Thứ Hai, 18 tháng 5, 2015
ĐỊA LINH NHÂN KIỆT 69
Gốc tích dòng họ Vũ
GỐC TÍCH DÒNG HỌ VŨ (VÕ) VIỆT NAM
Dòng
họ Vũ (Võ) (miền Bắc gọi là Vũ, miền nam gọi là Võ) là một trong những dòng họ
lớn nhất Việt Nam và là một trong số ít dòng có chung một Thuỷ Tổ. Thuỷ Tổ Vũ Hồn
vừa là Thần Tổ, Thành Hoàng làng, vừa là Hương Thủy Tổ thờ ở đình làng Mộ Trạch,
xã Tân Hồng, huyện Bình Giàng, tỉnh Hải Dương (xưa có tên là Khê Mỗ, huyện Đường
An). Vốn là danh nhân nhà đường sang Việt Nam dựng nghiệp từ năm Ất Hợi
(năm 825).
Gia
tộc thần phả ở làng Mộ Trạch còn được giữ nguyên vẹn đến ngày nay, kể rằng: vào
đời Đường có ông quan tên là Vũ Công Huy khi đi du ngoạn đến ấp Mạn Nhuế, huyện
Thanh Lâm , đất Hồng Châu thấy một kiểu
đất đẹp ở giữa cánh đồng mênh mông có 98 gò đất nhỏ bao quanh một gò cao và lớn
tựa như 98 ngôi sao chầu về mặt trời “CỬU THẬP BÁT TÚ TRIỀU DƯƠNG” hay còn gọi
là “BÁCH NHẠN HỘI SÀO”. Dân chúng trong vùng gọi là Đống Dờm. Ông quan về Trung
Quốc đưa hài cốt thân phụ sang táng treo tại gò đất to, đẹp nhất rồi làm nhà tạm
để trông nom ngôi mộ. Bia nhỏ khắc dòng chữ “VŨ THỊ TỔ MỘ” (mộ Tổ của họ Vũ).
Ông lấy một thiếu nữ con nhà nề nếp ở Mạn Nhuế, tên là Nguyễn Thị Đức. Hai ông
bà sống với nhau ở Phúc Kiến – Trung Quốc. Ngày mùng 8 tháng giêng năm Giáp
Thân ( năm 804) sinh hạ được người con trai khôi ngô tuấn tú, tên là Vũ Hồn.
Năm Canh Ngọ (năm 820) khi Vũ Hồn mới có 16 tuổi, đã thi đỗ kì thi Đình, được
vua Đường rất khen ngợi là người có tài thứ nhất trong thiên hạ, xứng đáng là
Trạng Nguyên. Ngoài văn hay chữ tốt, Vũ Hồn còn giỏi cả thiên văn, địa lý,
phong thủy…Tuy còn trẻ lại có tài có đức nên vua Đường bổ nhiệm làm Lễ Bộ Tả thị
Lang (đứng đầu hang quan văn). Đến năm 840, ông được phong chức Đô đài Ngự Sử
(trong nom mọi việc trong triều nội). Năm Ất Hợi (năm 825) đời Đường Kính Tông,
ông được cử sang An Nam làm Thể sử Giao Châu. Năm Tân Dậu (năm 841), ông được
thăng chức An Nam Kinh Lược Sử. Năm Quý Hợi (năm 843) khi cụ 39 tuổi, cụ xin với
vua Đường được nghỉ việc quan. Cụ Vũ Hồn đưa mẹ về quê ngoại Việt Nam. Đến vùng Lập Trạch thấy
kiểu đất đẹp sẽ phát đại khoa đời nối đời rồi lập nên xóm nhỏ có tên là Khả Mỗ
trang (ấp Đáng Mến) do cụ đặt tên, lâu dần chuyển thành Mộ Trạch. Cụ mất ngày
mùng 3 tháng chạp năm Quý Dậu (năm 853) hưởng thọ 49 tuổi. Cụ Vũ Hồn có 3 người
con:
v
Đệ nhất lang thi trúng tiến sĩ Nam Quốc
v
Đệ
nhị lang thi trúng tiến sĩ Bắc Quốc
v
Đệ
tam lang văn võ kiêm toàn biệt phù Chiêm Quốc
(Tư
liệu khắc trên bia đá nhà thờ cụ Vũ Uy một trong 18 vị khai quốc công thần triều
Lê ở Nông Cống – Thanh Hoá)
Về
sau xét công trạng của con cháu họ Vũ và tỏ lòng biết ơn công lao to lớn của cụ
từ đời Lê Hoàn đến đời Tự Đức, các vương triều đã lần lượt sắc phong, ban thêm
mĩ tự, chức tước cho ngài. Tất cả có 12 lần, 12 đạo sắc với nội dung tôn kính.
Hiện
nay, đền thờ ngài ở làng Mộ Trạch được nhà nước Việt Nam xếp hạng di tích lịch sử
văn hoá cấp quốc gia, kí ngày 15 tháng 01 năm 1991.
Kể
từ khi ngài Vũ Hồn mất, gia phả họ Vũ bị gián đoạn không hiểu vì sao. Dòng họ
Vũ như vết dầu loang thiên di đi khắp nơi từ Đường An rồi tời ba trấn Nam, Bắc,
Đoài của toàn hạt Bắc Hà.,đến hiện nay, theo bản tổng hợp của các chi tộc lấy
chữ đệm ở giữa họ và tên kể từ Vũ Anh, Vũ Bá, Vũ Đình…trên cả nước có tới hàng
trăm chi họ.
Nghiêm Hoản
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nghiêm Hoản (?-?), còn có tên là Nghiêm Viên, sau được vua Lê Thánh Tông đổi tên là Nghiêm Viện (chữ Hán: 嚴瑗), quê xã Phùng Ninh Giang, huyện Quế Dương, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (nay huyện Quế Võ, Bắc Ninh).
Đỗ trạng nguyên khoa Bính Thìn niên hiệu Hồng Đức thứ 27 (1496) , đời Lê Thánh Tông. Ông là Phò mã của vua Lê Thánh Tông nhưng mất ngay sau khi đỗ, chưa kịp nhận chức. Trong khoa thi này, thực tế Triệu Nghị Phù (趙誼符) (1462-?), quê xã Đức Lạp, huyện Lập Thạch (nay thuộc huyện Lập Thạch tỉnh Vĩnh Phúc)
mới là người thi đỗ Trạng nguyên nhưng phạm lỗi nên bị truất xuống Đệ
nhị giáp. Có sách ghi là Triệu Tuyên Phù. Sự nghiệp của ông này hiện
chưa rõ, nhưng theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục thì sau khi thi đỗ ông lấy công chúa, nhưng khi trở về nhà thì bị vợ đánh thuốc độc chết.Sự nghiệp
- Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 14:37 ngày 28 tháng 5 năm 2013.
Đỗ Lý Khiêm
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Đỗ Lý Khiêm (chữ Hán: 杜履謙, ? - ?), người làng Ngoại Lãng xã Song Lãng huyện Thư Trì, phủ Kiến Xương, trấn Sơn Nam Hạ (nay là làng Ngoại Lãng xã Song Lãng là huyện Vũ Thư tỉnh Thái Bình). Đỗ trạng nguyên khoa thi Kỷ Mùi, niên hiệu Cảnh Thống thứ 2 (1499), đời Lê Hiến Tông. Làm quan đến Phó đô Ngự sử. Đi sứ nhà Minh bị mất ở dọc đường.
Ông là anh ruột của tiến sĩ (đệ tam giáp đồng tiến sĩ), Hội nguyên khoa Mậu Thìn (1508), đời vua Lê Uy Mục, là Đỗ Oánh (tức Đỗ Vinh).
Ông là anh ruột của tiến sĩ (đệ tam giáp đồng tiến sĩ), Hội nguyên khoa Mậu Thìn (1508), đời vua Lê Uy Mục, là Đỗ Oánh (tức Đỗ Vinh).
- Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 22:07 ngày 8 tháng 11 năm 2013.
Thủy tổ dòng họ Đỗ
Trong lịch sử dân tộc ta, họ Đỗ là một trong những dòng họ nổi tiếng có nhiều truyền thống tốt đẹp trên các lĩnh vực chính trị, quân sự, văn hóa, giáo dục kinh tế, đóng vào công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam giàu, đẹp.
Dòng họ Đỗ đã tồn tại gắn liền với nơi phát tích, sinh tụ của người Việt cổ trên vùng đất này ít nhất cách đây khoảng 5.000-6.000 năm, trước thuở lập nước đầu tiên mang quốc hiệu Văn Lang, trước cả thời xác lập vua Hùng đời thứ nhất. Theo "Cổ Lôi Ngọc Phả Truyền Thư", "Bách Việt Tộc Phả" thì những người họ Đỗ xa xưa nhất tới nay được biết đến là cụ bà họ Đỗ, tên huý là Ngoạn, còn gọi là công chúa Đoan Trang. Cụ sinh ngày mồng tám tháng tư và hoá (mất) ngày rằm tháng bảy. Cụ thường được gọi theo họ là Đỗ Quý Thị ( tức Quý bà họ Đỗ). Cụ lấy chồng người họ Nguyễn tên là Nguyễn Minh Khiết tức là Đế Minh. Hai cụ sinh ta Lộc Tục (sau là Kinh Dương Vương). Họ Nguyễn Văn ở làng Vân Nội vẫn cúng giỗ cụ hằng năm với bài văn cúng: " Thỉnh tổ tổng khoa- Cúng gia tiên". Mộ và miếu thờ cụ ghi trong thư tịch cũ trên đây nay vẫn còn ở Ba La, thị xã Hà Đông.
Ngũ đáo thiên niên Đỗ tộc gia
Tử tôn Đỗ tộc phúc đại đa
Hà Tây mộ Tổ, Hà Đông "hiện"
“Quốc tích" tồn niên vị Quốc gia
Dịch ngữ:
Năm ngàn năm họ Đỗ ta
Cháu con họ Đỗ phúc một nhà
Hà Tây mộ Tổ, Hà Đông "tại"
"Quốc tích" còn đây với nước nhà...
Theo bản Tông phả họ Đỗ do Hoàng giáp năm Kỷ Hợi (1659) Đỗ Thiện Chính biên soạn, thì người được cho là khởi tổ họ Đỗ mà được biết tới ngày nay là: Đỗ Cảnh Thạc, một trong 12 sứ quân ở thế kỷ 10[1].
Họ Đỗ Việt Nam có truyền thống hiếu học và đỗ đạt. Trong các triều nhà Hậu Lê, nhà Mạc, vào khoảng các năm 1463 - 1733, họ Đỗ Việt Nam có 60 người đỗ đại khoa, gồm:
* 8 người đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ (2 Trạng nguyên, 2 Nhất giáp, 3 Bảng nhãn và 1 Thám hoa)
* 13 người đỗ Hoàng giáp
* 39 người đỗ Tam giáp Tiến sĩ xuất thân.
Những người Việt Nam họ Đỗ nổi tiếng
* Đỗ Cảnh Thạc, một trong 12 Sứ quân
* Đỗ Thích, quan nhà Đinh, người được xem là đã giết cha con Đinh Tiên Hoàng
* Đỗ Hành, tướng nhà Trần, người đã bắt sống Ô Mã Nhi
* Đỗ Nhuận, tiến sĩ nho học, làm quan dưới thời Lê Thánh Tông, Phó nguyên súy Tao đàn Nhị thập bát tú của vua Lê Thánh Tông
* Đỗ Lý Khiêm, trạng nguyên Việt Nam (năm 1499) thời nhà Lê
* Đỗ Tống, trạng nguyên Việt Nam năm 1529, triều nhà Mạc
* Đỗ Phát, tiến sĩ năm 1843, tế tửu Quốc tử giám Huế
* Đỗ Đình Thiện, doanh nhân, ủng hộ Việt Minh trong kháng chiến chống Pháp
* Đỗ Tất Lợi, nhà dược học - Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1
* Đỗ Cao Trí, tướng thời Việt Nam Cộng hòa
* Đỗ Nhuận, nhạc sĩ Việt Nam
* Đỗ Bá Tỵ, trung tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam
Nguồn http://www.tuoitrehodo.com/
Trong lịch sử dân tộc ta, họ Đỗ là một trong những dòng họ nổi tiếng có nhiều truyền thống tốt đẹp trên các lĩnh vực chính trị, quân sự, văn hóa, giáo dục kinh tế, đóng vào công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam giàu, đẹp.
Dòng họ Đỗ đã tồn tại gắn liền với nơi phát tích, sinh tụ của người Việt cổ trên vùng đất này ít nhất cách đây khoảng 5.000-6.000 năm, trước thuở lập nước đầu tiên mang quốc hiệu Văn Lang, trước cả thời xác lập vua Hùng đời thứ nhất. Theo "Cổ Lôi Ngọc Phả Truyền Thư", "Bách Việt Tộc Phả" thì những người họ Đỗ xa xưa nhất tới nay được biết đến là cụ bà họ Đỗ, tên huý là Ngoạn, còn gọi là công chúa Đoan Trang. Cụ sinh ngày mồng tám tháng tư và hoá (mất) ngày rằm tháng bảy. Cụ thường được gọi theo họ là Đỗ Quý Thị ( tức Quý bà họ Đỗ). Cụ lấy chồng người họ Nguyễn tên là Nguyễn Minh Khiết tức là Đế Minh. Hai cụ sinh ta Lộc Tục (sau là Kinh Dương Vương). Họ Nguyễn Văn ở làng Vân Nội vẫn cúng giỗ cụ hằng năm với bài văn cúng: " Thỉnh tổ tổng khoa- Cúng gia tiên". Mộ và miếu thờ cụ ghi trong thư tịch cũ trên đây nay vẫn còn ở Ba La, thị xã Hà Đông.
Ngũ đáo thiên niên Đỗ tộc gia
Tử tôn Đỗ tộc phúc đại đa
Hà Tây mộ Tổ, Hà Đông "hiện"
“Quốc tích" tồn niên vị Quốc gia
Dịch ngữ:
Năm ngàn năm họ Đỗ ta
Cháu con họ Đỗ phúc một nhà
Hà Tây mộ Tổ, Hà Đông "tại"
"Quốc tích" còn đây với nước nhà...
Theo bản Tông phả họ Đỗ do Hoàng giáp năm Kỷ Hợi (1659) Đỗ Thiện Chính biên soạn, thì người được cho là khởi tổ họ Đỗ mà được biết tới ngày nay là: Đỗ Cảnh Thạc, một trong 12 sứ quân ở thế kỷ 10[1].
Họ Đỗ Việt Nam có truyền thống hiếu học và đỗ đạt. Trong các triều nhà Hậu Lê, nhà Mạc, vào khoảng các năm 1463 - 1733, họ Đỗ Việt Nam có 60 người đỗ đại khoa, gồm:
* 8 người đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ (2 Trạng nguyên, 2 Nhất giáp, 3 Bảng nhãn và 1 Thám hoa)
* 13 người đỗ Hoàng giáp
* 39 người đỗ Tam giáp Tiến sĩ xuất thân.
Những người Việt Nam họ Đỗ nổi tiếng
* Đỗ Cảnh Thạc, một trong 12 Sứ quân
* Đỗ Thích, quan nhà Đinh, người được xem là đã giết cha con Đinh Tiên Hoàng
* Đỗ Hành, tướng nhà Trần, người đã bắt sống Ô Mã Nhi
* Đỗ Nhuận, tiến sĩ nho học, làm quan dưới thời Lê Thánh Tông, Phó nguyên súy Tao đàn Nhị thập bát tú của vua Lê Thánh Tông
* Đỗ Lý Khiêm, trạng nguyên Việt Nam (năm 1499) thời nhà Lê
* Đỗ Tống, trạng nguyên Việt Nam năm 1529, triều nhà Mạc
* Đỗ Phát, tiến sĩ năm 1843, tế tửu Quốc tử giám Huế
* Đỗ Đình Thiện, doanh nhân, ủng hộ Việt Minh trong kháng chiến chống Pháp
* Đỗ Tất Lợi, nhà dược học - Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1
* Đỗ Cao Trí, tướng thời Việt Nam Cộng hòa
* Đỗ Nhuận, nhạc sĩ Việt Nam
* Đỗ Bá Tỵ, trung tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam
Nguồn http://www.tuoitrehodo.com/
Lê Ích Mộc - vị Trạng nguyên đầu tiên ở Hải Phòng
Thứ Hai, 05/01/2015, 11:37 [GMT+7]
.... |
Khoa thi năm Nhâm Tuất - niên hiệu Cảnh Thống 5 (1502) số thí
sinh tham gia thi Hội là 5.000 người, lấy đỗ 61 người. Sách Đại Việt sử
ký toàn thư chép: “Vua xem xong, cho bọn Lê Ích Mộc (người xã Thanh
Lãng, huyện Thủy Đường), Lê Sạn, Nguyễn Văn Thái 3 người đỗ đệ nhất giáp
tiến sĩ cập đệ (trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa); bọn Nguyễn Cảnh
Diên, Lê Nhân Tế 24 người đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân; bọn Phạm
Khiêm Bính, Nguyễn Mậu 34 người đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân.
Vua ngự ở điện Kính thiên, Hồng lô tự truyền loa xướng danh.
Hàng năm bảng vàng vẫn treo ở ngoài cửa Đông Hoa, đến nay vua sai bộ Lễ bưng ra, nổi nhạc rước đem treo ở cửa nhà Thái học. Bảng vàng treo ở cửa nhà Thái học bắt đầu từ đây. Trong lễ xướng danh, vua sai Lê Ích Mộc tuyên đọc lời chế thư, bưng lư đốt hương ra trước, hương cháy bỏng tuột cả tay ra mà không biết”.
Theo “Công dư tiệp ký” của Vũ Phương Đề, Lê Ích Mộc khi tuổi đã cao mà chưa đỗ đạt thì tâm trạng rất buồn. Ông thường đến chùa Diên Phúc (chùa Thanh Lãng) nghe các vị cao tăng giảng kinh Phật. Kỳ thi Đình năm Nhâm Tuất niên hiệu Cảnh Thống 5 (1502) toàn hỏi về đạo Phật, văn ông y tứ dồi dào, không bỏ sót tý nào. Đề bài ra chín hàng chữ thì ông viết thành hai nhăm trang. Khi duyệt bài, vua Lê Hiến Tông sửng sốt thốt lên rằng: “Bài văn của Ích Mộc hơn hẳn mấy tầm so với các bạn đồng khoa, trẫm rất hài lòng duyệt cho người ấy xứng đáng bậc khôi nguyên”. Trong lịch sử khoa bảng Việt Nam, Lê Ích Mộc là người đầu tiên ở vùng đất Hải Phòng ngày nay đỗ học vị cao nhất - Trạng nguyên.
Trong bài “Tiểu sử Thiền sư chùa Thanh Lãng” của sinh đồ Lê Tuấn Mậu, soạn năm 1597 cung cấp: Dưới triều Lê Thánh Tông, ở xã Thanh Lãng, huyện Thủy Đường, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương (nay là thôn Thanh Lãng, xã Quảng Thanh, huyện Thủy Nguyên), có một người nối nghiệp Nho gia, họ Lê tên Quang, vợ là Nguyễn Thị Lệ, cửa nhà dư dụ, kính sư sùng Phật, hay giúp đỡ người nghèo khó. Ông, bà sinh hạ được một con trai khôi ngôi, tuấn tú, mặt vuông, tai lớn. Vợ chồng ông bà Lê Quang và Nguyễn Thị Lệ mừng rỡ vô cùng, bèn đặt tên con là Ích Mộc.
Thuở nhỏ, Lê Ích Mộc là một cậu bé thông minh, ham học, được bà con làng xóm yêu quý. Hàng ngày, sau những buổi phụ giúp cha mẹ, Lê Ích Mộc thường tới chùa Ráng (chùa Thanh Lãng - Diên Phúc tự) nghe các nhà sư giảng kinh và mượn sách về tự học. Cảm động trước tấm lòng say mê hiếu học của Lê Ích Mộc, các nhà sư đã thay nhau kèm cặp thêm cho cậu. Lê Ích Mộc thường lấy cát đổ lên mâm xoa phẳng, dùng ngón tay viết chữ lên để đọc, ghi nhớ rồi xoá đi. Đó là cách học “nhập tâm”, giúp người ta nhớ lâu, hiểu kỹ. Một hôm, Lê Ích Mộc đang chơi ngoài đường gặp một vị sư già, nhà sư thấy Lê Ích Mộc có quý tướng bèn theo về nhà.
Vị sư già nói với vợ chồng ông bà Lê Quang và Nguyễn Thị Lệ rằng: “Con trai ông bà có quý tướng, tương lai ắt đỗ đạt cao, vinh hiển gia phong, tiền đồ không thể hạn lượng được. Nếu ông bà đồng ý, bần tăng xin được kèm cặp, chỉ bảo thêm cho”. Ông bà Lê Quang - Nguyễn Thị Lệ đồng ý cho Lê Ích Mộc gánh sách theo thầy tu học ở chùa Yên Lãng (tức chùa Láng), gần kinh thành Thăng Long. Với học vấn uyên bác, các vị cao tăng chùa Láng (Yên Lãng) đã dốc lòng dạy dỗ Lê Ích Mộc, trong khoảng 5 năm đã thông hiểu cả Tứ thư, Ngũ kinh lẫn giáo lý nhà Phật. Sách “Đại Việt đỉnh nguyên Phật lục” ca ngợi tài học của Lê Ích Mộc như sau: “Tam đông túc học chí Kim Cương” - nghĩa là 3 năm tu học đã thấu triệt tinh thần và giáo lý của Kinh Kim Cương.
Đề thi Hội năm ấy, vua Lê Hiến Tông đích thân ra đầu văn sách hỏi về đế vương trị thiên hạ, nhưng vào thi Đình lại hỏi về Phật pháp. Đây là điều bất ngờ lớn đối với sĩ tử nhưng lại là duyên kỳ ngộ đối với Lê Ích Mộc. Với các nho sinh suốt ngày đắm mình trong sách thánh hiền với “Tứ thư, ngũ kinh”, “Tam cương, ngũ thường”… gặp phải đề thi này chẳng khác nào sự đánh đố còn đối với Lê Ích Mộc thì lại là dịp may hiếm có. Ông thỏa sức trình bày những hiểu biết sâu rộng của mình về Phật pháp. Theo ông, mọi chúng sinh đều có Phật tính trong mình, con người chẳng qua bị lục căn, lục dục che mất Phật tính đi cho nên cứ phải đọa vào kiếp khổ luân hồi. Khổ là do mình tạo ra, cho nên muốn diệt được khổ thì chỉ có bản thân mình tự giải thoát cho mình mà thôi.
Bài đối văn thi Đình trả lời về Phật pháp của Lê Ích Mộc là một tư liệu quy,á góp phần nghiên cứu lịch sử tư tưởng Việt Nam nói chung và tư tưởng Phật giáo Việt Nam nói riêng. Trong lịch sử khoa cử thời phong kiến ở nước ta, đây là bài văn sách đình đối hỏi về Phật pháp độc nhất vô nhị, khẳng định sức sống mãnh liệt của tư tưởng Phật giáo.
Theo nhà nghiên cứu Mai Xuân Hải - Viện Nghiên cứu Hán Nôm, qua cách ra đề thi chứng tỏ vua Lê Hiến Tông và các triều thần Nho sĩ nhà Lê Sơ có vốn tri thức Phật giáo sâu rộng. Mọi người càng khâm phục và ngạc nhiên hơn về cách trả lời cứng cỏi, đanh thép, thẳng thắn, đầy sức thuyết phục, không né tránh bất kỳ câu hỏi nào của Lê Ích Mộc. Điều đó chứng tỏ nhân cách chân chính, kiến thức Phật pháp sâu rộng của Lê Ích Mộc. Ông bảo vệ thành công giáo lý nhà Phật trước những câu hỏi “hắc búa” như muốn thách đố, khiến vua Lê Hiến Tông tỉnh ngộ, nhận ra chân giá trị của bài văn và rất hài lòng lấy ông đỗ cao nhất “Đệ nhất giáp tiến sĩ đệ nhất danh” - Trạng nguyên.
Trạng nguyên Lê Ích Mộc là nhà trí thức lớn đương thời và là người tiếp tục phát triển tư tưởng “Tam giáo đồng nguyên”, “cư trần lạc đạo” của Thiền phái Trúc Lâm. Quan niệm “Tam giáo đồng nguyên”: tôn sùng Phật giáo, coi trọng Nho giáo và Đạo giáo (gồm cả tín ngưỡng dân gian) thường được xem là một truyền thống về mặt tư tưởng của tôn giáo Việt Nam. Tiếc rằng là các trước tác của ông, các giai thoại về ông hầu hết đã bị thất truyền; các di tích lưu niệm về cuộc đời và sự nghiệp của ông trên quê hương Quảng Thanh - Thủy Nguyên đều bị mai một, biến dạng như: Đền Diên Thọ, chùa Diên Phúc, Từ đường Quan Trạng, Văn chỉ xã Thanh Lãng, đền Quảng Cư, chùa Nốt, khu lăng mộ Trạng nguyên Lê Ích Mộc, miếu Ông Mỏ, rừng lim Quan Trạng…
Trong tương lai không xa, hy vọng quần thể di tích văn hóa và tâm linh về Trạng nguyên Lê Ích Mộc sẽ được quy hoạch, phục dựng và tôn tạo để trở thành địa chỉ “vàng” tham quan, chiêm bái của du khách trong và ngoài nước.
Hàng năm bảng vàng vẫn treo ở ngoài cửa Đông Hoa, đến nay vua sai bộ Lễ bưng ra, nổi nhạc rước đem treo ở cửa nhà Thái học. Bảng vàng treo ở cửa nhà Thái học bắt đầu từ đây. Trong lễ xướng danh, vua sai Lê Ích Mộc tuyên đọc lời chế thư, bưng lư đốt hương ra trước, hương cháy bỏng tuột cả tay ra mà không biết”.
Theo “Công dư tiệp ký” của Vũ Phương Đề, Lê Ích Mộc khi tuổi đã cao mà chưa đỗ đạt thì tâm trạng rất buồn. Ông thường đến chùa Diên Phúc (chùa Thanh Lãng) nghe các vị cao tăng giảng kinh Phật. Kỳ thi Đình năm Nhâm Tuất niên hiệu Cảnh Thống 5 (1502) toàn hỏi về đạo Phật, văn ông y tứ dồi dào, không bỏ sót tý nào. Đề bài ra chín hàng chữ thì ông viết thành hai nhăm trang. Khi duyệt bài, vua Lê Hiến Tông sửng sốt thốt lên rằng: “Bài văn của Ích Mộc hơn hẳn mấy tầm so với các bạn đồng khoa, trẫm rất hài lòng duyệt cho người ấy xứng đáng bậc khôi nguyên”. Trong lịch sử khoa bảng Việt Nam, Lê Ích Mộc là người đầu tiên ở vùng đất Hải Phòng ngày nay đỗ học vị cao nhất - Trạng nguyên.
Trong bài “Tiểu sử Thiền sư chùa Thanh Lãng” của sinh đồ Lê Tuấn Mậu, soạn năm 1597 cung cấp: Dưới triều Lê Thánh Tông, ở xã Thanh Lãng, huyện Thủy Đường, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương (nay là thôn Thanh Lãng, xã Quảng Thanh, huyện Thủy Nguyên), có một người nối nghiệp Nho gia, họ Lê tên Quang, vợ là Nguyễn Thị Lệ, cửa nhà dư dụ, kính sư sùng Phật, hay giúp đỡ người nghèo khó. Ông, bà sinh hạ được một con trai khôi ngôi, tuấn tú, mặt vuông, tai lớn. Vợ chồng ông bà Lê Quang và Nguyễn Thị Lệ mừng rỡ vô cùng, bèn đặt tên con là Ích Mộc.
Thuở nhỏ, Lê Ích Mộc là một cậu bé thông minh, ham học, được bà con làng xóm yêu quý. Hàng ngày, sau những buổi phụ giúp cha mẹ, Lê Ích Mộc thường tới chùa Ráng (chùa Thanh Lãng - Diên Phúc tự) nghe các nhà sư giảng kinh và mượn sách về tự học. Cảm động trước tấm lòng say mê hiếu học của Lê Ích Mộc, các nhà sư đã thay nhau kèm cặp thêm cho cậu. Lê Ích Mộc thường lấy cát đổ lên mâm xoa phẳng, dùng ngón tay viết chữ lên để đọc, ghi nhớ rồi xoá đi. Đó là cách học “nhập tâm”, giúp người ta nhớ lâu, hiểu kỹ. Một hôm, Lê Ích Mộc đang chơi ngoài đường gặp một vị sư già, nhà sư thấy Lê Ích Mộc có quý tướng bèn theo về nhà.
Vị sư già nói với vợ chồng ông bà Lê Quang và Nguyễn Thị Lệ rằng: “Con trai ông bà có quý tướng, tương lai ắt đỗ đạt cao, vinh hiển gia phong, tiền đồ không thể hạn lượng được. Nếu ông bà đồng ý, bần tăng xin được kèm cặp, chỉ bảo thêm cho”. Ông bà Lê Quang - Nguyễn Thị Lệ đồng ý cho Lê Ích Mộc gánh sách theo thầy tu học ở chùa Yên Lãng (tức chùa Láng), gần kinh thành Thăng Long. Với học vấn uyên bác, các vị cao tăng chùa Láng (Yên Lãng) đã dốc lòng dạy dỗ Lê Ích Mộc, trong khoảng 5 năm đã thông hiểu cả Tứ thư, Ngũ kinh lẫn giáo lý nhà Phật. Sách “Đại Việt đỉnh nguyên Phật lục” ca ngợi tài học của Lê Ích Mộc như sau: “Tam đông túc học chí Kim Cương” - nghĩa là 3 năm tu học đã thấu triệt tinh thần và giáo lý của Kinh Kim Cương.
Đề thi Hội năm ấy, vua Lê Hiến Tông đích thân ra đầu văn sách hỏi về đế vương trị thiên hạ, nhưng vào thi Đình lại hỏi về Phật pháp. Đây là điều bất ngờ lớn đối với sĩ tử nhưng lại là duyên kỳ ngộ đối với Lê Ích Mộc. Với các nho sinh suốt ngày đắm mình trong sách thánh hiền với “Tứ thư, ngũ kinh”, “Tam cương, ngũ thường”… gặp phải đề thi này chẳng khác nào sự đánh đố còn đối với Lê Ích Mộc thì lại là dịp may hiếm có. Ông thỏa sức trình bày những hiểu biết sâu rộng của mình về Phật pháp. Theo ông, mọi chúng sinh đều có Phật tính trong mình, con người chẳng qua bị lục căn, lục dục che mất Phật tính đi cho nên cứ phải đọa vào kiếp khổ luân hồi. Khổ là do mình tạo ra, cho nên muốn diệt được khổ thì chỉ có bản thân mình tự giải thoát cho mình mà thôi.
Bài đối văn thi Đình trả lời về Phật pháp của Lê Ích Mộc là một tư liệu quy,á góp phần nghiên cứu lịch sử tư tưởng Việt Nam nói chung và tư tưởng Phật giáo Việt Nam nói riêng. Trong lịch sử khoa cử thời phong kiến ở nước ta, đây là bài văn sách đình đối hỏi về Phật pháp độc nhất vô nhị, khẳng định sức sống mãnh liệt của tư tưởng Phật giáo.
Theo nhà nghiên cứu Mai Xuân Hải - Viện Nghiên cứu Hán Nôm, qua cách ra đề thi chứng tỏ vua Lê Hiến Tông và các triều thần Nho sĩ nhà Lê Sơ có vốn tri thức Phật giáo sâu rộng. Mọi người càng khâm phục và ngạc nhiên hơn về cách trả lời cứng cỏi, đanh thép, thẳng thắn, đầy sức thuyết phục, không né tránh bất kỳ câu hỏi nào của Lê Ích Mộc. Điều đó chứng tỏ nhân cách chân chính, kiến thức Phật pháp sâu rộng của Lê Ích Mộc. Ông bảo vệ thành công giáo lý nhà Phật trước những câu hỏi “hắc búa” như muốn thách đố, khiến vua Lê Hiến Tông tỉnh ngộ, nhận ra chân giá trị của bài văn và rất hài lòng lấy ông đỗ cao nhất “Đệ nhất giáp tiến sĩ đệ nhất danh” - Trạng nguyên.
Trạng nguyên Lê Ích Mộc là nhà trí thức lớn đương thời và là người tiếp tục phát triển tư tưởng “Tam giáo đồng nguyên”, “cư trần lạc đạo” của Thiền phái Trúc Lâm. Quan niệm “Tam giáo đồng nguyên”: tôn sùng Phật giáo, coi trọng Nho giáo và Đạo giáo (gồm cả tín ngưỡng dân gian) thường được xem là một truyền thống về mặt tư tưởng của tôn giáo Việt Nam. Tiếc rằng là các trước tác của ông, các giai thoại về ông hầu hết đã bị thất truyền; các di tích lưu niệm về cuộc đời và sự nghiệp của ông trên quê hương Quảng Thanh - Thủy Nguyên đều bị mai một, biến dạng như: Đền Diên Thọ, chùa Diên Phúc, Từ đường Quan Trạng, Văn chỉ xã Thanh Lãng, đền Quảng Cư, chùa Nốt, khu lăng mộ Trạng nguyên Lê Ích Mộc, miếu Ông Mỏ, rừng lim Quan Trạng…
Trong tương lai không xa, hy vọng quần thể di tích văn hóa và tâm linh về Trạng nguyên Lê Ích Mộc sẽ được quy hoạch, phục dựng và tôn tạo để trở thành địa chỉ “vàng” tham quan, chiêm bái của du khách trong và ngoài nước.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét