ĐỊA LINH NHÂN KIỆT 74
(ĐC sưu tầm trên NET)

Nghè Cả, xã Dĩnh Kế, nơi thờ Trạng nguyên Giáp Hải

Đỗ Tống
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Đỗ Tống (chữ Hán: 杜綜, 1504 - ?), người xã Lại Ốc, huyện Tế Giang, phủ Thuận An, Kinh Bắc (nay thuộc xã Long Hưng, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên). Ông đỗ trạng nguyên khoa Kỷ Sửu, niên hiệu Minh Đức thứ 3 (1529) đời Mạc Thái Tổ. Ông làm quan cho nhà Mạc, giữ các chức quan như như Tả Thị lang Bộ Hình, Đông các Đại học sĩ.
Gia đình tiến sĩ
- Thân phụ ông là Đỗ Nhân (杜絪, 1466-1518), tự Đôn Chính (敦政) hiệu Nghĩa Sơn (義山). Ông đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân, khoa Quý Sửu niên hiệu Hồng Đức thứ 24 (1493) đời vua Lê Thánh Tông. Ông giữ các chức quan, như Thượng thư Bộ Hộ kiêm Đô Ngự sử, Đông các Đại học sĩ, Nhập thị Kinh diên, ông đổi tên là Đỗ Nhạc (杜岳) và được cử đi sứ. Ông bị Mạc Đăng Dung sai Đinh Mông chém chết. Sau thời Lê Trung hưng ông được tặng Thiếu bảo, tước Văn Trinh bá.
- Em trai ông là Đỗ Tấn (杜縉, 1514-?) đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Ất Mùi năm Đại Chính thứ 6 (1535) thời Mạc Thái Tông. Ông làm quan đến chức Thượng thư, kiêm Đông các Đại học sĩ, tước Trà Quận công. Sau bị tử trận, được tặng tước Quốc công.
- Con trai ông là Đỗ Trực (杜直, 1537-?). Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân khoa Canh Thìn niên hiệu Diên Thành thứ 3 (1580) đời Mạc Mậu Hợp. Ông làm quan đến chức Hiến sát sứ. Sau ông theo giúp nhà Lê làm Đông các Đại học sĩ.
Trạng nguyên Giáp Hải với bài họa ‘Vịnh bèo’ khiến sứ nhà Minh khâm phục
Trạng nguyên Giáp Hải là 1 nhà ngoại giao xuất
chúng. Ông nổi tiếng với bài hoạ đối đáp lại bài "Vịnh bèo" của sứ nhà
Minh tự cao tự đại khinh thường nước Việt bé nhỏ.
Nghè Cả, xã Dĩnh Kế, nơi thờ Trạng nguyên Giáp Hải
Vị trạng nguyên có tài ngoại giao
Theo gia phả và sách đá phát hiện ở Cốc
Lâm – Dĩnh Trì – Lạng Phu, hiệu Tiết Trai, sau đổi tên là Giáp Trừng,
sinh vào năm Đinh Sửu, niên hiệu Quang Thiệu thứ 2 (1517) đời nhà Lê,
mất năm Binh Tuất, niên hiệu Đoàn Thái nguyên niên (1586) đời Mạc Mậu
Hợp, người xã Dĩnh Kế, huyện Phượng Nhân (nay thuộc thành phố Bắc
Giang). Thuở nhỏ, Giáp Hải được cha cho đi học hành, chu tất. Ông thông
minh từ nhỏ, học một biết hai, ứng đối như thần. Tuy vậy, không ỷ lại
vào sự thông tuệ của mình, Giáp Hải rất chăm chỉ dùi mài kinh sử. Tương
truyền, Giáp Kế ngồi dưới lùm cây, đặtc chân lên 2 phiến đá đọc sách.
Hòn đá chỗ Giáp Hải ngồi học còn in dấu hình bàn chân. Nhiều ngày mải mê
học, khát nước thì múc nước giếng bên cạnh để uống, quên cả ăn. Buổi
tối ông thường rang một túi hạt hồ tiêu, khi nào buồn ngủ thì lấy ra
nhấm nháp cho miệng cay cay mà tỉnh ngủ. Tính tình mát dịu, nói năng nhẹ
nhàng, khúc chiết, giỏi căn từ, học chừng “hết chữ” các ông đồ trong
vùng, ông được cha cho lên kinh đô học. Đến khoa thi Mậu Tuất (1538)
niên hiệu Đại Chính thứ 9, Thái Tông Mạc Đăng Doanh, Giáp Hải thi đỗ đệ
nhất giáp Tiến sĩ cập đệ, đệ nhất danh, tức Trạng nguyên. Năm ấy ông 22
tuổi.
Năm 1540, tức là sau khi đỗ trạng được 2
năm. Thái Tông Mạc Đăng Doanh đột ngột qua đời, con là Mạc Phúc Hải
Trừng, còn dân gian vẫn quen gọi là Trạng Kế.
Trong bối cảnh lịch lúc ấy, nhà Mạc bị
nhà Minh o ép lấy cớ Mạc Đăng Dung tiếm ngôi nhà Lê, nên nạn ngoại xâm
rình rập trước ngõ. Để bảo vệ vương triều còn non trẻ, bảo vệ Lê dân
thoát cảnh chiến trận và hoạ xâm lăng, nhà Mạc buộc phải có những
nhượng bộ nhất định về biên giới. Lúc ấy nhà Minh sai sứ sang hạch sách
nhà Mạc, nào đòi cắt đất, cống người vàng, nào sinh Mao Bá Ôn và Cừu
Loan đem quân đóng ở cửa Nam Quan hỏi tội.
Do có tài văn chương, lại giỏi đối đáp
nên Giáp Hải được Vua cử đi lãnh trách nhiệm ngoại giao tiếp các sứ giả
nhà Minh và đã khéo léo dàn xếp ổn thoả vấn đề biên giới nên kẻ địch
phải nể phục. Tương truyền, khi triều đình phải sai Giáp Hải lên cửa
Nam Quan tiếp sứ, Mao Bá Ôn lại láo xược gửi sang cho triều đình nhà
Mạc bài thơ “Vịnh bèo”, có ý khinh nhân dân Việt như bèo bọt. Giáp Hải
lập tức đáp lại một bài hoạ vô cùng đanh thép. Dưới đây là hai bài
xướng, hoạ.
Bài xướng của Mao Bá Ôn: “Bèo mọc
trong ruộng nước nhỏ như cái kim, rễ bám vào đâu không ai biết, không ăn
sâu. Bèo đã không gốc rễ, không có lá, không có cả cành. Tuy rằng họp
đấy nhưng tan rã cũng rất mau, chỉ một trận là ra hồ, ra bể, không ai
còn thấy vết tích nữa”. Ngụ ý khinh dân ta hèn kém, không có nguồn gốc, chỉ đánh một trận là tan như bèo.
Bài hoạ của Giáp Hải: “Bèo kết lại
với nhau dày đặc như vây gấm, dù cái kim chui qua cũng không lọt, cành
rễ liền nhau, mọc chằng chịt ăn rất sâu, thường cùng đám mây trắng xanh
vẻ đẹp trên mặt nước. Và làm cho vầng hồng kia cũng không sao chiếu
xuống được đáy nước. Ngọn sóng dù lớn đến đâu cũng không phá nổi, gió
thổi mạnh thế nào cũng không làm chìm nổi bèo. Ở dưới có nhiều cá rồng
ẩn nấp, dù tài câu của Lã Vọng cũng khó thả câu được”. Ngụ ý nói
dân ta sống đông đúc như vảy gấm dệt, đoàn kết chặt chẽ, có thế độc lập
của mình, không sợ ngoại xâm. Nhân tài nhiều như cá, dù kẻ địch có
tướng giỏi cũng không làm gì nổi.
Xem bài hoạ, họ Mao và họ Cừu không dám tiến quân vào cõi nước ta.
Bài hoạ “Vịnh bèo” nổi tiếng của Giáp
Hải xuất hiện trong bối cảnh này đã phần nào minh chứng cho tài ngoại
giao xuất chúng của ông.
Trạng nguyên Giáp Hải với bài hoạ ’Vịnh bèo’ khiến sứ nhà Minh khâm phục
Vị quan chính trực, thanh liêm
Ngoài tài ngoại giao, Giáp Hải còn được
triều đình cử làm Đề Điệu cho nhiều kỳ thi hương và giám sát việc thi
cử hết sức nghiêm ngặt.
Năm 1558 đời Tuyên tông Mạc Phúc Nguyên,
niên hiệu Quang Bảo thứ 5, Giáp Hải được cử làm Đề Điệu cho kỳ thi này
có thí sinh khởi xướng chống trường thi, Giáp Hải đã kiên quyết xử lý
để làm gương cho các kỳ thi khác.
Năm 1573, ông được cử giữ chức Tuyên phủ
đồng tri, lên Nam Quan thuộc Lạng Sơn cùng quan lại nhà Minh thương
nghị giám sát biên giới. Với những lý lẽ sắc bén, giải pháp thông minh
khiến người Minh phải nể phục, kính trọng, thường chỉ gọi ông là Giáp
Tuyên phủ chứ không gọi tên. Ông là người giỏi bang giao từ mệnh đã 5
lần được triều đình giao cho trọng trách đi sứ, 3 lần nắm ấn quan to.
Ngoài việc bang giao, mỗi lần tiếp sứ hay mỗi lần đi sứ, ông thường có
thói quen làm thơ ghi lại, sau tập hợp thành “Ứng đáp bang giao tập”,
trong đó có những câu thơ cảm tác như: Hoàng thu thuỷ ác đương triều
sủng/ Phi mã khinh cân thượng quốc tân. Nghĩa là: Cờ vàng kiệu tía được
triều cưng/ Ngựa béo áo cầu khách thượng quốc.
Năm 1577, Thượng thư Bộ Hộ kiêm Đô ngự
sử là Giáp Trừng vin cớ thấy sao chổi xuất hiện đã dâng sớ khuyên Vua
Mạc Hợp 6 điều "Lễ vật dùng tế lễ phải thành kính, cẩn thận. Nếu Vua có
lòng nhân, thì bề dưới không kẻ nào không nhân. Nứớc nào cả vua tôi
trên dưới đều chạy theo mối lợi thì nước ấy sẽ nguy vong. Quốc gia lụn
bại do quan tham. Nước nương tựa vào dân. Quân muốn thắng trận thì các
tướng phải hoà hợp với nhau. Mạc Mậu Hợp nhận nhưng không làm theo ý tờ
sớ này. Để xoa dịu, ngày 21/2/1578 Mạc Mậu Hợp “phong thêm hàm thiếu
bảo cho Thượng thư Bộ Lại, Tuân quận công Giáp Trừng. Giáp Trừng cố từ
không nhận nhưng Mạc Mậu Hợp không cho từ”. Niên hiệu Quang Hưng thứ2
(1579) tháng 3, Mạc Mậu Hợp thang Giáp Trừng lên chức Binh Bộ Thượng
thư, Chưởng lục Bộ sự, nghĩa là nắm quyền hành công việc của tất cả 6
Bộ trong triều là: Lễ, Lại, Công, Hình, Bộ, Binh (ngoại giao, nội vụ,
công thương, tư pháp, nông, lâm, an ninh quốc phòng).
Năm 1581, Giáp Trừng vào triều yết kiến
xin về quê. Nhưng sau đó Mạc Mậu Hợp “lại ban chỉ dụ gọi Thiếu bảo Luân
quận công Giáp Trừng ra nhận chức và tham bàn chính sự trong triều
giúp quyết đoán cơ mưu quân sự, cần phải nghĩ yêu nước quên nhà”. Trong
dịp này, nhân có mưa bão lớn, Thiếu bảo Giáp Trừng dâng sớ lên Mạc Mậu
Hợp, hiến kế giữ nước, trong đó có những lời tâm huyết như: “Hiện
nay những lính mới tuyển vào các doanh phần nhiều khí giới chưa tinh
nhuệ, kỹ thuật chiến đấu chưa tinh, thuyền bè chưa chỉnh đốn, lại gặp
thiên tai cảnh cáo chính là lúc đáng sợ nhất. Cho nên những chính sách
trị an và tu chỉnh, không thể không rất cẩn thận. Nên nghiêm minh pháp
luật, thu vén kỷ cương, giữ vững nơi bờ cõi, tu sửa các thành quách,
luyện tập binh mã, chỉnh bị khí giới, đóng thuyền dựng trại, định phiên
thường trực, đúng kỳ phải tới, ban hiệu lệnh, hàng ngày tập luyện, cốt
cho thật giỏi, chờ thời cơ sẽ phát động. Lại cần bồi dưỡng gốc nước cố
kết nhân tâm, hậu đãi dân mà không bắt dân khốn, giúp đỡ dân mà không
bắt dân mệt, không nên dùng hết sức dân, nên giảm bớt sự phục dịch của
nhân dân. Đó là kế sách trị bình vậy”. Mạc Mậu Hợp xem xong tờ sớ này liền ban lời uý dụ Giáp Trừng và triệu tới kinh sư để làm việc tại triều đường.
Trạng nguyên Giáp Hải, khi làm quan
chính trực, thanh liêm, được Nhà Vua sủng ái tin dùng, các bạn đồng
triều kính phục. Thời gian làm quan của ông trước sau 5 lần giữ chức
Thượng thư, ba lần giữ chức Đài ấn, được phong tước Thái bảo Sách quốc
công. Ông về nghỉ hưu không được bao lâu thì mất vào tháng 12/1586, tại
quê hương làng Dĩnh Kế, dân quen gọi là núi Ông Trạng. Các dấu vết về
giếng Ông Trạng, chân Ông Trạng, miếu Ông Trạng vẫn còn mãi đến sau
này.
Một con người sáng danh trong lịch sử
như vậy nhưng rất tiếc, do điều kiện lịch sử và chiến tranh, lăng mộ,
đền thờ ông đã bị Pháp phá huỷ từ năm 1949 – 1950.
Nhận xét
Đăng nhận xét