Nghệ An (năm 1655). Ông cố (cụ nội) của Nguyễn Huệ tên là Hồ Phi Long (vào giúp việc cho nhà họ Đinh ở thôn Bằng Châu, huyện Tuy Viễn, tức An Nhơn) cưới vợ họ Đinh và sinh được một trai tên là Hồ Phi Tiễn. Hồ Phi Tiễn không theo việc nông mà bỏ đi buôn trầu ở ấp Tây Sơn, cưới vợ và định cư tại đó. Vợ của Hồ Phi Tiễn là Nguyễn Thị Đồng, con gái duy nhất của một phú thương đất Phú Lạc, do đó họ đổi họ của con cái mình từ họ Hồ sang họ Nguyễn của mẹ  Người con là Nguyễn Phi Phúc cũng chuyên nghề buôn trầu và làm ăn phát đạt. Cũng có tài liệu cho rằng họ Hồ đã đổi theo họ chúa Nguyễn ngay từ khi mới vào Nam. 
Nguyễn Phi Phúc có 8 người con, trong đó có ba người con trai: Nguyễn Văn Nhạc, Nguyễn Văn Lữ và Nguyễn Văn Huệ. Nguyễn Huệ sinh năm 1753. Ông còn có tên là Quang Bình (光平),  Văn Huệ (文惠)  hay Hồ Thơm. Sau này, người dân địa phương thường gọi ông là Đức ông Bình hoặc Đức ông Tám. 
Về thứ tự của Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ trong các anh em, các nguồn tài liệu ghi không thống nhất:
  • Các sách Đại Nam thực lục chính biên, Đại Nam chính biên liệt truyện, Tây Sơn thuỷ mạt khảo đều thống nhất ngôi thứ trong ba anh em Tây Sơn đã khẳng định rằng: "Con trưởng là Nhạc, kế là Lữ, kế nữa là Huệ".
  • Dân phủ Quy Nhơn xưa truyền lại rằng: Nguyễn Nhạc thuở đi buôn trầu nên gọi anh Hai Trầu; Nguyễn Huệ còn có tên là Thơm nên gọi là chú Ba Thơm; Nguyễn Lữ gọi là thầy Tư Lữ .
  • Theo thư từ của các giáo sĩ phương Tây hoạt động ở Đại Việt khi đó như Labartette, Eyet và Varen thì Nguyễn Huệ là em của Nguyễn Lữ. Nguyễn Lữ được gọi là Đức Ông Bảy còn Nguyễn Huệ là Đức Ông Tám.
  • Lê Trọng Hàm trong sách Minh đô sử lại cho rằng Hồ Phi Phúc sinh "Nhạc, Lữ đến hai cô con gái rồi đến Huệ".
Lớn lên, ông và Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ được đưa đến thụ giáo cả văn lẫn võ với thầy Trương Văn Hiến. Trương Văn Hiến là môn khách của Trương Văn Hạnh, còn Trương Văn Hạnh là thầy dạy của Nguyễn Phúc Luân - cha của Nguyễn Ánh. Sau khi Trương Văn Hạnh bị quyền thần Trương Phúc Loan hãm hại, Trương Văn Hiến chạy vào Bình Định. Chính người thầy này đã phát hiện được khả năng của Nguyễn Huệ và khuyên bảo ba anh em khởi nghĩa để xây dựng đại nghiệp. Tương truyền câu sấm "Tây khởi nghĩa, Bắc thu công" là của Trương Văn Hiến Tương truyền Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc và Nguyễn Lữ đều là những người rất giỏi võ nghệ và là những người khai sáng ra một số võ phái Bình Định. Nguyễn Huệ khai sáng Yến phi quyền, Nguyễn Lữ sáng tạo Hùng kê quyền, và cả ba anh em Tây Sơn sáng tạo Độc lư thương. Tây Sơn tam kiệt có vai trò rất lớn cho sự hình thành, phát triển võ phái Tây Sơn Bình Định, là những đầu lĩnh sáng tạo, cải cách các bài quyền, bài binh khí để truyền dạy cho ba quân trong giai đoạn đầu khởi nghĩa.

Tiêu diệt chính quyền chúa Nguyễn

Tham gia khởi nghĩa


Ba anh em nhà họ Nguyễn: Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ
Lấy lý do chống lại sự áp bức của quyền thần Trương Phúc Loan, ủng hộ hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương , Nguyễn Nhạc cất binh khởi nghĩa năm 1771, xây dựng căn cứ chống chính quyền chúa Nguyễn tại Tây Sơn. Trong giai đoạn xây dựng thế lực, Nguyễn Huệ đã giúp Nguyễn Nhạc xây dựng kinh tế và huấn luyện quân sự. Với sự ngầm trợ giúp về mặt tâm lý của thầy giáo Hiến và bản lĩnh cá nhân, Nguyễn Huệ đã nhanh chóng xây dựng được uy tín cho lực lượng Tây Sơn và cả cho cá nhân mình. Chẳng bao lâu sau, lực lượng của nhà Tây Sơn mỗi ngày mỗi lớn và vững vàng. Những người hợp tác đầu tiên với nhà Tây Sơn có Nguyễn Thung, Bùi Thị Xuân, Võ Văn Dũng, Võ Đình Tú, Trần Quang Diệu, Trương Mỹ Ngọc, Võ Xuân Hoài. Về sau, kẻ sĩ gần xa đến hưởng ứng thêm đông. Lực lượng Tây Sơn không những đánh đâu thắng đó mà còn nổi tiếng vì bình đẳng, bình quyền, không tham ô của dân và lấy của người giàu chia cho người nghèo
Theo Tây Sơn tiềm long lục của Nguyễn Bá Huân, một danh sĩ người Bình Định (1848-1899) sống thời nhà Nguyễn, thấy quân Tây Sơn đánh chiếm các huyện, thành, thôn ấp, tuần phủ Quy Nhơn của chúa Nguyễn là Nguyễn Khắc Tuyên cùng đề đốc Lý Trình đi đánh dẹp. Quân Khắc Tuyên đến Phù Ly gặp quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy. Hai bên giao chiến, Lý Trình bị Nguyễn Huệ chém chết, Khắc Tuyên bỏ chạy về Quy Nhơn.  Năm 1773, anh em Tây Sơn hạ được thành Quy Nhơn (kinh thành Đồ Bàn cũ của Chiêm Thành). Từ đó, quân Tây Sơn đánh ra các vùng lân cận và tới cuối năm 1773 đã kiểm soát từ Quy Nhơn đến Bình Thuận, làm suy yếu chính quyền chúa Nguyễn.

Tái chiếm Phú Yên

Tây Sơn lâm nguy

Không lâu sau khi làm chủ phần lớn khu vực Nam Trung Bộ, anh em Tây Sơn bắt đầu gặp khó khăn trước những diễn biến mới.
Giữa năm 1774, chúa Nguyễn cử Tống Phúc Hiệp mang quân từ Gia Định theo hai đường thủy bộ ra đánh Nam Trung bộ, và nhanh chóng lấy lại được Bình Thuận, Diên KhánhBình Khang. Tây Sơn từ đó chỉ còn làm chủ từ Phú Yên ra Quảng Ngãi.
Nhân cơ hội chúa Nguyễn suy yếu, tháng 10 năm 1774, chúa Trịnh Sâm sai Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc dẫn 3 vạn quân tiến đánh Đàng Trong. Quân Trịnh vượt sông Gianh đánh chiếm Phú Xuân. Định Vương Nguyễn Phúc Thuần và các quan phải chạy vào Quảng Nam, nhưng bị Nguyễn Nhạc mang quân hai đường thủy bộ tiến ra đánh, vội theo đường biển trốn vào Gia Định, để Nguyễn Phúc Dương ở lại. Tháng 2 năm 1775, quân Trịnh vượt đèo Hải Vân đã đụng độ với quân Tây Sơn cũng đang tiến ra để lùng bắt Phúc Dương. Hoàng Ngũ Phúc đang đà thắng lợi, đánh bại quân Tây Sơn ở Cẩm Sa. Nguyễn Nhạc phải rút quân về Quy Nhơn, sau khi đã bắt được Phúc Dương.
Lợi dụng Nguyễn Nhạc thua trận, Tống Phúc Hiệp từ Bình Khang tiến ra đánh Phú Yên, quân Tây Sơn thua trận phải co về Quy Nhơn. Phần lãnh thổ mà anh em Tây Sơn còn kiểm soát chỉ còn Quy NhơnQuảng Ngãi.
Tình thế của quân Tây Sơn lúc đó rất nguy ngập, nếu mang quân ra đương đầu với cả hai phía thì chắc chắn Tây Sơn sẽ bị tiêu diệt. Nguyễn Nhạc quyết định xin giảng hoà với chúa Trịnh để tập trung vào chiến trường phía nam, bèn sai người đến chỗ Hoàng Ngũ Phúc xin đầu hàng và làm tiên phong cho chúa Trịnh để đánh chúa Nguyễn. Hoàng Ngũ Phúc cũng muốn mượn sức Tây Sơn diệt họ Nguyễn nên nhân danh chúa Trịnh thuận cho Nguyễn Nhạc hàng, phong làm "Tây Sơn trưởng hiệu tráng tiết tướng quân". Dù thế, Hoàng Ngũ Phúc vẫn không cho lui quân, đóng sát địa giới Quảng Ngãi, có ý chờ nếu Tây Sơn bại trận sẽ tiến vào chiếm Quảng Ngãi và Quy Nhơn 

Xuất quân thắng trận

Tạm yên phía bắc nhưng Tây Sơn vẫn còn ở vào tình thế nguy hiểm, chỉ có một lựa chọn là phải thắng trận để chiếm lại Phú Yên từ tay quân Nguyễn, nếu không sẽ bị quân Trịnh đánh từ phía sau.
Trong tình thế các tướng đều bạc nhược do thua trận, Nguyễn Nhạc quyết định cử Nguyễn Huệ khi đó mới 23 tuổi, làm chủ tướng mang quân vào Nam. Để hỗ trợ cho Nguyễn Huệ, nhân nắm con bài Nguyễn Phúc Dương trong tay, Nguyễn Nhạc gả con gái cho Dương, rồi sai người vào Phú Yên điều đình với Tống Phúc Hiệp bàn việc lập Phúc Dương làm chúa và cùng đánh Trịnh. Việc đàm phán đến nửa chừng thì Nguyễn Huệ kéo quân tới đánh khiến Hiệp không kịp trở tay. Nguyễn Huệ bắt sống Nguyễn Khoa Kiên, giết Nguyễn Văn Hiền, riêng Hiệp chạy thoát. Tướng của chúa Nguyễn ở Bình Khang là Bùi Công Kế mang quân ra cứu bị Nguyễn Huệ bắt sống. Tướng chúa Nguyễn khác là Tống Văn Khôi ở Khánh Hoà ra đánh cũng bị Nguyễn Huệ giết tại trận.
Hoàng Ngũ Phúc nhân lúc Tây Sơn mang quân vào Nam liền lấn tới đóng quân ở Châu Ổ thuộc Quảng Ngãi, nhưng sau khi nghe tin Nguyễn Huệ thắng trận không dám tiến nữa. Để tăng thêm thanh thế, Nguyễn Nhạc yêu cầu quận Việp phong chức cho em. Quận Việp phong Nguyễn Huệ làm "Tây Sơn hiệu tiền tướng quân". Ít lâu sau vì tuổi già sức yếu, quận Việp bỏ Quảng Nam lui về Phú Xuân rồi giao lại thành này cho các tướng dưới quyền, còn mình dẫn đại quân về Bắc.
Nhân lúc quân Trịnh rút khỏi Quảng Nam, các tướng cũ của họ Nguyễn lại nổi dậy chiếm nơi này. Nguyễn Nhạc bèn điều Nguyễn Huệ từ Phú Yên ra đánh tan quân Nguyễn, lấy lại Quảng Nam.
Chiến thắng Phú Yên là dấu ấn đầu tiên của Nguyễn Huệ trên con đường binh nghiệp của ông sau này. Từ đây ông trở thành chỗ dựa vững chắc cho nhà Tây Sơn.

Tiến công Gia Định

Những chiến dịch tấn công Gia Định của Tây Sơn đều là những chiến dịch lớn. Ngoại trừ lần đầu tiên mang tính đánh tập kích do Nguyễn Lữ chỉ huy, những chiến dịch sau đều có quy mô lớn và có vai trò tham gia then chốt của Nguyễn Huệ. Oanh liệt hơn cả là trận đánh năm 1777.
Nguyễn Huệ ra Bắc để lại tướng người Hoa là Lý Tài giữ thành Phú Yên. Tài bất mãn  vì mất chức chánh tướng về tay Nguyễn Huệ nên nghe theo lời dụ của Tống Phúc Hiệp, sang hàng chúa Nguyễn. Để chia thế quân Nguyễn, đầu năm 1776, Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Lữ mang quân theo đường thuỷ vào đánh Gia Định. Nguyễn Lữ liền thu hết kho tàng của chúa Nguyễn rồi rút về Quy Nhơn. Tháng 10 năm 1776, Nguyễn Phúc Dương bỏ trốn từ Quy Nhơn về Gia Định, gọi Lý Tài làm vây cánh. Đỗ Thanh Nhân không thừa nhận một hàng tướng từ Tây Sơn thế là ông nhục mạ Lý Tài, bị nhục Lý Tài chiêu mộ lính rồi đánh nhau với Đỗ Thanh Nhân.  Nhân thua bỏ Gia Định về Ba Giòng. Lý Tài ép Nguyễn Phúc Thuần nhường ngôi cho Nguyễn Phúc Dương làm Tân chính vương, còn Nguyễn Phúc Thuần làm Thái thượng vương, Lý Tài trở thành Bảo giá Đại tướng quân.
Tháng 3 năm 1777, Nguyễn Nhạc lại cử Nguyễn Huệ làm tướng mang thủy quân vào đánh Gia Định.  Lý Tài thua trận bỏ chạy khỏi thành và đưa 2 chúa Nguyễn về Hóc Môn. Sau Lý Tài rút khỏi Hóc Môn về Ba Giồng  bị Đỗ Thanh Nhân đón đường giết chết. Nguyễn Phúc Thuần theo Đỗ Thanh Nhân giữ Tranh Giang, Nguyễn Phúc Dương theo tướng Trương Phúc Thận giữ Tài Phụ. Nguyễn Huệ chia đường đánh bại cả hai cánh quân Nguyễn. Nguyễn Phúc Thuần và Đỗ Thanh Nhân phải bỏ chạy về Cần Thơ cầu viện Tổng binh Hà TiênMạc Thiên Tứ, còn Nguyễn Phúc Dương bỏ chạy về Ba Việt (Bến Tre).
Nguyễn Huệ đánh bại Mạc Thiên Tứ. Nguyễn Phúc Thuần sai Đỗ Thanh Nhân lẻn ra Bình Thuận cầu cứu Chu Văn Tiếp, Trần Văn Thức. Nguyễn Nhạc nhân lúc Nguyễn Huệ thắng trận ở Nam Bộ cũng cử binh đánh Phú Yên, Bình Thuận. Trần Văn Thức chưa ra khỏi Bình Thuận đã bị quân Tây Sơn giết chết, Chu Văn Tiếp bỏ chạy. Nguyễn Nhạc chiếm lại Phú Yên đến Bình Thuận.
Tháng 9 năm 1777, Nguyễn Huệ mang quân bao vây tấn công Ba Việt, bắt sống Nguyễn Phúc Dương và toàn bộ quân tướng. Dương và 18 tướng tuỳ tùng bị đưa về Gia Định xử tử (vào tháng 10 năm 1777).  Nguyễn Phúc Thuần bại trận bỏ Cần Thơ sang Long Xuyên, định chờ Mạc Thiên Tứ lấy tàu để chạy sang Trung Quốc cầu viện nhà Thanh  nhưng bị quân Tây Sơn đuổi đến nơi, bắt được Nguyễn Phúc Thuần mang về Gia Định xử tử tháng 10 năm 1777. Nguyễn Ánh, Đỗ Thanh Nhân và Mạc Thiên Tứ trốn thoát mỗi người một nơi.
Như vậy trong vòng 7 tháng, Nguyễn Huệ đánh thắng và bắt giết được cả 2 chúa Nguyễn, nhà Tây Sơn từ chỗ bị dồn về Quy Nhơn đã chủ động giành lại không những Nam Trung Bộ mà cả Nam Bộ, tiêu diệt chính quyền chúa Nguyễn.
Sau khi Nguyễn Huệ rút đại quân về, Nguyễn Nhạc lên ngôi hoàng đế (1778), niên hiệu là Thái Đức, ông phong cho Nguyễn Huệ là Long Nhương tướng quân  Các tướng họ Nguyễn lại lập Nguyễn Ánh làm chúa, chiếm lại Gia Định. Được các lực lượng phương Tây như Pháp, Bồ Đào Nha giúp sức, Nguyễn Ánh lại mạnh lên. Thái Đức hoàng đế sai tướng vào đánh nhưng lại bị thua và mất thêm Bình Thuận.
Tháng 3 năm 1782, Nguyễn Huệ cùng vua Thái Đức mang quân thuỷ bộ Nam tiến, phá tan quân Nguyễn, giết chết cai cơ người Pháp là Manuel (Mạn Hoè). Nguyễn Ánh bỏ chạy về Hậu Giang. Vua Thái Đức chiếm lại Nam bộ, sai người giao hảo với Chân Lạp (Campuchia) và đề nghị hợp tác đánh Nguyễn Ánh. Chân Lạp chia quân đón bắt được đoàn cầu viện Xiêm La của Nguyễn Ánh và suýt bắt được ông.  Nguyễn Ánh trốn ra đảo Phú Quốc.
Anh em Tây Sơn rút quân về Bắc, Chu Văn Tiếp lại từ Bình Thuận mang quân vào đánh chiếm được Gia Định và đón Nguyễn Ánh trở về. Tháng 2 năm 1783, Nguyễn Nhạc lại sai Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ mang quân Nam tiến. Dù Nguyễn Ánh đã lập tuyến phòng thủ trước  vẫn bị quân Tây Sơn phá tan và Ánh buộc phải bỏ chạy về Đồng Tuyên. Nguyễn Huệ đánh phá Đồng Tuyên, Nguyễn Ánh lại bỏ chạy ra Hà Tiên rồi trốn ra đảo Phú Quốc. Tháng 8 năm 1783, quân Tây Sơn truy kích, Nguyễn Ánh chạy một vòng ra các đảo Cổ Long, Cổ Cốt rồi lại quay về Phú Quốc. Quân Tây Sơn vây đánh nhưng lúc đó có bão biển, các thuyền Tây Sơn phải giãn ra, sau 7 ngày đêm lênh đênh trên biển, Nguyễn Ánh thừa cơ lại trốn thoát, chạy hẳn ra đảo Thổ Chu cách xa đất liền rồi đầu năm sau tự mình sang Xiêm cầu viện.

Trận Rạch Gầm - Xoài Mút


Tượng đài kỷ niệm chiến thắng Rạch Gầm-Xoài Mút trong khu di tích lịch sử Rạch Gầm-Xoài Mút, Mỹ Tho

Đạn dược sử dụng trong thời Tây Sơn
Tháng 2 năm Giáp Thìn (1784), Nguyễn Ánh sang Xiêm La hội kiến với vua Xiêm La là Chất Tri (Chakri, Rama I) tại Vọng Các (Bangkok). Vua Xiêm sai hai tướng là Chiêu Tăng, Chiêu Sương đem 2 vạn quân thủy cùng 300 chiếc thuyền sang giúp. Ngoài ra còn có 3 vạn quân bộ tiến sang Chân Lạp với danh nghĩa giúp vua Chân Lạp, nhưng thực chất ý đồ nhằm tạo gọng kìm phía tây, chờ cơ hội tiêu diệt quân Tây Sơn.  Quân Xiêm nhanh chóng lấy được Rạch Giá, Ba Thắc, Trà Ôn, Mân Thít, Sa Đéc, ra tay cướp phá bừa bãi  Tướng Tây Sơn giữ đất Gia Định là phò mã Trương Văn Đa , thấy quân Xiêm thế lực mạnh, bèn cố thủ tại Gia Định và sai người về Quy Nhơn báo. Vua Tây Sơn sai Nguyễn Huệ đem binh vào chống giữ.
Sau khi vào Gia Định, Nguyễn Huệ đánh vài trận nhưng không thắng có ý rút binh nhưng gặp dịp một tướng của Nguyễn Ánh là Lê Xuân Giác về hàng bày mưu phục binh.  Mưu hợp với Nguyễn Huệ nên ông nghe theo liền cho bố trí trận địa và nhử quân Xiêm đến gần Rạch GầmXoài Mút  (ở phía trên Mỹ Tho) để đánh một trận lớn tiêu diệt quân Xiêm.
Đêm 19 rạng 20 tháng 1 năm 1785 (đêm 9 rạng 10 tháng 12 năm Giáp Thìn), quân Xiêm lợi dụng thủy triều xuôi theo dòng sông để tấn công Mỹ Tho nhằm phá vỡ đội thuyền phòng thủ của Tây Sơn. Quân Tây Sơn giả thua rút dần về hướng Mỹ Tho, nhử đối phương lọt vào trận địa mai phục đoạn Rạch Gầm-Xoài Mút. Quân Xiêm quen mùi thắng nên tiến vào trận mai phục của Tây Sơn,  khi quân Xiêm lọt vào trận mai phục, bất ngờ quân Tây Sơn sử dụng pháo bắn uy hiếp dữ dội ở cù lao Thới Sơn và bờ sông Tiền, khóa chặt hai đầu, dồn quân Xiêm vào thế "tiến thoái lưỡng nan". Bên cạnh đó, hỏa hổ ở hai bên bờ nã đạn tới tấp vào đội hình làm quân Xiêm rối loạn, tinh thần hoang mang rồi bỏ chạy. Cùng lúc đó, một đội thuyền cảm tử chở đầy rơm và những vật liệu dễ cháy đâm thẳng vào thuyền quân Xiêm làm cho số bị chìm, số bị cháy. Trong khi đó, cánh quân bộ Xiêm La ngay từ đầu đã bị quân Tây Sơn chặn đánh không cho cứu viện.
Một trận quyết chiến diễn ra trong không đầy một ngày đã tiêu diệt gần như hoàn toàn 2 vạn quân Xiêm,  số còn sống sót chỉ được vài nghìn người  chạy theo đường thượng đạo trốn về nước. Cánh quân bộ nghe tin thất trận cũng tan rã và tháo chạy. Nhị vương Xiêm La Chiêu Tăng, Chiêu Sương chạy theo đường bộ về Xiêm; còn Nguyễn Ánh phải chạy ra đảo Thổ Chu rồi về Cổ Cốt được Cai cơ Trung đón sang Xiêm.
Sau trận đánh này, quân Xiêm khiếp đảm trước sức mạnh của Tây Sơn, "sợ Tây Sơn như sợ cọp".  Đánh dẹp xong, Nguyễn Huệ đem quân về Quy Nhơn để đô đốc là Đặng Văn Trấn ở lại trấn đất Gia Định.

Tiêu diệt chính quyền chúa Trịnh

Đánh chiếm Phú Xuân

Tại Bắc Hà, năm 1782, Tĩnh Đô vương Trịnh Sâm qua đời, thế tử Trịnh Cán được lập làm Điện Đô vương. Phe của người con lớn Trịnh Tông làm binh biến, giết quan phụ chính là quận Huy Hoàng Tố Lý (cháu lão tướng Hoàng Ngũ Phúc) đưa Trịnh Tông lên ngôi, tức là Đoan Nam vương (1782-1786). Một tướng theo phe quận Huy là Nguyễn Hữu Chỉnh không hợp tác với Trịnh Tông, bỏ chạy vào Nam hàng Tây Sơn và được Nguyễn Nhạc rất tín nhiệm.  Bắc Hà ngày một suy yếu. Nguyễn Nhạc quyết định đánh chiếm Phú Xuân (đất cũ của chúa Nguyễn). Năm 1786, Nguyễn Huệ được cử làm tổng chỉ huy cùng Nguyễn Lữ đánh ra Bắc.

Nguyễn Ánh khi đang lưu vong ở Xiêm La năm 1783
Về phía Trịnh, sau khi nhận hàng Nguyễn Nhạc, lão tướng Hoàng Ngũ Phúc rút đại quân về Bắc (1775), để lại Phạm Ngô CầuHoàng Đình Thể giữ thành Phú Xuân. Sau đó không lâu, Hoàng Ngũ Phúc qua đời.
Nguyễn Huệ lập kế lung lạc chủ tướng Phạm Ngô Cầu. Nguyễn Hữu Chỉnh lại dùng kế ly gián Phạm Ngô Cầu và phó tướng Hoàng Đình Thể. Quân Tây Sơn bất ngờ đánh úp thành Phú Xuân. Phạm Ngô Cầu bỏ mặc Hoàng Đình Thể chết trận và quyết định dâng thành hàng Tây Sơn. Trong khi đó thì Nguyễn Lữ đem quân thủy đánh xong các đồn từ sông Gianh trở vào (xem thêm bài về nhà Tây SơnNguyễn Lữ).

Tiến ra Thăng Long

Do sự thuyết phục của Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Huệ quyết định đem quân ra Bắc đánh Thăng Long để diệt họ Trịnh dù chưa được lệnh của vua anh Nguyễn Nhạc.
Với danh nghĩa "Phù Lê diệt Trịnh", Nguyễn Huệ sai Nguyễn Hữu Chỉnh làm tiên phong Bắc tiến. Quân Trịnh rệu rã nhanh chóng tan vỡ, các danh tướng phần nhiều nghe tin Phú Xuân thất thủ đã khiếp sợ, đến khi nghe quân Tây Sơn kéo ra đa số bỏ trốn. Chúa Trịnh bỏ thành Thăng Long chạy và bị dân bắt đem nộp Tây Sơn. Trên đường áp giải, Trịnh Tông đã tự sát.
Nguyễn Huệ vào thành Thăng Long yết kiến vua Lê Hiển Tông. Tuy về danh nghĩa Nguyễn Huệ trao trả quyền chính lại cho vua Lê và nhận phong Nguyên súy Dực chính phù vận Uy quốc công, nhưng trong thực tế ông nắm toàn bộ quyền chính ở Bắc Hà. Do sự sắp xếp của Nguyễn Hữu Chỉnh, vua Lê Hiển Tông gả công chúa Lê Ngọc Hân cho Nguyễn Huệ.
Tháng 7 năm 1786, vua Lê Hiển Tông qua đời, thọ 70 tuổi. Thể theo ý kiến của công chúa Ngọc Hân thiên về lập hoàng thân Lê Duy Cận (anh Ngọc Hân), Nguyễn Huệ muốn tôn lập Duy Cận làm vua  Tuy vậy, do áp lực của tôn thất nhà Lê đối với Ngọc Hân, Nguyễn Huệ đành thu xếp cho Lê Duy Kỳ lên ngôi vua, đó là vua Lê Chiêu Thống. Ít lâu sau, Nguyễn Huệ đem công chúa Ngọc Hân cùng Nguyễn Nhạc rút quân về Nam.

Bất hòa với vua anh

Về Nam Hà, Nguyễn Nhạc chia vùng đất phía nam ra làm 3:
  • Nguyễn Nhạc xưng là Trung ương Hoàng đế, đóng đô ở Qui Nhơn.
  • Phong Nguyễn Lữ làm Đông Định Vương, cai quản vùng đất Gia Định.
  • Phong Nguyễn Huệ làm Bắc Bình Vương, cai quản vùng đất Thuận Hóa trở ra đèo Hải Vân.
Mâu thuẫn của anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ ngày càng lớn. Vua Tây Sơn vốn không có ý đánh ra Bắc Hà,  chỉ muốn chiếm Nam Hà;  việc Huệ đánh Bắc Hà là trái ý Nguyễn Nhạc, lại thấy Nguyễn Huệ ở Bắc Hà lâu quá sau khi thắng nên Nguyễn Nhạc đâm ra lo sợ vì khó kiềm chế được Nguyễn Huệ.
Nguyễn Nhạc tuyển một đội lính hộ tống đi ra Bắc và đòi Nguyễn Huệ về. Dù chính Nguyễn Huệ đã ra tận ngoài cửa ô tiếp đón,  cả hai cùng đi triều kiến vua Lê rồi về Nam  nhưng Nguyễn Nhạc vẫn chưa bằng lòng.
Tới Phú Xuân, Nguyễn Huệ ở lại còn Nguyễn Nhạc trở về Quy Nhơn. Nguyễn Nhạc đưa ra nhiều đòi hỏi tỏ uy quyền mà Nguyễn Huệ từ chối: bắt Nguyễn Huệ đi chầu, nộp chiến lợi phẩm và nộp đất Quảng Nam..  Nguyễn Huệ tỏ ra chống đối Nguyễn Nhạc và binh lính lại rất trung thành với ông.  Nguyễn Nhạc phẫn chí, giết công thần Nguyễn Thung, hiếp vợ Nguyễn Huệ 
Nguyễn Huệ chiếm nốt kho vàng của Tây Sơn ở Quy Nhơn để vận hành chiến tranh, thế là chiến tranh xảy ra.  Nguyễn Huệ đánh nhau với Nguyễn Nhạc trong vài tháng đầu năm 1787, ông tổng động viên chừng 6 vạn tới 10 vạn quân.  Họ đánh nhau dữ dội và sau đó Nguyễn Huệ tiến đến vây thành Quy Nhơn, đắp thành đất, bắn đại bác vào thành.
Nguyễn Nhạc bị vây bức quá phải vào đền thờ cha mẹ khóc rồi kêu Đặng Văn Chân từ Gia Định về cứu nhưng quân Đặng Văn Chân tới nơi lại bị Nguyễn Huệ đánh tan, buộc Đặng Văn Chân phải tới hàng.  Tuy quân của Nguyễn Huệ trong các cuộc công thành thương vong đến phân nửa  nhưng tình thế buộc Nguyễn Nhạc phải lên mặt thành khóc xin em "Nỡ lòng nào mà nồi da xáo thịt như thế".  Nguyễn Huệ nể tình anh em, thôi hãm thành và bằng lòng giảng hòa với vua anh, rồi rút về Thuận Hóa

Lưỡng đầu thọ địch


Tái hiện Lễ đăng quang của Hoàng đế Quang Trung tại Núi Bân
Sự xung đột, bất hòa giữa hai anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ khiến kẻ địch lợi dụng ở cả hai miền Nam Bắc.
Bắc Hà, sau khi quân Tây Sơn rút đi, các thế lực của chúa Trịnh trỗi dậy lập Trịnh Bồng lên ngôi vương, tái lập chính quyền chúa Trịnh. Vua Lê Chiêu Thống mời Nguyễn Hữu Chỉnh đang trấn ở Nghệ An ra dẹp Trịnh Bồng. Nguyễn Hữu Chỉnh nhanh chóng đánh tan quân Trịnh, đốt phủ chúa, Trịnh Bồng bỏ đi mất tích. Nguyễn Hữu Chỉnh nhân lúc Tây Sơn có biến bèn chuyên quyền, muốn chống lại Tây Sơn.
Trong khi đó tại miền Nam, giữa năm 1787, Nguyễn Ánh từ Xiêm quay trở lại Gia Định. Nguyễn Lữ bỏ Phạm Văn Tham một mình chiến đấu với quân Nguyễn và tự ý rút về Quy Nhơn (xem thêm bài Nguyễn Lữ).
Trước tình hình Nam, Bắc đều có biến, Nguyễn Huệ quyết định giải quyết vấn đề phía bắc trước. Ông phái Vũ Văn Nhậm, con rể của Nguyễn Nhạc, ra tiêu diệt Nguyễn Hữu Chỉnh. Tuy nhiên, tình hình vẫn không sáng sủa, đến lượt Vũ Văn Nhậm chuyên quyền và có ý chống Nguyễn Huệ. Tháng 4 năm 1788, Lê Chiêu Thống đã bỏ kinh đô lưu vong, Nguyễn Huệ phải đem quân ra Bắc lần thứ hai nhằm giết Vũ Văn Nhậm. Ông đã tổ chức lại hệ thống cai trị ở Bắc Hà, mời các danh sĩ có tên tuổi như Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích và Đại tư mã Ngô Văn Sở đảm đương công việc. Sau khi đã lập Sùng nhượng công Lê Duy Cận làm Giám quốc, Nguyễn Huệ lại rút quân về Phú Xuân vì tình hình chiến trường Nam Bộ rất gay go.
Phạm Văn Tham không chống nổi các tướng của Nguyễn Ánh, thành Gia Định thất thủ và sau đó ông liên tiếp thua trận. Nguyễn Nhạc tuổi cao lắm bệnh, bất lực không thể cứu ứng Nam Bộ, xin nhường ngôi hoàng đế, đất đai và binh quyền cho Nguyễn Huệ và thỉnh cầu ông vào cứu. Để chuẩn bị Nam tiến, Nguyễn Huệ tổng động viên binh lính ở Thuận Hoá, ngày đêm tập luyện. Tuy nhiên, khi ông chưa kịp tiến vào Nam thì lại nghe tin nhà Thanh nghe lời Lê Chiêu Thống cầu viện, sai Tôn Sĩ Nghị mang 29 vạn quân và dân công  vượt ải Nam Quan vào Đại Việt. Các tướng giữ Bắc Hà của ông lui về giữ Biện Sơn cố thủ.
Nguyễn Huệ đứng trước hai lựa chọn: Nam tiến hoặc Bắc tiến. Cả hai mặt trận đều nước sôi lửa bỏng và cần đến ông, tuy nhiên, nếu ông quá sa vào một mặt trận thì mặt trận kia sẽ vỡ. Mặc dù nhận thức được quân Mãn Thanh phía bắc là nguy cơ lớn hơn và gấp gáp hơn nhưng Nguyễn Huệ không thể đánh địch theo chiến thuật trường kỳ như triều đại nhà Lý, nhà Trần trước đó đã làm để chống quân phương Bắc. Vì vậy ông quyết định chọn cách đánh thần tốc để sớm giải quyết chiến trường miền Bắc.
Sau khi lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu Quang Trung, ngay hôm sau ông cất đại quân ra Bắc. Ngay trước khi đi, ông sai một bầy tôi tin cẩn là Diệm cầm thư của ông vào Nam dặn tướng Phạm Văn Tham cố phòng thủ chờ tiếp viện 

Chiến thắng Kỷ Dậu (1789)

Thần tốc bắc tiến

Lê Chiêu Thống chạy sang Trung Quốc, cầu viện hoàng đế nhà Thanh là Càn Long. Cuối năm 1788, Càn Long sai Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị chỉ huy 29 vạn quân Thanh hộ tống Lê Chiêu Thống về Đại Việt với danh nghĩa "phù Lê", vào chiếm đóng Thăng Long.

Đền Quán Cháo ở phòng tuyến Tam Điệp nơi gắn với câu chuyện người con gái dâng cháo cho nghĩa quân Tây Sơn

Khu tượng đài Quang Trung tại Gò Đống Đa.

Gươm và súng của quân đội nhà Tây Sơn.
Quân Tây Sơn do Đại tư mã Ngô Văn Sở, theo mưu kế của Ngô Thì Nhậm Phan Huy Ích và các mưu thần khác, chủ động rút quân về đóng ở Tam Điệp - Biện Sơn cố thủ chờ lệnh.
Nghe tin báo, ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân (22 tháng 12 năm 1788), Nguyễn Huệ xuất quân tiến ra Bắc Hà. Để lấy danh nghĩa chính thống, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu Quang Trung.
Ngày 29 tháng 11 năm Mậu Thân (26 tháng 12 năm 1788), đại quân của hoàng đế Quang Trung tới Nghệ An, dừng quân tại đó hơn 10 ngày để tuyển quân và củng cố lực lượng, nâng quân số lên tới 10 vạn, tổ chức thành 5 đạo quân: tiền, hậu, tả, hữu và trung quân, ngoài ra còn có một đội tượng binh gồm 200 voi chiến. Quang Trung còn tổ chức lễ duyệt binh ngay tại Nghệ An để khích lệ tinh thần và ý chí quyết chiến, quyết thắng của tướng sĩ đối với quân xâm lược Mãn Thanh. Ngay sau lễ duyệt binh, Quang Trung tiến quân ra Bắc Hà.
Tôn Sĩ Nghị coi thường quân Tây Sơn, sau nghe lời các tướng của Chiêu Thống thì có lo đôi phần, hẹn mồng 6 Tết ra quân đánh Tây Sơn.
Ngày 20 tháng Chạp năm Mậu Thân (15 tháng 1 năm 1789), đại quân của Quang Trung đã ra đến Tam Điệp. Sau khi xem xét tình hình, Quang Trung hẹn ba quân ngày mồng 7 Tết sẽ quét sạch quân Thanh, vào ăn Tết ở Thăng Long.
Quang Trung chia quân làm 5 đạo. Một cánh do đô đốc Long chỉ huy từ làng Nhân Mục tập kích đồn Khương Thượng và phía tây Thăng Long. Cánh đô đốc Bảo tiến đánh các đồn phía nam Thăng Long. Trung quân do đích thân Quang Trung chỉ huy, phối hợp với đô đốc Bảo đánh diệt các đồn phía nam Thăng Long. Cánh đô đốc Tuyếtđô đốc Lộc theo đường biển ra Bắc, chặn đường lui của địch ở phía bắc sông Nhị Hà và huyện Phượng Nhãn.
Đêm 30 tháng Chạp âm lịch, quân Tây Sơn đánh diệt đồn Gián Khẩu của các tướng Lê Chiêu Thống. Sau đó Quang Trung đánh diệt các đồn Nguyệt Quyết, Nhật Tảo, dụ hàng được đồn Hà Hồi. Đêm mồng 4 Tết, Quang Trung tiến đến trước đồn lớn nhất của quân Thanh là Ngọc Hồi nhưng dừng lại chưa đánh khiến quân Thanh lo sợ, phần bị động không dám đánh trước nhưng cũng không biết bị đánh lúc nào. Trong khi đó cánh quân của đô đốc Long bất ngờ tập kích đồn Khương Thượng khiến quân Thanh không kịp trở tay, hàng vạn lính bỏ mạng. Chủ tướng Sầm Nghi Đống tự vẫn. Xác quân Thanh chết sau xếp thành 13 gò đống lớn, đa mọc um tùm nên gọi là gò Đống Đa.
Đô đốc Long tiến vào đánh phá quân địch phòng thủ ở Tây Long. Sáng mồng 5, Quang Trung mới cùng đô đốc Bảo tổng tấn công vào đồn Ngọc Hồi. Trước sức tấn công mãnh liệt của Tây Sơn, quân Thanh bị động thua chết hàng vạn, phần lớn các tướng bị giết Trong khi Quang Trung chưa đánh Ngọc Hồi thì Tôn Sĩ Nghị nghe tin đô đốc Long đánh vào Thăng Long, cuống cuồng sợ hãi đã bỏ chạy trước. Đến sông Nhị Hà, sợ quân Tây sơn đuổi theo, Tôn Sĩ Nghị hạ lệnh cắt cầu khiến quân Thanh rơi xuống sông chết rất nhiều làm dòng sông bị nghẽn dòng chảy. Trên đường tháo chạy, Tôn Sĩ Nghị bị hai cánh quân Tây Sơn của đô đốc Tuyết và đô đốc Lộc chặn đánh, tơi tả chạy về. Lê Chiêu Thống hớt hải chạy theo Nghị thoát sang bên kia biên giới. Quân Tây Sơn đuổi theo và rao lên rằng sẽ đuổi qua biên giới đến khi bắt được Tôn Sĩ Nghị và Chiêu Thống mới thôi. Bởi thế dân Trung Quốc ở biên giới dắt nhau chạy làm cho suốt vài chục dặm không có người.  Như vậy, sớm hơn dự kiến, chỉ trong vòng 6 ngày, quân Tây Sơn đã đánh tan quân Thanh. Trưa mồng 5 Tết, Quang Trung tiến vào thành Thăng Long trong sự chào đón của nhân dân.
Ngô Ngọc Du là một nhà thơ đương thời, đã ghi lại không khí tưng bừng của ngày chiến thắng oanh liệt đó trong một bài thơ 
Giặc đâu tàn bạo sang điên cuồng
Quân vua một giận oai bốn phương
Thần tốc ruỗi dài xông thẳng tới,
Như trên trời xuống dám ai đương
Một trận rồng lửa giặc tan tành,
Bỏ thành cướp đó trốn cho nhanh
Ba quân đội ngũ chỉnh tề tiến,
Trăm họ chật đường vui tiếp nghênh
Mây tạnh mù tan trời lại sáng
Đầy thành già trẻ mặt như hoa,
Chen vai khoác cánh cùng nhau nói:
"Kinh đô vẫn thuộc núi sông ta"

Giai thoại về việc ra quân

Tương truyền,  trước khi ra quân đánh quân Thanh, tại lễ đăng quang ở Phú Xuân, Nguyễn Huệ lập kế để động viên quân sĩ.
Sau lúc làm lễ, Quang Trung sai mang đến cái mâm, trên để các đồng tiền, có phủ vải điều, rồi tuyên bố với quân sĩ:
Ba quân hãy cùng ta quan sát, nếu cả hai trăm đồng tiền này đều sấp, thì đó là điềm trời báo chúng ta đại thắng. Nhược bằng, có đồng ngửa, thì đó là đại sự của chúng ta có điều trắc trở.
Nguyễn Huệ chắp tay khấn vái, đặng bưng mâm tiền, cung kính dâng lên cao, rồi hất tung xuống sân. Quân sĩ thấy các đồng tiền nhất loạt đều sấp, reo hò mừng rỡ, tin chắc trận ra bắc sẽ thắng quân Thanh.
Kỳ thực, Nguyễn Huệ đã sai đúc 200 đồng tiền có cả 2 mặt đều là mặt sấp.

Chính sách thời hậu chiến

Bang giao với nhà Thanh


Cháu của Nguyễn Huệ, Nguyễn Quang Hiển, đang trình hòa ước lên các quan nhà Thanh
Ngay sau chiến thắng Kỷ Dậu, Quang Trung vội trở lại Phú Xuân để lo việc diệt Nguyễn Ánh, ông trao lại binh quyền cho Ngô Văn SởNgô Thì Nhậm.
Từ trước khi giao chiến với quân Thanh, Quang Trung đã tính đến chiến lược ngoại giao với nhà Thanh. Theo phương lược vạch sẵn, với tài ngoại giao khéo léo của Ngô Thì Nhậm, Tây Sơn nhanh chóng bình thường hóa bang giao với phương Bắc. Vua Càn Long nhà Thanh đã cho sứ giả sang Đại Việt phong vương cho Nguyễn Huệ; rồi hoàng đế Quang Trung giả đã sang triều kiến và dự lễ mừng thọ 80 tuổi của Càn Long.
Tháng 1 năm 1790, theo phương kế của Ngô Thì Nhậm Quang Trung sai người đóng giả làm mình cầm đầu đoàn sứ gồm 150 người sang Yên Kinh (Bắc Kinh sau này) triều kiến Càn Long. Các tài liệu ghi khác nhau về nhân vật đóng giả Quang Trung. Theo Hoàng Lê nhất thống chíViệt Nam Sử Lược, người đóng Nguyễn Huệ tên là Phạm Công Trị,  cháu gọi Nguyễn Huệ bằng cậu; theo Đại Nam chính biên liệt truyện thì người đó là tướng Nguyễn Quang Thực người Nghệ An. Mục đích của đoàn sứ là thăm dò thái độ của nhà Thanh đối với vị vua lưu vong Chiêu Thống của nhà Lê. Đại quan nhà Thanh là Phúc Khang An, từng sang chiến trường Đại Việt, bị Quang Trung mua chuộc đứng sau lưng đoàn sứ bộ, nên nhiều tướng lĩnh nhà Thanh biết người cầm đầu sứ bộ không phải là Nguyễn Huệ, nhưng vì ngại gây hấn nên không nói ra. Vua Càn Long đón tiếp trọng thể đoàn sứ bộ An Nam. Theo "Đại Thanh thực lục", nhà Thanh chi phí cho sứ đoàn mỗi ngày hết 4.000 lạng bạc (tổng cộng lên đến 800.000 tính cho tới khi sứ đoàn về). Càn Long làm thơ, như sau:
Doanh phiên nhập chúc trị thì tuần
Sơ kiến hồn như cựu thức thân
Y cổ vị văn lai Tượng quốc
Thắng triều vãng sự bỉ kim nhân
Cửu kinh nhu viễn chi trùng dịch
Gia hội ư kim miễn thể nhân
Vũ yển văn tu thuận thiên đạo
Đại Thanh tộ vĩnh vạn thiên xuân.
Tạm dịch là:
Nước phiên đến lúc ta đi tuần
Mới gặp mà như đã rất thân
Nước Tượng chưa từng nghe triều cận
Việc cống người vàng thật đáng khinh
Nhà Thanh coi trọng việc đi sứ
Chín đạo thường có đạo vỗ yên
Xếp võ tu văn thuận thiên đạo
Đại Thanh còn mãi vạn ngàn xuân.
Phan Huy Ích tham gia sứ bộ cũng làm thơ có câu:
Phiên quốc phụng thám tàn
Ky đắc kỳ tao ngộ
Phi tiên báo quốc nhân
Hoàng hoa đệ nhất bộ
Dịch:
Các nước phiên sang chầu
Mấy ai được như thế
Báo tin về nước ta
Sứ bộ mình là nhất
Tới tháng 11 năm 1790, đoàn sứ bộ trở về Thăng Long.
Theo các nhà nghiên cứu,  phái bộ này đã có ảnh hưởng tới thái độ của nhà Thanh đối với Lê Duy Kỳ. Sang năm 1791, nhà Thanh sai phân tán các quan lại cũ của nhà Lê đi các nơi để tách biệt không liên lạc được với nhau và cô lập Lê Duy Kỳ; bản thân Duy Kỳ bị giam lỏng ở "Tây An Nam dinh" tại Yên Kinh và sau ốm mà chết yểu. Nhà Tây Sơn chính thức nhận được sự công nhận của nhà Thanh.
Quang Trung không chỉ muốn hòa hoãn với Càn Long mà còn muốn xuất quân đánh nhà Thanh. Trước khi tính chuyện đánh Thanh, nhà vua cho quấy rối nội địa Trung Quốc bằng cách lợi dụng đảng "Thiên Địa Hội" khiêu khích người Thanh. Các biên thần nhà Thanh như Phúc Khang An (mới thay Tôn Sĩ Nghị) tuy biết rõ Tây Sơn có bí mật nhúng tay, nhưng cũng chịu nhịn cho qua chuyện.  Ông cũng cầu hôn với công chúa Thanh và xin đất Lưỡng Quảng để thử ý vua Thanh.  Dù vậy ý định này không kịp trở thành hiện thực do cái chết đột ngột của ông. 

Sắp đặt đơn vị hành chính

Quang Trung chia vùng cai quản thuộc đất nhà Lê cũ thành các xứ (trấn) như sau:
  1. Xứ Đông (Hải Dương)
  2. Xứ Bắc (Kinh Bắc)
  3. Xứ Đoài (Sơn Tây)
  4. Xứ Yên Quảng
  5. Xứ Lạng (Lạng Sơn)
  6. Xứ Thái (Thái Nguyên)
  7. Xứ Tuyên (Tuyên Quang)
  8. Xứ Hưng (Hưng Hóa)
  9. Xứ Nghệ (Nghệ AnHà Tĩnh)
  10. Sơn Nam Thượng (Hà ĐôngHà Nam)
  11. Sơn Nam Hạ (Nam ĐịnhThái Bình)
  12. Thanh Hóa ngoại (Ninh Bình)
  13. Thanh Hóa nội (Thanh Hóa).
Ngoài ra, vùng đất Quang Trung quản lý còn có Thuận HóaQuảng Nam. Trừ Xứ Sơn Nam và Thanh Hóa tách làm hai, các xứ khác đều đại thể giữ nguyên như thời Hậu Lê. Trước kia Phố Hiến là lỵ sở của Sơn Nam, tới thời Quang Trung thì Hạ Trấn đóng ở Vị Hoàng, cách dưới phố Hiến.
Trong các trấn trên thì các trấn Lạng Sơn, Cao Bằng, Tuyên Quang, Hưng Hóa, Thái Nguyên và Yên Quảng là ngoại trấn; các trấn Thanh Hóa ngoại, Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ, Kinh Bắc, Hải Dương và Phụng Thiên là nội trấn. 
Mỗi xứ (trấn) chia làm nhiều phủ, mỗi phủ chia làm nhiều huyện, mỗi huyện chia làm nhiều tổng, mỗi tổng chia làm nhiều xã, mỗi xã lại chia nhiều thôn. Thành Thăng Long gồm 1 phủ, 2 huyện, 18 phường 

Tổ chức bộ máy


Ấn tín của Quang Trung
Bộ máy hành chính thời Quang Trung gồm:
Tam công, Tam thiếu, Đại chủng tể, Đại Tư đồ, Đại Tư khấu, Đại Tư mã, Đại Tư không, Đại Tư Lệ, Thái úy, Ngự úy, Đại Tổng quản, Đại Đô hộ, Đại đô đốc, Đô đốc, Nội hầu, Hộ giá, Điểm kiểm, Chỉ huy sứ, Đô ty, Đô úy, Trung úy, Vệ Úy, Tham đốc, Tham lĩnh, Trung Thư lệnh, Phụng Chính, Thị Trung đại học sĩ, Hiệp biện đại học sĩ, Lục Bộ Thượng thư, Tả - Hữu đồng nghi, Tả - Hữu phụng nghi, Thị Lang, Tư vụ, Hàn Lâm... 
Mỗi trấn đặt một trấn thủ về hàng võ và một hiệp trấn về hàng văn Mỗi huyện đặt một văn phân tri, một võ phân suất, một tả quản lý và một hữu quản lý.  Công việc của quan văn là trưng đốc binh lương, xét xử từ tụng.  Phận sự của quan võ là coi quản và thao diễn quân lính từ Đạo đến Cơ, từ Cơ đến Đội.  Trong các xã, thôn thì có xã trưởng, thôn trưởng. Hàng tổng thì đặt Tổng trưởng (như chức Chánh Tổng về sau) để giữ việc hành chính trong một tổng Ông đồng thời cũng cho soạn một bộ luật tên là "Hình luật thư", nhưng chưa xong thì ông đột ngột mất nên mãi không hoàn thành.

Thu hút nhân tài

Để phát triển quốc gia, Quang Trung rất chú trọng thu dụng các nhân tài từng phục vụ nhà Lê. Ông ban "Chiếu cầu hiền" có đoạn:
"Trẫm đang ghé chiếu lắng nghe, thức ngủ mong mỏi mà có người tài cao học rộng chưa từng thấy đến. Hay Trẫm ít đức không đáng để phò tá chăng? hay đang thời đổ nát chưa thể ra phụng sự?... Trẫm nơm nớp lo nghĩ, một ngày hai ngày cũng có hàng vạn sự việc nảy sinh Ngẫm cho kỹ: cái nhà to lớn - sức một cây không dễ gì chống đỡ, sự nghiệp thái bình - sức một người không thể đảm đương".
—Quang Trung
Các cựu thần nhà Lê cũ, tiêu biểu là các tiến sĩ Đoàn Nguyễn Tuấn, Vũ Huy Tấn, Nguyễn Nễ, Nguyễn Huy Lượng, Bùi Dương Lịch... đã ra giúp nhà Tây Sơn. Danh sĩ Nguyễn Thiếp sau nhiều lần từ chối, cuối cùng cũng nhận lời xuống núi giúp vua Quang Trung.

Giáo dục


Chiếu chỉ của Quang Trung ra năm 1792 về việc dịch sách chữ Hán sang chữ Nôm.
Quang Trung bỏ Hán ngữ như là ngôn ngữ chính thức trong các văn bản của quốc gia. Ngôn ngữ chính thức được sử dụng là tiếng Việt và được viết trong các văn kiện hành chính bằng hệ thống chữ Nôm Quang Trung quy định các bài hịch, chiếu chỉ phải soạn bằng chữ Nôm; đề thi viết bằng chữ Nôm, và các sĩ tử phải làm bài bằng chữ Nôm. Ông còn chủ trương thay toàn bộ sách học chữ Hán sang chữ Nôm nên năm 1791 đã cho lập "Sùng chính viện" để dịch kinh sách từ Hán sang Nôm 
Theo sách Tây Sơn lược thuật, ông chọn một quan văn "5 ngày một lần vào cấm cung để giảng giải kinh sách"  Ngoài ra, Quang Trung quan tâm đưa việc học đến tận thôn xã. Trong "Chiếu lập học" ông lệnh cho các xã:: "Phải chọn Nho sĩ bản địa có học thức, có hạnh kiểm đặt làm thầy dạy, giảng tập cho học trò".

Tôn giáo

Quang Trung có một chính sách tôn giáo rất tự do và rộng rãi dù là người đề cao Nho giáo nhưng ông vẫn bảo đảm hoạt động cho các tôn giáo khác như Phật giáo và các tín ngưỡng khác. Về Công giáo, các giáo sĩ tự do hoạt động, truyền đạo, xây dựng nhà thờ.  Nhưng đồng thời ông cũng thi hành chính sách bài trừ mê tín dị đoan rất mạnh, chấn chỉnh lại việc tu hành: nhiều chùa ở các làng có mà người tu hành lạm dụng để truyền bá mê tín dị đoan bị đập bỏ để xây duy nhất một ngôi chùa ở huyện cấp trên,  đồng thời những người tu hành không đạo đức, những kẻ lưu manh, lười biếng đều phải hoàn tục.

Kinh tế


Đồng tiền cổ với bốn chữ "Quang Trung thông bảo"

Đồng tiền cổ với bốn chữ "Quang Trung đại bảo"
Một mặt lo chống thù trong giặc ngoài, mặt khác vua Quang Trung rất quan tâm tới việc xây dựng đất nước. Vua phân phối đất đai cho những người nông dân nghèo, thúc đẩy thủ công nghiệp từng bị cấm trước kia.
Vua Quang Trung không đi theo con đường "trọng nông ức thương" của tư tưởng Nho Giáo, ông có chủ trương đề cao thương nghiệp và mở rộng quan hệ buôn bán giữa Đại Việt với nước ngoài.  Năm 1790, ông thương thuyết với nhà Thanh để mở một thương điếm tại Nam Ninh (Quảng Tây) mua bán hàng hoá giữa hai nước.  Ông khuyến khích giao thương giữa các thuyền của thương thuyền nước ngoài và các thương thuyền của Đại Việt.  Quang Trung có một chính sách thuế đơn giản với thuế ruộng là chính: ruộng chia ra làm ba hạng để đánh thuế nhất đẳng điền (150 bát thóc), nhị đẳng điền (80 bát thóc), tam đẳng điền (50 bát thóc). Lại thu tiền thập vật, mỗi mẫu một tiền và tiền khoán khố mỗi mẫu 50 đồng. Ruộng tư điền cũng đánh thuế: nhất đẳng điền mỗi mẫu nộp 40 bát thóc, nhị đẳng điền mỗi mẫu 30 bát, tam đẳng điền mỗi mẫu 20 bát. Tiền thập vật cũng theo như ruộng công điền, còn tiền khoán khố thì mỗi mẫu phải nộp 30 đồng Các loại thuế khác như thuế điệu, thuế nhân đinh được giảm để giảm bớt gánh nặng của dân chúng và phòng ngừa tham nhũng.

Quản lý nhân khẩu

Dưới triều Quang Trung, việc quản lý nhân khẩu bắt đầu được thực hiện. Năm 1790, ông cho lập sổ theo dõi nhân khẩu (hay hộ khẩu). Người dân được phân 4 hạng theo lứa tuổi:  9-17 tuổi là hạng "vị cập cách"; 18-55 tuổi là hạng "tráng"; 55-60 tuổi là hạng "lão"; 60 tuổi trở lên là hạng "lão nhiêu".  Ông còn cho làm thẻ bài "Thiên hạ đại tín" bằng gỗ có khắc họ tên,  quê quán của người mang không phân biệt giàu sang nghèo hèn. 

Kế hoạch Nam tiến dở dang

Kế hoạch Nam tiến

Mặc dù đã đại thắng quân Mãn Thanh nhưng sau đó Quang Trung vẫn phải lo ổn định tình hình Bắc Hà do tàn dư của nhà Lê còn sót lại. Trong khi đó, Nguyễn Ánh được người Pháp hỗ trợ kéo ra đánh Bình Thuận, Bình Khang, Diên Khánh, quân của Tây Sơn vương Nguyễn Nhạc liên tiếp bại trận và mất mấy thành này. Cho tới năm 1791, Nguyễn Nhạc chỉ còn cai quản Quy Nhơn, Phú Yên và Quảng Ngãi.
Sau khi ổn định tình hình Bắc Hà, Quang Trung quyết tâm tiêu diệt Nguyễn Ánh. Ông ra sức trấn an Nguyễn Nhạc và nhân dân trong vùng do Nguyễn Nhạc cai quản để chuẩn bị Nam tiến. Theo nhiều nhà nghiên cứu, việc Quang Trung sai Vũ Văn Dũng đi "xin" Càn Long đất Quảng Đông, Quảng Tây thực ra chỉ là một thủ thuật về chính trị. Quang Trung không có dụng tâm lấy đất Trung Quốc vì ông biết thực lực không thể, hay ít ra là chưa thể làm lúc đó. Hơn nữa, ông thu dụng quân lục lâm "Tàu ô", sai đánh phá biên giới Trung Quốc cốt để nhà Thanh bị cuốn vào hoạt động ngoại giao và chống giặc cướp để cho ông có thời gian hỗ trợ vua anh dồn lực lượng vào chiến trường miền Nam mà thôi.[68] Để chuẩn bị phối hợp với Quang Trung, năm 1792, Nguyễn Nhạc đóng nhiều tàu thuyền đóng ở cửa Thi Nại để Nam tiến. Nhưng lúc đó là mùa gió nồm chỉ thuận cho quân Nam ra, phải đợi đến mùa đông mới thuận gió cho quân Tây Sơn vào. Nguyễn Ánh thừa dịp cùng quân Pháp, Bồ Đào Nha đánh úp cửa Thi Nại, đốt cháy nhiều thuyền chiến của Tây Sơn. Tây Sơn vương không phòng bị, lại phải thu quân về Quy Nhơn.
Để báo thù trận đó, Quang Trung dự định phát động chiến dịch rất lớn, huy động hơn 20 30 vạn  quân thuỷ bộ, chia làm ba đường:
  • Nguyễn Nhạc và quân "Tàu ô" (hải tặc Trung Hoa) cùng theo đường bộ từ Phú Yên vào đánh Gia Định
  • Quân bộ của Quang Trung từ Phú Xuân đi thẳng qua lãnh thổ Vạn Tượng tới Nam Vang (Chân Lạp), từ đó cùng quân Chân Lạp kéo về Gia Định, bao bọc đường chạy của Nguyễn Ánh không cho sang Xiêm
  • Quân thuỷ của Quang Trung sẽ tiến vào đón lõng tận Hà Tiên đổ bộ lên đất liền để ngăn Nguyễn Ánh chạy ra biển.

Lo việc hậu thế

Chính các giáo sĩ Pháp giúp Nguyễn Ánh lúc đó cũng rất lo lắng và dự liệu Nguyễn Ánh khó lòng chống lại được Tây Sơn trận này. Tuy nhiên trong khi chờ gió đổi chiều thì cái chết đột ngột vì lo lắng cho cuộc viễn chinh  của Quang Trung vào tháng 9 dương lịch năm 1792 khiến kế hoạch Nam tiến này không bao giờ trở thành hiện thực.
Tương truyền, vào một buổi chiều đầu thu năm 1792, vua Quang Trung đang ngồi làm việc, bỗng hoa mắt, tối sầm mặt mũi, mê man bất tỉnh. Khi tỉnh dậy, nhà vua cho triệu trấn thủ Nghệ AnTrần Quang Diệu về triều bàn việc thiên đô ra Phượng Hoàng Trung Đô. Nhưng việc chưa quyết xong thì bệnh tình nhà vua đã nguy kịch. Trước khi mất, nhà vua đã căn dặn Trần Quang Diệu và các quần thần 
Ta mở mang bờ cõi, khai thác đất đai, có cả cõi Nam này. Nay đau ốm, tất không khỏi được. Thái tử[f] tư chất hơi cao, nhưng tuổi còn nhỏ. Ngoài thì có quân Gia Định là quốc thù, mà Thái Đức thì tuổi già, ham dật lạc, cầu yên tạm bợ, không toan tính cái lo về sau. Khi ta chết rồi, nội trong một tháng phải chôn cất, việc tang làm lao thảo thôi. Lũ ngươi nên hợp sức mà giúp Thái tử sớm thiên đô về Vĩnh Đô[k] để khống chế thiên hạ. Bằng không quân Gia Định kéo đến thì các ngươi không có chỗ chôn thân!"
Ngày 29 tháng 7 năm Nhâm Tý (16 tháng 9 năm 1792), vào khoảng 11-12 giờ đêm, Quang Trung Nguyễn Huệ qua đời, ở ngôi được 4 năm, hưởng thọ 40 tuổi, miếu hiệu là Thái Tổ Vũ hoàng đế.  Thời điểm mất của vua Quang Trung được các tài liệu cổ ghi khác nhau. Sách Đại Nam thực lục của nhà Nguyễn ghi ông mất tháng 7 âm lịch năm 1792, Hoàng Lê nhất thống chí ghi ông mất tháng 8 âm lịch năm 1792. Theo lý giải của Hoàng Xuân Hãn trong La Sơn phu tử, cả hai sách ghi đều không sai. Quang Trung mất vào khoảng 11 giờ đêm ngày 29 tháng 7 âm lịch, khoảng đó là giờ tý, nghĩa là bắt đầu được tính sang hôm sau; mà tháng 7 năm đó là tháng thiếu, ngày 29 là ngày cuối tháng, nên sau 11 giờ đêm đã chuyển sang tháng 8. Theo Hoàng Xuân Hãn: "Ghi tháng 7 hay tháng 8 thực ra chỉ chênh nhau khoảng nửa giờ".  Bắc cung hoàng hậu Lê Ngọc Hân đã viết bài "Tế vua Quang Trung" và bài "Ai Tư Vãn" để bày tỏ nỗi đau khổ và tiếc thương cho người chồng anh hùng sớm ra đi.

Những giả thuyết về cái chết

Cho đến nay, đã có nhiều giả thuyết về cái chết của vua Quang Trung được đưa ra nhưng chưa giả thuyết nào có được chứng cứ xác thực, đủ sức thuyết phục.

Áo thêu của Càn Long

Theo Hoàng Lê nhất thống chí, khi Quang Trung giả sang Yên Kinh gặp Càn Long, được Càn Long tặng cho chiếc áo, có thêu 7 chữ:
Xa tâm chiết trục, đa điền thử (車心折軸多田鼠)
Nghĩa là:
Bụng xe gãy trục, nhiều chuột đồng
Theo phép chiết tự, chữ "xa" (車) và chữ "tâm" (心) ghép lại thành chữ "Huệ" (惠) là tên của Nguyễn Huệ; "chuột" nghĩa là năm tý (Nhâm tý 1792). Ý của dòng chữ trên áo là Nguyễn Huệ sẽ chết vào năm Tý.
Giả thiết này ý nói rằng: Nguyễn Huệ chết do áo bị yểm bùa.
Thực ra Nguyễn Huệ bị bệnh mà chết

Bệnh

Sách Ngụy Tây liệt truyện, một tài liệu chính sử của Sử quán triều Nguyễn ghi giải thích cái chết của vua Quang Trung như sau:
"Một hôm, về chiều, Quang Trung đang ngồi bỗng xây xẩm, tối tăm, thấy một ông già đầu bạc từ trên trời xuống, mặc áo trắng, cầm gậy sắt, mắng rằng: "Ông cha người sống ở đất của Chúa, đời đời làm dân Chúa Nguyễn, sao phạm đến lăng tẩm...". Rồi lấy gậy đánh vào trán Quang Trung, mê man ngã xuống, bất tỉnh nhân sự lâu lắm... Từ đó, bệnh chuyển nặng..."
Sách Tây Sơn thực lục cũng có ghi "Huệ mắc bệnh nặng, chữa không khỏi...". Và sau khi Quang Trung mất, vào tháng một năm Càn Long thứ 58 (1793), Quách Thế Huân cũng báo cáo với Càn Long: "Quang Trung đã chết vì bệnh".
Cũng một giả thuyết được truyền lại nhiều nhất là một buổi chiều thu năm 1792, vua Quang Trung đang ngồi làm việc, bỗng hoa mắt, tối sầm mặt mũi, mê man bất tỉnh. Người xưa gọi là chứng "huyễn vận", còn ngày nay y học gọi là tai biến mạch máu não 
Một giáo sĩ tên Longer, có mặt ở Đàng Ngoài vào những thời điểm này, đã viết trong một bức thư đề ngày 21 tháng 12 năm 1792 là vua Quang Trung chết vì bệnh, nhưng không rõ là bệnh gì.
Các nhà nghiên cứu về sau gạt bỏ các chi tiết mê tín trong Ngụy Tây liệt truyện thì họ cho rằng Quang Trung đã bị một cơn tăng huyết áp đột ngột 
Bác sĩ Bùi Minh Đức qua khảo cứu các nguồn tư liệu lịch sử, kết luận rằng Nguyễn Huệ "Xuất huyết não dưới màng nhện; nguyên nhân tử vong: do viêm phổi sặc"

An táng

Viếng Quang Trung

Thi hài Quang Trung được táng ngay tại Phú Xuân, tại một cung điện của ông tên là Đan Dương. Nguyễn Quang Toản lên nối ngôi, tức là vua Cảnh Thịnh, sai sứ sang nhà Thanh báo tang và xin tập phong.
Đô đốc Vũ Văn Dũng đang đi sứ nhà Thanh ở Bắc Kinh, nghe tin Quang Trung mất liền làm bài thơ viếng như sau:
Bố y phân tích ngũ niên trung
Mai cố thi vi tự bất đồng
Thiên vị ngô hoàng tăng nhất kỷ
Bất y Đường Tống thuyết anh hùng
Dịch:
Năm năm dấy nghiệp tự thân nông
Thời trước thời sau khó sánh cùng
Trời để vua ta thêm chục tuổi
Anh hùng Đường, Tống hết khoe hùng 
Vua Càn Long tặng tên hiệu cho ông là Trung Thuần, lại thân làm một bài thơ viếng và cho một pho tượng, 300 lạng bạc để sửa sang việc tang. Sứ nhà Thanh đến tận mộ ở Linh Đường (mộ giả) thuộc huyện Thanh Trì (Hà Nội) để viếng.

Lăng mộ bị phá

Thời Cảnh Thịnh, triều đình Tây Sơn sinh ra lục đục. Nguyễn Ánh nhân thời cơ đó kéo ra đánh bại nhà Tây Sơn. Mười năm sau ngày Quang Trung qua đời, nhà Tây Sơn sụp đổ hoàn toàn (xem thêm bài về nhà Tây Sơn).
Để trả thù, Nguyễn Ánh sai đào mộ Nguyễn Huệ và Nguyễn Nhạc, tán hài cốt thành bột nhồi thuốc súng bắn và bỏ xương sọ vào vò, giam trong ngục tối. Người đời thương tiếc nhà Tây Sơn gọi là "Ông Vò".
Nơi đặt lăng mộ của Quang Trung cũng bị san phẳng, không cho để lại dấu tích, nên sau này có một số nhà nghiên cứu đã dày công tra cứu, khảo sát, tìm tòi song không thể xác định được mộ vua Quang Trung ở địa điểm nào 
Khảo sát trong thời gian gần đây của các nhà nghiên cứu đã tìm ra bài thơ Kiến Quang Trung linh cữu (Nhìn thấy linh cữu vua Quang Trung) của nhà thơ Lê Triệu (1771-1846), người sống dưới thời Tây Sơn và thời Nguyễn. Bài thơ nói về cảm xúc của tác giả khi đứng trước nơi từng là lăng mộ của Quang Trung, chỉ sau mấy năm bị Nguyễn Ánh khai quật (theo các nhà nghiên cứu là năm 1801 hay 1802 ):
Trấp niên sất sá tẩu phong vân
Như thử anh hùng cổ hãn văn
Hàm Dã độc Lưu thiên vạn cốt
"Khuân Sơn" hoạ tại bách niên phần
Không hàm chỉ chỉ thiên thu hận
Cô phụ đường đường bát xích thân
Quang cảnh nhất ban thành phấn mị
Linh nhân chung cổ tiếu Doanh Tần!
Dịch thơ (Hồng Phi phiên âm và dịch):
Bao năm thét mắng át phong vân
Đủ thấy anh hùng - bậc vĩ nhân
Hàm Đan hận vùi muôn vạn xác
"Khuân Sơn" phần mộ hoạ trăm năm
Ngậm hờn chỉ trích ngàn thu hận
Nỡ phụ đường đường tám thước thân
Quang cảnh thảy đều thành cát bụi
Khiến đời muôn thuở cợt Doanh Tần! 
Ấp Tây Sơn nơi ông khởi nghĩa cùng vua anh, tới tháng 9 năm 1819, Nguyễn Ánh lệnh đổi thành An Tây, sau đó lại đổi thành An Sơn.

Ông Vò

Trong vòng 20 năm từ 1802 - 1821, đầu lâu của các vua Tây Sơn (Thái Đức, Quang Trung và Quang Toản) bị bỏ vào 3 cái vò, giam ở nhà Đồ Ngoại, tức là Võ Khố sau này 
Từ năm 1822 - 1885, các vò bị giam vào Khám đường, ở phía tây bắc kinh thành Huế, khoảng giữa cửa chính Tây và An Hòa.  Ba chiếc vò bị xiềng và giam riêng, ngăn cách nhau, ngoài có niêm phong, hàng tháng có đoàn của triều Nguyễn xuống kiểm tra. Ba chiếc vò được các tù nhân tôn kính gọi là "Ông Vò", còn những người gác ngục gọi là "chúa ngụy".  Những người sống ở gần Khám đường đều tỏ ra kính cẩn ba Ông Vò, họ thường cúng bái và coi như thần hộ mệnh.  Năm 1885, kinh thành Huế biến động bởi chiến tranh giữa phe chủ chiến của nhà Nguyễn với người Pháp, ba chiếc vò bị mất tích. Các nhà nghiên cứu vẫn tiếp tục tìm tòi, nghiên cứu về vấn đề này nhưng chưa có kết luận cuối cùng.
Theo Báo Đất Việt thì vào đêm 22 rạng 23 tháng năm Ất Dậu (1885), phòng thành Huế thất thủ, vua Hàm Nghi cùng hoàng gia phải rời khỏi phòng thành, quân Pháp vào thành. Lúc đó, có người mang 3 vò chạy trốn. Riêng một vò (sọ vua Quang Trung) được một ông họ Phan, người ở gần Cầu Ngói đã theo hào, lạch, sông đưa về Cầu ngói Thanh Toàn.

Cuộc sống cá nhân

Ngoại hình và tính cách

Trong "Tây sơn thuật lược" (西山述略), người ta miêu tả Nguyễn Huệ "Tóc Huệ quăn, mặt mụn đầy, có một con mắt nhỏ, nhưng mà cái tròng rất lạ, ban đêm ngồi không có đèn thì ánh sáng từ mắt soi sáng cả chiếu...". Sử gia Tạ Chí Đại Trường bình luận "tóc quăn", "mặt mụn", "mắt nhỏ" là dấu vết thân xác; còn "chuyện tròng mắt có ánh sáng phát ra, ban đêm soi sáng cả chỗ ngồi là cảm tưởng của người nhìn khiếp sợ trước oai vũ của "Thượng công"" .
Sách Hoàng Lê Nhất Thống Chí miêu tả anh em Nguyễn Huệ "trò chuyện, kẻ hỏi người đáp cực kỳ ôn tồn (?) y như anh em các nhà thường dân" khác hẳn kiểu bệ vệ, tôn nghiêm của triều đình - Trịnh  Ngoài ra, Hoàng Lê Nhất Thống Chí còn miêu tả Nguyễn Huệ là một người dễ gần, hay đùa với binh lính. Trong cuộc sống tình cảm cá nhân, giáo sĩ Labartette mô tả Nguyễn Huệ là người mềm yếu khi mà công chúa Lê Ngọc Hân thường xuyên ""mếu khóc" vuốt ve tự ái đấng trượng phu" khi muốn đòi hỏi gì đó ; hay Nguyễn Huệ phát cuồng vì có người vợ mất ở Phú Xuân. Chính tấm lòng say mê đó đem đổ vào cuộc đời Nguyễn Huệ, vào triều chính, ở chỗ chiến trường trở thành một sức quyến rũ lôi cuốn người khác . Về chiến trận, cũng sách này miêu tả Nguyễn Huệ "...là bực lão thủ hung tợn và giỏi cầm quân. Coi y ra Bắc vào Nam thật là xuất thần quỷ nhập. Không ai có thể dò biết. Y bắt Nguyễn Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Vũ Văn Nhậm như giết con lợn, không một người nào dám trông thẳng vào mặt. Nghe lệnh y, ai cũng mất cả hồn vía, sợ hơn cả sấm sét... "
Nguyễn Đình Giản, thuộc quan của Nguyễn Hữu Chỉnh, khi bàn về Nguyễn Huệ nhận định "Bắc Bình vương [Nguyễn Huệ] là một tay anh hùng"[85]. Nguyễn Đình Giản và Phạm Đình Dư, quan nhà Lê, nhận định "Bắc Bình vương là người rất quyệt, hay dùng trí thuật lao lung người khác, trong lúc bàn luận, khi xuống lại nâng lên người ta không biết đâu mà dò". Vị quan khác Trần Công Xán nhận định "[Nguyễn Huệ là] người huyền bí khó lường" .
Ngay chính sử nhà Nguyễn cũng phải mô tả "Nguyễn Văn Huệ là em Nhạc, tiếng nói như chuông, mắt sáng như điện, giảo, kiệt, thiện chiến? ai cũng phải sợ... Bốn lần đánh Gia Định, lúc ra trận đều đi trước, sĩ tốt hiệu lệnh nghiêm minh, thuộc hạ ai nấy dốc lòng vâng mệnh"

Gia quyến

Vợ

Các nguồn tài liệu, chủ yếu là Đại Nam chính biên liệt truyện của nhà Nguyễn về gia quyến của Nguyễn Huệ, đã ghi nhận ông có ít nhất 6 người vợ trong đó có ba hoàng hậu là:
Chính cung hoàng hậu
  • Phạm Thị Liên
Không rõ Nguyễn Huệ lập gia đình khi nào, nhưng trong những năm tháng chiến tranh, Nguyễn Huệ đã có một bà vợ, tên là Phạm Thị Liên, quê ở Quy Nhơn, sinh khoảng năm 1759, là con cùng mẹ khác cha với Thái sư Bùi Đắc Tuyên. Năm 16 tuổi bà Phạm Thị Liên được Nguyễn Huệ chọn làm vợ. Năm 30 tuổi (1789) bà được phong làm Chính cung hoàng hậu, bà kém Nguyễn Huệ khoảng chừng 5–6 tuổi. Phạm hậu đã có với Nguyễn Huệ 5 con, 3 trai 2 gái. Một trong 3 người con trai được lập thái tử, là Quang Toản – về sau kế tục sự nghiệp của Quang Trung.
Khi bà bị bệnh nặng, ông đã mời một thầy thuốc người phương Tây tên là Gi-ra vào chữa. Nhưng khi Gi-ra đến nơi thì bà đã mất trước đó, vào ngày 29 tháng 3 năm 1791.
Trong một bức thư viết ngày 17 tháng 7 năm 1791, giáo sĩ Sécrard đã kể: "Chánh hậu của Tiên vương (Quang Trung) mất vào khoảng tháng ba và ông đã khóc bà một cách sầu thảm. Ông đã cử hành tang lễ vô cùng linh đình trang trọng cho bà vào cuối tháng sáu. Dân Nam Hà đồn khắp nơi rằng ông đã băng hà vì quá đau buồn".
Hoàng hậu họ Phạm đã gắn bó với Nguyễn Huệ trong những chặng đường chinh Nam phạt Bắc nên được Nguyễn Huệ rất mực quý trọng yêu thương. Mộ chôn ở dưới chân núi Kim Phụng, phía tây thành phố Huế.
Bà được đặt thụy là Nhân Cung Ðoan Tĩnh Trinh Thục Nhu Thuần Vũ hoàng hậu.
  • Bùi Thị Nhạn
Theo nguồn tài liệu khác[87] thì sau khi bà Phạm Thị Liên qua đời, Nguyễn Huệ lấy bà Bùi Thị Nhạn làm Chính cung hoàng hậu. Bùi Thị Nhạn người thôn Xuân Hòa, huyện Tuy Viễn (nay là Tây Sơn), tỉnh Bình Định, là em của Bùi Đắc Tuyên, cô ruột của nữ tướng Bùi Thị Xuân và là con gái út của Bùi Đắc Lương, như vậy bà còn là chị em cùng mẹ với Phạm hậu. Bà là một trong 5 người phụ nữ nổi tiếng thời Tây Sơn được mệnh danh là Tây Sơn ngũ phụng thư.
Theo giả thuyết này, chính bà Bùi Thị Nhạn mới là mẹ của Nguyễn Quang Toản, Nguyễn Quang Thiệu và Nguyễn Quang Khanh; còn bà Phạm Thị Liên lại là mẹ của Nguyễn Quang Thùy và Nguyễn Quang Bàn (nên Quang Thuỳ lớn hơn Quang Toản). Ngoài ra, bà còn là mẹ của 2 công chúa - trong đó có 1 người lấy Nguyễn Văn Trị. Bà tự sát năm 1802 khi Cảnh Thịnh thua trận và bà không muốn lọt vào tay quân Nguyễn Ánh.
Cũng theo giả thuyết này, bà lấy Nguyễn Huệ khi ông chưa làm hoàng đế; còn bà Phạm Thị Liên đã mất sớm vì bệnh khi Quang Thuỳ còn nhỏ.
Như vậy, theo giả thuyết này, hầu hết những người con của bà Phạm Thị Liên lại là con bà Bùi Thị Nhạn, còn bà Phạm Thị Liên lại là mẹ Quang Thuỳ.
Bắc cung hoàng hậu 
Công chúa Lê Ngọc Hân, con gái thứ chín vua Lê Hiển Tông. Ngọc Hân sinh ngày 27 tháng tư năm Canh Dần (tức 22 tháng 5 năm 1770), là người có sắc đẹp và nết na hơn cả trong số các công chúa con vua Lê Hiển Tông. Năm 1786, sau cuộc mai mối chớp nhoáng 3 ngày của Nguyễn Hữu Chỉnh, lễ cưới Ngọc Hân công chúa và Nguyễn Huệ đã được tổ chức ở Thăng Long.
Ngọc Hân đã có với Quang Trung hai người con, một trai và một gái: hoàng tử tên là Nguyễn Quang Đức và công chúa là Nguyễn Thị Ngọc Bảo. Lúc Ngọc Hân lấy Nguyễn Huệ, bà 16 tuổi còn Nguyễn Huệ đã 33 và cũng đã có nhiều đời vợ. Sau khi lên ngôi vua, năm 1789, Nguyễn Huệ đã phong bà làm Bắc cung hoàng hậu. Ngọc Hân mất năm Kỷ Mùi (1799). Hai người con của bà sau này đều bị triều đình nhà Nguyễn giết hại 
Các bà vợ khác
Ngoài Chính cung hoàng hậu và Bắc cung hoàng hậu, Nguyễn Huệ còn có ít nhất thêm 4 bà vợ nữa.
  • Bà mẹ của Nguyễn Quang Thuỳ Có ý kiến cho rằng bà mẹ của Nguyễn Quang Thuỳ này chính là một nàng hầu. Quang Thuỳ lớn hơn Quang Toản, nhưng không phải là con của Phạm hoàng hậu và cũng không phải là con của Ngọc Hân công chúa. Vua Càn Long (nhà Thanh) từng lầm tưởng Quang Thuỳ là con trưởng của vua Quang Trung khi Thuỳ trong đoàn sứ bộ sang chúc thọ bát tuần vua Thanh (1790) 
  • Bà phi họ Lê người Quảng Ngãi: Bà này có một con trai với vua Quang Trung, cuộc đời của bà đến nay vẫn không rõ, vị hoàng tử con bà bị Nguyễn Ánh giết năm 1801 
  • Bà Trần Thị Quỵ người Quảng Nam: Không rõ bà Trần Thị Quỵ được Nguyễn Huệ chọn làm thứ phi năm nào và có con với ông hay không. Tương truyền, trong những ngày Tây Sơn thất thế, bà bị quân của Nguyễn Ánh bắt được đưa lên bãi cát Kim Bồng chém đầu rồi thả trôi sông. Thi hài của bà được nhân dân bí mật vớt lên khâm liệm và mai táng cẩn thận ở cánh đồng thuộc xứ Trà Quân, làng Thanh Đông (Quảng Nam – Đà Nẵng) 
  • Bà Nguyễn Thị Bích người Quảng Trị: Bà là con gái út thứ 16 của viên quan nhỏ vào mạt kỳ thời Chúa Nguyễn ở Phú Xuân. Bà cũng có một con trai với vua Quang Trung. Sau khi triều Tây Sơn sụp đổ, bà trốn về Vĩnh Ân (nay thuộc xã Cát Hanh huyện Phù Cát tỉnh Bình Định) để nương thân, lúc chết được chôn ở gò Thỏ, Vĩnh Ân. 
Ngoài các bà vợ kể trên, vua Quang Trung còn dự định cầu hôn với công chúa nhà Thanh nhưng việc không thành vì ông qua đời đột ngột. 

Các con

Theo các nhà nghiên cứu, số con của vua Quang Trung khoảng 20 người 
  • Nguyễn Quang Toản (sau là Cảnh Thịnh đế - Con bà Phạm Thị Liên hoặc Bùi Thị Nhạn)
  • Nguyễn Quang Bàn (Con bà Phạm Thị Liên)
  • Nguyễn Quang Thiệu (Con bà Phạm Thị Liên hoặc Bùi Thị Nhạn)
  • 2 công chúa, trong đó có 1 người lấy Nguyễn Văn Trị (Con bà Phạm Thị Liên hoặc Bùi Thị Nhạn)
  • Nguyễn Quang Khanh (con bà Bùi Thị Nhạn)
  • Nguyễn Quang Đức (Con bà Lê Ngọc Hân)
  • Công chúa Nguyễn Bảo Ngọc (Con bà Lê Ngọc Hân)
  • 1 người con trai con bà phi họ Lê
  • 1 người con trai con bà phi Nguyễn Thị Bích
  • Nguyễn Quang Thuỳ (Con bà Phạm Thị Liên hoặc 1 nàng hầu)
  • Nguyễn Quang Cương (không rõ mẹ)
  • Nguyễn Quang Tự (không rõ mẹ)
  • Nguyễn Quang Điện (không rõ mẹ)
  • Nguyễn Thất (không rõ mẹ)
  • Nguyễn Quang Duy: làm chức Thái tể thời Cảnh Thịnh (không rõ mẹ)
  • 5 công chúa khác cùng bị bắt với vợ Nguyễn Văn Trị, nhưng sử không nêu rõ có những người nào chính là người trong số công chúa khác con bà Phạm Thị Liên, Bùi Thị Nhạn và con bà Ngọc Hân hay không.
Trừ Quang Thuỳ tự vẫn khi Cảnh Thịnh bị bắt, những người còn lại (kể cả các công chúa - cùng phò mã Nguyễn Văn Trị) đều bị Nguyễn Ánh bắt và bị hành hình năm 1802.

Nhận định

Tác giả Tạ Trí Đại Trường tổng kết rằng Nguyễn Huệ đã nhận được lời khen ngợi của không chỉ những người bầy tôi dưới quyền mà ngay cả của "đám thù nghịch từng chịu điên đảo vì ông"

Chiến tích

Quang Trung Nguyễn Huệ là hoàng đế bách chiến bách thắng, lập nhiều chiến tích quân sự nhất trong lịch sử Việt Nam. Cả cuộc đời binh nghiệp của ông, dù dưới danh hiệu Long Nhương tướng quân  Bắc Bình vương hay hoàng đế Quang Trung, ông đều lập công trạng hiển hách, chưa từng thất bại một trận nào.  Do những chiến tích vang dội, Nguyễn Huệ được các giáo sĩ Tây phương so sánh với Alexandros Đại đế Attila.
Chính sử của nhà Nguyễn thừa nhận:
"...quân Xiêm (từ sau khi thua trận Rạch Gầm - Xoài Mút) tuy ngoài miệng thì nói khoác nhưng trong bụng thì sợ Nguyễn Huệ như sợ cọp."
Gras de Préville, thuyền trưởng tàu Pandour của Pháp ở Gia Định năm 1788 đã viết về Nguyễn Huệ và quân đội của ông như sau:
"Tây Sơn rất mạnh; quân đội của Nguyễn Huệ nếu không thiện chiến cũng rất đông; Nguyễn Huệ có voi để kéo pháo, và hơn nữa, Nguyễn Huệ có rất nhiều thuyền chiến, chiến hạm và tàu thuyền để chở quân đội. Nguyễn Huệ có nghị lực, có tài năng..." 
Gần như toàn bộ chiến thắng của nhà Tây Sơn đều gắn với tên tuổi ông. Những chiến công nổi bật nhất của Nguyễn Huệ:

Chính trị

Đối nội, đối ngoại

Đối với việc Nguyễn Huệ mang quân ra Bắc Hà đánh họ Trịnh chuyên quyền, ông dùng khẩu hiệu "Phù Lê diệt Trịnh" để tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân Bắc Hà. Khi diệt được họ Trịnh, ông vẫn tôn thờ vua Lê. Việc làm đó được sử gia Trần Trọng Kim nhận định "Ấy là đã có sức mạnh mà đã biết làm việc nghĩa vậy" 
Cũng theo sử gia Trần Trọng Kim: "vì vua nhà Lê nhu nhược, triều thần lúc bấy giờ không ai có tài kinh luân, lại để cho Trịnh Bồng và Nguyễn Hữu Chỉnh nối nhau mà chuyên quyền, đến nỗi thành ra tán loạn. Dẫu thế mặc lòng, khi Nguyễn Huệ giết Vũ Văn Nhậm rồi, không nỡ dứt nhà Lê, đặt Giám Quốc để giữ tông miếu tiền triều; như thế thì cách ở với nhà Lê không lấy gì làm bạc".
Ngay sau khi đại phá quân Thanh ở trận Ngọc Hồi - Đống Đa, vua Quang Trung tìm cách xóa bỏ thù hằn bằng việc chiêu hàng, nuôi dưỡng hàng vạn tù binh nhà Thanh và thu dọn, cúng tế chiêu hồn quân Thanh; thực thi chính sách hòa giải với cường quốc phương Bắc và triều cống, xin phong vương. Bằng một kế sách ngoại giao khôn khéo, mua chuộc được các cận thần nhà Thanh (Phúc Khang An, Hoà Thân...), Nguyễn Huệ đã được vua Thanh chấp nhận cầu phong để nhà Tây Sơn chính thức thay thế nhà Lê làm chủ Đại Việt. 

Quyền biến

Trong thời loạn lạc của Nguyễn Huệ cuối thế kỷ 18 - một trong những thời kỳ rối ren, nhiều bè phái và phân liệt nhiều nhất trong lịch sử Việt Nam, ngoài tàn dư của các lực lượng tồn tại lâu đời, trong quá trình tranh chấp giữa các phe phái còn nhiều phần tử nảy sinh ý đồ xưng hùng xưng bá trước những cơ hội do hoàn cảnh mang lại, nhất là khi địa bàn kiểm soát của ông nằm giữa hai vùng Nam Bộ và Bắc Bộ - đất kiểm soát của các lực lượng chống đối. Nguyễn Huệ, trong quá trình đánh Nam dẹp Bắc cũng phải đối phó với những tư tưởng ly khai của các tướng lĩnh dưới quyền, song ông luôn có cách xử lý chứng tỏ bản lĩnh của một chính trị gia già giặn.
Biết Nguyễn Hữu Chỉnh là người dễ thay lòng đổi dạ nhưng Nguyễn Huệ vẫn tận dụng tài năng, mưu lược và sự thông thạo đất Bắc Hà của Nguyễn Hữu Chỉnh để đánh đổ chúa Trịnh. Đánh xong họ Trịnh, ông không thẳng tay giết Nguyễn Hữu Chỉnh mà mượn tay các thế lực thân họ Trịnh cũ (những người đó oán Chỉnh) để giết Nguyễn Hữu Chỉnh bằng việc cùng vua anh Nguyễn Nhạc âm thầm rút quân về nam, bỏ Nguyễn Hữu Chỉnh ở lại.
Tới khi Nguyễn Hữu Chỉnh lẽo đẽo chạy theo kịp, Nguyễn Huệ không thể bỏ mặc bèn lưu lại ở Nghệ An cho trấn thủ, chờ biến cố. Lúc Nguyễn Hữu Chỉnh "Phù Lê" đánh được Trịnh Bồng, ra mặt chống Tây Sơn với việc sai người vào Phú Xuân đòi ông giao trả đất Nghệ An, ông mới công khai cử binh đánh Nguyễn Hữu Chỉnh. Nguyễn Hữu Chỉnh bị diệt nhanh chóng.
Vũ Văn Nhậm tiếp quản Thăng Long từ tay Nguyễn Hữu Chỉnh cũng nảy ý xưng hùng - chuyên quyền và tự ý đúc ấn riêng. Lúc đó Nguyễn Huệ đã điều bớt binh cho Vũ Văn Nhậm và phải đề phòng mặt Nam, nên không thể dàn quân đi đánh Vũ Văn Nhậm như đánh Nguyễn Hữu Chỉnh. Ông lặng lẽ đi gấp ra Bắc và lập tức trừ khử Vũ Văn Nhậm.
Hai viên tướng tài có ý đồ chống lại bị loại trừ với những lý do chính đáng bằng những cách thức không giống nhau, khó lường trước. Các tướng bên dưới như Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân lập tức được đôn lên thay trọng trách. Việc Nguyễn Huệ khiển tướng điều binh khiến các tướng lĩnh tâm phục và từ đó không còn ai mang ý đồ cát cứ.

Cai trị

Không chỉ là một viên tướng thiện chiến, Quang Trung còn là một nhà cai trị tài ba. Ông giỏi chiến thuật quân sự, giỏi về chiến lược ngoại giao và lại biết thu dụng nhân tài để xây dựng đất nước. Trong ba anh em Tây Sơn, Nguyễn Huệ không chỉ trội hơn về tài năng quân sự mà ngay cả trong việc trị nước, ông cũng tỏ ra là người xuất sắc nhất. Sau là một vài lời nhận xét về công cuộc cai trị của Quang Trung:
"Ông không chỉ là cầm quân mà còn là nhà cai trị rất giỏi... Đồn binh vững vàng khắp đường sông, cửa biển; kỷ luật nghiêm minh, đồng thời lại rất nhân từ với nhân dân..."
—Legrand de la Liraye trong tác phẩm Notes historiques sur la nation annamite (Bút ký lịch sử về dân tộc An Nam)
"sáng đẹp hơn ngũ đế, lòng nhân hiếu cảm động đến trời... với các sĩ phu thì cuốn vào máy, thu vào lồng, tìm trong hang núi, hỏi chốn thôn quê, hái chẳng sót loài cỏ mọn".
—Ngô Trọng Khuê, một đại thần cũ Nhà Hậu Lê, trước chối từ lời mời của Quang Trung
Vua Quang Trung nhà Nguyễn Tây Sơn là ông vua anh dũng, lấy võ lược mà dựng nghiệp, nhưng ngài có độ lượng, rất am hiểu việc trị nước, biết trọng những người hiền tài văn học. Khi ngài ra đất Bắc Hà, những người như Ngô Thì Nhiệm, Phan Huy Ích đều được trọng dụng và nhất là đối với một xử sĩ như Nguyễn Thiệp thì thật khác thường.
Sự ra đi của Nguyễn Huệ là tổn thất không thể bù đắp và là điều không may cho nhà Tây Sơn. Cơ nghiệp ông để lại không được người thừa kế xứng đáng bảo tồn, nên đã nhanh chóng mất về tay Nguyễn Ánh. Cái chết đột ngột của ông khiến đời sau còn tiếc cho nhiều dự định lớn lao chưa thành hiện thực.
Dù sau này nhà Nguyễn tìm nhiều cách để bôi nhọ và xoá bỏ những chứng tích liên quan tới Nguyễn Huệ nói riêng và nhà Tây Sơn nói chung, nhưng tên tuổi ông không hề bị mai một. Người Việt Nam ghi nhận ông là người anh hùng áo vải dân tộc, là một trong những vị vua vĩ đại nhất trong lịch sử nước nhà.

Ghi công từ hậu thế


Tượng vua Quang Trung trong chùa Bộc

Tượng vua Quang Trung trước Bảo Tàng Quang Trung

Bảo tàng Quang Trung
Quang Trung được thờ tại chùa BộcHà Nội. Bức tượng Quang Trung trong chùa được tạc vào thời kì nhà Nguyễn đang truy diệt tất cả những gì liên quan đến nhà Tây Sơn, tượng có dòng chữ "Bính Ngọ tạo Quang Trung tượng".  Hàng năm, vào ngày mồng 5 Tết âm lịch, tại quận Đống Đa - Hà Nội thường tổ chức hội Gò Đống Đa để kỷ niệm chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa đánh tan quân Thanh của vua Quang Trung. Dịp kỷ niệm 200 năm chiến thắng Đống Đa, khu tượng đài Quang Trung được xây dựng tại khu vực này.
Phòng tuyến Tam Điệpthị xã Tam Điệp tỉnh Ninh Bình là một quần thể các di tích lịch sử ghi dấu cuộc chiến tranh giữa nghĩa quân Tây Sơnnhà Thanh. Quần thể di tích này thuộc khu vực dãy núi Tam Điệp, là ranh giới tự nhiên hiểm yếu ngăn cách hai miền Trung - Bắc. Đây là nơi hội quân một thời oai hùng của Quang Trung với những cái tên đèo Ba Dội, núi Gióng Than, đồi Hầu Vua, đồi Chuông, đền Cao Sơn, đền Quán Cháo, chùa Dâu… Những đồn luỹ Tam Điệp, Quèn Rẻ, Quèn Thờ, Luỹ Chẹn, Luỹ Đệm, Luỹ Đền…, ải Quang Trung, Kẽm Đó – cổ họng hiểm yếu nhất Tam Điệp… Luỹ Quèn Thờ là vùng đồi núi, rừng rú hoang vu, năm xưa khi thân chinh ra Bắc, vua Quang Trung đã lên thắp hương xin kế phá giặc ở đây. Tương truyền ngôi đền thờ thần Cao Sơn trước đó ở giữa lưng chừng núi. Vua Quang Trung đã được thần báo mộng và nhắc nhở xây đền lên đỉnh núi nếu thắng trận. Sau khi thắng trận vị vua này đã cho di dời Đền lên đỉnh núi. Đền Quán Cháo là ngôi đền gắn với sự tích tiên nữ dâng cháo cho quân lính Tây Sơn trước giờ xung trận. Đền thờ Quang Trung được xây dựng ở thành cổ Tam Điệp ngay trong thời nhà Nguyễn. Quảng trường, tượng đài Hoàng đế Quang Trung được nhân dân Ninh Bình xây dựng tại xã Quang Sơn, thị xã Tam Điệp.
Tại thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định cũng có tượng đài Hoàng Đế Quang Trung, đặt tại Bảo Tàng Quang Trung.
Cái tên Nguyễn Huệ hoặc niên hiệu Quang Trung của ông được đặt cho các đường phố ở các thành phố lớn Việt Nam (Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Vinh, Phan Thiết...). Ở Hà Nội, phố Quang Trung được đặt trên di chỉ cũ của phủ chúa Trịnh là nơi ông từng đóng quân khi tiến vào Thăng Long năm 1786 và cũng là nơi cử hành hôn lễ giữa ông và công chúa Lê Ngọc Hân.  Ở Thành phố Hồ Chí Minh, có một ngôi miếu nhỏ của ông tọa lạc tại Quận 12, gần Công viên phần mềm Quang Trung. Ở Phan Thiết, đường Gia Long sau năm 1975 được đổi thành đường Nguyễn Huệ.

Những di ngôn nổi tiếng

Đánh cho để dài tóc
Đánh cho để đen răng
Đánh cho nó chích luân bất phản
Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn
Đánh cho sử trí Nam Quốc anh hùng chi hữu chủ
—(Chiếu xuất quân)
...
Thôi! thôi! thôi việc đã rồi
Trăm nghìn hãy cứ trách cả vào ta
Nay mai dọn lại nước nhà,
Bia nghè lại dựng trên tòa muôn gian.
Cơ đồ họ Trịnh đã tan,
Việc này cũng đừng đổ oan cho thằng (Trịnh Khải)
—(Trả lời về việc bia tiến sĩ ở Văn Miếu Thăng Long bị đổ)

Hình tượng Nguyễn Huệ trong điện ảnh

Bộ phim dã sử - võ thuật đầu tiên của điện ảnh Việt Nam về Vua Quang Trung là bộ phim "Tây Sơn hào kiệt" được thực hiện bởi hãng phim Lý Huỳnh phối hợp cùng Hãng phim Thanh Niên hợp tác sản xuất với sự góp mặt của các diễn viên: Thùy Lâm, Nghệ sĩ nhân dân Thế Anh, Nghệ sĩ nhân dân Đoàn Dũng, Nghệ sĩ ưu tú Lý Huỳnh, Công Hậu, Mộng Vân,... và vai Nguyễn Huệ được giao cho nam diễn viên Lý Hùng. Phim được khởi quay từ ngày 7 tháng 3 năm 2009. 
Bộ phim dài 90 phút, dựng lại một quãng thời gian trong cuộc đời của Nguyễn Huệ - Quang Trung. Đó là thời gian người anh hùng Nguyễn Huệ chạm mặt và bắt đầu mối tình với Công chúa Lê Ngọc Hân, Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc phò Lê - diệt Trịnh và phim kết lại với hình ảnh chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa lịch sử khi 10 vạn quân Tây Sơn đánh tan 20 vạn quân lính nhà Thanh, tiến đến giải phóng Thăng Long vào mùa xuân Kỷ Dậu 1789.  Bộ phim đã được đầu tư trên 12 tỉ đồng, thực hiện ròng rã trong ba năm và là phim đầu tiên của Hãng phim Lý Huỳnh được làm hậu kỳ tại Hồng Kông. Ngoài ra phim còn có sự tham gia của 200 võ sư (vovinam, võ cổ truyền), 50 con voi ở Buôn Đôn, 38 tuấn mã từ trường đua, may 2.000 bộ trang phục cho bốn sắc lính, đúc 10 cây súng thần công và cảnh quay đông nhất có trên 3.000 diễn viên. Phim được chiếu ra mắt ngày 22 tháng 4 năm 2010 và chính thức công chiếu toàn quốc vào ngày 30 tháng 4 


Hành trình tìm mộ Hoàng đế Quang Trung (1)

Kiến Thức

(Kienthuc.net.vn) - Có ý kiến cho rằng, vua Quang Trung là người sáng suốt nên ngay khi còn sống, ông đã lệnh cho xây dựng lăng mộ ở một nơi bí mật.
Nguyễn Huệ còn được biết đến là Quang Trung Hoàng đế, vua Quang Trung hay Bắc Bình Vương - là một anh hùng áo vải kiệt xuất của dân tộc. Cái chết đột ngột của ông vẫn còn là một bí ẩn với lịch sử. Nhưng hài cốt của vua Quang Trung thực sự được chôn cất ở đâu càng là một bí mật không dễ giải mật. Lịch sử cho rằng, để trả thù, Nguyễn Ánh sai đào mộ Nguyễn Huệ tán hài cốt thành bột nhồi thuốc súng bắn và bỏ xương sọ vào "vò" giam trong ngục tối. Lăng mộ của vua Quang Trung tại Phú Xuân cũng bị san phẳng, gia quyến thân thích bị giết sạch.
Tuy nhiên thời gian gần đây, không ít nhà khoa học và lãnh đạo TP Vinh (Nghệ An) đã liên hệ trao đổi với tòa soạn về phần mộ Hoàng đế Quang Trung. Phần lớn các ý kiến cho rằng, vua Quang Trung là một người sáng suốt lại hiểu rõ mình có nhiều kẻ thù nên ngay khi còn sống, ông đã lệnh cho hạ cấp trung thành xây dựng lăng mộ ở một nơi bí mật. Vì vậy, lăng mộ mà Nguyễn Ánh quật lên chỉ là mộ giả mà vua Quang Trung tạo ra. Đó là căn cứ để các nhà lịch sử đi tìm phần mộ của vua Quang Trung.
Lần theo những thông tin được các nhà khoa học cung cấp, chúng tôi đã liên lạc được với ông Nguyễn Hữu Bản, nguyên Bí thư Thành ủy Vinh - Nghệ An. Nhiều năm nay, ông Bản khởi xướng và đứng đầu nhóm tìm kiếm phần mộ Hoàng đế Quang Trung. Trong quá trình tìm kiếm, không ít chuyện lạ với những linh ứng thần kỳ đã xảy ra. Chúng tôi xin gửi tới các nhà khoa học, lịch sử và quý độc giả những cứ liệu sát thực và mong mỏi những góp ý để cuộc tìm kiếm được thuận lợi và có kết quả.
"Vua Quang Trung rất tin về mồ mả nên khi chiếm được thành Phú Xuân, ông đã cho quật mồ nhà Nguyễn để răn đe. Hơn nữa, Huế là đất cung phủ nhà Nguyễn, vua Quang Trung không bao giờ lại chôn cất mình ở đất ấy", ông Nguyễn Hữu Bản, nguyên Bí thư Thành ủy Vinh - Nghệ An cho hay.
Hội thảo về Hoàng đế Quang Trung tại Vinh năm 2011.

Bức thư của nhà Huế học?
Ngày 31/5/2011, được sự đồng ý của lãnh đạo UBND tỉnh Nghệ An, TP Vinh đã tổ chức cuộc Hội thảo "Hoàng đế Quang Trung với Phượng Hoàng Trung Đô" thu hút nhiều nhà khoa học hàng đầu Việt Nam tham dự, đặc biệt hội thảo cũng có sự góp mặt của nhà Huế học Nguyễn Đắc Xuân, người từng khẳng định hài cốt của Hoàng đế Quang Trung đã bị Nguyễn Ánh đốt thành tro bắn vào không trung và chính ông đã tìm được vị trí an táng Hoàng đế ở cung Đan Dương (Huế).
Tuy nhiên, ý kiến của Nhà Huế học Nguyễn Đắc Xuân tại cuộc hội thảo bị nhiều người phản đối, trong đó có nhà khảo cổ Đỗ Đình Truật. Ngày 1/6, ông Xuân lên tàu về Huế, đến ngày 4/6 thì Tỉnh ủy Nghệ An nhận được bức thư của ông Xuân với nội dung phản biện việc tìm hài cốt của nhóm tìm mộ vua Quang Trung tại tỉnh Nghệ An.
Đồng thời, bức thư cũng nói rõ: "Nguyễn Ánh Gia Long quật mồ anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ không thể nhầm. Thứ nhất: Quật mộ để cắt đứt sự trỗi dậy của dòng họ Nguyễn Tây Sơn, nếu sai thì vô cùng tai hại. Thứ hai: Quật mộ cho đúng để trả thù cho chín đời. Thứ ba: Huế là đất của nhà Nguyễn, lúc nào cũng có người của nhà Nguyễn ở lại Phú Xuân theo dõi mọi động tĩnh của phong trào Tây Sơn, vì thế họ biết chắc vua Quang Trung được táng nơi đâu để khi trở lại họ báo lại cho Nguyễn Ánh. Thứ tư: Các quan hàng đầu Nguyễn Ánh như Lê Chất, Ngô Văn Sở phải chỉ điểm đúng mộ của vua Quang Trung, nếu chỉ sai sẽ bị chặt đầu.
Vì thế, đừng bao giờ mơ tưởng hài cốt vua Quang Trung vẫn còn ở đâu đó trên đất nước Việt Nam... Vì thế, đi tìm huyệt mộ có hài cốt vua Quang Trung là chuyện không tưởng vô ích. Bao nhiêu năm nay, tôi nghiên cứu chỉ mong tìm được dấu tích, địa chỉ cụ thể nơi từng mai táng thi hài vua Quang Trung mà thôi. Nơi ấy tôi đã tìm được là cung điện Đan Dương ở gần chùa Thiền Lâm. Nếu muốn, Thừa Thiên - Huế cũng chỉ có thể dựng lại được Cung điện Đan Dương mà thôi".
Đền thờ vua Quang Trung tại núi Dũng Quyết.

Việc tìm mộ mới chỉ bắt đầu
Là người khởi xướng cuộc tìm kiếm mộ phần Hoàng đế Quang Trung, lại là người tham mưu cho TP Vinh tổ chức cuộc hội thảo "Hoàng đế Quang Trung với Phượng Hoàng Trung Đô", ông Nguyễn Hữu Bản đã có thư phúc đáp tới Nhà Huế học Nguyễn Đắc Xuân, ông Bản cho rằng, việc tìm mộ mới chỉ bắt đầu, chưa chắc chắn được một điều gì.
Ông Bản cũng cho hay: "Trước khi hội thảo, chúng tôi đã tham khảo ý kiến của nhiều nhà khoa học, trong đó có GS Phan Huy Lê. Còn thực sự hài cốt của vua Quang Trung có còn nữa hay không? Và nếu còn thì hiện nay ở đâu? Đây là vấn đề rất hệ trọng không chỉ lệ thuộc vào ý chí của chúng ta mà còn phụ thuộc vào phần âm (Ngài có cho phép hay không?) nên mọi việc đang ở phía trước".
Ông Bản đưa ra dẫn chứng chứng minh việc ông khởi xướng là có căn cứ thuyết phục. Ngoài những luận cứ có thể dễ dàng suy luận về việc xây dựng lăng mộ thật, thì dựa vào lời sấm truyền của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm về thế thời lịch sử cũng là căn cứ để nhà Tây Sơn bí mật chọn cho mình một khu đất để xây mộ phần, tránh sự trả thù của nhà Nguyễn.
"Đoài cung một sớm đổi thay/Chấn cung sao cũng sa ngay chẳng còn/Đầu cha lộn xuống chân con/Mười bốn năm tròn hết số thì thôi". Lời sấm truyền của Nguyễn Bỉnh Khiêm đã khiến vua Quang Trung ý thức được mệnh của mình không dài cho nên đã sớm nghĩ đến việc xây dựng lăng mộ. Và việc xây mộ không đơn thuần hoặc khuếch trương cho người khác biết, mà rất bí mật để tránh hậu họa bị quật mồ như lịch sử đã ghi.
(Còn tiếp...)

Hành trình tìm mộ Hoàng đế Quang Trung (2)

 

(Kiến Thức) - Nhiều nhà khoa học khẳng định, thành Phượng Hoàng Trung Đô là nơi chôn cất mộ thật của Hoàng đế.

    Vua Quang Trung muốn dời đô ra Nghệ An và cho xây dựng thành Phượng Hoàng Trung Đô. Tuy nhiên, thành xây dở dang thì vua Quang Trung đột ngột qua đời. Sự gắn bó của ông với Phượng Hoàng Trung Đô là một trong những căn cứ để nhóm tìm mộ coi đây là "điểm huyệt" chôn cất hài cốt Hoàng đế Quang Trung.

    Chọn quê xây thành
    Theo các nhà sử học, Nguyễn Huệ vốn tên thật là Hồ Thơm. Tổ bốn đời của Nguyễn Huệ người làng Hương Cái, tổng Hải Đô (nay thuộc xã Hưng Đạo, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An). Đó là ông Hồ Phi Long vào lập nghiệp ở phủ Quy Nhơn, dinh Quảng Nam thời Thịnh Đức.

    Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô Gia văn phái ghi: Ở ấp Tây Sơn có người họ Nguyễn tên Văn Nhạc tổ tiên nguyên là người Nghệ An. Khoảng năm Thịnh Đức, quân Nhà Nguyễn đánh ra Nghệ An, chiếm cứ được 7 huyện phía Nam sông Cả rồi dồn bắt tất cả dân cư đưa vào Nam cho sống ở vùng Tây Sơn. Tổ bốn đời của Nguyễn Nhạc chuyến ấy cũng bị bắt vào trong đó.

    Sách Tư liệu về Tây Sơn - Nguyễn Huệ trên đất Nghĩa Bình do Sở Văn hoá - Thông tin tỉnh Nghĩa Bình ấn hành năm 1998 viết: Tổ tiên bốn đời của các thủ lĩnh Tây Sơn: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ vốn họ Hồ quê ở Nghệ An, khoảng giữa thế kỷ XVII bị quân Nguyễn bắt vào Đằng Trong.

    Nhiều nhà khoa học khẳng định, thành Phượng Hoàng Trung Đô là nơi
    chôn cất mộ thật của Hoàng đế. 

    Theo di huấn của tổ tiên, Nguyễn Huệ dù xa quê vẫn một lòng nhớ về nơi đất Tổ. Vì vậy, theo các nhà khoa học việc vua Quang Trung chọn Nghệ An để xây thành Phượng Hoàng Trung Đô có một lý do lớn. Hơn nữa, trong thư gửi La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp, Nguyễn Huệ viết:

    "... Nay Phú Xuân thì hình thế cách trở, ở xa trị Bắc Hà, sự thế rất khó khăn. Theo đình thần nghĩ rằng chỉ có đóng đô ở Nghệ An là độ đường vừa cân, vừa có thể khống chế được trong Nam ngoài Bắc, và sẽ làm cho người tứ phương đến kêu kiện, tiện việc đi về".

    Theo PGS.TS sử học Nguyễn Quang Hồng, ngoài lý do chọn đất Tổ Nghệ An xây thành, vua Quang Trung còn muốn "cân" độ dài đi lại để dễ bề trị nước. Vì ở Nghệ An, ngoài đường núi và đường sông dễ dàng ngược xuôi Nam Bắc, lại còn đường biển và đường núi ở giữa các vùng, nếu có biến sẽ dễ dàng di chuyển quân đội.

    Khu vực bia Dẫn Tích trước đây là điện Thái Hoà đã được triều đình
    Tây Sơn xây dựng hoàn chỉnh. 

    Địa linh núi Quyết

    Theo PGS.TS Nguyễn Quang Hồng, La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp biết không thể chối ý định dời đô từ Phú Xuân về Nghệ An của Hoàng đế Quang Trung nên ông đã xuống núi, vận dụng hết khả năng phong thuỷ và chọn được vùng đất ở núi Dũng Quyết (nay thuộc phường Trung Đô, TP Vinh) để xây dựng kinh đô.

    Núi Dũng Quyết còn có tên là núi Phượng Hoàng bởi thế núi trông giống con chim Phượng đang vỗ cánh bay ra biển lớn. Phía Tây Nam của núi lại có đền Hoàng Mười mà người xưa gọi là "Mỏ Hạc linh từ". Đứng trên đỉnh Dũng Quyết nhìn ra phía Nam là dãy Thiên Nhẫn trùng điệp chạy dài tạo thế vững chãi cho dải đất thiêng dọc đôi bờ tả - hữu ngạn sông Lam.

    Vùng đất xây dựng thành Phượng Hoàng để thực hiện ý định dời đô của Hoàng đế Quang Trung từ Phú Xuân về Nghệ An nằm ở phía Nam núi Dũng Quyết, trong khoảng giữa núi Quyết và "Miêu Nhi Phong" mà người địa phương gọi là "Rú Con Mèo" hội đủ khí trời tạo thành thế "vinh sơn thủy tụ".

    Núi Quyết, nơi được chọn làm thành Phượng Hoàng và khu lăng mộ bí mật
    của vua Quang Trung. 

    Sự dang dở của thành Trung Đô

    Theo sách Hoàng Lê nhất thống chí thì triều đình Tây Sơn đã xây dựng ở Nghệ An được một số công trình như đắp hoàn chỉnh thành đất xung quanh, xây dựng xong Lầu Rồng ba tầng, điện Thái Hòa và hai dãy hành lang rộng lớn: "Quang Trung liền sai trưng dụng rất nhiều thợ thuyền, chuyên chở gỗ đá, gạch ngói để xây dựng cung phủ, lâu đài. Đắp thành đất xung quanh và sai các quân lính đào đá ong ở địa phương để xây thành trong. Dựng tòa lầu ba tầng cùng hai dãy hành lang, để phòng dùng đến khi có lễ triều hạ".

    Lịch sử cũng đã ghi nhận công cuộc xây dựng thành Phượng Hoàng Trung Đô đang tiến hành thì vua Quang Trung đột ngột qua đời vào năm 1792. Trước khi nhắm mắt, vua Quang Trung còn cho triệu viên Trấn thủ Nghệ An là Trần Quang Diệu về kinh dặn rằng: "Sau khi ta mất, nên trong một tháng táng cho xong. Việc táng làm qua loa mà thôi. Chúng ngươi nên giúp lập Thái tử sớm dời đô ra Nghệ An để khống chế thiên hạ. Nếu không thế thì quân Gia Định sẽ tới, chúng ngươi không có chỗ chôn thân".

    Tuy nhiên, sau khi vua Quang Trung mất, việc xây dựng Phượng Hoàng Trung Đô đã bị gác lại. Vua con kế nhiệm Nguyễn Quang Toản không hề nhắc đến việc dời đô ra Nghệ An như ý nguyện của vua cha trước khi mất. Năm 1801, sau khi Phú Xuân thất thủ, triều đình Quang Toản đã kéo nhau ra Bắc Hà và đóng đô ở Thăng Long. Chuyện lạ xảy ra, Lầu Rồng ba tầng tự nhiên sụp đổ là điềm báo trước về sự sụp đổ của triều đại Tây Sơn.

    Việc Quang Toản không nhắc gì đến thành Phượng Hoàng, cũng được các sử gia và các nhà khoa học nhắc đến trong cuộc hội thảo tại TP Vinh ngày 31/5/2011. Có người cho rằng, việc không nhắc đến thành Phượng Hoàng là có lý do chính đáng. Vì thực chất việc xây thành tốn rất nhiều thời gian. Trong khi đó, khu lăng mộ bí mật của vua Quang Trung dưới sự giám sát của tướng Trần Quang Diệu đã hoàn thành. Ngừng xây thành Phượng Hoàng là cách đánh lạc hướng những ánh mắt trung thành với triều đình nhà Nguyễn.

    Nhiều nhà sử học trong hội thảo tại TP Vinh đã cho rằng: Sau 2 - 3 tháng Quang Trung băng hà mới phát tang. Thành Phú Xuân "nội bất xuất, ngoại bất nhập", đường sông đường biển đều bị kiểm soát. Đây là thời gian để tâm phúc vua Quang Trung đưa thi hài vua ra Nghệ An mai táng. Và người đóng giả vua Quang Trung để chết và an táng tại Phú Xuân chính là tướng Phạm Công Trị (người từng đóng giả vua Quang Trung đi sứ nhà Thanh).

    "Nếu quả thực thi hài Hoàng đế Quang Trung đã được đưa ra khỏi Phú Xuân thì chỉ có Nghệ An vừa là quê cha đất tổ, vừa là kinh đô của vương triều, thế đất hiểm yếu, có thể khống chế thiên hạ, giữ được lâu dài, đủ yên tâm cho Hoàng đế nằm lại vĩnh viễn".

    GS.TS Nguyễn Quang Ngọc (Chủ tịch Hội Sử học Hà Nội, nguyên Viện trưởng Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển)

    Hành trình tìm mộ Hoàng đế Quang Trung (3)

     

    (Kiến Thức) - Từ những cứ liệu lịch sử, nhóm tìm kiếm lăng mộ vua Quang Trung tại Nghệ An đã dần bóc tách những bí mật để tìm ra vị trí cuối cùng.

      Nhiều thập kỷ qua, một số nhà khoa học đã dày công khảo sát trên thực tế, lần tìm dấu tích ở Huế và Bình Định, tập hợp các tài liệu trong các kho lưu trữ của quốc gia và địa phương có liên quan đến Hoàng đế Quang Trung. Trong đó có nhà Huế học Nguyễn Đắc Xuân đã dành nửa đời mình vào công việc này và ông đã phát hiện vị trí mộ Hoàng đế Quang Trung ở cung Đan Dương. Tuy nhiên, phát hiện này đã bị không ít các nhà khoa học bác bỏ.

      Lễ hội đền thờ Hoàng đế Quang Trung. 

      Lịch sử mới chỉ nhìn một phía

      Hoàng đế Quang Trung băng hà đến nay trên 220 năm. Theo sử sách đang lưu hành thì khi chiếm lại thành Phú Xuân (Huế), Nguyễn Ánh đã trả thù rất khốc liệt quân thần Tây Sơn bằng việc quật mộ vua Quang Trung lên chặt đầu bỏ vào vò đem nhốt vào ngục tối, thân thể xương cốt bị đốt thành than trộn thuốc súng bắn vào không trung.

      Theo ông Nguyễn Hữu Bản, Trưởng nhóm tìm kiếm mộ vua Quang Trung tại Nghệ An: "Lịch sử có khi viết đúng, có khi viết sai bởi nhiều lúc mới chỉ nhìn một phía cho nên nhiều thập kỷ qua, một số nhà khoa học đã dày công khảo sát trên thực tế, lần tìm dấu tích ở Huế, tập hợp các tài liệu trong các kho lưu trữ của quốc gia và địa phương có liên quan đến Hoàng đế Quang Trung".

      Trong đó có nhà Huế học Nguyễn Đắc Xuân đã dành phần nửa đời mình vào công việc này và ông đã phát hiện được mộ Hoàng đế Quang Trung ở cung Đan Dương. Từ đó, ông khẳng định: Sau khi Hoàng đế Quang Trung băng hà 3 tháng mới phát tang.

      Tại cung Đan Dương, "nội bất xuất, ngoại bất nhập", đường bộ, đường biển đi ra Bắc đều kiểm tra nghiêm ngặt. Không thể đưa thi hài Hoàng đế Quang Trung ra khỏi Huế. Hơn nữa, sau khi Hoàng đế Quang Trung băng hà, một số tướng sĩ Tây Sơn đã đầu hàng Nguyễn Ánh.

      Và đất Huế là đất của nhà Nguyễn, người nhà Nguyễn ắt sẽ giám sát chặt chẽ mọi động tĩnh của triều đình Tây Sơn. Từ những dẫn chứng đó ông Xuân khẳng định, mộ thật của vua Quang Trung là ở Huế và Quang Trung đã bị trả thù như sử lưu hành cũng là sự thật.

      Các nhà khoa học cho rằng, thi thể vua Quang Trung bí mật theo đường biển
      vào sông Lam, sông Vinh để an táng.

      Những nghi vấn đáng ngờ

      Không đồng tình với những lập luận của Nhà Huế học Nguyễn Đắc Xuân, người đứng đầu nhóm tìm kiếm mộ vua Quang Trung tại Nghệ An là ông Nguyễn Hữu Bản đã nghiên cứu những cứ liệu lịch sử và tham vấn ý kiến của nhiều nhà khoa học hàng đầu Việt Nam và phát hiện những lỗ hổng nên đặt ra những câu hỏi: Tại sao Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ lại chọn vùng đất Yên Trường (núi Dũng Quyết) để xây thành Phượng Hoàng Trung Đô? Tại sao một con người mưu lược như Quang Trung Nguyễn Huệ lại cho xây lăng mộ mình ở Huế và những quân thần thân tín như Trần Quang Diệu lại chịu an táng Hoàng đế trên đất đối thủ. Để 10 năm sau khi chiếm lại thành Phú Xuân, Nguyễn Ánh dễ dàng quật mộ thủ lĩnh Tây Sơn lên trả thù?

      Ông Nguyễn Hữu Bản cho hay: "Đọc lại lịch sử Việt Nam đang lưu hành và những trang viết của ông Nguyễn Đắc Xuân về Hoàng đế Quang Trung, chúng tôi thấy nhiều điều chưa thật thỏa đáng cả mặt lập luận và thực tiễn, bởi thời điểm xây mộ thật và mộ giả vào lúc nào?".

      Theo giải thích của ông Bản, thông thường các triều đại phong kiến, mộ của vua được xây khi còn sống (một mộ thật, nhiều mộ giả). Đặc biệt, Hoàng đế Quang Trung là người có nhiều kẻ thù (Lê, Trịnh, Thanh, Xiêm...) nên không thể chỉ xây duy nhất một mộ ở Huế. Năm 1786, khi diệt tan quân Trịnh (phò Lê diệt Trịnh), vua Lê Hiển Tông đã ban thưởng cho Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ công chúa Ngọc Hân và vùng đất Nghệ An.

      Hai năm sau, ngày 1/10/1788, vua Quang Trung quyết định cho xây thành Phượng Hoàng Trung Đô trên đất được vua Lê ban thưởng và xây miếu Tổ ở Thái Lão (tức quê gốc họ Hồ - PV). Phải chăng, khi xây thành Phượng Hoàng Trung Đô, vua Quang Trung đã cho xây lăng mộ của mình tại đây.

      Nhà ngoại cảm tìm kiếm vua Quang Trung. 

      Các nhà khoa học vào cuộc
      Theo hướng lập luận này thì mộ Hoàng đế Quang Trung được quyết định xây tại Phượng Hoàng Trung Đô khi Nguyễn Huệ đang là Bắc Bình Vương. Hơn nữa Nguyễn Huệ cũng đủ sáng suốt để "đọc ý" qua lời tiên tri Nguyễn Bỉnh Khiêm để nhận ra mệnh của mình không dài nên đã sớm quyết định việc xây lăng mộ tại Nghệ An. Còn lăng mộ được ông Xuân phát hiện ở Huế đã bị Nguyễn Ánh quật lên đều là giả.

      Ông Bản đưa ra suy luận: Trong 3 tháng "bế quan toả cảng" ở thành Phú Xuân chính là thời điểm những người thân tín của Hoàng đế chuẩn bị thực hiện lễ an táng Quang Trung giả vào lăng mộ giả. Còn thi thể Hoàng đế Quang Trung được đưa theo đường biển, sau đó vòng theo đường sông an táng tại lăng mộ đã có sẵn ở Phượng Hoàng Trung Đô.

      Ông Bản cho hay: "Qua lời căn dặn của Hoàng đế khi lâm bệnh nói với Quang Toản càng rõ thêm: "Nghệ An là đất của cha mẹ ta, đất ấy là nơi hiểm yếu có thể tin cậy được. Ta đắp thành dày để làm Trung Đô. Nếu có biến cố còn có thể giữ được...".

      Hơn nữa, chính sử đã ghi rất rõ vua Quang Trung cho gọi Trấn sở Nghệ An Trần Quang Diệu vào và dặn rằng: "Những việc còn lại ở Vĩnh Đô (Phượng Hoàng Trung Đô), các ngươi phải lo làm xong sớm. Nếu để chậm sẽ không có đất mà chôn".

      Ông Bản kết luận: "Từ các mối liên hệ của lịch sử và sự cảm nhận của các nhà ngoại cảm, nhà tâm linh về lăng mộ của Hoàng đế Quang Trung ở thành Phượng Hoàng Trung Đô, chúng tôi thấy sự cần thiết phải nhờ các nhà khoa học vào cuộc và đã mời Liên hiệp Khoa học Công nghệ Tin học Ứng dụng - UIA, Trung tâm Nghiên cứu Tiềm năng Con người cùng một số nhà khoa học thuộc các lĩnh vực khác nhau và có cả thiết bị thăm dò địa vật lý của Đại học Quốc gia Hà Nội vào cuộc".

      "Tìm mộ Hoàng đế Quang Trung là việc lớn nên chúng tôi đã đề xuất với Tỉnh ủy, UBND tỉnh Nghệ An mời các nhà khoa học, lịch sử có uy tín như GS Phan Huy Lê, GS.TS Nguyễn Quang Ngọc, Thiếu tướng Ngô Tiến Quý... cùng đông đảo các nhà nghiên cứu, thân nhân dòng họ Hồ có mối liên hệ với vua Quang Trung để có được những cứ liệu chính xác nhất trong việc chuẩn bị kế hoạch và thực hiện tìm hài cốt Quang Trung Hoàng đế được thuận lợi".

      Ông Nguyễn Hữu Bản (nguyên Bí thư Thành ủy Vinh, Nghệ An)

      Hành trình tìm mộ Hoàng đế Quang Trung (4)

       

      (Kiến Thức) - Nhiều nhà ngoại cảm bỗng nằm mê man trên nền bia núi Quyết, một Thượng tá công an nằm mơ vẽ được bản đồ khu lăng mộ Hoàng đế Quang Trung...

        Nhà ngoại cảm mê man

        Ông Nguyễn Hữu Bản, nguyên Bí thư Thành uỷ Vinh - Nghệ An, Trưởng nhóm tìm kiếm mộ Hoàng đế Quang Trung cho hay, năm 2005, TP Vinh khởi công xây dựng đền thờ vua Quang Trung trên đỉnh núi Quyết tại phường Trung Đô, đến năm 2008 thì công trình hoàn thành.

        Sau lễ khánh thành, một số nhà ngoại cảm như Trương Thị Phước, Điền Thiên Dung, Bạch Ngọc Hoa, Trần Hồ Long, Hoàng Thị Yến... đến thắp hương và bỗng dưng nhà ngoại cảm Điền Thiên Dung và Bạch Ngọc Hoa rơi vào trạng thái mê man nằm vật ra trên vị trí nền bia. Một lúc sau, hai nhà ngoại cảm cho hay có hài cốt thủ lĩnh Tây Sơn ở phía dưới cũng nằm theo hướng đó, tức là tại bia Dẫn Tích ở dưới núi, gần đền thờ Rú Mèo.

        Mọi chuyện rơi vào quên lãng, đến tháng 12/2010 nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Lư thuộc Liên hiệp Khoa học Công nghệ Tin học Ứng dụng - UIA tại Hà Nội đã được Hoàng đế Quang Trung báo mộng về nơi an nghỉ. Đến đêm 16/12/2010, nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Lư đã vào Vinh cùng một số lãnh đạo lên đền làm lễ.

        Thượng tá Hồ Sỹ Quang và bản đồ an táng vua Quang Trung sau giấc mơ.

        Trong khi đang khấn thì ông Lư cho biết, có vong linh ba đồng chí của tỉnh Nghệ An cũng về và đứng phía sau. Một người xưng tên Dũng, một người tên Hoan và người kia tên Sơn. Trong ba ông thì hai người chết đột tử, một người chết trong đau đớn. Ông Bản nhớ lại, thì đúng là các đồng chí của mình chỉ mất cách đây vài tháng.

        Làm lễ xong, đoàn của ông Bản cùng nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Lư đi xe xuống núi rồi tiếp tục đi bộ. Khi đi ngang qua bia Dẫn Tích của thành Phượng Hoàng Trung Đô thì đột nhiên ông Lư khuỵu xuống rồi quay lại phía bia và bảo: Mộ Hoàng đế Quang Trung ở đây, trong mộ hiện rõ 3 bộ long bào, 2 thanh bảo kiếm có chữ nho còn rõ nét, 1 két sắt trong có ấn chỉ.

        Hai người lạ và giấc mơ trùng khớp

        Qua quá trình tìm hiểu những thông tin và nhân chứng liên quan đến quá trình tìm mộ vua Quang Trung, chúng tôi được giới thiệu 2 người ở 2 địa phương hoàn toàn khác nhau và từ trước tới khi diễn ra hội thảo về vua Quang Trung vào năm 2011, hai người này mới gặp và ngỡ ngàng bởi cùng có một giấc mơ lạ.

        Người đầu tiên chúng tôi tìm gặp là Thượng tá Hồ Sỹ Quang, Phó Chánh thanh tra Công an tỉnh Hà Tĩnh. Ông Quang cho biết: "Đêm 4/1/2008 tức là vào ngày chủ nhật, tôi được nghỉ và về quê tại xã Xuân Giang (Nghi Xuân, Hà Tĩnh) để nghỉ ngơi. Khoảng 3 giờ sáng thì tôi có giấc mơ lạ về cuộc hành quân và việc chôn cất thi hài vua Quang Trung. Tôi tỉnh dậy và vẽ lại sơ đồ nhưng cất vào trong tủ vì mình nghĩ đó chỉ là một giấc mơ, không có gì đáng quan tâm".

         Nhóm vận hành máy khảo sát địa chấn tìm mộ vua Quang Trung. 

        Ông Quang cho biết thêm, một thời gian sau thì tình cờ gặp ông Trần Ngọc Lữ, Phó trưởng ban Ban Quản lý đền Quang Trung và cùng nhau lên đền thắp hương. Ở đây, ông Quang lại gặp bà Trương Thị Phước, một Phật tử quê tại Đồng Hới, Quảng Bình. Nghe bà Phước kể về giấc mơ lạ liên quan đến mộ vua Quang Trung, ông Quang mới tá hoả đem bản đồ mà mình vẽ lại sau giấc mơ năm 2008 ra đối chiếu thì hoàn toàn trùng hợp.

        Phóng viên đã trực tiếp gặp và thẩm định thông tin này từ bà Trương Thị Phước và được bà Phước khẳng định đó là sự thật. Được biết, bà Phước còn là người chuyên đi tìm mộ vua chúa và quan lại thời phong kiến. Bà đã tìm được 17 mộ vua chúa, trong đó có mộ của phò mã triều Lý là Hồ Đức Cưỡng và công chúa Lý Kiều Oanh. Bà Phước cũng là người tìm ra mộ vua Cảnh Thịnh.

        Máy khởi động lại hỏng

        Để chắc chắn về phần mộ của Hoàng đế Quang Trung nằm dưới bia Dẫn Tích, GS Phan Huy Lê đã khuyên ông Nguyễn Hữu Bản, Trưởng nhóm tìm kiếm thuê máy khảo sát của trường Đại học Quốc gia Hà Nội. Ngày 22/5/2012 thì máy khảo sát được đưa vào Vinh và Nhà nghiên cứu vật lý địa chấn PGS.TS Vũ Đức Minh trực tiếp vận hành.

        Đám mây hình chim phượng hoàng xuất hiện khi máy phát hiện vật thể lạ.

        Dưới sự chứng kiến của các nhà khoa học, máy khảo sát di chuyển được vài mét thì phát hiện vật lạ dưới tầng đất phía dưới bia thì máy bị hỏng lần thứ nhất. Đội sửa chữa nhanh chóng vào cuộc, ngày hôm sau đội tìm kiếm tiếp tục cho máy hoạt động nhưng cứ đến gần bia Dẫn Tích thì máy lại hỏng. Lúc ấy, PSG.TS Vũ Đức Minh nói với mọi người đây là chuyện lạ, vì bao nhiêu năm nay ông đi khảo sát khắp các thành trì mà không xảy ra chuyện máy hỏng.

        Ông Bản lại gặp một nhà ngoại cảm ở Nghệ An và được biết, Hoàng đế Quang Trung không đồng ý vì chưa có sự góp mặt thống nhất của người họ Hồ (Vì vua Quang Trung là người họ Hồ, tên là Hồ Thơm). Ông Bản mới tìm đến TS Hồ Bá Quỳnh hiện sống ở Vinh, là hậu duệ họ Hồ. Ông Quỳnh đồng ý và cùng đoàn tìm kiếm lên đền vua Quang Trung thắp hương.

        Chuyện lạ xảy ra, máy đang hỏng bỗng hoạt động trở lại một cách bình thường. Đến khoảng 4 giờ chiều ngày 23/5 thì máy phát hiện một vật thể ở độ sâu 5 - 6m vẫn trong khu vực bia thuộc thành Phượng Hoàng Trung Đô. Ông Bản cho hay, lúc ấy máy hú lên inh ỏi và mọi người mừng rỡ nhìn lên bầu trời thì phát hiện một đám mây lạ hình chim Phượng Hoàng ngay phía trên đầu đoàn tìm kiếm. Mọi người cho rằng, đây là sự linh ứng mà Hoàng đế Quang Trung cho mọi người nhận biết.


        "Bia Dẫn Tích được xây dựng năm 1998 trên nền của điện Thái Hoà mà Quang Trung Hoàng đế đã cho xây dựng cùng với thời điểm xây dựng thành Phượng Hoàng Trung Đô. Đây là một vùng đất thiêng, bên cạnh Rú Mèo phía chân núi Dũng Quyết. Đó cũng là khu vực được các nhà khoa học cũng như các nhà ngoại cảm xác định là phần mộ của vua Quang Trung".

        Ông Nguyễn Hữu Bản (nguyên Bí thư Thành ủy Vinh, Trưởng nhóm tìm kiếm mộ vua Quang Trung)

        Hành trình tìm mộ Hoàng đế Quang Trung (5)

         

        (Kiến Thức) - Núi Dũng Quyết hội đủ long - ly - quy - phượng và được Quang Trung chọn để xây thành Phượng Hoàng Trung Đô. Nhưng, ngọn núi tứ linh đã bị chặt đứt "cổ rùa".

          Khi nhóm tìm kiếm mộ Hoàng đế Quang Trung tại Nghệ An chưa tiến hành thì việc "cổ rùa" ở núi Quyết bị chặt đứt để làm đường chỉ là điều bình thường theo quy hoạch giao thông đô thị. Thế nhưng, khi bắt tay vào việc tìm kiếm lăng mộ quanh thành Phượng Hoàng Trung Đô thì nhiều nhà khoa học cũng như các chuyên gia phong thủy đã tá hỏa thương tiếc cho một ngọn núi thiêng không còn giữ được thế long mạch.

          Các nhà khoa học xác định mộ vua Quang Trung bên đầu rùa dưới
          bia Dẫn Tích. 

          Đất "long mạch"

          Nhiều nhà phong thủy của Việt Nam lẫn nước ngoài khi đến TP Vinh (Nghệ An) đều dễ dàng nhận ra ngọn núi Quyết linh thiêng và độc đáo. Cả một dải đất bằng phẳng nhô lên một ngọn núi cao, phía bên kia tức tỉnh Hà Tĩnh nhô lên 99 ngọn núi cao khác cách biệt bởi dòng sông Lam.

          Truyền thuyết kể rằng, có 100 con chim phượng hoàng bay trên bầu trời. 99 con bay trước và đậu bên kia bờ sông Lam chờ đợi con thứ 100. Thế nhưng, chờ mãi mà không thấy đã khiến 99 con phượng hoàng hoá thành 99 ngọn Hồng Lĩnh. Chim phượng hoàng thứ 100 hoá thành núi Dũng Quyết phía bên này sông Lam nên núi Dũng Quyết có hình dáng giống như chim phượng hoàng.

          Đặc biệt, núi hội đủ tứ linh là long - ly - quy - phượng ở 4 hướng. Ở phía Tây là mỏm núi hình rồng, tại đây còn có một đền Rồng toạ lạc. Vòng theo hướng Nam giáp sông Vinh là núi con mèo, người dân còn quen gọi là Rú Mèo. Vòng theo dòng sông Vinh xuống phía Đông là mỏm núi con rùa. Đi sang hướng Bắc (tức khu vực quốc lộ 1A) là mỏm núi con phượng.

          Theo sử sách ghi lại, sở dĩ Hoàng đế Quang Trung muốn chọn núi Quyết để xây thành Phượng Hoàng Trung Đô ngoài lý do quê quán, còn được sự tham mưu của La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp. Nguyễn Thiếp là người giỏi phong thủy nên ông nhanh chóng nhận biết "long mạch" chính ở ngọn núi Quyết. Vì thế, việc xây thành được tiến hành. "Hiện nay, cấu trúc thành Phượng Hoàng Trung Đô không còn nữa, nhưng những ghi chép của các bộ sách sử và kết quả khảo sát trên hiện trường cho phép chúng ta đoán định thành Phượng Hoàng ở núi Quyết ngoảnh mặt về hướng Nam", PGS.TS sử học Nguyễn Quang Hồng cho biết.

          Cần khai quật thành Phượng Hoàng Trung Đô để xác định quy mô. 

          Chặt đứt "cổ rùa"

          Tuy nhiên, núi Dũng Quyết với long - ly - quy - phượng đã bị mất thế tứ linh, "long mạch" bị đứt từ khi con đường lớn từ Bến Thủy đi huyện Hưng Nguyên được khởi công. Để làm được con đường này đoạn qua núi Quyết, người ta đã phải xẻ đôi mỏm núi phía đông để thi công. Tuy nhiên, không ai biết hành động xẻ núi đơn thuần này đã phạm vào long mạch làm "cổ rùa" bị đứt.

          Ngay khi dự án đang thi công, đã có nhà phong thủy đi qua và nhận ra "long mạch" núi Dũng Quyết bị hủy vì chặt đứt mỏm núi rùa. Đồng thời, thầy phong thủy này cũng nêu ra những cảnh báo nhưng lúc ấy, chẳng mấy ai để ý. Cho đến mãi khi thi công xong, con đường đi vào hoạt động, nhiều người mới nhận ra lời cảnh báo ấy là sự thật.

          Theo một số người dân địa phương, khu vực đường đi chỗ "cổ rùa" rất hay xảy ra tai nạn. Có những người đang đi trên đường, không va chạm với các phương tiện khác cũng bỗng dưng ngã xe phải vào viện. Thậm chí, người dân địa phương khu vực "cổ rùa" làm ăn, sinh sống cũng khó khăn, chậm phát triển hơn tất cả các vùng lân cận. Một số người liên quan đến dự án làm đường cũng gặp những tai ương bất trắc.

          Ông Nguyễn Hữu Bản, nguyên Bí thư Thành ủy Vinh cho hay: "Đã từ lâu, người ta nhận ra việc bị hỏng "long mạch" vì chặt đứt "cổ rùa". Chính quyền địa phương cũng đã cho làm một cây cầu sắt trên cao nối lại cổ rùa, tuy nhiên tôi đã tham vấn ý kiến của nhiều nhà khoa học và cách làm này chỉ là tạm thời. Trước sau gì cũng phải "hàn long mạch" bằng cách mở con đường khác".

          Ông Nguyễn Xuân Huân, Chủ tịch UBND phường Trung Đô cũng thừa nhận về sự chậm phát triển của khu vực "cổ rùa". Đồng thời, ông Huân cũng cho hay, ở khối 3 số người bị tâm thần cũng nhiều hơn tất cả các khối khác. Ông Huân đưa ra nhiều lý do để giải thích cho sự bất thường của khu vực này, tuy nhiên ông cũng phủ định những nguyên nhân mang tính tâm linh.

          Mỏm con Mèo của núi Quyết bị cắt đứt để làm đường.  

          Khai quật thành Phượng Hoàng?

          Theo ông Nguyễn Hữu Bản: "Vị trí đặt mộ vua Quang Trung đã được đông đảo các nhà ngoại cảm cũng như các nhà khoa học công nhận dưới bia Dẫn Tích. Tuy nhiên, để kết quả thực sự được thoả mãn thì chúng ta cần phải khai quật toàn bộ thành Phượng Hoàng Trung Đô để xác định quy mô cũng như có những động tác để chứng minh phần mộ Hoàng đế".

          Theo ông Bản, việc khai quật thành Phượng Hoàng Trung Đô là hết sức cần thiết. Bởi vì, khai quật thì mới xác định được thực hư và chỉ khi xác định được sự thật thì mới đủ căn cứ và cơ sở để công nhận thành Phượng Hoàng Trung Đô là di tích lịch sử.

          Ông Nguyễn Xuân Đường, Chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An trong công văn số 4680 gửi Thủ tướng Chính phủ về việc xin ý kiến chỉ đạo phục hồi di tích Phượng Hoàng Trung Đô và tìm mộ Hoàng đế Quang Trung cũng rất thiết tha để nhanh chóng xúc tiến việc tìm kiếm lăng mộ Hoàng đế Quang Trung tại Nghệ An.

          "Việc xác định mộ thật của Hoàng đế Quang Trung tuy rất khó nhưng lại rất đơn giản vì hiện nay chúng ta có các bị hiện đại hỗ trợ xác định. Chúng tôi cũng đã tiếp tục đề nghị các ngành chức năng cùng trường Đại học Quốc gia Hà Nội đưa máy khảo sát về phối hợp với các nhà khảo cổ khai quật toàn bộ khu vực thành Phượng Hoàng Trung Đô để sớm đi đến kết quả cuối cùng".
          Ông Nguyễn Hữu Bản (nguyên Bí thư Thành ủy Vinh, Trưởng nhóm tìm kiếm mộ Hoàng đế Quang Trung tại Nghệ An)

          Hành trình tìm mộ Hoàng đế Quang Trung (6)

           

          (Kiến Thức) - "Nguyễn Huệ đã cho xây thành Phượng Hoàng trên vùng đất giữa núi Con Mèo và núi Quyết, phía dưới là lăng mộ vua là hoàn toàn có căn cứ".

            Sau khi đăng tải loạt bài về hành trình tìm mộ Hoàng đế Quang Trung, tòa soạn đã nhận được những ý kiến xoay quanh vấn đề mộ Hoàng đế Quang Trung còn hay mất, nếu còn thì hiện đang ở đâu? Bài viết của ông Nguyễn Hữu Bản, nguyên Bí thư Thành ủy Vinh - Nghệ An, Trưởng nhóm tìm kiếm mộ vua Quang Trung khẳng định có đủ căn cứ xác định mộ vua Quang Trung tại Nghệ An.

            Trước hết phải khẳng định, vua Quang Trung rất nặng tình nghĩa với quê cha đất tổ Nghệ An. Lịch sử đã ghi chép tỉ mỉ những lần hành quân phò Lê, diệt Trịnh và đánh đuổi giặc Mãn Thanh, Nguyễn Huệ đã dừng chân tại Nghệ An. Đặc biệt, trong cuộc đại phá quân Thanh ở Thăng Long, Quang Trung đã chiêu tập hơn 1 vạn trai tráng của Nghệ An gia nhập vào đạo quân chính.

            Cuộc tập trận và duyệt binh lớn của hơn 10 vạn người trước khi xuất quân ra Bắc cũng diễn ra tại đây chứng tỏ vua Quang Trung rất gắn bó với quê hương xứ Nghệ. Việc ông cho xây thành Phượng Hoàng Trung Đô tại Nghệ An là một minh chứng rõ rệt về tình cảm đó. Ông cũng cho lập Sùng Chính viện tại Nghệ An để mở mang dân trí, đào tạo nhân tài. 

            Câu hỏi về việc xây lăng mộ

            Tôi đồng tình với ý kiến của nhà Khảo cổ Đỗ Đình Truật tại Hội thảo "Hoàng đế Quang Trung với Phượng Hoàng Trung Đô" tổ chức tại TP Vinh ngày 31/5/2011. Ông cho rằng, vùng đất núi Dũng Quyết địa linh hội đủ tứ linh. Nơi đây vừa có sông, vừa có núi, là nơi đắc địa hiếm có trong trời đất nên Nguyễn Huệ đã cho xây thành Phượng Hoàng trên vùng đất giữa núi Con Mèo và núi Quyết, phía dưới là lăng mộ vua là hoàn toàn có căn cứ.

            Thời điểm quyết định xây mộ là năm 1786, sau khi dẹp tan quân Trịnh và được vua Lê Hiển Tông ban tặng Ngọc Hân công chúa và đất Nghệ An. Sau 2 năm Quang Trung quyết định xây Phượng Hoàng Trung Đô, nhờ La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp thiết kế và giao cho Trấn thủ Thận thi hành. Khi mọi việc đi vào ổn định, Quang Trung đã chuyển ông Thận sang công việc khác và đưa Trần Quang Diệu là tướng thân tín nhất về thay thế. Phải chăng, đây là giai đoạn thực thi một công việc hết sức bí mật (xây mộ) nên phải đưa người thực sự tin tưởng đảm nhiệm?

            Trong thời gian 4 năm khẩn trương (1788 - 1792), công việc xây thành và xây mộ cơ bản hoàn thành. Trong các tài liệu lịch sử hiện có mô tả thành Phượng Hoàng được xây thành 2 lớp. Thành ngoại có chu vi 2.820m, rộng 20ha, thành nội có chu vi 1.600m. Trong thành nội có điện Thái Hòa, có Lầu rồng 3 tầng, có nơi thiết triều. Năm 1998, nhân kỷ niệm 210 năm Phượng Hoàng Trung Đô - Vinh, TP Vinh đã cho xây dựng Bia dẫn tích thành Phượng Hoàng. Rất tình cờ, khu vực chúng tôi đào móng đúng vào vị trí thành xưa, những viên gạch đá ong xây thành vẫn còn nguyên rõ.

            Nhiều nhà khoa học khẳng định, mộ thật của Hoàng đế Quang Trung đặt tại
            chân núi Quyết. 

            Khẳng định vua Quang Trung mất mộ là... vội

            Khi Hoàng đế Quang Trung băng hà, tướng Trần Quang Diệu đã cho lùi phát tang ba tháng. Thời gian này "nội bất xuất, ngoại bất nhập", đường bộ, đường biển đều bị kiểm soát nghiêm ngặt. Ba tháng ấy đủ cho quần thần Tây Sơn xây lăng mộ giả ở Phú Xuân và cho người cháu Phạm Công Trị đã từng đóng giả vua đi sứ nhà Thanh chết và chôn ở đó. Thi hài của Quang Trung được đưa ra Bắc theo đường biển vào Cửa Hội ngược sông Lam vào sông Vinh rồi bí mật đưa lên bộ (từ bến đò đến Thành nội khoảng 200m), khơi nắp đút quan tài vào mộ đã xây sẵn và hạ xuống đúng độ sâu cần thiết.

            Mười năm sau (1802), khi Nguyễn Ánh chiếm lại thành Phú Xuân, với sự căm phẫn tột độ đã cho lính tàn sát người sống và quật mộ người chết của những ai có liên quan đến triều đại Tây Sơn để trả thù. Ngôi mộ được gọi là mộ Quang Trung bị quật lên, trong mộ cũng có một bộ hài cốt hao hao giống Quang Trung cùng với đồ tế khí trong quan tài. Nguyễn Ánh cho chặt đầu bỏ vào vò giam ngục tối, xương cốt còn lại đốt thành than trộn thuốc súng bắn ra biển. Khi đó chưa có thử ADN nên không thể khẳng định đó là hài cốt Quang Trung. Cho nên, việc khẳng định vua Quang Trung không còn mộ là quá vội vàng.

            Cách đây vài ba chục năm, sau ngày đất nước hoà bình, các nhà khoa học mới lần giở lại những điều mà lịch sử viết chưa thỏa đáng về Hoàng đế Quang Trung và bắt đầu đi tìm sự thật về nơi an nghỉ của ông. Cũng đã có những người tâm huyết tìm kiếm nhiều năm ở phía Nam và cho rằng họ đã tìm được mộ Hoàng đế Quang Trung ở Lăng Ba Vành, Cung Đan Dương, phía Nam sông Hương...

            Ông Nguyễn Hữu Bản. 

            Trùng khớp tâm linh

            Đến năm 2005, đền thờ Hoàng đế Quang Trung được khởi dựng ở đỉnh núi Quyết, năm 2008 khánh thành. Đến giữa tháng 12/2010, nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Lư ở Liên hiệp Khoa học Công nghệ Tin học Ứng dụng - UIA được Hoàng đế Quang Trung báo mộng về phần mộ ở thành Phượng Hoàng.

            Cùng với những cảm nhận của các nhà ngoại cảm, những hiện tượng tâm linh cần được nghiên cứu như xuất hiện ánh hào quang trên nóc đền thờ Quang Trung. Trong một dịp lễ, có người đã chụp được bức ảnh ánh hào quang tỏa sáng trên nóc đền. Nhà nghiên cứu văn hóa quân sự Nguyễn Huy Toàn đã cung cấp bức ảnh này cho các nhà khoa học.

            Thứ hai là sự xuất hiện Phượng Hoàng bay: Trước hội thảo, nhóm tìm kiếm đã mời tổ máy Địa - Vật lý của Đại học Quốc gia Hà Nội về khảo sát tại khu vực thành. Qua nhiều lần vận hành, khi vừa phát hiện vật lạ ở dưới tầng đất thì máy bị hỏng. Sau đó phải mời một số con cháu họ Hồ ở TP Vinh đến làm thắp hương thì máy mới tiếp tục hoạt động. Khi phát hiện được một số vật ở độ sâu 5 - 6m thì đột nhiên trên bầu trời xuất hiện đám mây tụ hình chim phượng hoàng ở tư thế chúi đầu xuống, 2 cánh giang ra. Các nhà ngoại cảm cho rằng, đây là sự linh ứng thiêng liêng mà vua Quang Trung cho biết.

            Hoàng đế Quang Trung là một nhà quân sự kiệt xuất, ông có rất nhiều mưu lược, kể cả việc chọn nơi an nghỉ của mình. Nhiều nhà khoa học đều khẳng định, vua không thể để Nguyễn Ánh quật mộ mình một cách đơn giản như vậy. Từ những mối liên hệ lịch sử và những cảm nhận của các nhà ngoại cảm cùng kết quả khảo sát bước đầu của các chuyên gia Đại học Quốc gia Hà Nội, cho phép chúng ta được hy vọng Hoàng đế Quang Trung đang an nghỉ tại thành Phượng Hoàng Trung Đô.

            Hội thảo "Hoàng đế Quang Trung với Phượng Hoàng Trung Đô" đã ghi nhận thành Phượng Hoàng là một di tích cần phục dựng. Đồng thời cần khảo sát kỹ hơn và tiếp tục xác định lăng mộ Hoàng đế Quang Trung tại Nghệ An để đi đến một kết luận cuối cùng, chấm dứt những hoài nghi về việc nhà Nguyễn quật mộ thật của Hoàng đế Quang Trung.

            "Từ những dẫn chứng lịch sử cũng như qua quá trình khảo sát thực tiễn về lăng mộ vua Quang Trung đang mở ra một lối đi tích cực. Vì vậy, cần sớm có sự vào cuộc chuyên sâu và đồng bộ của các nhà khoa học. Trên tinh thần học thuật và ý thức trách nhiệm, chúng ta có cơ hội cùng nhau giải mã về lăng mộ Quang Trung Hoàng đế".
            GS.TS Nguyễn Quang Ngọc

            Nguyễn Hữu Bản (nguyên Bí thư Thành ủy Vinh - Nghệ An, Trưởng nhóm tìm kiếm mộ vua Quang Trung)

            Chính sử nhà Nguyễn viết gì về “đối thủ” Quang Trung? (1)

             

            Bị coi là "ngụy quyền", hình ảnh của hoàng đế Quang Trung – Nguyễn Huệ hiện lên như thế nào trong chính sử triều Nguyễn?

            - Sau khi lên cầm quyền, triều đình nhà Nguyễn đã rất tích cực trong việc thủ tiêu các di tích và sách sử về nhà Tây Sơn - kẻ thù không đội trời chung của họ.
            Kỳ 1: Vừa là “ngụy” vừa là anh hùng.
            Chỉ đến thời vua Tự Đức, Đại Nam liệt truyện - một tài liệu chính sử của Sử quán triều Nguyễn mới có những ghi chép về các vị vua Tây Sơn trong một thiên có nhan đề “Ngụy Tây liệt truyện” (có nghĩa là Truyện về sự tiêu vong của ngụy quyền Tây Sơn).

            Điều đáng chú ý là dù bị coi là “ngụy”, nhưng hình ảnh của hoàng đế Quang Trung - Nguyễn Huệ hiện lên trong Ngụy Tây liệt truyện như một con người phi thường, với khí phách và tài năng của một vị anh hùng lịch sử.

            Theo mô tả của Ngụy Tây liệt truyện, ngay từ ngoại hình, Nguyễn Huệ đã một con người phi phàm với “tiếng nói như tiếng chuông to, mắt lập lòe như tia lửa”. Ông là người “đánh giặc rất giỏi, người người đều sợ”.

            Bằng những lời lẽ không giấu giếm sự nể phục, tác phẩm cho biết: “Nguyễn Huệ đã bốn lần đánh phá Gia Định, lâm trận đi đầu các binh sĩ, hiệu lệnh rất nghiêm minh, quân sĩ đều kính phục”.
            Tài cầm quân của Nguyễn Huệ được miêu tả khá kỹ trong trận đánh Vị hoàng ở vùng Thanh Nghệ trên đường ra Bắc dẹp quân Trịnh:

            “Khi Nguyễn Huệ đã tiến tới Vị Hoàng, kinh thành Thăng Long chấn động. Trịnh Khải sai Trịnh Tự Quyền đen bộ binh xuống Sơn Nam, sai Đinh Tích Nhưỡng đem chiến thuyền chặn ngang sông Lỗ Giang lập thế trận hình chữ nhất. Lúc đấy nước lụt vừa yên, đang đêm Nguyễn Huệ cho năm chiếc thuyền chiến Mông xung (thuyền cơ động dùng để đột kích) trước hết tiến bức Lỗ Giang mà đánh.

            Binh của Đinh Tích Nhưỡng Tranh nhau bắn, nhưng chiến thuyền của địch lặng lờ không động đậy gì. Đến sáng binh của Đinh Tích Nhưỡng mới biết đó là thuyền không, thì thuốc đạn đã hết. Chiến thuyền của Nguyễn Huệ ụp tới thuận theo gió, súng nổ rền trời, đạn bay đoạn ngang cây cổ thụ…”.

            Đến cuộc chiến chống sự xâm lược của quân Thanh, khí phách và tài năng của Nguyễn Huệ càng được tỏ rõ.

            Khi Tôn Sĩ Nghị đưa quân vào Thăng Long, tuyên phong Lê Chiêu Thống làm An Nam quốc Vương (1788) và bày tỏ sự coi thường quân Tây Sơn, Nguyễn Huệ đã vô cùng phẫn nộ. Ngụy Tây liệt truyện viết:

            “Ngô Văn Sở bỏ các trấn ở Bắc thành. Vua Chiêu Thống sai quan đến nhậm chức các nơi. Các quan văn võ lục tục kéo đến đô thành Thăng Long bái Yết. Họ đều xin Sĩ Nghị ra quân. Sĩ nghị bảo: Năm sắp hết, việc gì mà vội? Không cần đánh gấp. Quân giặc ốm. chúng ta chính đang nuôi chúng mập béo để chúng tự đến nạp thịt vậy.

            Sĩ Nghị truyền lệnh cho các đội quân hạ trại nghỉ ngơi, hẹn ra xuân mùng 6 tháng Giêng ra quân.

            Nguyễn Huệ được cấp báo mắng to: Chó Ngô là quân gì mà dám tung hoành?”.

            Ngay sau đó Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế, đổi niên hiệu là Quang Trung và tiến hành cuộc hành quân huyền thoại ra đất Bắc.

            Vị anh hùng của Tây Sơn đã chứng tỏ mình là một người có trí tuệ sáng suốt khi hành xử thấu tình đạt lý với hai bại tướng không chặn được quân Thanh. Theo Ngụy Tây liệt truyện thì:

            “Ngày 20 tháng Chạp vua Quang Trung đến núi Tam Điệp. Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân phủ phục bên đường xin nhận tội. Vua Quang Trung nói: Tội của các ngươi đáng muôn lần chết. Nhưng ta lại nhớ Bắc Hà mới dẹp yên, lòng người chưa phụ vào. Bọn ngươi bảo toàn được quân đội để tránh mũi dùi nhọn của giặc, trong thì kích thích chí khí của quân sĩ, ngoài thì làm kiêu căng lòng giặc. Đó cũng là cái kế dụ địch. Ta cho bọn ngươi lập công chuộc tội để xem chiến tích của bọn ngươi sau này”.

            Tài năng quân sự của hoàng đế Quang Trung – Nguyễn Huệ không chỉ thể hiện ở việc đánh trận mà còn ở nghệ thuật truyền dũng khí cho quân sĩ, được kể lại như sau:

            “Vua Quang Trung đãi quân sĩ ăn uống no say rồi nói với toàn quân: Nay chúng ta hãy ăn Tết trước, đợi sang xuân mùng 7 vào thành Thăng Long rồi ta mở yến tiệc một lần nữa. Bọn ngươi hãy nhớ xem ta nói có ngoa hay không”.

            Dưới sự dẫn dắt của hoàng đế Quang Trung, đội quân Tây Sơn nhanh chóng nhổ bật các chướng ngại để bước vào trận đánh sinh tử ở đại bản doanh của kẻ thù.

            Trận Ngọc Hồi được Ngụy Tây liệt truyện mô tả:

            “Hừng sáng ngày mùng 5 quân Nam tiến đánh lũy Ngọc Hồi. Trên lũy đạn bắn xuống như mưa. Vua Quang Trung ra lệnh cho quân sĩ lấy ván gỗ núp mà xung trận. Vua Quang Trung tự đánh voi đốc quân ở phía sau.

            Quân Nam đã phá được cửa lũy, liền bỏ ván gỗ xuống đất, dùng đoản đao đánh giết. Quân Thanh chống không nổi, tan rã bỏ chạy tứ phía mắc vào bẫy ngầm, địa lôi phát nổ, tử thương rất nhiều. Vua Quang Trung giục trống thúc quân truy đuổi, phá luôn mấy đồn Văn Điển, An Quyết…

            Ngày ấy vua Quang Trung xua quân vào thành. Chiếu bào của vua biến thành màu sạm đen vì thuốc súng”.

            Đọc những đoạn trên, khó có thể hình dung Ngụy Tây liệt truyện đang nói về một kẻ tử thù của triều Nguyễn. Người ta chỉ thấy hình ảnh vua Quang Trung hiện lên như một đấng anh hùng kiệt xuất.

            Ngụy Tây liệt truyện cũng ghi nhận sự khiếp sợ của người phương Bắc trước uy thế của vua Quang Trung:

            “Vua Quang Trung cho quân đuổi theo đến cửa ải Lạng Sơn, và lên tiếng sẽ giết sạch không sót mạng nào để tìm tung tích vua Chiêu Thống. Người nhà Thanh kinh khủng, từ cửa ải trở về Bắc, già trẻ dìu nhau trốn chạy. Hàng mấy trăm dặm tuyệt nhiên người và khói bếp lạnh tanh”.
            Ngụy Tây liệt truyện đã đề cập khá chi tiết chuyến “công du” thành công rực rỡ của “vua giả” Phạm Công Thiện trên đất nhà Thanh.
              Kỳ 2: Chiến lược ngoại giao xuất sắc Với tầm nhìn của mình, hoàng đế Quang Trung hiểu rằng để có thể tránh họa binh đao, dân chúng được hưởng thái bình lâu dài thì phải thiết lập quan hệ ngoại giao hòa hảo với chính kẻ thù của mình.

              Hoàng đế Quang Trung.
              Ngụy Tây liệt truyện viết: “Khi Tôn Sĩ Nghị dìu dắt nhau chạy về Bắc, các sắc thư của hắn mang theo rơi rớt dọc đường. Vua Quang Trung thu được, nói với Ngô Thì Nhậm: Ta xem thư của vua Thanh, chẳng qua là họ xem thế mạnh yếu mà giúp vậy thôi. Việc giúp nhà Lê không phải ở bản tâm chân thật, mà chỉ mượn đó làm danh nghĩa để mưu lợi. Nay sau khi thua trận, họ tất cho là nhục, hẳn là không chịu dứt can qua. Nhưng hai nước giao binh cũng không phải là cái phúc cho nhân dân. Nay chỉ khéo ở lời thù tiếp ngoại giao mới có thể dứt được đao binh”.
              Vì vậy, ngay sau khi đánh đuổi quân Thanh ra khỏi bờ cõi, vua Quang Trung đã “làm mềm lòng” vua Thanh bằng cách ra lệnh cho người quân binh nhà Thanh bị bắt làm tù binh đều được cấp lương phạn và được chọn nơi cho tạm trú.
              Sứ giả nhà Thanh đã đưa thư sang gợi ý vua Quang Trung hãy “nhận ân huệ” của nhà Thanh, nhưng thực bụng là tỏ ý muốn giảng hòa. Vua Quang Trung nhận được thư, trong lòng khinh bỉ, nhưng ngoài mặt vẫn sai người dâng biểu cho nhà Thanh xin làm An Nam Quốc vương.
              Tờ biểu được viết bằng những lời lẽ rất khiêm nhường, trần tình về cuộc chiến vừa xảy ra và xin lỗi vua Thanh vì đã lỡ tay… diệt sạch quân thiên triều. Nhưng ẩn sau các lời lẽ đó là những hàm ý hết sức cứng rắn, khiến sứ giả nhà Thanh thất kinh khi tiếp nhận.
              Theo Ngụy Tây liệt truyện, tờ biểu có các đoạn sau:
              “Ôi, đường đường là thiên tử lại đi so hơn thua với nước bé thì ắt là muốn chinh chiến mãi không thôi để cùng khốn binh sĩ, lạm dụng vũ lực hầu sướng khoái cái lòng tham tàn bạo thì thật lòng Đại hoàng đế không nhẫn”
              “Vạn nhất can qua mãi không dứt, tình thế đến nỗi nào thật không phải do thần muốn và không dám biết đến”
              Đoạn trên chẳng khác nào câu lời chửi xéo vào cái sự tham tàn của vua Thanh, trong khi đoạn dưới là một thông điệp đầy thách thức, tỏ ý sẵn sàng đánh đến cùng với nhà Thanh, bất chấp kết cục ra sao thì ra.
              Dù vậy, với việc hoàng đế Quang Trung chấp nhận giảng hòa và xin phong vương, vua Thanh đã vui mừng chuẩn y. Để khẳng định uy thế thiên triều, vua Thanh yêu cầu Quốc vương An Nam đích thân sang chiêm cận ở cửa ải.
              Vua Quang Trung đã từ chối khéo đề nghị này. Theo Ngụy Tây liệt truyện, thư hồi đáp vủa vua Quang Trung viết: “Vốn đích thân đến cửa khuyết của triều đình để tỏ tình xin tội, nhưng vì trong nước vừa bị chiến tranh, lòng người chưa yên, thần kính cẩn sai đứa cháu ruột là Nguyễn Quang Biểu theo tờ biểu vào chiêm cận”.
              Vua Thanh chuẩn y cho Nguyễn Quang Biểu lên kinh đô, nhưng vẫn nhất quyết yêu cầu vua Quang Trung sang chiêm cận để bày tỏ thành tâm.
              Nguỵ Tây liệt truyện viết: “Vua Quang Trung lại dâng biểu tạ ơn, xin sang năm vào chiêm cận. Vua Thanh tin thật, liền sắc phong vua Quang Trung làm An Nam quốc vương, sai Thanh Lâm, quan hậu bổ Quảng Tây làm lễ thụ phong”.
              Sau nhiền lần trì hoãn theo dụng ý của vua Quang Trung, buỗi lễ đã được tiến hành. Nhưng người xuất hiện trong buổi lễ không phải vua Quang Trung mà là người đóng thế Phạm Công Trị.
              Ngụy Tây liệt truyện đã mô tả khá chi tiết chuyến “công du” thành công rực rỡ của “vua giả” Phạm Công Thiện trên đất nhà Thanh. Dưới đây là trích đoạn trong Ngụy Tây liệt truyện:
              “Mùa xuân năm Canh Tuất (1790), Phúc An Khang (Tổng đốc Lưỡng Quảng) giục Quang Trung sửa soạn sang chầu.
              Vua Quang Trung lại mượn cớ có tang mẹ xin cho con là Quang Thùy thay mình vào chiêm cận. phúc An Khang không chịu, bí mật sai người đến cửa quan đem theo nỗi niềm ẩn khuất bày vẽ nếu bất đắc dĩ không đi được thì nên tìm người giống mình mà thay thế.
              Vua Quang Trung bèn cho Phạm Công Trị giả mạo lấy tên mình và sai bề tôi là Ngô Văn Sở, Đặng Văn Chân, Phan huy Ích, Vũ Huy Tấn, Vũ Danh Tiêu, Nguyễn Tiến Lộc, Dỗ Văn Công với ngoại lệ hai thớt voi đực để làm khổ bọn quan Tàu dọc đường dịch trạm.
              Lưỡng Quảng tổng đốc Phúc An Khang và Quảng Tây Tuần phủ Tôn Vĩnh Thanh đưa phái đoàn đến kinh đô. Vua Thanh bao thưởng rất trọng hậu để biểu thị ý đặc biệt…
              Vua Thanh cho giả vương y phục chén bát cũng đồng bậc như thân vương. Vua Thanh lại thưởng thêm vạn bạc lượng.
              Khi giả vương đến cáo từ để trở về nước, vua thanh lại cho giả vương đến bên sạp ngự và vỗ vai giả vương an ủi dạy bảo ôn tồn rồi sai họa công vẽ chân dung mà ban thưởng (nay còn bức ảnh truyền lại).
              Khi giả vương đã trở về rồi, vua Thanh sai đưa sang ban cho chữ Phúc và đồ trân ngoạn của ngự dụng. Sứ giả qua lại không ngớt”.
              Như vậy, bằng tài ngoại giao của mình, vua Quang Trung đã biến một kẻ thù hùng mạnh thành bằng hữu mà không hề hạ thấp vị thế của mình, cũng như của cả triều đại và dân tộc. Đây thực sự là một chiến công lớn mà không cần dùng đến gươm giáo của người anh hùng dân tộc Quang Trung – Nguyễn Huệ.
              Kỳ 3: Vua Quang Trung nhòm ngó đất nhà Thanh
              HP (BKT)
              (Chính trị) - Song song với công cuộc đối ngoại, sự nghiệp đối nội để hòa giải và hòa hợp dân tộc, tuy khó khăn phức tạp, công phu và rộng lớn nên việc thực hiện phải kéo dài hơn, nhưng những kết quả mà Vua Quang Trung đạt được cũng đáng mừng như thế.
              Khéo léo sẽ tránh được họa
              Khi Vua Quang Trung đưa nghĩa quân từ Phú Xuân ra tập kết ở Tam Điệp vào tháng Chạp năm Mậu Thân (1788), đã ngay lập tức sửa soạn mở chiến dịch Ngọc Hồi – Đống Đa, đánh đuổi quân xâm lược nhà Thanh. Lúc này vị Hoàng đế Tây Sơn đã có cả một tiên liệu cực kỳ đặc sắc, được sử cũ chép thành câu nói nguyên văn:
              Vua Quang Trung - dinh cao cua hoa giai
              Tranh vẽ tái hiện cảnh người dân Thăng Long chào đón vua Quang Trung mùa xuân Kỷ Dậu (1789).
              – “Nay ta ra đây đốc quân, phương lược tiến đánh đã tích sẵn rồi. Chẳng qua mươi ngày là có thể đánh đuổi được người nước Thanh thôi. Nhưng nghĩ nó là nước lớn, gấp mười nước mình, sau khi thua một trận, ắt lấy làm hổ thẹn mà cố sức báo thù.
              Như thế thì việc binh đao không bao giờ dứt thật không phải là phúc cho dân. Lòng ta không muốn vậy. Cho nên, đến lúc đó, chỉ có một cách là dùng lời lẽ khéo léo, thì mới ngăn được cái họa chiến tranh”!.
              Đó không phải chỉ là khát vọng hòa bình, mà còn chính là tư tưởng hòa giải – hòa hợp dân tộc trong phương diện đối ngoại.
              Theo tư tưởng đó, các văn thần của triều Tây Sơn – Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Vũ Huy Tấn… dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Quang Trung đã chủ động nhạy bén, sắc sảo, kiên trì, khéo léo, tiến hành ngay từ tháng đầu sau đại thắng mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789), hàng loạt động thái của công cuộc bang giao hòa hảo: Hết soạn và gửi đi những tờ “biểu” – với lời lẽ thật nhún nhường – giải thích nào là việc bất đắc dĩ phải chống đánh quân Thanh, nào là sự thể quân Thanh tổn thất nhiều là do chúng… tự hoảng loạn giẫm đạp lên nhau hoặc ngã xuống sông mà chết đấy thôi; rồi lại đem các tù binh chiến tranh lên biên giới trao trả; cả xin được ban thuốc cho mẹ Vua Quang Trung đang bị ốm, và đặc biệt là đòi “cầu phong” buộc nhà Thanh phải thừa nhận Quang Trung!
              Kết quả thật tốt đẹp! Qua hai mùa giao hảo xuân hạ, đến mùa thu năm 1789, thì nhà Thanh chẳng những đã nhanh chóng giải giáp xong lực lượng quân quan toan đi đánh phục thù, mà còn hoan hỉ tiếp đón sứ giải hể hả nhận lễ vật, hào phóng tặng thuốc chữa bệnh cho mẹ Vua Quang Trung, và đặc biệt là tiến hành sắm sửa lễ “phong vương” – thừa nhận Vua Quang Trung!
              Thế là, vào tháng Tám năm 1789, một văn bản có tên là “Tờ biểu của hai ban văn võ (triều đình Tây Sơn) mừng việc hòa hảo đã thành”, do danh sĩ Ngô Thì Nhậm soạn thảo, đã ghi một dấu son vào công cuộc đối ngoại hòa giải và hòa hợp dân tộc, dâng lên Vua Quang Trung và truyền đến bây giờ:
              “Nay cúi thấy
              Cùng Trung Nguyên giao hảo, lễ lớn đã thành
              Nhà Minh đường mũ áo thân tình
              Nơi vương hội bích khanh rực rỡ
              Hai nước hòa mục
              Chín cõi cùng xuân…”.
              Hòa giải- nhìn từ kiến thiết nước nhà
              Ngay sau khi đánh đuổi tan tành đoàn quân Thanh cùng đám vua tôi Lê Chiêu Thống “cõng rắn cắn gà nhà”, Quang Trung đã có “Tờ chiếu về việc ban ơn”, thi hành đối với những người trước đấy đã chống đối hoặc trốn tránh nghĩa quân Tây Sơn, là: – “Văn ban, võ quan triều cũ, do vì trước đây không chịu đến bái yết (trình diện), mang án tại đào (mắc tội trốn tránh) thì nay đều được tha tội”.
              – “Những điền sản đã bị tịch thu, sung công mà chưa được trả lại, xét ai thực đã đến chầu, có quan giám tri (của Tây Sơn) kê khai tên họ, thì cho nhận lĩnh điền sản cũ về làm kế sinh nhai, để khỏi đói rét”.
              – “Còn những tội phạm phải tù đầy, trừ ngụy án ra, xét tội trạng nào thuộc về án nặng, hãy tạm giam để chờ tra. Còn thì tất cả đều được thả về hết, để giải thoát cho những kẻ bị oan lâu mà chưa được xét”!
              Tiếp lần đó, một loạt chủ trương và hành động, trên các phương diện làm ăn kinh tế, văn hóa, giáo dục, cũng được ban bố, thi hành, với tinh thần của lời kêu gọi trong tờ “Chiếu khuyến nông”:
              – “Hỡi các thần dân! Các người đều phải trông lên, thể theo đức ý của trẫm: Về nơi quê quán, chăm sóc ruộng vườn! Đừng lười biếng làm hại sinh kế, đừng trốn tránh giấu giếm để mắc tội lỗi! Cái vui giàu thịnh, trẫm sẽ cùng trăm họ chung vui!”.
              Cũng với tinh thần ấy, tờ “Chiếu cầu hiền” của Quang Trung sốt sắng động viên:
              – “Các quan lại lớn nhỏ và dân chúng trăm họ, ai có tài năng học thuật, mưu hay giúp ích cho đời, đều cho phép dâng thư tỏ bày công việc. Lời có thể dùng được, thì đặc cách bổ dụng ngay, lời không dùng được để đấy, chứ không bắt tội ngoa ngôn!”…
              Đặc biệt ở lĩnh vực đời sống nông thôn và làm ăn nông nghiệp, tờ “Chiếu khuyến nông” của Quang Trung cả loạt biệt pháp, nhằm vào các đối tượng bỏ quê hương đi lang thang hoặc kiều ngụ ở nơi khác, các vùng có ruộng đất bị bỏ hoang, những ruộng công hoặc ruộng tư vô thừa nhận… để đưa người phiêu bạt trở về quê hương, đất đai phải có chủ, ruộng hoang phải được cày cấy, tránh đánh thuế khống…
              Những điều đặc sắc, thiết thực và thấu đáo như thế này, lâu nay, các nhà nghiên cứu đều khoanh vào “Công cuộc kiến thiết đất nước của triều đại Quang Trung”. Nhưng, nhìn vào thực chất thì rõ ràng là thực hiện sự nghiệp hòa hợp – hòa giải dân tộc sau chiến tranh, và cũng còn chính là cơ sở và điều kiện để có thể kiến thiết được đất nước vào lúc ấy.
              Do đấy, bức tranh đẹp đẽ mà lời bài phú “Tụng Tây Hồ” của Nguyễn Huy Lượng vào năm 1801, đã vẽ nên được về tình hình xây dựng và xây dựng đất nước, vào thời gian trước sau trận Đại thắng mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789) của Quang Trung:
              “Tới Mậu Thân (1788) từ rỡ ràng vẻ tường vân, sông núi khắp nơi nhờ, công đãng địch.
              Qua Canh Tuất (1790) lại tươi tắn cơn thụy vũ, cỏ cây đều gội đức triêm nhu”.
              Chính là nhờ vị Hoàng soái và triều đại Tây Sơn đã thực hiện được công cuộc hòa giải – hòa hợp dân tộc, đích thực, rộng rãi và nhân văn chủ nghĩa, ngay sau cuộc chiến tranh anh hùng, đánh bại quân xâm lược ngoại bang và bè lũ tay sai bán nước, cả trên các phương diện đối ngoại cũng như là đối nội nối tiếp để lại một truyền thống dân tộc, cho tới thời đại ngày nay.
              Vua Trần Nhân Tông, ngay sau lần thứ 3 đánh thắng quân Nguyên Mông xâm lược đã bắt được cả hòm giấy tờ của một số không nhỏ quý tộc và quan chức nhà Trần xin… hàng giặc! Nhưng nhà vua “đã sai đốt hết đi, để yên lòng những kẻ phản trắc”!. Đó là một kế sách rất hay để hòa giải – hòa hợp dân tộc, sau chiến tranh. Và đến thời Vua Quang Trung thì việc hòa giải mới thực sự là đỉnh cao.
              Nhà sử học Lê Văn Lan (Dân Việt)

              Giả thuyết mới về mộ của vua Quang Trung


              Giả thuyết mới
              Sinh ra ở Bình Định nhưng tổ tiên của vua Quang Trung vốn là người xứ Nghệ. Khi thống nhất giang sơn, vị vua này đã ra chiếu chỉ xây dựng Phượng Hoàng Trung Đô làm kinh đô đất Việt nhưng việc chưa thành thì vua đã băng hà. (Hiện nay còn gọi là khu vực Lâm viên núi Quyết, nơi có ngọn núi Quyết nổi tiếng, thuộc địa phận phường Trung Đô, TP Vinh, Nghệ An. Hiện nay trên khu vục núi Quyết có đền thờ và bia tưởng niệm Hoàng đế Quang Trung -PV).
              Theo nhiều tài liệu lịch sử để lại thì sau khi diệt được nhà Tây Sơn, Nguyễn Ánh đã sai san phẳng khu lăng mộ của các vị vua Tây Sơn, trong đó có mộ vua Quang Trung. Sai quân lính đốt thi hài nhồi vào thuốc súng bắn xuống sông, riêng thủ cấp thì đựng trong một cái vò rồi “nhốt” vào ngục tối. Thế nhưng, cũng có một số giả thuyết cho rằng, Nguyễn Ánh không tìm được mộ thật và thi hài thật của Hoàng đế Quang Trung.

              Giả thuyết mới về mộ của vua Quang Trung - Ảnh 1
                                                   Đền thờ vua Quang Trung trên núi Quyết hiện nay. Ảnh: Xaluan.
              Ông Nguyễn Đình Siêu, một nhà nghiên cứu lịch sử ở Nghệ An cho biết: Năm 2003, nhà khảo cổ học lão thành Đỗ Đình Truật ở T.p Hồ Chí Minh củng với một người nữa là ông Nguyễn Thiện Đức đã vào Nghệ An tìm gặp ông. Trong lần gặp gỡ đó, ông Truật đã nói rằng: "Hoàng đế Quang Trung mất ở Phú Xuân năm 1792 là sự thật nhưng mộ của ngài bị Gia Long đào bới là mộ giả, cái đầu lâu bị Gia Long đưa về xiềng trong tù cũng là giả. Thi hài của Hoàng đế Quang Trung đã đuợc Vua cảnh Thịnh và các thân nhân, cận thần bí mật đưa đi an táng nơi khác, có thể là khu vục Phuợng Hoàng Trung Đô ở Nghệ An”.
              Sau đó, ông Siêu đã đưa ông Truật và ông Đức lên núi Quyết khảo sát, nghiên cứu thực địa vùng Phượng Hoàng Trung Đô. Mọi nguòi đã phát hiện ra miệng cái hang ở chân núi Mũi Rồng, thuộc chi đầu rồng (long thủ) trong dãy núi Quyết. Trong lòng ai cũng bị kích thích, tò mò nhưng cuối cùng không ai dám vào vì không có phương tiện bảo hiểm đảm bảo an toàn. Rồi cả ba trở lại khu tưởng niệm vua Quang Trung. Mấy phút sau, bỗng dưng ông Truật nói: "Rất có thể mộ Ngài đã được ẩn táng bí mật ở một vị trí đâu đây trong khu vục Phuợng Hoàng Trung Đô”.
              Mới đây, ngày 12/10/2009 ông Hồ Đúc Long, một nhà ngoại cảm đã về núi Quyết thăm Đền thờ Hoàng Đế, lúc đến nhà bia tuởng niệm (nguyên là nền điện Thái Hoà, nơi cho việc thiết triều của Hoàng Đế ở Phượng Hoàng Trung Đô), nhà ngoại cảm này cho rằng: "Vua đang nằm giữa một cung điện duới độ sâu 17,2m. Xung quanh có 3 mộ tái hiện bằng sắc phong chứng chỉ và kiếm của Vua được đi theo có tên?. Điều này đến nay vẫn chưa ai có thể kiểm chứng được đúng sai”.

              Giả thuyết mới về mộ của vua Quang Trung - Ảnh 2

                                                            Phác họa chân dung người anh hùng áo vải cờ đào.
              Về giả thuyết này, TS Hồ Bá Quỳnh cho rằng: “Truớc khi mất vua Quang Trung còn nhắc đến mối quốc thù với Gia Định (chỉ Nguyễn Ánh) chứng tỏ vua Quang Trung luôn nghĩ đên vận mệnh dân tộc”. Theo TS Quỳnh, khi biết Nguyễn Ánh đang tập trung lực luợng chuẩn bị tiến quân ra Phú Xuân, vua Quang Trung không quên căn dặn những người thân cận giữ tuyệt mật nơi yên nghỉ của mình để tránh sau này bị Nguyễn Ánh quật phá. Do đó, ta có thể suy luận, thi hài Vua có thể đuợc chôn một nơi bí mật nào đó, mà chỉ có chăng là mấy anh em con của Vua là thái tử Quang Toản, Quang Thuỳ, Quang Thiệu mới biết mà thôi.
              Cứ liệu ban đầu
              Giả thuyết thi hài vua Quang Trung được bí mật đưa về xứ Nghệ theo đường biển đã có nhiều nhà nghiên cứu đặt ra. Núi Quyết thuộc quần thể Phuợng Hoàng Trung Đô, trong lịch sử dựng nuớc và giữ nước là vị trí yết hầu trên con đuờng thiên lý xuyên Việt, trở thành một căn cứ quân sự trọng yếu. Từ đây, con người có thể vào Nam, ra Bắc, lên ngàn xuống biển một cách dễ dàng. Trong 200 năm Trịnh - Nguyễn phân tranh, xứ Nghệ là chiến trường nóng bỏng liên tiếp diễn ra cảnh nồi da nấu thịt và Nguyễn Huệ đã nhìn thấy rõ đuợc thế chiến luợc của vùng đất này.
              Ngày 3/9 năm Thái Đức thứ 11 (1/10/1788), vua Quang Trung đã hạ chiếu: "Kinh đô Phú Xuân thì hình thế trắc trở, nay trị Bắc Hà sự thế rất khó khăn. Theo định thần nghĩ rằng: chỉ đóng đô ở Nghệ An là độ đường vừa cân, vừa có thể khống chế được trong Nam ngoài Bắc và sẽ làm cho nguời tứ phương đến kêu kiện tiện việc đi về Nhớ lại buổi hồi loan kỳ trước, lúc qua Hoành Sơn, Quả cung đã từng xem địa đồ. Thấy ở huyện Châu Lộc, xã Yên Truờng, hình thế rộng rãi, khí tượng tươi sáng. Có thể chọn để xây dựng kinh đô mới, thực sự là chỗ đẩt đẹp để đóng đô vậy”.
              Sau đó, việc xây dựng thành Phuợng Hoàng Trung Đô đã đuợc Nguyễn Huệ Quang Trung giao cho Trân Thủ Thận và La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp đảm nhận. Theo tư liệu trong các thư tịch còn giữ được thì vua Quang Trung đã làm việc ở Phượng Hoàng Trung Đô ít nhất là 2 lần. Lần thứ nhất, vào tháng 5/1791, vua Quang Trung từ đây kéo quân lên vùng thượng du Nghệ An, đánh lực luợng phản động đang có âm mưu cấu kết với Lê Duy Chỉ chống lại triều Tây Sơn. Lần thứ hai là vào dịp tháng 1/1792 trên đuờng đánh giặc từ thượng du Nghệ An về, vua đã dừng chân tại đây.
              Rất tiếc, Vua Quang Trung đã qua đời đột ngột vào ngày 29/7/1792 khi chưa kịp dời đô từ Phú Xuân ra Phượng Hoàng Trung Đô. Sách Đại Nam chính biên liệt truyện ghi rằng: Trước khi mất, vua Quang Trung vẫn nhớ đến đất tổ Nghệ An, nhớ đến Phượng Hoàng Trung Đô nên đã trăng trối với Trần Quang Diệu và các tín thần rằng: "Ta mở mang cương giới, khai thác đất đai bao gồm cả cõi nam, nay bị bệnh ắt không dậy được. Thái tử tư chất khá cao, nhưng tuổi còn bé, ngoài thì có giặc Gia Định là quốc thù, vua Thái Đức Nguyễn Nhạc tuổi già ham dật lạc cầu an, không lo hậu hoạ. Sau khi ta mất rồi, trong một tháng phải lo chôn cất sơ sài cho xong việc mà thôi. Bọn nguơi phải phò Thái tử sớm dời đô về Vĩnh Đô để khống chế thiên hạ. Nếu không, khi quân Gia Định ra đến, bọn người không có chỗ chôn đấy”.


              Giả thuyết mới về mộ của vua Quang Trung - Ảnh 3
                                                                        Tượng đài vua Quang Trung hiện nay.
              Hiện nay thi hài của vua Quang Trung vẫn còn yên nghỉ sâu dưới lòng đất ở một nơi bí mật mà chưa ai làm sáng tỏ được. Câu hỏi đó vẫn như thách đổ với các nhà nghiên cứu trong suốt thời gian qua. Đã có nhiều nhà sử học, các đoàn khảo sát qua các thời kỳ đi sâu tìm hiểu và đã có nhiều giả thuyết, nghi vấn, suy đoán. Trước đây là tại Lăng Ba Vành ở làng Cư Chánh hay ấp 5, xã Thuỷ Phương và nay là Núi Quyết, Phuợng Hoàng Trung Đô - Vinh. Những suy đoán ấy vẫn đang còn tiếp tục được nghiên cứu một cách nghiêm túc và khoa học. Trong số 3 đề tài gần đây, một nhóm chỉ đang tập trung khảo sát vị trí thượng nguồn sông Hương, mà chưa chỉ ra được vị trí cụ thể của lăng mộ Quang Trung. Công trình thứ hai của ông Trần Viết Điền khẳng định Lăng Ba Vành là lăng mộ vua Quang Trung, vẫn chưa có nhiều chứng cứ đủ súc nặng để có thể khẳng định. Và công trình của ông Nguyễn Đắc Xuân khẳng định: Khu vực quanh Chùa Thiền Lâm có lăng mộ Vua Quang Trung cũng cần được bô sung thêm nhiều cứ liệu. Nói tóm lại, cả 3 đề tài này đều chưa có cơ sở tin cậy và thuyết phục để khẳng định một trong 3 nơi trên là lăng mộ Vua Quang Trung. Các giá trị tư liệu vẫn chưa có cơ sở và chưa thuyết phục để kết luận đó là nơi đã từng tồn tại lăng mộ Quang Trung.
              Từ những tư liệu lịch sử có được, nhà sử học Trần Minh Siêu luận giải: Là người đặc biệt được thiên phú tài trí vẹn toàn, thông minh, quyết đoán như thần thì không bao giờ những bí mật trong cung đình có thể lọt ra ngoài. Nơi an giấc ngàn thu của Hoàng Đế chỉ có Thái tử Quang Toản và Thân huân trung thần mới có thể biết được. Tuy nhiên, chúng ta có thể suy đoán: biết đâu lời trăng trối của Hoàng đế Quang Trung sớm dời đô về Vinh để lo việc lớn về sau là có ý Ngài đã chọn Phượng Hoàng Trung Đô làm nơi an nghỉ đời đời cho mình?
              Khi lăng mộ có thi hài của Quang Trung vẫn còn là một ẩn số, một số nghi vấn mộ của Vua Quang Trung ở Phượng Hoàng Trung Đô cũng cần được lưu tâm và cần sớm được làm sáng tỏ.
              Cần sự vào cuộc của các nhà khoa học
              Trao đổi với PV báo ĐS&PL, ông Trương Xuân Đạt - Chánh văn phòng Sở Văn Hóa Thể ThaoDu Lịch Nghệ An cho rằng: "Giả thiết mộ và thi hài của Hoàng Đế Quang Trung ở khu vực Phượng Hoàng Trung Đô là có cơ sở. Nhưng để xác minh tính chân thực thì rất cần sự vào cuộc của các nhà nghiên cứu lịch sử, các nhà khoa học. Những luận cứ mang tính thực tiễn cao của họ sẽ là cơ sở để cơ quan quản lý về mặt nhà nước tiến hành những khảo sát và đi đến kết luận". Ông Đạt cũng cho rằng: "Những phát hiện và lý luận của cơ quan truyền thông đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng cũng có tác động thúc đẩy quá trình nghiên cứu của các nhà khoa học. Nên chăng báo chí cũng cần tích cực đồng hành với các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu và cơ quan quản lí nhà nước trong lĩnh vực này".
              K.T-XH

              Tin hay không - Tuỳ bạn: ĐÃ TÌM RA MỘ VUA QUANG TRUNG

              Nhà ngoại cảm Nguyễn Đức Long người Hà Nội – trong thời gian tìm kiếm mộ tại Nghệ An Hà Tĩnh cùng dòng họ Hồ ĐÃ TÌM RA MỘ Vua Quang Trung và Thái tử VÀO NGÀY 12-10-2009 - TỨC GIỜ THÌN NGÀY 24-8-2009 KỶ SỬU. Mộ Vua Quang Trung trên núi QUYẾT – TP Vinh Nghệ An sau đền thờ Quang Trung, mộ vẫn còn nguyên vẹn thành quách, chôn sâu 19 m , Vua Quang Trung vẫn đội mũ, dung mạo oai phong hơn trên tượng. Mộ Thái tử chôn sâu 9,7m trên núi Đại Huệ - Nam Đàn Nghệ An, ngựơc phía mộ Bà Hoàng Thị Loan ( Thân sinh Bác Hồ ). Điều kỳ diệu là nhà Vua đã báo mộng cho ba người : cháu trai nhiều đời hiện tại là anh QUANG -Xuân An - Nghi Xuân Hà Tĩnh , cháu dâu tại vùng Quảng Bình Quảng Trị , và NHÀ NGỌAI CẢM ĐỨC LONG khi đựơc hẹn là đúng giờ Thìn, ăn mặc sang trọng lịch sự nhà vua sẽ cho thấy mộ. Khi mọi người đúng trước bàn thờ Vua Quang Trung làm lễ , mở ba tấm sơ đồ họa theo giấc mơ của ba người thì lạ lùng thay ba bản đồ đó giống y nhau và bức tượng Vua đã chảy nước mắt . Trên núi Đại Huệ 2 cụ rùa xuất hiện khỏang 26/9/2009 nặng trên 15 kg.

              Video hành trình tìm mộ vua Quang Trung:
               
               

              Không có nhận xét nào:

              Đăng nhận xét