Chủ Nhật, 31 tháng 5, 2015
ĐỊA LINH NHÂN KIỆT 76
Đinh Công Tráng
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Đinh Công Tráng (chữ Hán: 丁公壯; 1842 - 1887) là lãnh tụ chính của khởi nghĩa Ba Đình (tên cứ điểm ở huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá) trong phong trào Cần vương chống Pháp ở cuối thế kỷ 19 tại Việt Nam.
Thân thế & sự nghiệp
Đinh Công Tráng sinh năm Nhâm Dần (1842) tại làng Trinh Xá, huyện Thanh Liêm (nay là xã Thanh Tân, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam).Khi quân Pháp tiến hành công cuộc xâm chiếm Bắc Kỳ, đang là một chánh tổng, ông đến gia nhập đội quân của Hoàng Kế Viêm, rồi tham gia trận Cầu Giấy ngày 19 tháng 5 năm 1883.
Khởi nghĩa Ba Đình
- Bài chính: Khởi nghĩa Ba Đình
Theo giúp Đinh Công Tráng có nhiều cộng sự, trong đó có Phạm Bành là người tài giỏi và đắc lực, đã cùng ông chỉ huy lực lượng nghĩa quân đánh bại hai đợt tấn công quy mô lớn của Pháp ngày 18 tháng 12 năm 1886 và ngày 6 tháng 1 năm 1887.
Trận ngày 18 tháng 12 năm 1886
Quân Pháp gồm 500 lính, có đại bác 80 ly yểm hộ, tấn công căn cứ Ba Đình từ hai hướng. Hướng tây nam do trung tá Metzanhzơ (Metzinzer), hướng đông bắc do trung tá Đôt (Dodds) chỉ huy, nhưng đều bị nghĩa quân đánh lui. Sau trận này, thấy không thể thắng nhanh được, nên quân Pháp chuyển sang phương án bao vây.Trận ngày 6 tháng 1 năm 1887 - 21 tháng 1 năm 1887
Ngày 6 tháng 1 năm 1887, Trung tá Đôt lại cho quân tấn công đợt nữa, nhưng cũng không thành công, ông bèn cho quân rút ra xa, tổ chức bao vây và chờ viện binh.Không thể để căn cứ Ba Đình tồn tại giữa vùng đồng bằng giáp ranh Thanh Hóa và Ninh Bình, làm cản trở công cuộc thôn tính nước Việt, Bộ Tư lệnh quân viễn chinh Pháp quyết định:
-Nâng số quân Pháp đánh Ba Đình lên 3.530 lính (1.580 lính Âu và 1.950 lính bản xứ). Ngoài ra, còn 5 nghìn dân binh và giáo dân của linh mục Trần Lục đến tiếp tay.
-Tăng số pháo sử dụng lên 36 khẩu, trong đó có 4 khẩu 95 ly, 10 khẩu 81 ly, 4 khẩu 65 ly,...
-Đưa 4 pháo hạm và nhiều thuyền lớn đến yểm trợ và lo việc tiếp vận.
-Cử Đại tá Brixô (Brissaud) làm tổng chỉ huy.
Sau khi cắt đứt xong đường tiếp tế của nghĩa quân, Đại tá Brissaud liền cho quân tiến đánh căn cứ Ba Đình. Lần này, Brissaud vừa cho phun dầu đốt cháy các lũy tre, vừa cho nã pháo tới tấp, biến căn cứ Ba Đình thành một biển lửa.
Trước sức mạnh của đối phương, đêm 20 rạng 21 tháng 1 năm 1887, Đinh Công Tráng cho quân phá vòng vây, rút về căn cứ dự phòng ở Mã Cao.
Sáng ngày 21 tháng 1 năm 1887, quân Pháp chiếm được cứ điểm Ba Đình. Sau khi ra sức tàn phá, họ còn bắt buộc triều đình nhà Nguyễn phải xóa tên ba làng trên bản đồ hành chính .
Trận đồn Mã Cao
Thủ lĩnh Đinh Công Tráng vừa đến Mã Cao, chưa kịp củng cố lực lượng, thì đã bị quân Pháp đuổi theo tấn công. Ngày 2 tháng 2 năm 1887, một trận giao tranh ác liệt đã xảy ra ở đây. Thấy không đủ sức kháng cự, lợi dụng lúc đêm tối, các thủ lĩnh đành phải cho quân rút theo hướng Thung Voi, Thung Khoai, rồi lên miền Tây Thanh Hóa sáp nhập với đội nghĩa quân của Cầm Bá Thước. Một số khác theo Đinh Công Tráng rút về Nghệ An.Hy sinh
Về Nghệ An, Đinh Công Tráng định gây lại phong trào, nhưng đến ngày 5 tháng 10 năm 1887 thì ông đã hy sinh trong một trận chiến đấu với đối phương tại làng Trung Yên, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An.Nhận xét
Tướng Pháp tên là Mason nhận định về Đinh Công Tráng như sau:- (Ông) là người có trật tự, trọng kỷ luật, cương trực, hay nghiêm trị những thủ hạ quấy nhiễu dân; có chí nhẫn nại, biết mình, biết người, không bao giờ hành binh cẩu thả, giỏi lập trận thế.
- Thất bại của ông bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, mà trực tiếp là do chiến thuật phòng ngự bị động, với việc lập chiến tuyến cố thủ tại một vùng đồng chiêm trũng, địa bàn chật hẹp, dễ dàng bị cô lập khi bị đối phương bao vây hoặc tấn công. Đây được coi là điển hình của lối đánh chuyến tuyến cố định.
- Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 00:05 ngày 1 tháng 4 năm 2015.
Tống Duy Tân
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Thân thế & sự nghiệp
Tống Duy Tân là người làng Bồng Trung, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Năm Canh Ngọ (1870), ông đỗ cử nhân, đến năm Ất Hợi (1875), thì đỗ tiến sĩ. Bước đầu, ông được bổ làm Tri huyện, sau làm Đốc học Thanh Hóa rồi Thương biện tỉnh vụ.Hưởng ứng dụ Cần Vương
Tháng 7 năm 1885, hưởng ứng dụ Cần Vương, Tống Duy Tân được vua Hàm Nghi phong làm Chánh sứ sơn phòng Thanh Hóa. Sau đó, ông tham gia xây dựng chiến khu Ba Đình.Năm 1886, Tống Duy Tân và Cao Điển[2] nhận lệnh của thủ lĩnh Đinh Công Tráng đến Phi Lai (Hà Trung, Thanh Hóa) lập căn cứ, nhằm hỗ trợ cho căn cứ chính là Ba Đình. Ngoài căn cứ Phi Lai trong sự nghiệp chung, Tống Duy Tân còn chuẩn bị lực lượng và căn cứ kháng Pháp ngay tại quê hương mình, đó là căn cứ Hùng Lĩnh, nằm ở vùng thượng nguồn sông Mã thuộc Vĩnh Lộc, Thanh Hóa.
Đầu năm 1887, đông đảo quân Pháp kéo đến đàn áp dữ dội phong trào Cần Vương ở tỉnh này. Căn cứ Ba Đình và căn cứ Mã Cao nối tiếp nhau thất thủ. Sau đó, các thủ lĩnh lần lượt hy sinh (Đinh Công Tráng, Nguyễn Khế, Hoàng Bật Đạt), tự sát (Phạm Bành, Hà Văn Mao, Lê Toại), hoặc đi tìm phương kế khác (Trần Xuân Soạn).
Trước tình thế hiểm nguy, Tống Duy Tân bèn mang quân chạy lên căn cứ Hùng Lĩnh, lập nên một trung tâm kháng chiến mới. Các cộng sự cùng theo có Cao Điển, Cầm Bá Thước, Hà Văn Nhọ,...Tuy nhiên, nghĩa quân Hùng Lĩnh chỉ mở được vài trận tập kích, thì bị thiếu tá Térillon dẫn quân đến vây đánh rất gắt.
Xét thấy lực lượng Hùng Lĩnh vừa gầy dựng bị cô thế và yếu sức hơn, Tống Duy Tân bèn đi ra Bắc rồi Trung Quốc để gặp gỡ các sĩ phu yêu nước, tìm nguồn hỗ trợ và liên kết với các lực lượng kháng Pháp khác. Theo sử gia Phạm Văn Sơn thì Tống Duy Tân đã gặp Tôn Thất Thuyết tại Quảng Đông, và ông đã nghe theo lời vị tướng này trở về Thanh Hóa để tiếp tục công cuộc kháng Pháp .
Tiếp tục công cuộc kháng Pháp
Đầu năm 1889, Tống Duy Tân về đến quê nhà. Sau khi tập hợp lại lực lượng, thì ông trở thành người chỉ huy chính của phong trào kháng Pháp tại Hùng Lĩnh ở thượng nguồn sông Mã (thuộc huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa).Từ nơi đó, ông cùng hai cộng sự là Cao Điển và Cầm Bá Thước cho quân mở rộng địa bàn hoạt động lên tận vùng hữu ngạn và tả ngạn sông Mã, đến hợp đồng chiến đấu với Đề Kiều-Đốc Ngữ ở vùng hạ lưu sông Đà, và với Phan Đình Phùng ở vùng rừng núi Nghệ An-Hà Tĩnh.
Tổ chức của các ông khá quy củ. Mỗi huyện có một cơ binh, lấy tên huyện đặt tên cho đơn vị, ví dụ như Nông Thanh cơ (tức cơ Nông Cống ở Thanh Hóa), Tống Thanh cơ (tức cơ Tống Sơn ở Thanh Hóa),...
Hay tin, ngày 8 tháng 10 năm 1889, quân Pháp gồm 24 tên do thiếu úy Morfond (đồn trưởng đồn Nông Cống) từ đồn Nông Cống đi đến dò xét thì chạm súng với nghĩa quân Hùng Lĩnh; kết cục chúng đã bỏ lại ở chiến trường 9 xác chết của thiếu úy Morfond, 4 lính Pháp và 4 lính khố xanh. Ngày 22 tháng 10, Đại tá Barbaret dẫn 185 quân có trang bị đại bác từ Thanh Hóa kéo đến tấn công. Sau ngày kịch chiến, Tống Duy Tân cho quân rút về phía Bắc Phố Cát (Thạch Thành), rồi sang Vạn Lại (Bắc Ninh). Cuối tháng này, nhờ có những toán quân cũ của tướng Trần Xuân Soạn tìm đến tham gia, nên Tống Duy Tân lại cho quân đẩy mạnh hoạt động trong các huyện Yên Định, Thọ Xuân, Nông Cống.
Thấy công cuộc thôn tính nước Việt bị cản trở, Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương là J. Bichot đã đưa Trung tá Lefèvre đến thay Barbaret, điều một lực lượng lớn (có cả đại bác) đến tấn công phong trào do Tống Duy Tân làm thủ lĩnh. Trước lực lượng đối phương đông đảo, lại được trang bị vũ khí mạnh, ông phải cho quân vừa chống đỡ các cuộc tấn công của Lefèvre ở Vạn Lại (30/11/1889), cuộc tấn công của Đại úy Colleta ở Yên Lược (1/12/1889)...vừa rút lui để bảo toàn lực lượng.
Trong năm 1890, Tống Duy Tân đã tổ chức tập kịch nhiều trận như trận làng Kẽm (1/1/1890) - quân Pháp của tên Trung tá Jorne de Lacale (thay Lefèvre) bị thiệt hại nặng, đại úy Christophe bị tử thương; trận Vân Đồn (Nông Cống) đánh tan đạo quân do Công sứ Thanh Hóa Lebrun chỉ huy, Yên Lãng (29/3/1890) ở Xuân Yên-Thọ Xuân (bên tả ngạn sông Chu). Sáng ngày 26/4, quân Pháp tấn công tiền đồn Na Lung của Cao Điển. Không thể giữ được đồn, Cao Điển rút về và bày binh bố trận, đánh tan quân Pháp ở trận Thanh Khoái xảy ra vào ngày 29 tháng 5 năm 1890 (thiếu úy Bonnet và 6 lính cơ tử trận, nhiều lính bị thương trong đó có viên sĩ quan tên Viola). Bị thiệt hại đáng kể, quân Pháp bèn tập trung lực lượng mở cuộc truy quét quy mô nhằm tiêu diệt nghĩa quân Hùng Lĩnh.
Kể từ đây trở đi, Lực lượng của Tống Duy Tân bước vào thời kỳ chiến đấy gay go và gian khổ hơn. Nhất là sau trận Thanh Khoái, nghĩa quân ông lâm vào tình thế bị cô lập nên bị thiếu thốn mọi mặt.
Đầu năm 1891, Tống Duy Tân cho chuyển quân từ An Lẫm (châu Thuồng Xuân) lên Lang Vinh (một làng Mường ở châu Thường Xuân). Hay tin, quân Pháp do Giám binh Soler chỉ huy liền tổ chức tấn công. Mặc dù chống trả quyết liệt, nhưng cuối cùng ông cũng phải bỏ hết các công sự xây dở dang, dẫn tàn quân rút về Hòn Mông, rồi về vùng Trịnh Vạn thuộc châu Thường Xuân (tức quê hương và là căn cứ của Cầm Bá Thước).
Tháng 3 năm 1892, từ sông Đà, Đốc Ngữ dẫn quân vượt sông Mã vào Thanh Hóa. Sau khi bàn bạc, Tống Duy Tân và Đốc Ngữ cùng hợp quân đi tấn công quân Pháp ở hang Niên Kỷ (nay thuộc xã Thiết Ống, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa). Mặc dù thu được một số thắng lợi, nhưng cũng không thể nào cứu vãn được tình thế.
Hoạt động ở đây một thời gian ngắn, thì Đốc Ngữ dẫn quân trở lại mạn sông Đà; còn Tống Duy Tân, thì ở lại cầm cự một thời gian nữa. Nhưng trước cuộc bao vây và càn quét ngày càng ác liệt của đối phương, khoảng tháng 9 năm 1892, ông tuyên bố giải tán lực lượng để tránh thêm thương vong.
Bị giết chết
Sau đó, ông về ẩn náu ở hang Niên Kỷ (nay thuộc xã Thiết Ống, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa), còn Cao Điển cùng một số thuộc hạ quyết chí theo thì đóng trên một ngọn đồi gần bên. Chẳng lâu sau, án sát Hà Tĩnh Cao Ngọc Lễ (vừa là học trò cũ, vừa là cháu kêu Tống Duy Tân bằng cậu) đi mật báo cho Pháp và quân Pháp do tên thiếu úy Pháp Hensxhell cùng 20 lính đến bủa vây và bắt được Tống Duy Tân vào ngày y 4 tháng 10 năm 1892.Trước hôm đó một ngày (ngày 3 tháng 10), một toán quân Pháp khác gồm 30 người đi vây bắt Cao Điển. Hai bên đụng độ ác liệt. Nghĩa quân bị bắt 2, chết 6; nhưng Cao Điền đã kịp chạy thoát cùng bốn năm người với hai khẩu súng...
Không chiêu hàng được, Công sứ Pháp ở Thanh Hóa Boulloche ra lệnh cho tên Tổng đốc Thanh Hóa Nguyễn Thuật (vốn là bạn cũ của ông) xử tử Tống Duy Tân tại Thạnh Hỏa ngày 5 tháng Mười năm Nhâm Thìn (tức 23 tháng 11 năm 1892), lúc 55 tuổi. Đến đây, cuộc khởi nghĩa mà ông cùng đồng đội đã cố công gầy dựng coi như kết thúc.
Trước ngày mất, Tống Duy Tân có làm đôi câu đối:
- Nhị kim thủy liễu tiên sinh trái
- Tự cổ do truyền bất tử danh
- Nghĩa:
- Món nọ tiên sinh nay mới trả
- Cái danh bất tử trước còn truyền
Thương tiếc
Sau khi Tống Duy Tân thọ án, nhân sĩ tỉnh Thanh Hóa có làm bài thơ và câu đối điếu đều bằng chữ Hán. Giới thiệu câu đối điếu:- Tự cổ anh hùng, thiết thạch can trường nan tận tả;
- Đáo đầu sự thế, xuyên hà huyết lệ hạt năng lưu.
- Nghĩa là:
- Từ trước anh hùng, dạ sắt gan vàng không xiết tả;
- Đến cùng sự thế, máu sông lệ suối chảy sao trôi!
- Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 00:06 ngày 1 tháng 4 năm 2015.
Cao Điển
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Cao Điển (? - ?) hay Cao Điền, là một võ quan nhà Nguyễn và là một cộng sự đắc lực của Tống Duy Tân trong cuộc khởi nghĩa Hùng Lĩnh (1887-1892) chống Pháp ở cuối thế kỷ 19 tại Việt Nam.
Tiểu sử
Cao Điển, không rõ thân thế. Khi bắt đầu tham gia phong trào Cần Vương tại Sầm Sơn (Thanh Hóa), ông chỉ là một viên suất đội, sau thăng dần đến chức Đề đốc.Năm 1886, ông và Sơn phòng sứ Tống Duy Tân nhận lệnh của thủ lĩnh Đinh Công Tráng đến Phi Lai (Hà Trung, Thanh Hóa) lập căn cứ, nhằm hỗ trợ cho căn cứ chính là Ba Đình. Ngoài căn cứ Phi Lai trong sự nghiệp chung, ông còn theo Tống Duy Tân lập thêm một căn cứ nữa, đó là căn cứ Hùng Lĩnh, nằm ở vùng thượng nguồn sông Mã thuộc Vĩnh Lộc, tức nơi quê hương của Tống Duy Tân.
Đầu năm 1887, đông đảo quân Pháp kéo đến đàn áp dữ dội phong trào Cần Vương ở tỉnh này. Căn cứ Ba Đình và căn cứ Mã Cao nối tiếp nhau thất thủ...Trước tình thế hiểm nguy, Cao Điền và Tống Duy Tân bèn mang quân chạy lên Hùng Lĩnh, lập nên một trung tâm kháng chiến mới. Tuy nhiên, nghĩa quân Hùng Lĩnh chỉ mở được vài trận tập kích, thì bị thiếu tá Térillon dẫn quân đến vây đánh gắt.
Xét thấy lực lượng Hùng Lĩnh vừa gầy dựng bị cô thế và yếu sức hơn, Tống Duy Tân giao quyền chỉ huy lại cho Cao Điền, để đi ra Bắc rồi sang Trung Quốc tìm nguồn hỗ trợ và liên kết với các lực lượng kháng Pháp khác. Nghe lời tướng Tôn Thất Thuyết (lúc bấy giờ đang ở Quảng Đông), đầu năm 1889, Tống Duy Tân về lại quê nhà. Sau khi tập hợp lại lực lượng, Tống Duy Tân trở thành người tổng chỉ huy phong trào, thì Cao Điển và Cầm Bá Thước đều trở thành người phụ tá cho ông. Kể từ đó Cao Điển và Tống Duy Tân luôn gắn bó với nhau để thúc đẩy mọi hoạt động của công cuộc kháng Pháp.
Sau khi bị nghĩa quân Hùng Lĩnh tập kích nhiều trận, bị thiệt hại đáng kể, quân Pháp bèn tập trung lực lượng mở cuộc truy quét quy mô nhằm tiêu diệt nghĩa quân Hùng Lĩnh. Vì vậy, nghĩa quân ngày càng lâm vào tình thế bị cô lập nên bị thiếu thốn về mọi mặt, nhất là sau trận Thanh Khoái xảy ra vào ngày 29 tháng 5 năm 1890.
Tháng 3 năm 1892, từ sông Đà, Đốc Ngữ dẫn quân vượt sông Mã vào Thanh Hóa. Sau khi bàn bạc, Cao Điển, Đốc Ngữ và Tống Duy Tân cùng hợp quân đi tấn công quân Pháp ở Niên Kỷ (nay thuộc huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa). Mặc dù thu được một số thắng lợi, nhưng cũng không thể nào cứu vãn được tình thế.
Hoạt động ở đây một thời gian ngắn, Đốc Ngữ dẫn quân trở lại mạn sông Đà còn Cao Điển và Tống Duy Tân, thì ở lại cầm cự một thời gian nữa. Nhưng trước cuộc bao vây và càn quét ngày càng ác liệt của đối phương, khoảng tháng 9 năm 1892, hai ông ra tuyên bố giải tán quân sĩ để tránh thêm thương vong .
Sau đó, Tống Duy Tân về ẩn náu ở hang Niên Kỷ, còn Cao Điển cùng một số thuộc hạ quyết chí theo thì đóng trên một ngọn đồi gần bên. Chẳng lâu sau, Cao Ngọc Lễ (vừa là học trò cũ, vừa là cháu kêu Tống Duy Tân bằng cậu) đi mật báo cho Pháp đến bủa vây và bắt được Tống Duy Tân vào ngày 4 tháng 10 năm 1892 .
Trước hôm đó một ngày (ngày 3 tháng 10), một toán quân Pháp khác gồm 30 người đi vây bắt Cao Điển. Hai bên đụng độ ác liệt. Nghĩa quân bị bắt 2, chết 6; nhưng Cao Điền đã kịp chạy thoát cùng bốn năm người với hai khẩu súng...
Không chiêu hàng được, Tống Duy Tân bị thực dân Pháp cho xử tử tại Thanh Hóa ngày 5 tháng 10 (âm lịch) năm Nhâm Thìn (1892), lúc 55 tuổi. Đến đây, cuộc khởi nghĩa mà ông cùng đồng đội đã cố công gầy dựng coi như kết thúc.
Phần Cao Điền, trú ẩn ở đất Bắc được một thời gian, ông định đến với Hoàng Hoa Thám (thủ lĩnh khởi nghĩa Yên Thế), nhưng vừa tới Bắc Giang thì đã bị quân Pháp bắt được vào ngày 16 tháng 1 năm 1896. Hiện vẫn chưa tra được số phận về sau của ông.
- Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 00:05 ngày 1 tháng 4 năm 2015.
Cầm Bá Thước
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Cầm Bá Thước (1858[1]-1895), tên Thái: Lò Cắm Pán, là một trong những thủ lĩnh người người dân tộc Thái hưởng ứng phong trào Cần Vương ở Thanh Hóa (Việt Nam) vào cuối thế kỷ 19.
Thân thế
Cầm Bá Thước sinh tại bản Lùm Nưa, tổng Trịnh Vạn, châu Thường Xuân (nay là xã Vạn Xuân, huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hoá), trong một gia đình lang đạo nhiều đời. Cha ông là Cầm Bá Tiêu từng được triều vua Tự Đức phong chức Quản cơ.Năm lên 8 tuổi, cha ông mời thầy về nhà dạy chữ Hán cho ông. Nhờ ông học giỏi và có quan hệ tốt với các quan lại người Việt đang trấn nhậm tại quê ông, nên khi trưởng thành, ông được thay cha trở thành thổ ty và được triều đình nhà Nguyễn phong chức Bang tá.
Hưởng ứng dụ Cần Vương
Được giao quyền chỉ huy quân sự
Ngày 5 tháng 7 năm 1885, quân triều đình tập kích quân Pháp ở đồn Mang Cá thất bại. Quân Pháp phản công, kinh thành Huế bị thất thủ. Tôn Thất Thuyết đưa vua Hàm Nghi lên chiến khu Tân Sở (Quảng Trị) ra dụ Cần Vương kêu gọi toàn dân chống Pháp.Nhận thấy tương quan lực lượng khá chênh lệch, vào tháng 2 năm 1886, Tôn Thất Thuyết đã để cho hai con trai của mình là Tôn Thất Thiệp và Tôn Thất Đạm tiếp tục duy trì triều đình Hàm Nghi chống Pháp, còn mình cùng với Trần Xuân Soạn và Ngụy Khắc Kiều tìm đường sang Trung Quốc cầu viện nhà Thanh.
Trên đường đi, ông có đến tổng Trịnh Vạn thuộc châu Thường Xuân để gặp Cầm Bá Thước. Trong kế hoạch kháng Pháp, Tôn Thất Thuyết rất chú ý tỉnh Thanh Hóa. Vì vậy, ông đã cử Tống Duy Tân làm Chánh sứ Sơn phòng Thanh Hóa, phong Cầm Bá Thước làm Bang biện quân vụ hai châu Thường Xuân và Lang Chánh và phong Hà Văn Mao làm Tán lý quân vụ, chuẩn bị lực lượng nghĩa quân Mường vùng châu Quan Hóa.
Với danh nghĩa Bang biện quân vụ, Cầm Bá Thước nắm được lực lượng quân sự thổ binh, dân binh của hai châu Thường Xuân và Lang Chánh. Lực lượng này tuy đông nhưng sức chiến đấu không mạnh. Theo kế của cử nhân Tống Nhữ Mai, con trai Tống Duy Tân, ông làm tờ bẩm lên Tri châu Thường Xuân xin mộ quân và huy động lực lượng đóng đồn bảo vệ trị an từ Bái Thượng trở lên đến biên giới Lào. Được sự đồng ý của Tri châu Thường Xuân, Cầm Bá Thước đã cho điều động dân binh, bố trí lại việc canh gác và đóng các đồn suốt từ Bái Thượng lên Cửa Đặt, rồi lên đến Bất Mọt. Dọc theo sông Đặt, Cầm Bá Thước cho xây dựng rất nhiều đồn lũy, lập nhiều căn cứ như căn cứ Bản Lẹ, đồn Đồng Chong, đồn Bù Đồn...Ngoài ra, để tăng cường sức mạnh cho lực lượng, ông đã đề xuất và được phép đem quế đi bán để lấy tiền mua vũ khí cùng lương thực.
Tham gia khởi nghĩa Hùng Lĩnh
Đầu năm 1887, đông đảo quân Pháp kéo đến đàn áp dữ dội phong trào Cần Vương tại Thanh Hóa. Căn cứ Ba Đình và căn cứ Mã Cao nối tiếp nhau thất thủ. Sau đó, các thủ lĩnh lần lượt hy sinh (Đinh Công Tráng, Nguyễn Khế, Hoàng Bật Đạt), tự sát (Phạm Bành, Hà Văn Mao, Lê Toại), hoặc đi tìm phương kế khác (Trần Xuân Soạn), v.v...Biết mình yếu sức hơn, Tống Duy Tân đi ra Bắc rồi sang Trung Quốc để gặp gỡ các sĩ phu yêu nước, tìm nguồn hỗ trợ và liên kết với các lực lượng kháng Pháp khác. Theo sử gia Phạm Văn Sơn thì Tống Duy Tân đã gặp Tôn Thất Thuyết tại Quảng Đông, và ông đã nghe theo lời vị tướng này trở về Thanh Hóa để tiếp tục công cuộc kháng Pháp [2]. Đầu năm 1889, Tống Duy Tân về đến quê nhà, và sau đó ông trở thành người chỉ huy chính của phong trào kháng Pháp tại Hùng Lĩnh.
Bởi chung chí hướng, Cầm Bá Thước liền nhận lời mời cộng tác của Tống Duy Tân [3]. Kể từ đó, Cầm Bá Thước cùng Tống Duy Tân, Cao Điển và nhiều cộng sự khác cho quân mở rộng địa bàn hoạt động lên tận vùng hữu ngạn và tả ngạn sông Mã; đến hợp đồng chiến đấu với Đề Kiều-Đốc Ngữ ở vùng hạ lưu sông Đà, với Phan Đình Phùng ở vùng rừng núi Nghệ An-Hà Tĩnh, với Hà Văn Nho (thủ lĩnh Mường) tại châu Quan Hóa, với Tôn Thất Hàn ở Nông Cống, v.v...
Sau nhiều trận giao tranh (nổi tiếng nhất là trận Vân Đồn ở Nông Cống đầu năm 1889, trận Yên Lãng tại Thọ Xuân vào tháng 3 năm 1890), tuy thu được một số thắng lợi, nhưng vào cuối năm 1890 trở đi, nghĩa quân Hùng Lĩnh bước vào thời kỳ chiến đấu gay go và gian khổ hơn. Bởi nhân dân bị khủng bố quá dữ nên không dám theo và cung ứng đầy đủ các thứ nữa [4].
Cầm cự thêm một thời gian, khoảng tháng 9 năm 1892, thì thủ lĩnh Tống Duy Tân phải tuyên bố giải tán lực lượng để tránh thêm thương vong [5]. Sau đó do bị chỉ điểm, Tống Duy Tân bị quân Pháp bắt được và cho xử tử ông tại Thanh Hóa ngày 5 tháng Mười (âm lịch) năm Nhâm Thìn (tức 23 tháng 11 năm 1892)[6]. Khởi nghĩa Hùng Lĩnh đến đây coi như đã thất bại.
Tham gia khởi nghĩa Hương Khê
Sau đánh dẹp được cuộc khởi nghĩa ở Ba Đình và ở Hùng Lĩnh, quân Pháp rảnh tay liền huy động lực lượng cô lập Trịnh Vạn, căn cứ chính của Cầm Bá Thước.Trước tình thế đó, tháng 3 năm 1893, Cầm Bá Thước phải tạm trá hàng với Công sứ Pháp ở Thanh Hóa, rồi âm thầm cho Bang Lự vào Hà Tĩnh bàn chuyện liên kết với Phan Đình Phùng, thủ lĩnh khởi nghĩa Hương Khê. Sau đó, Trịnh Vạn trở thành quân thứ Thanh Hóa (gọi tắt là "Thanh thứ") của lực lượng Hương Khê.
Dò biết được chuyện này, đầu tháng 2 năm 1894, Bộ chỉ huy quân Pháp cử Giám binh Lemeray (La-mơ-ray) lên Trịnh Vạn thám sát tình hình. Lúc trở về, Lemeray khẳng định Cầm Bá Thước chỉ trá hàng, vì vẫn tiếp tục rèn luyện quân sĩ và tích trữ lương thực, chuẩn bị chiến đấu.
Lập tức, Bộ chỉ huy quân Pháp đã điều một đội quân từ Thanh Hóa tiến lên Cửa Đặt (châu lỵ Thường Xuân) để chuẩn bị tấn công Trịnh Vạn. Quân Pháp chia làm ba toán. Một toán do Cuvelier (Cu-vơ-li-ê) chỉ huy tiến dọc theo sông Chu. Toán thứ hai do Marlier (Mắc-li-ê) chỉ huy đi hướng từ phía Nam theo sông Luộc. Toán thứ ba do Lecal (Lơ-Cát) chỉ huy men theo sông Đặt.
Để giành thế chủ động, ngày 6 tháng 2 năm 1894, Cầm Bá Thước dẫn nghĩa quân tấn công đồn Thổ Sơn cách Bãi Thượng 10km, ngay khi Giám binh Lemeray vừa tới Trịnh Vạn. Tiếp theo, ngày 11 tháng 2 năm 1894, ông lại sai quân lại tập kích đồn Quang Thôn. Đêm hôm đó, cánh quân của Lecal đang đóng ở Yên Lược (Thọ Xuân) lên tiếp viện cho đồn Thổ Sơn trong đêm để giải cứu Lemeray. Thấy có quân tiếp viện, quân Trịnh Vạn liền rút về căn cứ. Sáng hôm sau, Lecal cho quân tấn công lên Quang Thôn, giải vây cho đồn này. Tháng 3 năm 1894, quân Trịnh Vạn lại tấn công đồn Cửa Đặt, nhưng không thành công.
Nhận thấy quân Pháp quá mạnh, Cầm Bá Thước cho hết dân sơ tán vào rừng, thanh niên ở lại chiến đấu. Quân Pháp tấn công đồn Bù Lẹ, Bù Đồn. Dựa vào công sự có sẵn, nghĩa quân chống cự quyết liệt, quân Pháp bị thương vong nhiều. Đang khi chiến đấu, thì cánh quân của Marlier kéo tới. Thấy có viện binh, Cầm Bá Thước liền cho quân rút về Cọc Chẽ (nay ở xã Xuân Lệ) ở phía Đông Nam Trịnh Vạn.
Chiếm được Trịnh Vạn, quân Pháp xây đồn mới ở Bù Đồn và Đồng Chong để trấn giữ, đồng thời ra sức khủng bố. Mặc dù vậy, nghĩa quân vẫn liên tục mở các cuộc tập kích quân Pháp.
Để nhanh chóng bình định nơi này, quân Pháp tập trung thêm binh lực ở Trịnh Vạn. Đối phó lại, Cầm Bá Thước cho bố trí một trận địa lớn, giao cho lý trưởng làng Cúc là Hà Văn Vạn trá hàng để dẫn đường quân Pháp tấn công Cọc Chẽ, một căn cứ của nghĩa quân. Ngày 29 tháng 1 năm 1895, quân Pháp mở cuộc hành quân lên Cọc Chẽ. Dọc đường bị phục kích, bị thiệt hại nặng, nhưng cuối cùng quân Pháp cũng đánh chiếm được nơi đó.
Căn cứ Cọc Chẽ bị phá hủy, Cầm Bá Thước cho quân xây dựng căn cứ mới ở Hòn Bòng, giáp giới Thanh-Nghệ ở thượng nguồn sông Đặt.
Ngày 10 tháng 5 năm 1895, Marlier thay Lemeray làm giám binh, dẫn 200 lính đánh vào Hòn Bòng. Sau bốn ngày liên tục chiến đấu, nghĩa quân suy yếu rõ rệt. Mối liên hệ của "Thanh thứ" với Hương Khê bị cắt đứt, vì chính lúc này căn cứ Hương Khê cũng đang bị bao vây ngặt nghèo, còn các phong trào chống Pháp ở Thanh Hóa thì hầu như đã tan rã hết.
Đến trưa ngày 13 tháng 5 năm 1895, quân Pháp bắt được Cầm Bá Thước cùng vợ, em trai và 12 nghĩa quân tại vùng núi Lang-ca-phó thuộc Thường Xuân, rồi đưa về giam ở Trịnh Vạn. Sau khi chiêu hàng không được, vào khoảng cuối tháng 5 năm Ất Mùi (1895), ông bị quân Pháp bí mật thủ tiêu. Năm đó, ông mới 37 tuổi.
Ghi nhận công lao
Công cuộc chống Pháp của Cầm Bá Thước duy trì được khá lâu, chỉ đứng sau cuộc khởi nghĩa Hương Khê. Lúc Cầm Bá Thước còn đang chống Pháp, Tôn Thất Thuyết, lúc này đang ở Trung Quốc cầu viện nhà Thanh, có làm bài thơ gửi ông:
|
|
|
|
- Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 00:05 ngày 1 tháng 4 năm 2015.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét