Thứ Sáu, 13 tháng 12, 2013
VIỆT NAM HIỀN HÒA 4/2
(ĐC sưu tầm trên NET)
* Ngày cúng giỗ
Giao thừa
* Lễ trừ tịch
Tết Thanh minh
Tết Hàn thực
Tết Ðoan Ngọ
Tết Trung nguyên
Tết Trung thu
Tết Trùng thập
Cúng giỗ
|
Theo tập quán lâu đời, dân ta lấy ngày giỗ (ngày mất) làm trọng, cho nên ngày đó, ngoài việc thăm phần mộ, tuỳ gia cảnh và tuỳ vị trí người đã khuất mà cúng giỗ. Ðây cũng là dịp gặp mặt người thân trong gia đình trong dòng họ, họp mặt để tưởng nhớ người đã khuất và bàn việc người sống giữ gìn gia phong. |
Vào
dịp đó người ta thường tổ chức ăn uống, nên mới gọi là ăn giỗ, thì cũng
là trước cúng sau ăn, cũng là để cho cuộc gặp mặt đậm đà ấm cúng, kéo
dài thời gian sum họp, kể chuyện tâm tình, chuyện làm ăn. Với ý nghĩa
"Uống nước nhớ nguồn" việc đó có thể xếp vào loại thuần phong mỹ tục.
* Ngày cúng giỗ
Ngày
giỗ theo âm Hán là huý nhật hay kỵ nhật, tức là lễ kỷ niệm ngày mất của
tổ tiên, ông bà, cha mẹ, cũng có nghĩa là ngày kiêng kỵ.
Nguyên
ngày trước, "Lễ giỗ" gọi là "Lễ chính kỵ"; chiều hôm trước lễ chính kỵ
có "lễ tiên thường" (nghĩa là nếm trước), con cháu sắm sanh một ít lễ
vật, dâng lên mời gia tiên nếm trước. Ngày xưa, những nhà phú hữu mời bà
con làng xóm ăn giỗ cả hai lễ tiên thường và chính kỵ. Dần dần hoặc vì
bận việc hoặc vì kinh tế hoặc vì thiếu người phục dịch, người ta giản
lược đi, chỉ mời khách một lần nhưng hương hoa, trầu rượu vẫn cúng cả
hai lễ. Tóm lại, nếu vận dụng đúng phong tục cổ truyền phổ biến trong cả
nước thì trước ngày chết (lễ tiên thường) phải cúng chiều, cúng đúng
ngày chết (lễ chính kỵ) phải cúng buổi sáng.
* Mấy đời tống giỗ
Theo
gia lễ: "Ngũ đại mai thần chủ", hễ đến năm đời thì lại đem chôn thần
chủ của cao tổ đi mà nhấc lần tằng tổ khảo lên bậc trên rồi đem ông mới
mất mà thế vào thần chủ ông khảo. Theo nghĩa
cửu tộc (9 đời): Cao, tằng, tổ, phụ (4 đời trên); thân mình và tử, tôn,
tằng tôn, huyền tôn (4 đời dưới mình). Như vậy là chỉ có 4 đời làm giỗ
(cao, tằng, tổ, phụ) tức là kỵ (hay can), cụ (hay cố), ông bà, cha mẹ.
Từ "Cao" trở lên gọi chung là tiên tổ thì không cúng giỗ nữa mà nhập
chung vào kỳ xuân tế, hoặc phụ tế vào ngày giỗ của thuỷ tổ.
* Cúng giỗ người chết yểu
Những
người đã đến tuổi thành thân, thành nhân nhưng khi chết chưa có vợ hoặc
mới có con gái, chưa có con trai hoặc có con trai nhưng con trai cũng
chết, trở thành phạp tự (không có con trai nối giòng). Những người đó có
cúng giỗ. Người lo việc giỗ chạp là người cháu (con trai anh hoặc anh
ruột) được lập làm thừa tự. Người cháu thừa tự được hưởng một phần hay
toàn bộ gia tài của người đã khuất. Sau khi người thừa tự mất thì con
cháu người thừa tự đó tiếp tự.
Những
người chưa đến tuổi thành thân (dưới 16 hoặc dưới 18 tuổi, tuỳ theo tục
lệ địa phương) sau khi hết lễ tang yết cáo với tổ tiên xin phụ thờ với
tiên tổ. Những người đó không có lễ giỗ riêng, ai cúng giỗ chỉ là ngoại
lệ. Có những gia đình bữa nào cũng xới thêm một bát cơm, một đôi đũa đặt
bên cạnh mâm, coi như người thân còn sống trong gia đình. Ðiều này
không có trong gia lễ nhưng thuộc về tâm linh, niềm tưởng vọng đối với
thân nhân đã khuất.
Lễ tết
|
Một năm, người Việt có Tết Nguyên Ðán (đúng mồng một tháng giêng âm lịch) là ngày tết lớn nhất, ngoài ra còn có rất nhiều lễ, tết đặc trưng khác. |
Tết Nguyên đán
Tết
Nguyên đán (Tết Cả) là lễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống
Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới;
giữa một chu kỳ vận hành của đất trời, vạn vật cỏ cây. Tết Nguyên đán
Việt Nam từ buổi "khai thiên lập địa" đã tiềm tàng những giá trị nhân
văn thể hiện mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên, vũ trụ qua bốn
mùa xuân-hạ-thu-đông và quan niệm "ơn trời mưa nắng phải thì" chân chất
của người nông dân cày cấy ở Việt Nam... Tết còn là dịp để mọi người
Việt Nam tưởng nhớ, tri âm tổ tiên, nguồn cội; giao cảm nhân sinh trong
quan hệ đạo lý (ăn quả nhớ kẻ trồng cây) và tình nghĩa xóm làng...
Giao thừa
Lẽ
trời đất có khởi thuỷ phải có tận cùng, một năm có bắt đầu ắt phải có
kết thúc, bắt đầu vào lúc giao thừa, cũng lại kết thúc vào lúc giao
thừa.
Giao thừa là gì? Theo từ điển Hán Việt của Ðào Duy Anh nghĩa là cũ giao lại, mới đón lấy. Chính vì ý nghĩa ấy, nên hàng năm vào lúc giao tiếp giữa hai năm cũ, mới này, có lễ trừ tịch
* Lễ trừ tịch
Trừ tịch là giờ phút cuối cùng của năm cũ sắp bắt đầu qua năm mới. Vào lúc này, dân chúng Việt Nam theo cổ lệ có làm lễ Trừ tịch. Ý
nghĩa của lễ này là đem bỏ hết đi những điều xấu của năm cũ sắp qua để
đón những điều tốt đẹp của năm mới sắp đến. Lễ trừ tịch còn là lễ để
"khu trừ ma quỷ", do đó có từ "trừ tịch". Lễ trừ tịch cử hành vào lúc
giao thừa nên còn mang tên là lễ giao thừa.
* Sửa lễ giao thừa
Người
ta cúng giao thừa tại các đình, miếu, các văn chỉ trong xóm cũng như
tại các tư gia. Bàn thờ giao thừa được thiết lập ở giữa trời. Một chiếc
hương án được kê ra, trên có bình hương, hai ngọn đèn dầu hoặc hai ngọn
nến. Lễ vật gồm: chiếc thủ lợn hoặc con gà, bánh chưng, mứt kẹo, trầu
cau, hoa quả, rượu nước và vàng mã, đôi khi có thêm chiếc mũ của Ðại
Vương hành khiển.
Ðến
giờ phút trừ tịch, chuông trống vang lên, người chủ ra khấu lễ, rồi mọi
người kế đó lễ theo, thành tâm cầu xin vị tân vương hành khiển phù hộ
độ trì cho một năm nhiều may mắn. Các chùa chiền cũng cúng giao thừa
nhưng lễ vật là đồ chay. Ngày nay, ở các tư gia người ta vẫn cúng giao
thừa với sự thành kính như xưa nhưng bàn thờ thì giản tiện hơn, thường
đặt ở ngoài sân hay trước cửa nhà.
* Cúng ai trong lễ giao thừa và tại sao cúng giao thừa ngoài trời
Dân
tộc nào cũng coi phút giao thừa là thiêng liêng. Tục ta tin rằng mỗi
năm có một ông hành khiển coi việc nhân gian, hết năm thì thần nọ bàn
giao công việc cho thần kia, cho nên cúng tế để tiễn ông cũ và đón ông
mới. Các cụ quan niệm: Mỗi năm Thiên đình lại thay toàn bộ quan quân
trông nom công việc dưới hạ giới, đứng đầu là một ngài có trí như quan
toàn quyền. Năm nào quan toàn quyền giỏi giang anh minh, liêm khiết thì
hạ giới được nhờ như: được mùa, ít thiên tai, không có chiến tranh, bệnh
tật... Trái lại, gặp phải ông lười biếng, kém cỏi, tham lam thì hạ giới
chịu mọi thứ khổ.
Lễ giao thừa được cúng ở ngoài trời là bởi vì các cụ xưa hình dung trong phút cựu vương hành khiển bàn giao công việc cho tân vương
luôn có quân đi, quân về đầy không trung tấp nập, vội vã (nhưng mắt
trần ta không nhìn thấy được), thậm chí có quan quân còn chưa kịp ăn
uống gì. Những phút ấy, các gia đình đưa xôi gà, bánh trái, hoa quả,
toàn đồ ăn nguội ra ngoài trời cúng, với lòng thành tiễn đưa người nhà
trời đã cai quản mình năm cũ và đón người nhà trời mới xuống làm nhiệm
vụ cai quản hạ giới năm tới. Vì việc bàn giao, tiếp quản công việc hết
sức khẩn trương nên các vị không thể vào trong nhà khề khà mâm bát mà
chỉ có thể dừng vài giây ăn vội vàng hoặc mang theo, thậm chí chỉ chứng
kiến lòng thành của chủ nhà.
* Lễ cúng Thổ Công
Sau
khi cúng giao thừa xong, các gia chủ cũng khấn Thổ Công, tức là vị thần
cai quản trong nhà. Lễ vật cũng tương tự như lễ cúng giao thừa.
Một số tục lệ trong đêm giao thừa
Sau
khi làm lễ giao thừa, các cụ ta có những tục lệ riêng mà cho đến nay,
từ thôn quê đến thành thị, vẫn còn nhiều người tôn trọng thực hiện.
+ Lễ chùa, đình, đền:
lễ giao thừa ở nhà xong, người ta kéo nhau đi lễ các đình, chùa, miếu,
điện để cầu phúc, cầu may, để xin Phật, Thần phù hộ độ trì cho bản thân
và gia đình và nhân dịp này người ta thường xin quẻ thẻ đầu năm.
+ Kén hướng xuất hành: khi đi lễ, người ta kén giờ và hướng xuất hành, đi đúng hướng đúng giờ để gặp may mắn quanh năm.
+ Hái lộc:
đi lễ đình, chùa, miếu, điện xong người ta có tục hái trước cửa đình,
cửa đền một cành cây gọi là cành lộc mang về ngụ ý là "lấy lộc" của
Trời đất Thần, Phật ban cho. Cành lộc này được mang về cắm trước bàn thờ
cho đến khi tàn khô.
+ Hương lộc:
có nhiều người thay vì hái cành lộc lại xin lộc tại các đình, đền,
chùa, miếu bằng cách đốt một nắm hương, đứng khấn vái trước bàn thờ, rồi
mang hương đó về cắm vào bình hương bàn thờ nhà mình.Ngọn lửa tượng
trưng cho sự phát đạt được lấy từ nơi thờ tự về tức là xin Phật, Thánh
phù hộ cho được phát đạt quanh năm.
+ Xông nhà:
thường người ta kén một người "dễ vía" trong gia đình ra đi từ trước
giờ trừ tịch, rồi sau lễ trừ tịch thì xin hương lộc hoặc hái cành lộc ở
đình chùa mang về. Lúc trở về đã sang năm mới và ngưòi này sẽ tự "xông
nhà" cho gia đình mình, mang sự tốt đẹp quanh năm về cho gia đình. Nếu
không có người nhà dễ vía người ta phải nhờ người khác tốt vía để sớm
ngày mồng một đến xông nhà trước khi có khách tới chúc tết, để người này
đem lại sự may mắn dễ dãi.
Một số lễ đầu xuân
* Lễ Ðộng thổ
Lễ
Ðộng thổ bắt đầu ở Trung Quốc sau truyền sang Việt Nam. Ðộng thổ nghĩa
là động đất, và trong khi động đất phải có lễ cúng Thổ Thần để trình xin
bắt đầu động đến đất cho một năm mới.
Hàng
năm, sau ngày mồng ba tết, các làng thường làm lễ Ðộng thổ để cho dân
làng có thể đào cuốc xới được. Các bậc kỳ lão và quan viên được cử làm
chủ tế và bồi tế. Lễ vật gồm hương đăng, trầu rượu, y phục và kim ngân
đồ mã. Trong buổi lễ, ông chủ tế cuốc mấy nhát xuống đất để lấy một cục
đất đặt lên bàn thờ, "tường trình" với Thổ Thần xin cho dân được động
thổ. Sau lễ động thổ dân làng mới được động tới đất. Ai cuốc xới trước
lễ động thổ bị dân làng bắt vạ.
* Lễ Khai hạ
Theo
tục lệ Việt Nam, ngày mồng bảy tháng giêng là ngày hạ cây nêu. Cây nêu
trồng trong năm, khi sửa soạn đón tết cùng với cung tên bằng vôi trắng
vẽ trước cửa nhà để "trừ ma quỷ", nay được hạ xuống.
Lễ
hạ nêu còn được gọi là lễ Khai hạ. Nhân dịp này, ngoài lễ giữa trời
cúng trời đất, người ta còn sửa lễ cúng Gia tiên, cúng Thổ côngvà thần
tài. Thường sau ngày lễ này, mọi công việc thường xuyên mới được bắt đầu
trở lại.
* Lễ Thần Nông
Thần
Nông tức là vị hoàng đế Trung Hoa đầu tiên đã dạy dân nghề làm ruộng.
Lễ Thần Nông tức là lễ tế vua Thần Nông để cầu mong sự được mùa và nghề
nông phát đạt.
Trên
các quyển lịch hàng năm của người Trung Hoa thường có vẽ một mục đồng
dắt một con trâu. Mục đồng tức là vua Thần Nông, còn con trâu tượng
trưng cho nghề nông. Hình mục đồng cũng như con trâu thay đổi hàng năm
tuỳ theo sự ước đoán của cơ sở dự báo khí tượng về mùa màng năm đó tốt
hay xấu. Năm nào được mùa, Thần Nông giầy dép chỉnh tề, còn năm nào đói
kém, Thần Nông có vẻ như vội vàng hấp tấp nên chỉ đi giày có một chân.
Con trâu đổi màu tuỳ theo hành của mỗi năm, vàng, đen, trắng, xanh, đỏ
đúng với Kim, Mộc, Thuỷ, Hỏa, Thổ. Hàng năm, vào ngày Lập xuân tại triều
đình xưa cũng như tại các tỉnh có tục tế và rước Thần Nông. Người ta
nặn trâu và tượng Thần Nông có dáng vẻ và màu sắc đúng với sự ước lượng
về mùa màng năm đó. Sau đó lập đài để rước trâu và tượng Thần Nông tới
làm lễ tế. Sau mỗi cuộc tế, trâu và tượng Thần Nông được khiêng cất vào
kho hoặc đem chôn.
* Lễ Tịch điền
Lễ
Tịch điền còn gọi là lễ Hạ điền do chính vua Thần Nông đặt ra. Cũng như
các nghi lễ khác, lễ Tịch điền của người Tàu đã du nhập sang ta. Hàng
năm vào đầu xuân, nhà vua lại tự thân cày mấy luống đất để làm gương cho
dân chúng và cử hành lễ Tịch điền. Tiếp sau vua, các hoàng thân, các
quan văn võ, các chức sắc, bộ lão sở tại cũng ra cày. Tại các tỉnh, các
xã cũng có lễ Tịch điền... Ở tỉnh, quan tỉnh bắt đầu lễ Tịch điền bằng
việc cày và ở xã là vị chức sắc cao nhất trong xã. Tùy từng triều đại
việc cử hành lễ Tịch điền có lúc long trọng, lúc đơn giản và ở mỗi địa
phương cũng có những tục lệ riêng.
* Lễ Khai ấn
Các
ấn được lau chùi trong năm, ngoài xuân bộ lễ theo tục cũ cũng được
chọn ngày lành, giờ tốt để làm lễ khai ấn nghĩa là dùng ấn đóng lên một
công văn, chỉ dụ.
Thường
văn bản đầu tiên được đóng ấn là bản văn tốt lành. Tục khai ấn này, Tại
các tỉnh, các phủ, huyện, châu, xã xưa kia mỗi viên chức có ấn đều được
chọn ngày khai ấn và sửa lễ cúng vị thần giữ về ấn tín trong dịp lễ
khai ấn.
Tết Thượng nguyên
(Tết Nguyên tiêu)
Tết
Thượng nguyên vào ngày rằm tháng giêng - ngày trăng tròn đầu tiên của
năm. Tết này phần lớn tổ chức tại chùa chiền, vì rằm tháng giêng còn là
ngày vía của Phật tổ. Ta có câu: "Lễ Phật quanh năm không bằng rằm tháng
giêng". Tục ta tin rằng ngày rằm tháng giêng, đức Phật giáng lâm tại
các chùa để chứng độ lòng thành của các tín đồ phật giáo. Trong dịp này
chùa nào cũng đông người tới lễ bái. Sau khi đi chùa mọi người về nhà
họp mặt cúng gia tiên và ăn cỗ.
Tết Thanh minh
Thanh minh
Là
tiết thứ năm trong "nhị thập tứ khí" và đã được người phương Ðông coi
là một lễ tiết hàng năm. Tiết thanh minh đến sau ngày Lập Xuân 45 ngày.
Theo nghĩa đen, thanh là khí trong, còn minh là sáng sủa. Khi tiết Xuân
Phân qua, những cơn mưa bụi của trời xuân đã hết, bầu trời trở nên quang
đãng, sáng sủa là sang tiết thanh minh (thường bắt đầu trong tháng ba
hoặc muộn lắm là đầu tháng tư âm lịch tùy từng năm).
Lễ thanh minh
Nhân
ngày thanh minh, cũng như nhiều dân tộc Á Đông khác. Dân ta có tục đi
viếng mộ gia tiên và làm lễ cúng gia tiên sau cuộc tảo mộ.
Lễ tảo mộ:
Tảo mộ chính là sửa sang ngôi mộ cho được sạch sẽ. Nhân ngày lễ thanh
minh người ta mang theo cuốc xẻng để đắp lại nấm mồ cho to, rẫy hết cỏ
dại và những cây hoang mọc trèo lên mộ có thể phạm tới hài cốt của người
thân đã khuất. Sau đó cắm mấy nén hương, đốt vàng mã hoặc đặt thêm bó
hoa dâng cho vong hồn người quá vãng. Bên cạnh những ngôi mộ được trông
nom, săn sóc, còn có những ngôi mộ vô chủ, không người thăm viếng. Những
người có lòng nhân đức không khỏi mủi lòng thường cắm một nén hương,
đốt nắm vàng mã cho những ngôi mộ này. Tại các nơi tha ma mộ địa còn có
lập một cái am để thờ chung những mồ mả vô chủ gọi là Am chúng sinh và
mỗi cửa am có một bà đồng sớm tối đèn hương thờ phụng. Trong ngày tảo
mộ, bãi tha ma vốn vắng lặng bỗng trở nên đông đúc. Mọi người đi tảo mộ
đều ăn vận rất chỉnh tề, lo khấn vái nơi phần mộ. Cả trẻ em cũng có thể
theo cha mẹ đi tảo mộ, trước là để biết dần những ngôi mộ của gia tiên,
sau là bố mẹ muốn tập cho chúng sự kính trọng tổ tiên qua tục viếng mộ.
Những người quanh năm đi làm ăn xa cũng thường trở về vào dịp này để tảo
mộ gia tiên và xum họp với đại gia đình. Thường người ta đi tảo mộ từ
sáng sớm cho đến gần trưa.
Tục lệ tảo mộ:
Thường người ta đi tảo mộ vào tiết thanh minh trời quang mây tĩnh, và
sau đó kính mời hương hồn tổ tiên về hưởng cỗ con cháu cúng trong dịp
này. Nhưng cũng có nhiều nơi người ta tảo mộ vào dịp trước và sau ngày
tết. Nhiều làng ở vào vùng đất thấp, tới vụ nước, ruộng nương và cả bãi
tha ma đều ngập nước, thì người ta đi tảo mộ vào đầu tháng chín, sau khi
nước đã rút. Dù đi tảo mộ vào ngày nào thì việc thăm nom mồ mả tổ tiên
cũng là việc hay. Nghĩ đến gia tiên tức là nghĩ đến gốc, tưởng đến
nguồn.
Cúng lễ trong ngày tết thanh minh:
Tết thanh minh cũng là dịp để con cháu sửa lễ cúng gia tiên sau khi
viếng mộ về. Cũng có nhà sửa lễ mang ra mộ cúng, nhưng đó chỉ là cúng
riêng một ngôi mộ. Còn sau đó người ta vẫn cúng ở bàn thờ tổ tiên và
khấn tất cả gia tiên nội ngoại về phối hưởng. Người ta thường cúng mặn
trong ngày thanh minh, nghĩa là có làm cỗ, hoặc không làm cỗ thì cũng có
đĩa xôi, con gà cùng với hương hoa, trà rượu, vàng mã. Và đồng thời với
việc cúng tổ tiên cũng có cúng Thổ Công như trong mọi dịp.
Tết Hàn thực
Theo
phong tục cổ truyền, ngày mồng 3 tháng 3 tức tết Hàn thực, ta làm bánh
chay. Tết này có xuất xứ từ bên Trung Quốc, làm giỗ ông Giới Tử Thôi
(một hiền sĩ thời Xuân Thu có công phò Tần Văn Công), bị chết cháy ở núi
Ðiền Sơn. Cũng như ngày mùng năm tháng năm tết Ðoan Dương cũng xuất xứ
bên Trung Quốc là giỗ ông Khuất Nguyên (đời Xuân Thu, thờ vua Sở Hoài
Vương) gieo mình chết trôi ở sông Mịch La. Ðành rằng dân ta theo tục đó
nhưng khi cúng chỉ cúng gia tiên nhà mình.
Tết Ðoan Ngọ
Tết
Đoan Ngọ còn gọi là tết Ðoan Dương còn nhiều tục truyền đến nay. Sáng
sớm cho trẻ ăn hoa quả, rượu nếp, trứng luộc, bôi hồng hoàng vào thóp
đầu, vào ngực, vào rốn để giết sâu bọ. Người lớn thì giết sâu bọ bằng
uống rượu hoặc ăn rượu nếp.
Tết Trung nguyên
(Rằm tháng bảy)
Rằm
tháng bảy theo tín ngưỡng là ngày xá tội vong nhân, nghĩa là bao nhiêu
tội nhân ở dưới âm phủ ngày hôm đó đều được tha tội. Bởi vậy trên dương
thế mọi gia đình đều làm cỗ bàn, đốt vàng mã cúng gia tiên và đồng thời
cúng những linh hồn bơ vơ không được ai chăm sóc. Người ta cũng thả chim
lên trời, thả cá xuống sông, để làm điều phúc đức.
Tết Trung thu
(Rằm tháng Tám)
Trung
thu là giữa mùa thu, tết Trung Thu như tên gọi đến với chúng ta vào
đúng giữa mùa thu tức là vào rằm tháng tám âm lịch. Tết Trung Thu là tết
của trẻ em.
(Tết cơm mới)
Tết
Hạ nguyên vào rằm hay mồng một tháng mười. Ở nông thôn, tết này được tổ
chức rất lớn vì đây là dịp nấu cơm gạo mới của vụ vừa xong - trước là
để cúng tổ tiên, sau để thưởng công cầy cấy.
Tết Trùng thập
Tết
của các thầy thuốc. Theo sách Dước lễ thì ngày mười tháng mười (âm
lịch), cây thuốc mới tụ được khí âm dương, mới kết được sắc tứ thời
(Xuân-Hạ-Thu-Ðông) trở nên tốt nhất. Ở nông thôn Việt Nam, đến ngày đó
người ta thường làm bánh dày, nấu chè kho để cúng gia tiên rồi đem biếu
những người thân thuộc (chứ không mấy quan tâm đến cây thuốc, thầy
thuốc).Tết Táo quân
Tết
Táo quân vào ngày 23 tháng chạp - người ta coi đây là ngày "vua bếp"
lên chầu trời để tâu lại việc bếp núc, làm ăn, cư xử của gia đình trong
năm qua.
Bởi
thế nên, trong ngày này, mọi gia đình người Việt Nam đều làm mâm cơm
đạm bạc tiễn đưa "ông Táo". Cứ phiên chợ 23 tháng chạp, mỗi gia đình
thường mua 2 mũ ông Táo, 1 mũ bà Táo bằng giấy và 3 con cá chép làm
"ngựa" (chuyện cá chép hoá rồng) đế Táo quân lên chầu trời. Sau khi cúng
trong bếp, mũ được đốt và cá chép được mang ra thả ở ao, hồ, sông...
Ngày
ông Táo về chầu trời được xem như ngày đầu tiên của Tết Nguyên đán. Sau
khi tiễn đưa ông Táo người ta bắt đầu dọn dẹp nhà cửa, lau chùi đồ cúng
ông bà tổ tiên, treo tranh, câu đối, và cắm hoa ở những nơi trang trọng
để chuẩn bị đón tết.
Người Dao đón Tết bằng tết nhảy gọi là "Nhiang chằm Ðao" để rèn luyện sức khoẻ và võ nghệ. Tết nhảy bắt đầu trước tết Nguyên Ðán chừng vài ba hôm. Thanh niên phải tập các điệu múa, điệu nhảy, làm gươm đao bằng gỗ để múa. Tết nhảy, mỗi người phải nhảy múa đến hàng trăm lượt trong tiếng trống, tiếng thanh la giục giã...
Người trong buôn làng mang choé, nồi đồng ra tại các máng nước để lấy nước mang về nhà, đồng thời tổ chức ăn uống, vui chơi suốt mấy ngày liền. Riêng "Lễ cúng máng nước" cho buôn làng thì được tổ chức tại nhà Rông, do thầy cúng tổ chức vui say, ca hát, nhảy múa, gái trai được tự do trao đổi tâm tình.
Vào ngày đầu năm, họ không quên đem dao, rựa vừa đi ra đường vừa phát quang để thông thoáng cho năm mới. Vui nhất là các hội Xoè Thái nổi tiếng, tha hồ vui chơi cho đến rằm tháng giêng mới mãn.
Lễ vật đặt ở giữa nhà gồm một hay hai choé rượu cần buộc chặt vào gốc cột và vài đĩa cơm. Gia chủ hay thầy cúng lầm rầm khấn vái: "Lạy thần Mtâo Kia, thần H'Bia Kiu, thần Aêdu, thần Alê Diê đã ban cho chúng con nào thóc lúa, nào kê, nào ngô. Chúng con thỉnh chư vị thần từ phía Ðông dãy Ngân Hà nơi gần nguồn gốc của lúa, xin giáng lâm chứng giám. Lạy thần Aê Nghi ở dưới đất, lạy thần Aê Ngăn ở trên trời... xin cho mỗi năm lúa được đầy vựa..."
Sau lễ cúng cót thóc trong gia đình, người Cơ Ho rủ nhau đi từ nhà này sang nhà nọ để ăn uống, ca hát, nhảy múa chung vui, cứ thế cho đến cả tháng trời mới mãn.
Cũng như các dân tộc anh em khác, người Chăm ăn Tết cũng rất linh đình, nhộn nhịp. Hai lễ lớn nhất trong năm là Păng-Katê và Păng-Chabư được xem như cái Tết của họ.
Păng-Katê cử hành vào ngày 1 tháng 7 theo lịch Chăm tức khoảng tháng 9 dương lịch và Păng-Chabư cử hành vào ngày 16 tháng 9 theo lịch Chăm tức vào khoảng tháng 2, tháng 3 dương lịch.
Vào những ngày lễ, đông đảo đồng bào Chăm từ các nơi dổ về tại ba nơi hành lễ: đó là đền Pô Nưgar, tháp Pô Rômê ở huyện Ninh Phước (Ninh Thuận) và tháp Pô Klông Garai ở thị xã Phan Rang - Tháp Chàm.
Tết Păng Katê là ngày tế lễ các vua Chăm thuở xa xưa có công dựng nước và hướng dẫn việc nông tang, thuộc về dòng họ người cha, tượng trưng cho khí dương, cho nên phải cử hành vào buổi mai, còn Tết Păng Chabư là lễ cúng tế các lễ thần Pô Giang nữ, tức các hoàng hậu, công chúa Chăm, thuộc dòng họ mẹ, tượng trưng cho khí âm nên được cử hành vào buổi chiều tối.
Lễ cúng gồm có hoa quả, bánh trái đủ loại, cúng cơm, rượu và thịt. Ba nghi lễ gồm các thầy Cả sư, phó Cả sư, thầy Bà xế, thầy Kè-ke vừa kéo đờn Kanhi (đờn mai rùa) vừa xướng văn tế lễ. Còn các bà Bóng thì lo dâng rượu và múa mừng.
Người Chăm gồm có 2 ngành: Ngành theo đạo Bà la môn và ngành theo đạo Hồi. Ngành theo đạo Bà la môn rất kiêng cữ thịt bò, còn ngành theo đạo Hồi thì kiêng ăn thịt lợn.
Ngày tết, người Chăm theo đạo Hồi thường đến nhà thờ đạo Hồi vào ngày đầu năm để nghe chức sắc, đọc kinh Coran, cầu nguyện đấng Alah, sau đó các tín hữu ra sông, ra suối tắm tẩy uế những cái xui, cái xấu của năm cũ và rước cái mới, cái tốt lành của năm mới.
Ngày mồng 2 Tết là ngày dành riêng cho các chức sắc ăn tết tại nhà. Qua ngày thứ ba trở đi, cho đến ngày thứ 7 hay thứ 9 thì đến lượt mọi người tổ chức ăn tết, lần lượt từ nhà này sang nhà khác. Tuy nhiên, mỗi gia đình chỉ lựa chọn cho mình một ngày duy nhất trong khoảng thời gian qui định mà thôi.
Họ giết lợn, giết gà vịt, bày đủ loại hoa quả, bánh trái. Trong dịp Tết, người Chăm không có tục kiêng cữ cho nên bạn bè, hàng xóm trong dịp ở xa có thể đến chung vui một cách thoải mái. Trong thời gian ăn Tết, người Chăm còn tổ chức các trò vui chơi như múa quạt, tổ chức đánh cồng chiêng, ca hát uống rượu, bắn cung.
Ngoài hai lễ lớn trên, người Chăm còn có các lễ khác trong năm như: Lễ cúng thần nông vào tháng 4 theo lịch Chăm, cử hành vào các đền, tháp; lễ cầu đảo (Chakap Hiâu Kron) cử hành tại các đập nước hay ở các bờ sông, bờ suối; lễ cúng ruộng (Pô Phùm) để cầu cho ruộng lúa tốt tươi và lễ Tống ôn (Rija Nưgar) tổ chức vào mồng một tháng giêng theo lịch Chăm, để cầu cho làng xóm, gia đình được thịnh vượng, an khang.
Ngày tết của các dân tộc
|
Nước Việt là một cộng đồng các dân tộc anh em. Mỗi dân tộc có một kiểu ăn tết riêng, đôi khi kéo dài rất dài ngày tạo thành mùa gọi là mùa Tết. Mỗi kiểu ăn Tết đều biểu hiện nét đặc trưng văn hoá riêng của dân tộc mình. |
Tết Prơ-Giê-Râm của người Cơ Tu
Vào mùa xuân, lúc bắt đầu vụ mùa lúa mới, đồng bào các huyện Phước Sơn, Giằng, Hiên ở Quảng Nam
tổ chức ăn Tết Prơ-giê-răm. Đây là ngày lễ lớn nhất trong năm. Nhà nhà
đều trang trí hết sức đẹp đẽ. Các loại ghẻ, cung nỏ, giáo, mác, thanh
la, trống, chiêng được lau chùi cẩn thận. ở nhà Guơi (nhà làng) người ta
dựng cột đâm trâu bằng cây gạo trạm trổ, sơn vẽ đẹp mắt. Nhiều sinh
hoạt văn hoá diễn ra tại nhà Guơi như kể chuyện, nhảy múa, hát dân ca.
Con gái được dịp trao đổi tâm tình và rủ nhau chơi xuân kéo dài cả
tháng...
Tết nhảy của người Dao
Người
Dao ở Việt Bắc cho rằng, ngày đầu năm không được làm việc mà chỉ lo vui
chơi, thăm viếng và chúc tụng lẫn nhau. Nhà nào nhà ấy đều trang hoàng
sáng sủa và dán nhiều câu đối bằng chữ Hán lên cột nhà hay trên các vách
tường để đón mừng xuân.
Người Dao đón Tết bằng tết nhảy gọi là "Nhiang chằm Ðao" để rèn luyện sức khoẻ và võ nghệ. Tết nhảy bắt đầu trước tết Nguyên Ðán chừng vài ba hôm. Thanh niên phải tập các điệu múa, điệu nhảy, làm gươm đao bằng gỗ để múa. Tết nhảy, mỗi người phải nhảy múa đến hàng trăm lượt trong tiếng trống, tiếng thanh la giục giã...
Tết giọt nước của người Xơ Đăng
Người
Xơ Đăng ở Kon Tum ăn tết rất giản dị và chỉ có hai tết rất giản dị và
chỉ có hai tết chính là tết Giọt nước và tết Lửa. Tết Giọt nước vào
khoảng tháng 3 dương lịch. Sau khi mãn mùa, người Xơ Đăng bắt đầu sửa
sang lại các máng nước và tổ chức lễ "cúng máng" để cầu mong Thần nước
(Yang Dak) ban cho dân làng năm mới được mùa, nước non đầy đủ.
Người trong buôn làng mang choé, nồi đồng ra tại các máng nước để lấy nước mang về nhà, đồng thời tổ chức ăn uống, vui chơi suốt mấy ngày liền. Riêng "Lễ cúng máng nước" cho buôn làng thì được tổ chức tại nhà Rông, do thầy cúng tổ chức vui say, ca hát, nhảy múa, gái trai được tự do trao đổi tâm tình.
Tết của người Mông (H'Mông)
Người
H'Mông ở vùng cao Tây Bắc và Việt Bắc ăn tết rất thịnh soạn, chẳng kém
gì ở miền xuôi. Trong nhà trang hoàng đủ màu sắc, nhưng màu đỏ là được
ưa chuộng nhất. Tết Nguyên đán của người H'Mông gọi là NaoX-Cha. Ðể
chuẩn bị sẵn con lơn béo. Ngoài thịt ra, còn có bánh bằng bột nếp, bánh
chưng ít khi dùng. Tết của người H'Mông thường tổ chức giữa mùa đông giá
rét, trước hay sau Tết dương lịch chỉ có mấy hôm. Ðêm giao thừa các gia
đình thường cử con trai đi "mở nước", tức là đi lấy nước ngoài sông
suối đem về nhà cúng tổ tiên.
Tết của người Hrê
Tết
của người Hrê ở Quảng Ngãi cũng kéo dài suốt vài tháng liền. Mỗi gia
đình phải lo nấu bánh tét, làm rượu cho thật nhiều. Nhà giàu có phải nấu
từ 20 đến 40 nồi bánh tét, ủ hàng trăm ché rượu cần, hạ vài con trâu để
đãi khách và bà con trong buôn làng. Tất cả mọi người đều tề tựu về nhà
chủ làng để ăn mừng, chúc tụng lẫn nhau. Sau đó mới lần lượt đến các
nhà khác. Họ vừa ăn uống vừa múa hát. Ðàn ông thì đeo ống chinh, còn đàn
bà thì đeo ống bương lấy hai tay vỗ vào đầu ống sẽ tạo thành tiếng bập
bùng, bập bùng... Họ thích trò chơi nhảy kẹp. Hai người một nam, một nữ
dùng một đòn nhảy dài chừng hai mét, trơn láng rồi đập vào nhau. Cứ hai
người ngồi đập thì hai người nhảy, thay đổi cho nhau.
Tết bỏ mả của người Gia Rai
Tết
bỏ mả của đồng bào Gia Rai ở tỉnh Gia Lai cũng tương tự như tết ăn nhà
Mả của đồng bào Ba Na nhưng được tổ chức lớn hơn nhiều. Trong suốt thời
kỳ Bỏ Mả, bà con trong buôn làng kéo nhau đi viếng từng nhà để thưởng
thức của ngon vật lạ. Mỗi khi nghe tiếng thanh la, trống, cồng vang lên ở
ngoài nghĩa địa là báo hiệu lễ Bỏ Mả. Người trong buôn nối đuôi nhau,
tay cầm đuốc cháy sáng rực tiến về nghĩa địa để chia vui cùng người thân
thuộc. Mọi người không quên mang theo rượu, thịt để góp vui cùng gia
đình gia chủ trong suốt cuộc lễ. Tùy theo gia cảnh của từng người mà chủ
lễ tổ chức đơn giản hay rườm rà. Gia chủ đứng trước ngôi mả có cắm cây
nêu thường làm bằng cây gạo treo nhiều lá bùa xanh đỏ bay phấp phới theo
chiều gió và đưa tay lên trời lâm râm khấn vái Yàng.
Tết của người Thái
Người
Thái ở Sơn La và Lai Châu đón tết hầu như suốt cả mùa, gọi là mùa Tết.
Ðầu tiên là tết Soong Sịp (tết cơm mới) sau khi lúa ở ngoài đồng đã chín
vàng họ giết trâu, mổ lợn, lấy lúa mới đồ xôi nếp để cúng lễ. Mọi nhà
đều tổ chức ăn uống vui vẻ. Sau tết Soong Síp là tết Kim Lao Mao (tết
uống rượu), tết ông Táo và lớn nhất là tết Nen-Bươn-Tiền (tết Nguyên
đán).
Vào ngày đầu năm, họ không quên đem dao, rựa vừa đi ra đường vừa phát quang để thông thoáng cho năm mới. Vui nhất là các hội Xoè Thái nổi tiếng, tha hồ vui chơi cho đến rằm tháng giêng mới mãn.
Tết Cơm mới của người Ê Ðê
Tết
Cơm mới của người Rhadé hay Ê Đê ở Ðắk Lắk là vào khoảng tháng 10 dương
lịch. Lúc ấy lúa đã chín vàng cả nương rẫy. Mỗi gia đình mang gùi đi
tuốt lúa về phơi khô giã lấy gạo để tổ chức ăn mừng lúa chín. Tuỳ theo
gia cảnh giầu hay nghèo mà các gia đình giết trâu, bò, heo, gà nhiều hay
ít.
Lễ vật đặt ở giữa nhà gồm một hay hai choé rượu cần buộc chặt vào gốc cột và vài đĩa cơm. Gia chủ hay thầy cúng lầm rầm khấn vái: "Lạy thần Mtâo Kia, thần H'Bia Kiu, thần Aêdu, thần Alê Diê đã ban cho chúng con nào thóc lúa, nào kê, nào ngô. Chúng con thỉnh chư vị thần từ phía Ðông dãy Ngân Hà nơi gần nguồn gốc của lúa, xin giáng lâm chứng giám. Lạy thần Aê Nghi ở dưới đất, lạy thần Aê Ngăn ở trên trời... xin cho mỗi năm lúa được đầy vựa..."
Tết Yang Pa của người Chơ Ro
Người
Chơ Ro và Chu Ru sinh sống tại Ðồng Nai, Lâm Ðồng và Bà Rịa - Vũng Tàu.
Hai tết lớn của đồng bào Chơ Ro là lễ cúng thần rừng và lễ cúng thần
lúa vào khoảng tháng ba âm lịch. Ngày cúng thần lúa cũng là lúc các cô
gái trình cho buôn làng các loại bánh ngon như bánh tét, bánh ống, bánh
dầy... Sau lễ cúng thần lúa tại nhà là bữa ăn tập thể do gia chủ đứng ra
khoản đãi tại nơi hành lễ. Thường thường nơi cúng lễ là gốc cây cổ thụ
trong buôn làng. Họ quan niệm thần lúa thường đến nghỉ ngơi ở đó.
Tết Nhô Lir Bông của người Cơ Ho
Người
Cơ Ho hay sinh sống ở Lâm Ðồng. Họ ăn tết sau tết Nguyên Ðán của người
Kinh ở miền xuôi độ một tháng, gọi là Nhô Lir Bông, tức tết mừng lúa về
nhà. Tết này kéo dài cả tháng. Hai chữ Lir Bông có nghĩa là cót thóc.
Người Cơ Ho rất quý trọng thóc lúa, vì thóc lúa là những hạt ngọc của
Yàng ban phát. Lễ cúng mừng lúa được tổ chức tại kho lúa của mỗi gia
đình, bắt đầu từ xế chiều với sự tham dự của chủ làng và nhiều gia chủ
khác. Người ta lấy máu gà hiến sinh bôi lên vựa thóc, sàn kho, các cửa
lớn, cửa sổ. Máu gà còn được trộn chung với vỏ cây đa, củ nghệ, các con
mối đất. Cỏ tranh giã nhỏ để bôi lên ngực, lên trán những thành viên
trong gia đình, sau đó còn bôi lên những đồ gia dụng.
Sau lễ cúng cót thóc trong gia đình, người Cơ Ho rủ nhau đi từ nhà này sang nhà nọ để ăn uống, ca hát, nhảy múa chung vui, cứ thế cho đến cả tháng trời mới mãn.
Lễ tết cổ truyền của người Chăm
Ðồng
bào Chăm còn gọi là Chàm, hiện đang sinh sống tại một số tỉnh như Bình
Thuận, Ninh Thuận và một số ít tại Châu Giang (tỉnh An Giang).
Cũng như các dân tộc anh em khác, người Chăm ăn Tết cũng rất linh đình, nhộn nhịp. Hai lễ lớn nhất trong năm là Păng-Katê và Păng-Chabư được xem như cái Tết của họ.
Păng-Katê cử hành vào ngày 1 tháng 7 theo lịch Chăm tức khoảng tháng 9 dương lịch và Păng-Chabư cử hành vào ngày 16 tháng 9 theo lịch Chăm tức vào khoảng tháng 2, tháng 3 dương lịch.
Vào những ngày lễ, đông đảo đồng bào Chăm từ các nơi dổ về tại ba nơi hành lễ: đó là đền Pô Nưgar, tháp Pô Rômê ở huyện Ninh Phước (Ninh Thuận) và tháp Pô Klông Garai ở thị xã Phan Rang - Tháp Chàm.
Tết Păng Katê là ngày tế lễ các vua Chăm thuở xa xưa có công dựng nước và hướng dẫn việc nông tang, thuộc về dòng họ người cha, tượng trưng cho khí dương, cho nên phải cử hành vào buổi mai, còn Tết Păng Chabư là lễ cúng tế các lễ thần Pô Giang nữ, tức các hoàng hậu, công chúa Chăm, thuộc dòng họ mẹ, tượng trưng cho khí âm nên được cử hành vào buổi chiều tối.
Sáng
mồng một Tết, các chức sắc Chăm cùng toàn thể bà con xa gần đều tề tựu
về ba nơi hành lễ, quần áo thật mới mẻ, chỉnh tề. Các thầy Cả và các bà
Bóng ngồi theo phẩm trật, thứ tự cao thấp trong căn nhà dựng trước cửa
đền hay cửa tháp.
Lễ cúng gồm có hoa quả, bánh trái đủ loại, cúng cơm, rượu và thịt. Ba nghi lễ gồm các thầy Cả sư, phó Cả sư, thầy Bà xế, thầy Kè-ke vừa kéo đờn Kanhi (đờn mai rùa) vừa xướng văn tế lễ. Còn các bà Bóng thì lo dâng rượu và múa mừng.
Người Chăm gồm có 2 ngành: Ngành theo đạo Bà la môn và ngành theo đạo Hồi. Ngành theo đạo Bà la môn rất kiêng cữ thịt bò, còn ngành theo đạo Hồi thì kiêng ăn thịt lợn.
Ngày tết, người Chăm theo đạo Hồi thường đến nhà thờ đạo Hồi vào ngày đầu năm để nghe chức sắc, đọc kinh Coran, cầu nguyện đấng Alah, sau đó các tín hữu ra sông, ra suối tắm tẩy uế những cái xui, cái xấu của năm cũ và rước cái mới, cái tốt lành của năm mới.
Ngày mồng 2 Tết là ngày dành riêng cho các chức sắc ăn tết tại nhà. Qua ngày thứ ba trở đi, cho đến ngày thứ 7 hay thứ 9 thì đến lượt mọi người tổ chức ăn tết, lần lượt từ nhà này sang nhà khác. Tuy nhiên, mỗi gia đình chỉ lựa chọn cho mình một ngày duy nhất trong khoảng thời gian qui định mà thôi.
Họ giết lợn, giết gà vịt, bày đủ loại hoa quả, bánh trái. Trong dịp Tết, người Chăm không có tục kiêng cữ cho nên bạn bè, hàng xóm trong dịp ở xa có thể đến chung vui một cách thoải mái. Trong thời gian ăn Tết, người Chăm còn tổ chức các trò vui chơi như múa quạt, tổ chức đánh cồng chiêng, ca hát uống rượu, bắn cung.
Ngoài hai lễ lớn trên, người Chăm còn có các lễ khác trong năm như: Lễ cúng thần nông vào tháng 4 theo lịch Chăm, cử hành vào các đền, tháp; lễ cầu đảo (Chakap Hiâu Kron) cử hành tại các đập nước hay ở các bờ sông, bờ suối; lễ cúng ruộng (Pô Phùm) để cầu cho ruộng lúa tốt tươi và lễ Tống ôn (Rija Nưgar) tổ chức vào mồng một tháng giêng theo lịch Chăm, để cầu cho làng xóm, gia đình được thịnh vượng, an khang.
|
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét