Thứ Tư, 27 tháng 5, 2015
ĐỊA LINH NHÂN KIỆT 75
ĐẶNG THÌ THỐ
Đặng Thì Thố (chữ Hán: 鄧時措, 1526 – ?) là trạng nguyên thứ 40 của Việt Nam. Ông là hậu duệ của Quốc công Đặng Tất, quê làng An Lạc (còn gọi là làng Thạc), huyện Thanh Lâm (nay thuộc xã An Châu, thành phố Hải Dương). Hiện nay, ở các xã An Châu, Nam Trung và Nam Chính (Nam Sách) vẫn còn gia phả ghi về cụ Tổ Đặng Thì Thố - giỗ tổ là ngày 10/3 âm lịch. Ông đỗ tiến sĩ cập đệ khoa Kỉ Mùi năm Quang Bảo thứ 6 (1559) dưới thời vua Mạc Tuyên Tông, tuy nhiên theo bảng tra các vị tam khôi của Viện Hán-Nôm thì ông chỉ đỗ thám hoa (tiến sĩ cập đệ đệ nhất giáp đệ tam danh). Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú cũng chép rằng ông là Hội nguyên Đình nguyên Thám hoa. Sau đó, ông trở thành quan của triều đình nhà Mạc, làm đến chức tả thị lang bộ Binh[cần dẫn nguồn], hàn lâm viện. Mộ của ông táng tại An Lạc, được con cháu trùng tu năm 2005. Con trai ông là Đặng Thì Mẫn (1549 - ?) cũng đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa thi năm Hoằng Định thứ 14 (Quý Sửu, 1613) thời Lê Kính Tông.
Phạm Duy Quyết
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Phạm Đăng Quyết (? - ?), tên lúc nhỏ là Phạm Duy Quyết(chữ Hán: 范維玦), người làng Xác Khê, huyện Chí Linh, phủ Nam Sách, Hải Dương. Đỗ trạng nguyên khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Thuần Phúc thứ nhất (1562), đời Mạc Mậu Hợp. Làm quan đến Tả thị lang kiêm Đông các Đại học sĩ, tước Xác Khê Hầu.
- Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 05:07 ngày 23 tháng 6 năm 2014.
Phạm Quang Tiến
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Phạm Quang Tiến (chữ Hán: 范光進, 1530-?) Người làng Lương Xá, huyện Thiện Tài, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Phú Lương, huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh). Đỗ Trạng nguyên khoa Ất Sửu, niên hiệu Thuần Phúc thứ 4 (1565) thời Mạc Mậu Hợp. Ông làm quan Đông các Đại học sĩ, được cử đi sứ sang nhà Minh (Trung Quốc) và mất trên đường đi. Sau khi mất, ông được truy tặng chức Tả Thị lang.
Cùng quê với ông còn có Vũ Giới cũng đỗ trạng nguyên của nhà Mạc, nhưng sau ông 12 năm.
Cùng quê với ông còn có Vũ Giới cũng đỗ trạng nguyên của nhà Mạc, nhưng sau ông 12 năm.
- Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 19:02 ngày 8 tháng 3 năm 2015.
Vũ Giới
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Vũ Giới (chữ Hán: 武玠, 1541-1593), người xã Lương Xá, huyện Thiện Tài, trấn Kinh Bắc (nay là xã Phú Lương, huyện Lương Tài, Bắc Ninh), cùng làng với Phạm Quang Tiến, trạng nguyên khoa thi 1565. Đỗ trạng nguyên khoa Đinh Sửu, niên hiệu Sùng Khang thứ 12 (1577) đời Mạc Mậu Hợp. Làm quan qua các chức như Hữu thị lang, Thượng thư Lại bộ.
- Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 19:32 ngày 8 tháng 3 năm 2015
Giai thoại về Trạng nguyên Vũ Giới.
Trạng
nguyên Vũ Giới xuất thân từ quê hương và gia đình từng vang bóng một
thời bởi nhiều người đỗ đại khoa và làm quan to trong triều.
Quê
hương ông: xã Lương Xá, huyện Lang Tài, Kinh Bắc (nay là làng Lương Xá,
xã Phú Lương, huyện Lương Tài, Bắc Ninh) có tới 8 vị đậu Tiến sĩ, trong
đó trước Vũ Giới có hai vị đỗ đấu là Vũ Kính và Phạm Quang Tiến.
Ông
Vũ Kính (Lịch triều hiên chương loại chí chép là Vũ Cảnh) là thân phụ
của Vũ Giới, đỗ đầu khoa Giáp Thìn (1544) năm Quảng hoà thứ bốn đời Mạc.
Khoa thi này không lấy Trạng nguyên nên Vũ Kính được đậu đình nguyên
Hoàng giáp. Hoàng giáp Vũ Kính làm quan tới chức Tả thị lang bộ Lễ,
chưởng hàn lâm viện sự, tước hầu. Ông nổi tiếng là thầy dạy giỏi, có
nhiều trò hiển đạt, trong đó có người cùng làng là Phạm Quang Tiến.
Thám
hoa Phạm Quang Tiến thủa nhỏ vang danh thần đồng. Tương truyền rằng năm
ông lên 2 tuổi mẹ đã dạy đọc sách. Mẹ viết ra một dòng đọc song đốt
liền, bắt đọc lại, ông vẫn đọc không nhầm lẫn. Đến khi đi học thầy Vũ
Kính, ông đọc mỗi trang sách một lần rồi tự tay châm lửa đốt, người ta
đố ông đọc lại, ông đọc chẳng sai một chữ. Khoa thi Nhâm Tuất (1562) năm
Thuận Phúc thứ 11 đời Mạc Mậu Hợp. Phạm Quang Tiến đỗ đầu, gọi là Đình
nguyên Thám hoa. Vua cử đi sứ phương Bắc, ông bị cảm và mất trên đường
đi công cán.
Trước
Vũ Giới, làng Lương Xá có hai vị đỗ Tiến sĩ, làm quan đến chức Thượng
thư trong triều. Đó là các ông Vũ Cẩn và Lương Phùng Thìn. Ông Vũ Cẩn tự
là Thuần Phu (có sách chép là Vũ Cận) là em ruột Hoàng giáp Vũ Kính,
chú Vũ Giới. Năm Quang Bảo thứ hai triều Mạc (1556), ông đậu Tiến sĩ.
Năm Diên Thành thứ ba (1580) được cử di phó sứ sang Trung Quốc nộp cống
bổ sung cho triều Minh. Khi về làm quan được thăng tới chức Thượng thư,
tước Xuân Giang hầu. Sau khi Lê Trung Hưng, năm 1593, vẫn được giữ chức
tuớc cũ. Vũ Cẩn để lại nhiều tác phẩm văn học cho đời sau, như tập ”Tinh
thiều kỳ thành” và 100 bài thơ chép trong Toàn Việt thi lục.
Ông
Lương Phùng Thìn (có sách chép Lê Phùng Thời) hiệu là Đôn Phu, đậu Tiến
sĩ khoa Quý Sửu (1553) năm Cảnh Lịch thứ sáu đời nhà Mạc. Năm 1581, ông
phụng mệnh sang sứ Trung Quốc, khi về làm quan đến chức Thượng thư,
tước Lương Khê hầu. Sách Toàn Việt thi lục còn ghi 3 bài thơ của ông.
Hoàng Sĩ Khải, hiệu Lãn Trai, người làng Lai Xá, huyện Lang Tài (nay thuộc Lương Tài, Bắc Ninh. Ông xuất thân từ trong đội quan Vũ Lâm, đậu Tiến sĩ khoa Giáp Thìn (1544) cùng khoa thi với Hoàng giáp Vũ Kính. Hai ông bạn đồng khoa đã ước hẹn se tơ kết tóc cho con trai, con gái của nhau. Hoàng Sĩ Khải cùng làm quan với triều Mạc, được cử đi sứ nhà Minh. rồi ông được thăng làm Thượng thư bộ Hộ kiêm Quốc tử giám Tế tửu, tước Vịnh Kiều bá, sau thăng Thiếu Bảo Vịnh Kiều hầu. Ông cũng là mộy giả tên tuổi với những tác phẩm như ”Tứ thời khúc”,“Sứ trình khúc”,“Sứ Bắc quốc ngữ thi tập”. v. v…
Hoàng Sĩ Khải, hiệu Lãn Trai, người làng Lai Xá, huyện Lang Tài (nay thuộc Lương Tài, Bắc Ninh. Ông xuất thân từ trong đội quan Vũ Lâm, đậu Tiến sĩ khoa Giáp Thìn (1544) cùng khoa thi với Hoàng giáp Vũ Kính. Hai ông bạn đồng khoa đã ước hẹn se tơ kết tóc cho con trai, con gái của nhau. Hoàng Sĩ Khải cùng làm quan với triều Mạc, được cử đi sứ nhà Minh. rồi ông được thăng làm Thượng thư bộ Hộ kiêm Quốc tử giám Tế tửu, tước Vịnh Kiều bá, sau thăng Thiếu Bảo Vịnh Kiều hầu. Ông cũng là mộy giả tên tuổi với những tác phẩm như ”Tứ thời khúc”,“Sứ trình khúc”,“Sứ Bắc quốc ngữ thi tập”. v. v…
Sinh
ra trên một mảnh đất trù phú về khoa bảng, có nhiều người tài kinh bang
tế thế đang ở thời thượng phong thăng tiến, trong một gia đình nho
giáo, quan lại cao cấp (chú ruột và bố vợ làm Thượng thư), Vũ Giới sớm
được tắm mình trong không khí hiếu học của quê hương, gia đình. Mặt khác
Vũ Giới cũng chẳng phải tầm sư học đạo khó khăn như nhiều nho sinh
khác, chính thầy dạy học là thân phụ của mình – Hoàng giáp Vũ Kính. Ngay
từ nhỏ, Vũ Giới đã tỏ ra thông mẫn khác thường, đạc biệt là tài đọc
sách thì khó ai sánh kịp. Chẳng bao lâu, ông đã am hiểu tứ thư (Đại học,
Trung học, Luận ngữ, Mạnh tử) và thấm nhuần ngũ kinh (Kinh thi, Kinh
thư, Kinh Dịch, Kinh lễ, Kinh xuân thu). Rồi thì những sách kinh điển
như Cương mục, Tả truyện, Chu lễ, quảng nghĩa, Đại học diễn nghĩa … kể
có tới hàng nghìn quyển ông đều tìm đọc và thấu suốt những chân nghĩa
sâu xa … Người đương thời nói rằng, kẻ thông minh tài trí thì nhiều,
nhưng người ham đọc sách đến như Vũ Giới thì thật là hiếm lắm!
Vũ
Giới ứng thí khoa thi Đình năm Sùng Khang thứ mười hai (1576). Khoa thi
này lấy đỗ 18 tiến sĩ. Vũ Giới đỗ Đình nguyên, Trạng nguyên. Có sách
chép ông đậu Trạng nguyên khoa Đinh Sửu (1577). Nhưng theo sách ”Lịch
triều hiến chương loại chí” thì năm Đinh Sửu thi chế khoa, lấy đỗ 5
người, ông Lê Mạc Tứ, người huyện Lôi Dương (nay là huyện Thọ Xuân,
Thanh Hoá) đỗ đầu đệ nhất giáp, không lấy Trạng nguyên.
Quan
tân Trạng 36 tuổi đầy tài năng lần lượt thăng quan tiến chức. Tham ty
hàn lâm viện sự, Hữu lang bộ Hộ, Hàn lâm thị giảng và cao nhất là Thượng
thư Lại bộ (tương đương như chức Bộ chưởng ngày nay).
Trạng nguyên - Thượng thư Vũ Giới đã ghi thêm vào bảng vàng khoa bảng và quan tước của gia đình và quê hương Lương Xá.
-
Gia đình: một Trạng nguyên (Vũ Giới), một đỗ đầu Đình nguyên hoàng giáp
(Vũ Kính), ba người làm chức Thượng thư (Vũ Cẩn, Vũ Giới, Hoàng Sĩ
Khải)
Quê hương Lương Xá: ngoài gia đình Vũ Giới, có một người đỗ đầu nữa là Đình nguyên Thám hoa Phạm Quang Tiến.
Quê hương Lương Xá: ngoài gia đình Vũ Giới, có một người đỗ đầu nữa là Đình nguyên Thám hoa Phạm Quang Tiến.
Người xưa vẫn gọi Lương Xá là đất tiến sĩ, đất Thượng thư, quả thật không ngoa!
Vũ
Giới làm quan với nhà Mạc đến năm 1593 thì xảy ra việc Trịnh Tùng tiến
quân diệt Mạc rồi dựng lại triều Lê. Chính vào năm này, Lại bộ Thượng
thư Vũ Giới mắc bệnh và tạ thế, hưởng thọ 53 tuổi ông được an táng tại
quê nhà, đuợc đặt tên hiệu là Hoài An tiên sinh đạo học tôn sư.
Khi
nói về Trạng nguyên Vũ Giới và gia đình có người đã thốt lên ”Một nhà
cha con, chú, cháu hiển đạt khoa danh như thế này quả là hiếm!”. Đúng
vậy nhưng cũng cần nói thêm: Một quê hương hiển đạt khoa danh như trạng
nguyên Vũ Giới cũng là hiếm lắm.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét