Thứ Tư, 16 tháng 9, 2015

BẠN BIẾT CHƯA? 39

 (ĐC sưu tầm trên NET)

Truy ý nghĩa, nguồn gốc của thành ngữ “chân nam đá chân xiêu”


(Kiến Thức) - Câu thành ngữ quen thuộc "chân nam đá chân xiêu” thường để nói về những trường hợp nào, ý nghĩa ra sao và nguồn gốc từ đâu?

Bạn đọc Nguyễn Đức Hồng ở Hà Tĩnh hỏi: Nói về người say rượu, người ta hay dùng từ “chân nam đá chân xiêu”. Vậy ý nghĩa, nguồn gốc của câu thành ngữ này như thế nào?

Truy y nghia, nguon goc cua thanh ngu “chan nam da chan xieu”
 Ảnh minh họa.
PGS.TS Phạm Văn Tình, Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam, cho hay, trong từ điển Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Paulus Của (1895) đã giải nghĩa rất cụ thể như "đăm" là tay mặt (tay phải), chiêu là tay tả (tay trái). Như vậy đăm/chiêu là tổ hợp trái nghĩa có nghĩa là phải/trái. Ta còn có thể thấy dấu ấn từ cổ này lưu giữ trong các sáng tác dân gian xưa: Tay chiêu đập niêu không vỡ, đánh vợ không đau, bẻ cau không đứt (tục ngữ); Gà kia mày gáy chiêu đăm/Để chúa tao nằm, tao ngủ chút nao (ca dao)... 
Xem ra, nguyên gốc của thành ngữ trên phải là “chân đăm đá chân chiêu” mới đúng. Mấu chốt ở đây là ở từ “xiêu”, vốn gắn liền với nghiêng ngả, xiêu vẹo. Nó hoàn toàn phù hợp dùng để chỉ dáng điệu của ai đó hoặc say xỉn, hoặc vội vàng tất tưởi, vụng về... mà đi đứng không ngay ngắn, vững vàng. Anh chàng say “tít cung thang” đó đã “góp phần” làm cho dân gian nói lệch câu thành ngữ độc đáo này.
PV (ghi)

Nguồn gốc điển tích lạ: “Nhất lé, nhì lùn, tam hô, tứ rỗ”


(Kiến Thức) - Câu nói “nhất lé nhì lùn tam hô tứ rỗ” hiện vẫn được dân gian sử dụng khá rộng rãi. Vậy nguồn gốc điển tích này từ đâu mà có

Câu nói “nhất lé nhì lùn tam hô tứ rỗ” hiện vẫn được dân gian sử dụng khá rộng rãi. Tuy nhiên, ở khía cạnh khoa học thì nhiều nhà nghiên cứu, các chuyên gia văn hóa còn một số giải thích không giống nhau về các loại hình tướng người trong thành ngữ này. 
Chỉ là quan niệm của xã hội phương Đông
Trong cuộc trao đổi khá thú vị giữa TS Hoàng Điệp, Trung tâm Dịch thuật, Dịch vụ Văn hóa & Khoa học Công Nghệ cho biết: “Thực ra không chỉ có tứ tướng khác người mà có tới bát tướng dị thường trong xã hội, họ sở hữu những cá tính rất đặc biệt cả tải giỏi lẫn quái đản, độc ác. Như mọi người đã biết, thành ngữ là việc đút kết các kinh nghiệm dân gian về từng loại hình tướng người cụ thể, từ đó mới đưa ra thành ngữ để tổng kết lại những cái đã được thống kê, kiểm nghiệm. Trong đó, “nhất lé nhì lùn tam hô tứ rỗ” cũng là một câu như thế. 
Theo TS Hoàng Điệp thì tất cả các tướng người được nhắc đến trong câu thành ngữ này đều có ý xấu. Tuy nhiên, đó chỉ là kinh nghiệm dân gian đúc rút ra thế chứ không dựa trên một cơ sở nghiên cứu nào. Từ trước tới nay, việc nghiên cứu về tướng số dựa vào các tri thức thu thập được trong sách cổ, hoặc căn cứ trên những quan niệm, triết lý về tướng người chứ hiếm có công trình nào mang tính “giải phẫu” riêng về loại hình tướng lé. Ví dụ, người ta thường lấy câu “mắt lé lộ hầu vành tai lộ” để nói về người gian manh, độc ác. Đây là các đặc điểm để kết hợp nhận diện người tốt, xấu của dân gian ngày xưa, nhưng họ lấy cơ sở nào để khẳng định đây là người xấu thì ít không có công trình nghiên cứu khoa học cụ thể mà chỉ là kinh nghiệm dân gian.
Điều đáng nói là quan niệm về loại hình tướng số kiểu như “nhất lé nhì lùn tam hô tứ rỗ” chỉ xuất hiện ở xã hội phương Đông chứ phương Tây không tồn tại quan niêm này. Chính vì lẽ đó, nên trong các tác phẩm văn chương ở phương Đông thường tập trung xây dựng những nhân vật phản diện thuộc một trong 4 loại hình tướng khác biệt là lé, lùn, hô, rỗ...
Trong một quan niệm có chiều hướng ngược lại, Nhà nghiên cứu Văn hóa Dân gian Nguyễn Hùng Vĩ, Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội cho rằng, thành ngữ “nhất lé, nhì lùn, tam hô, tứ rỗ” muốn nói: Những người dị tướng thì thường có tài lạ. Đừng coi thường họ. Lé, lùn, hô, rỗ là những hình dáng không đẹp, thường bị mọi người chê bai, kỳ thị. Tuy nhiên, để tồn tại, họ vẫn có những năng lực tự thân đáng quý, đáng ghi nhận, nhiều khi rất thành đạt thậm chí đạt nên kỳ tích. Đây là kinh nghiệm thực tế như vậy. Thành ngữ này không xuất phát từ điển tích gì. Nó là tổng kết kinh nghiệm về sự bất tương hợp thường thấy giữa hình thức và nội dung, giữa vẻ ngoài và phẩm chất.

Nguon goc dien tich la: “Nhat le, nhi lun, tam ho, tu ro”
 Ảnh minh họa.
Cả tốt lẫn xấu
Một số ý kiến của các nhà văn hóa khác cho rằng: Thành ngữ “nhất lé nhì lùn tam hô tứ rỗ” chủ yếu nói về những người có tài, tuy nhiên, cũng có trường hợp gian ngoa độc ác dám dùng mưu chước hại người khác để bước lên đài danh vọng. Để phân biệt những người như vậy, dân gian dạy nhau cách nhìn vào tướng diện, đó là"nhất lé, nhì lùn, tam hô, tứ rỗ". 
Ở loại hình tướng thứ nhất là “lé”, dân gian còn có  câu “lưỡng mục bất đồng, tâm can bất chính" với ý nói rằng, hai mắt của người lé không cùng nhìn về một hướng thì lòng dạ của người đó thường bất chính, ẩn chứa điều độc ác. Tuy nhiên, ý kiến này có vẻ quá chủ quan, sa đà vào hình thức mà quên đi cái tốt đẹp của con người. Chưa chắc người lé có hai con mắt “bất đồng”, không ngay ngắn thì tâm can bất chính. Ngược lại, những người thuộc loại hình tướng này thường thể hiện thái độ yêu ghét rõ ràng, khi yêu thì chung thủy nhất mực, khi ghét thì ghét cay đắng, triệt để...
Ở loại hình tướng “lùn”, dân gian thường cho rằng người có tướng này thường hay có tính kiêu căng. Theo kinh nghiệm cho thấy, một số người không được cao cho lắm rất khôn ngoan lại túc trí đa mưu, có lẽ vì thế nên người lùn được xếp vào một trong 4 loại hình tướng tài giỏi hơn người.

Nguon goc dien tich la: “Nhat le, nhi lun, tam ho, tu ro”-Hinh-2
 TS Hoàng Điệp cho rằng, thành ngữ “nhất lé nhì lùn tam hô tứ rỗ” đều nói về người có tính xấu.
TS Hoàng Điệp cho biết: Trong lịch tử phương Đông lẫn phương Tây đã có nhiều danh tướng sở hữu loại hình tường lùn này. Đó là Napoleon (1769 – 1821), ông ta là người đã bình định nước Pháp, đưa ra các chính sách pháp luật tiến bộ mà đương thời chưa ai nghĩ ra, giúp Pháp trở thành một cường quốc của thế giới...
Ở loại hình thứ ba là tướng “hô” dân gian cũng có thành ngữ rằng "xỉ lộ thần hân tu phòng dã tử" - răng lộ môi cong đề phòng chết đường. Tuy nhiên, theo một tài liệu khác mà Báo KH&ĐS khảo được trong Tướng Mệnh Khảo Luận do Vũ Tài Lục biên soạn thì một trong tướng lục ác là "thần bất hô xỉ" - Môi không che được răng là người bất hòa. Răng hô phải đầm xuống đều thì chất phác, răng đâm ngang hay ngưỡng lên, cực đểu giả (trích Ngân Hà Thư Xã).
Loại hình thứ tư là “rỗ” cũng được xếp vào hàng dị tướng. Theo TS Hoàng Điệp thì loại hình này cũng thuộc tướng xấu, tâm địa độc ác, cho nên dân gian đã dùng một số câu với ý chê bai những người như vậy. Chẳng hạn, “mặt rỗ như tổ ong bầu, cái răng khấp khểnh như cầu rửa chôn”. Có nghĩa là tướng mặt rỗ mà kết hợp với răng hô, mọc không đều thì đó là dị tướng.
Theo các nhà nghiên cứu văn hóa thì trong dân gian, thành ngữ “nhất lé nhì lùn tam hô tứ rỗ” còn có một số “biến thể” ở loại hình tướng thứ 4 đó là “nhất lé nhì lùn tam hô tứ sún”. Việc sử dụng loại hình “sún” ở đây với nghĩa tham ăn, thấy gì ăn nấy nên mới sún răng. Tuy nhiên, có vẻ cách diễn giải này không có căn cứ mà chỉ là biến thể do dân gian nghĩ ra để hợp với câu nói sao cho có vần, có nhịp chứ không thể chứng minh người sún là tham ăn...
Huyền Vũ

Điển tích độc lạ “ăn hại đái nát” bắt nguồn từ đâu?

(Kiến Thức) - Mắng một người vô tích sự, chẳng được việc gì, người ta thường dùng câu “ăn hại đái nát”. Nhưng ít ai biết thành ngữ “đái nát” liên quan đến việc đi đòi nợ.

Mắng một người vô tích sự, vô dụng chẳng được việc gì, người ta thường dùng câu “ăn hại đái nát”. Ăn hại thì ai cũng biết, nhưng ít ai biết “đái nát” liên quan đến việc đi đòi nợ.
Mắng người vô tích sự
Trong cuốn Từ điển Bách khoa Tri thức, “ăn hại đái nát” chỉ một người vô tích sự, chỉ biết ăn không biết làm mà lại còn gây ra nhiều điều tệ hại cho người khác. Trong cuốn Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học thì định nghĩa “đã không làm gì có ích mà lại còn làm hại đến lợi ích của người khác”. 
PGS.TS Phạm Văn Tình, Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam cho biết, khi chê trách, mắng mỏ một người mà được đánh giá là một kẻ vô dụng, đã chẳng làm được một việc gì có ích mà còn lại làm phương hại đến lợi ích của người khác, người ta hay dùng thành ngữ "ăn hại đái nát" để ám chỉ. Ví dụ: "Tao là tao từ cái mặt bọn bay. Nhờ bao nhiêu việc mà chả được tích sự gì. Đúng là một lũ ăn hại đái nát". Người mà được ví như vậy quả là xấu, xấu lắm, chẳng có gì để mà trân trọng, kể cả tư cách và nhân cách. 
Một người bị mắng là “ăn hại đái nát” thường là không còn từ nào để diễn tả cái sự kém cỏi, không làm nên công trạng gì của người đó nữa. Bản thân người phải nhận câu mắng đó cũng cảm thấy ê chề, xấu hổ vì sự kém cỏi của bản thân mình, chỉ biết ăn tàn phá hại. Theo PGS.TS Phạm Văn Tình, hình ảnh so sánh “ăn” – “đái” ở đây là hai quá trình đối ngược. Khi đã là người vô tích sự, người “ăn hại” thì đương nhiên hệ quả sẽ là “đái nát”. Nhiều ý kiến cho rằng “đái nát” nghĩa là đái nát nhà, nát cây cối, ý nói người chỉ biết “ăn” và “đái” mà chẳng biết làm gì khác, không khác gì các loài động vật bậc thấp.
Nhưng về mặt ngôn ngữ, hai chữ "đái nát" ở đây có nghĩa thế nào? Đái đến nỗi nát cây, nát cối, nát nhà, nát cửa người khác sao? Hay chỉ là một lối nói cốt cho hiệp vần với hai chữ "ăn hại"? Trong các thành ngữ, thường xuất hiện tình trạng “nói cho có vần có điệu”, còn xét về ngữ nghĩa thì gần như không có hoặc lặp lại nghĩa của thành tố đứng trước hoặc sau nó. Truy nguyên gốc tích từ “đái nát” cho chúng ta một kiến giải khá thú vị.
Dien tich doc la “an hai dai nat” bat nguon tu dau?
 Ảnh minh họa.
Chiêu đòi nợ độc đáo
“Đái nát” nghĩa là gì, tìm hiểu qua nhiều tài liệu nghiên cứu, PGS.TS Phạm Văn Tình cho biết một câu chuyện trong dân gian gắn liền với từ này. Dân gian kể rằng, ngày xưa, có nhiều chủ nợ cho vay nhưng mãi không đòi được. Con nợ cứ chây ì, giục năm lần bảy lượt cũng không trả. Chuyện khất nợ cũng có nhiều hoàn cảnh. Có người cố tình tính chuyện chây ì, "chạy làng trốn nợ" thực. Song cũng có gia đình nghèo túng, làm ăn thất bát mà chưa có tiền, có thóc trả cho chủ nợ (chứ thâm tâm họ đâu muốn thế). Tuy nhiên, nợ nào cũng là nợ. Vay thì phải trả, đó là lẽ đời. Có chủ nợ nhờ người đi bắt nợ, xiết nợ cốt đòi cho bằng được những gì mình cho vay, cho mượn. Cảnh bắt nợ ngày xưa xảy ra ở nhiều nơi rất thương cảm. Anh Dậu trong truyện Tắt đèn của Ngô Tất Tố đã bị bọn cai lệ đến bắt ra sân đình trói, cho đến khi trả xong nợ mới thôi.
Lại có nhiều chủ nợ sai gia nhân, đầy tớ đến tận nhà con nợ để nằm vạ đòi nợ theo kiểu "giang hồ". Họ kéo quân đến ở, chầu chực ngay tại gia. Dĩ nhiên gia chủ phải nuôi cơm họ. Mọi sinh hoạt như ăn ở của họ (như ăn uống, bài tiết, tiểu tiện...) đều diễn ra ngay trong nhà, rất bệ rạc và bẩn thỉu. Để làm cho nhà con nợ xơ xác, hôi thối, đám đầy tớ này thi nhau ăn uống, đại tiểu tiện, bạ đâu tiểu đó, đến mức nát nhà, nát cây, nát đất. Mục đích của đám người xiết nợ này là làm cho gia chủ phải chịu đựng, tới mức "đau đớn ê chề cho coi". Đến nước phải mau mau tìm đủ mọi cách mà trả nợ cho xong. Quả là một "chiêu" đòi nợ độc đáo, chỉ còn kém mỗi anh chàng Chí Phèo đến gây sự, sẵn sàng đâm chém ở nhà Đội Tảo (theo lệnh của Bá Kiến) trong truyện của Nam Cao ngày trước. Chính từ sự tích dân gian này mà tiếng Việt có thêm thành ngữ "ăn hại đái nát" với những ngữ nghĩa mà ta đã biết: Chỉ vì món nợ cần đòi/Ăn hại đái nát người đời cười chê...
Khi môi trường sống bị “hủy hoại” như vậy, rất ít con nợ nào có thể chịu đựng nổi nên việc đòi nợ đa phần là thành công. Ngày nay, có lẽ “chiêu” đòi nợ này đã biến mất khỏi đời sống do các điều kiện kinh tế xã hội, nhận thức, công cụ pháp lý đã khác. Thế nhưng, thành ngữ “ăn hại đái nát” vẫn cứ được sử dụng một cách phổ biến, dễ hiểu, dễ nhớ.
Văn hóa gắn với miếng ăn
Sự “tra tấn” của hình thức đòi nợ này đa phần khiến các con nợ cảm thấy ngột ngạt không thể chịu đựng nổi, ăn không ngon ngủ không yên trong môi trường đầy xú uế ấy. Bởi thế mà dân gian cũng có hình ảnh ví von “nhất tội nhì nợ”. Có tội thì van lạy, nói khó nói khăn thế nào cũng vẫn phải đền tội. Có nợ thì van lạy, nói khó nói khăn cũng vẫn phải trả nợ. Cho nên người ta cho ở đời khổ nhất là bị tội, rồi đến mắc nợ. Câu này ngụ ý than phiền về nỗi khổ sở của người vay nợ. Đồng thời có ý khuyên người ta không nên làm điều bậy bạ để khỏi mắc tội, không nên ăn tiêu phung phí để khỏi mang nợ. Vướng vào tội, nợ thì khó mà sống yên ổn được và đương nhiên cũng sẽ trở thành người “ăn hại đái nát”, vô tích sự, làm khổ người thân, gia đình.
Để chỉ người vô tích sự, dân gian cũng dùng từ “ăn hại đái khai”, “ăn không ngồi rồi”, “ăn dầm nằm dề”... Theo TS Đinh Đức Thành, Viện Hán Nôm, hình ảnh miếng ăn trong ca dao, tục ngữ, trong văn hóa dân gian Việt Nam khá phổ biến. Điều này được lý giải ở nhiều luận cứ khác nhau, trong điều kiện sống khó khăn, miếng ăn, nước uống là nhu cầu cơ bản hàng ngày, lại không mấy khi được thỏa mãn, nên tâm lý coi trọng miếng ăn thể hiện khá rõ. Ăn Tết, ăn cưới, ăn giỗ, ăn hỏi... đều gắn với “ăn”, các thói hư tật xấu hay ngợi ca cổ vũ gắn liền với miếng ăn cũng rất nhiều. Nếu ví với một cái gì đó khác, người nghe sẽ vừa khó hình dung, lại khó phổ biến, truyền miệng. Vì thế, qua “miếng ăn” để thể hiện sự cổ vũ hay chê trách là cách chọn lựa dễ hiểu.

Theo các chuyên gia, những thành ngữ được sử dụng phổ biến vì đa phần chúng dễ hiểu. Nhiều khi việc truy nguyên nghĩa gốc chỉ là một kênh để tham khảo, không làm thay đổi nghĩa tường minh của thành ngữ. Khi sử dụng các thành ngữ này, cũng không nên căn vặn việc sử dụng trong văn cảnh có đúng với nghĩa gốc ban đầu hay không vì rất có thể các hình ảnh ví von đã không còn phổ biến, dễ hiểu ở hiện tại.
Bảo Khánh
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét