Thứ Năm, 12 tháng 12, 2013

VIỆT NAM HIỀN HÒA 3/7

(ĐC sưu tầm trên NET)

Dân tộc Co

Dân tộc Co có hơn 29.771 người, cư trú chủ yếu ở huyện Trà My (tỉnh Quảng Nam) và huyện Trà Bbồng (tỉnh Quảng Ngãi). Người Co còn có tên gọi khác là: Cor, Col, Cùa, Trầu. Tiếng Co thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khơmer. Người Co quan niệm vạn vật hữu linh, tin vào thần linh, tiêu biểu là thần lúa.
dan-toc-Co-1
Thiếu nữ dân tộc Co
Người Co làm rẫy là chính, đồng bào trồng lúa, ngô, sắn và nhiều loại cây khác. Đặc biệt, cây quế Quảng là đặc sản truyền thống ở Trà My và Trà Bổng. Quế ở vùng người Co có chất lượng và năng suất cao được các địa phương trong nước và nhiều nơi trên thế giới biết tiếng. Hàng năm quế đem lại nguồn thu đáng kể cho người Co. Từng làng của người Co có tên gọi riêng theo tên người trưởng làng hoặc tên sông, suối, tên đất, tên rừng. Trước đây, người Co còn ở nhà sàn dài, trong đó mỗi gia đình có một phòng riêng gọi là một bếp. Gần đây, người Co đã chuyển sang làm nhà trệt, nhà ngắn.
Người Co không dệt vải, vì vậy vải và đồ may mặc đều mua của nơi khác, phần lớn là mua của người Kinh và người Xơ-đăng. Theo sắc phục truyền thống, nam giới thường ở trần, đóng khố, nữ quấn váy, mặc áo cộc tay, yếm. Trời lạnh mỗi người khoác tấm vải dài, rộng. Đồng bào thích đeo vòng cổ, vòng tay, hoa tai bằng đồng hoặc bạc, nhưng thích nhất là bằng hạt cườm. Phụ nữ quấn nhiều vòng cườm các màu quanh eo lưng, quanh cổ và đầu.
Trong xã hội Co, các bô lão luôn được nể trọng. Ông già được suy tôn làm trưởng làng phải là người hiểu biết phong tục, giàu kinh nghiệm sản xuất và ứng xử xã hội, được dân làng tín nhiệm cao và thuộc dòng họ có công lập làng. Người Co xưa kia không có tên gọi của mỗi dòng họ, về sau đồng bào nhất loạt mang họ Đinh. Từ mấy chục năm nay, phần đông người Co lấy họ Hồ của Bác Hồ.
Thanh niên nam nữ Co được tìm hiểu nhau trước khi kết hôn. Việc cưới xin đơn giản, không tốn kém nhiều. Sau lễ cưới, cô dâu về ở nhà chồng. Trước đây, hầu như người Co không lấy vợ, lấy chồng thuộc dân tộc khác, nay dân tộc Co đã có những dâu, rể là người Kinh, Xơ-đăng, Hrê...
Người Co thích múa hát, thích chơi chiêng, cồng, trống. Các điệu dân ca phổ biến của đồng bào là Xru, Klu và Agiới. Các truyện cổ của người Co truyền miệng từ đời này sang đời khác luôn làm say lòng cả người kể và người nghe./.
Theo TTXVN 

Dân tộc Chu Ru

Dân tộc Chu Ru

30 / 05/ 2012, 01:05:25
Tên dân tộc: Chu Ru (Cho Ru, Ru).
Dân số:14.978 người (năm 1999).
Ðịa bàn cư trú: Phần lớn ở Ðơn Dương (Lâm Ðồng), số ít ở Bình Thuận.
 Phong tục tập quán:
dân tộc chu duThờ cúng tổ tiên và chỉ cúng ngoài nghĩa địa. Thờ nhiều thần liên quan đến các nghi lễ nông nghiệp. Sống định canh định cư. Một gia đình gồm 3-4 thế hệ. Hôn nhân một vợ, một chồng, con gái chủ động cưới, người chồng ở rể.
Ngôn ngữ:
Ngôn ngữ thuộc nhóm Nam Đảo.
Văn hoá:
Làng gồm nhiều dòng họ hoặc khác tộc cư trú. Ðứng đầu là trưởng làng (Pô plây), sau là thầy cúng. Có vốn dân ca, ca dao, tục ngữ phong phú.
Kinh tế:
Nghề làm ruộng lâu đời. Trồng dâu, nuôi tằm, chăn nuôi. Nghề thủ công: đan lát, rèn và làm gốm. Nghề phụ: săn bắn, hái lượm.

Dân tộc Chơ Ro

Dân tộc Chơ Ro

30 / 05/ 2012, 01:05:44
Tên dân tộc: Chơ Ro (Ðơ Ro, Châu Ro).
Dân số: 22.567 người (năm 1999).
Ðịa bàn cư trú: Phần lớn cư trú ở tỉnh Ðồng Nai, một số ít ở tỉnh Bình Thuận.
  Phong tục tập quán:
Coi trọng chế độ mẫu hệ và phụ hệ như nhau. Người Chơ Ro tin mọi vật đều có "hồn" và các "thần linh" chi phối con người, khiến con người phải kiêng kỵ và cúng tế. Lễ cúng "thần rừng" và "thần lúa" là quan trọng. Trước đây sống ở nhà sàn, hiện nay họ đã ở nhà trệt.
Ngôn ngữ:
Thuộc ngôn ngữ Môn - Khmer, gần với tiếng Mạ, Xtiêng...
Văn hoá:
Nhạc cụ có bộ chiêng 7 chiếc, đàn ống tre, ống tiêu và hát đối đáp trong lễ hội.

Dân tộc Chơ RoTrang phục:
Mặc như người Kinh trong vùng. Nữ thích đeo các vòng đồng, bạc, dây cườm...
Kinh tế:
Chủ yếu làm rẫy. Nay nhiều nơi phát triển làm lúa nước. Chăn nuôi, hái lượm, săn bắt, đánh cá. Nghề thủ công là đan lát, làm các đồ dùng bằng
 


Dân tộc Chăm

Dân tộc Chăm

30 / 05/ 2012, 01:05:31
Tên dân tộc: Chăm (Chàm, Chiêm Thành, Hroi).
Dân số: 132.873 người (năm 1999).
Ðịa bàn cư trú: Ninh Thuận và một phần nhỏ ở An Giang, Tây Ninh, Ðồng Nai, thành phố Hồ Chí Minh, tây nam Bình Thuận và tây bắc Phú Yên...
  dân tộc chămPhong tục tập quán :
Theo đạo Hồi (nhóm Bà Ni và nhóm Ixlam) và đạo Bà La Môn (chiếm 3/5 dân số). Duy trì chế độ mẫu hệ, con gái theo họ mẹ. Nhà gái cưới chồng cho con, con trai ở rể. Con gái được thừa kế tài sản, con gái út phải nuôi dưỡng bố mẹ.
Ngôn ngữ :
Ngôn ngữ thuộc hệ Mã Lai - Đa Đảo.
Văn hoá :
Nhà ở quay mặt về phía nam hoặc tây. Múa hát dân tộc Chăm rất nổi tiếng.
Các lễ hội dân gian truyền thống tiêu biểu của người Chăm đó là: lễ hội Katê (tưởng niệm đấng cha - lễ hội lớn nhất, vui nhất của người Chăm theo đạo Bà La Môn) ; lễ hội Ramưwan - lễ hội điển hình nhất về lễ nghi ở thánh đường của người Chăm theo đạo Hồi; lễ hội Tháp Bà (tưởng niệm nữ thần Mẹ Xứ sở) đến từ Nha Trang - Khánh Hòa; lễ mừng sức khỏe, lễ múa tống ôn đầu năm, lễ cưới của người Chăm An Giang...
Trang phục :
Trang phục Chăm, vì có nhóm cơ bản là theo đạo Hồi nên cả nam và nữ lễ phục thiên về màu trắng. Có thể thấy đặc điểm trang phục là lối tạo hình áo (khá điển hình) là lối khoét cổ và can thân và nách từ một miếng vải khổ hẹp (hoặc can với áo dài) thẳng ở giữa làm trung tâm áo cho cả áo ngắn và áo dài. Mặt khác có thể thấy ở đây duy nhất là dân tộc còn thấy nam giới mặc váy ở Việt Nam với lối mang trang phục và phong cách thẩm mỹ riêng.

dan toc chamKinh tế :
Lúa là cây lương thực chính. Nghề phụ là buôn bán và dệt vải.

Di tích Chăm miền Trung :
- Di sản thế giới Mỹ Sơn
- Di tích Trà Kiệu.
- Di tích thành Chăm Quảng Ngãi.
- Di tích Chăm Bình Ðịnh.
- Di tích Chăm Ninh Thuận. 

Dân tộc Bru - Vân Kiều

Dân tộc Bru - Vân Kiều

30 / 05/ 2012, 12:05:32
Tên dân tộc: Bru - Vân Kiều (Trì, Khùa, Ma - Coong).
Dân số: 55.559 người (năm 1999).
Ðịa bàn cư trú: Tập trung ở miền núi các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên-Huế
Phong tục tập quán:
bruThờ cúng tổ tiên và có tục thờ cúng vật thiêng như thanh kiếm, mảnh bát... Ðặc biệt là tục thờ lửa và thờ bếp lửa. Người trưởng làng có vai trò quan trọng và có uy tín hơn đối với dân làng. Ở nhà sàn nhỏ, nếu gần bờ sông, suối thì các nhà tập trung thành một khu trải dọc theo dòng chảy, nếu ở chỗ bằng phẳng, rộng rãi, các ngôi nhà xếp thành vòng tròn hay hình bầu dục, ở giữa là nhà công cộng.

Nam nữ tự do yêu nhau. Trong họ hàng, ông cậu có quyền quyết định đối với việc hôn nhân, cúng lễ, làm nhà của các con cháu.

Ngôn ngữ:
Thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer.
Văn hoá:
Người Bru - Vân Kiều có vốn văn nghệ cổ truyền quý báu. Nhạc cụ có nhiều loại: trống, thanh la, chiêng núm, kèn, đàn (achung, pơ-kua...). Có nhiều làn điệu dân ca: chà chấp là lối vừa hát vừa kể, sim (hát đối nam nữ), ca dao, tục ngữ...
Trang phục:
Theo trang phục Tây Nguyên.
Kinh tế:
Làm rẫy, làm ruộng, chăn nuôi, hái lượm săn bắn và đánh cá. Nghề thủ công: đan chiếu lá, gùi...
 

Dân tộc Brâu

Dân tộc Brâu

30 / 05/ 2012, 12:05:46
Tên dân tộc: Brâu (Brạo).
Dân số: 313 người (năm 1999).
Ðịa bàn cư trú: Làng Ðăk Mế, xã Bờ Y, huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum.
  dan toc brauPhong tục tập quán:
Tự do lấy vợ, lấy chồng, đám cưới tiến hành ở nhà gái, chàng rể phải ở lại nhà vợ khoảng 2 - 3 năm, rồi mới làm lễ đưa vợ về nhà mình. Ngôi nhà truyền thống là nhà sàn.
Ngôn ngữ:
Thuộc nhóm ngôn ngữ  Môn - Khmer.

Văn hoá:
Người Brâu thích chơi cồng, chiêng. Ðặc biệt có bộ chiêng tha rất có giá trị.

Trang phục:
Nam đóng khố, nữ quấn váy, đều ở trần. Người Brâu có tục xăm mặt, xăm mình và cà răng.
Kinh tế:
Sống du canh, du cư, chủ yếu đốt rừng làm rẫy, công cụ sản xuất thô sơ.

Dân tộc Bố Y

Dân tộc Bố Y

30 / 05/ 2012, 12:05:31
Tên dân tộc : Bố Y (Chủng Chá, Trọng Gia, Tu Dí, Tu Dìn, Pu Nà).
Dân số: 1.864 người (năm 1999).
Ðịa bàn cư trú : Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang.
Phong tục tập quán :dân tộc bố Y
Tôn giáo chính là thờ tổ tiên. Nhà ở thường là nền đất, có một sàn gác trên lưng quá giang - là nơi để lương thực và là chỗ ngủ của những người con trai chưa vợ. Lễ cưới của người Bố Y khá phức tạp. Chàng rể không đi đón dâu, cô em gái của chàng rể dắt con ngựa hồng đẹp mã để chị dâu cưỡi lúc về nhà chồng.

Khi bố mẹ chết, con cái phải kiêng kỵ nghiêm ngặt trong 90 ngày đối với tang mẹ và 120 ngày đối với tang cha.

Ngôn ngữ :
dân tộc bố ý
Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái.
Văn hoá :
Vốn văn nghệ dân gian như truyện cổ, tục ngữ, dân ca khá phong phú.
Trang phục :
Nữ mặc váy xèo, áo năm thân và có xiêm che ngực. Một số mặc giống người Nùng, số khác mặc giống người Hán.
Kinh tế :
Sống chủ yếu bằng nghề nương rẫy.

Dân tộc Ba Na

Dân tộc Ba Na

30 / 05/ 2012, 12:05:27
Tên dân tộc: Ba Na (Tơ Lô, Krem, Roh, Con Kde, ALa Công, Krăng).
Dân số: 174.456 người (năm 1999).
Ðịa bàn cư trú: Kon Tum, Bình Ðịnh, Phú Yên
Phong tục tập quán :  Thờ nhiều thần linh, hôn nhân tự do, cưới xin theo nếp cổ truyền, sau khi sinh con đầu lòng mới làm nhà riêng. Ở nhà sàn, mỗi làng có một nhà công cộng (nhà rông) to, đẹp ở giữa làng.dan toc ba na

Ngôn ngữ : Thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer.

Văn hoá : Nhạc cụ đa dạng: cồng, chiêng, đàn T'rưng, Klông pút, Kơni..., kèn tơ nốt, arơng,... nghệ thuật chạm khắc gỗ phát triển.

Trang phục : Nam đóng khố, nữ mặc váy.

Kinh tế : Làm rẫy và chăn nuôi. Mỗi làng có lò rèn, phụ nữ dệt vải tự lo đồ mặc cho gia đình, đàn ông đan chiếu, dệt lưới, làm gùi, giỏ,... Mua bán theo chế độ đổi hàng.

Dân tộc Ơ Đu

Dân tộc Ơ Đu

30 / 05/ 2012, 03:05:35
Tên dân tộc: Ơ Ðu (Tày Hạt).
Dân số: 301 người (năm 1999).
Ðịa bàn cư trú: Nghệ An. 
Phong tục tập quán:dan toc ở du
Sống trong gia đình nhỏ, hôn nhân có tục ở rể sau một thời gian mới đưa vợ về. Có lịch tính năm riêng. Quan niệm có hồn và ma. Ma chi phối hoạt động của người sống.
Ngôn ngữ:
Ngôn ngữ thuộc nhóm Môn - Khmer, nhưng đang bị mất hiện sử dụng tiếng Thái và Khơ Mú.
Văn hoá:
Không còn bản sắc văn hóa riêng, chịu ảnh hưởng văn hóa Thái và Khơ Mú.
Kinh tế:
Làm nương rẫy, chăn nuôi, hái lượm, săn bắn. Nghề thủ công là dệt vải.
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét