THỰC TẠI & HOANG ĐƯỜNG 46/a

THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG (IV)
                         ĐẠI CHÚNG
--------------------------


PHẦN V: THỐNG NHẤT

“Chính qua cuộc đấu tranh nhằm thống nhất một cách hợp lý cái đa dạng mà đã đạt được những thành công lớn nhất, dù rằng chính ý đồ đó có thể gây ra những nguy cơ lớn nhất để trở thành con mồi của ảo vọng”.
                                                         A. Anhxtanh
“Người nhìn thấy cái đa dạng mà không thấy cái đồng nhất thì cứ trôi lăn trong cõi chết”.
Upanishad



CHƯƠNG VI: THỰC CHỨNG

“Tinh thần thời đại cũng có thể là một sự thực khách quan như bất cứ sự thực nào trong khoa học tự nhiên (…).
Do đó, hai quá trình, quá trình khoa học và quá trình nghệ thuật, không phải là rất khác nhau. Cả khoa học và nghệ thuật trong suốt nhiều thế kỷ đã tạo nên ngôn ngữ con người mà nhờ đó chúng ta có thể nói về những phần rất xa xôi của thực tại…”
W. Heisenberg


Vùng không gian phía trước mặt cứ như trời chiều đã nhập nhoạng, chẳng thể ngắm nghía cái gì cho rõ ràng nữa ngoài cái miệng lỗ tròn vành vạnh và đen kịt như mặt trời đang trong tình trạng bị nhật thực toàn phần. Mà cũng chẳng còn đề tài khả dĩ nào để suy tưởng nghiền ngẫm nhằm “giết” bớt thời gian chờ đợi đến nao lòng ngày xuất hiện trở lại ở nơi chôn nhau cắt rốn.
Làm gì bây giờ đây? Vùng vẫy chân tay, múa may quay cuồng để ôn lại mấy bài quyền cước mà xưa kia chúng ta học được từ người thầy chuyên dạy võ cho bộ đội đặc công, là không thể được rồi! Thực hành bài khí công thiền pháp kiểu nằm thở (ngọa thiền) rõ ràng là cũng không thể được nốt (“nằm” thì có thể nhưng làm sao thở đây?!). A! Ừ nhỉ, hay là làm thơ? Nói chung, phải có hai yếu tố làm tiền đề cho thơ ca là cảnh sắc thiên nhiên và nhân tình thế thái. Ở đây không thể “tức cảnh sinh tình” được vì… tối quá, cũng không thể “trầm tư mặc tưởng” được vì chỉ có… vong hồn. Làm thơ cho thật dở thì ai cũng làm được nhưng không ai thèm đọc. Làm thơ cho hay thì đầu tiên người làm thơ phải có tâm trạng, nhưng chưa đủ, mà phải qua khổ luyện, nghiền ngẫm, và nhất là phải có khiếu nữa. Để có được những bài thơ thật sự hay thì người làm thơ còn phải có một tâm hồn lớn, chân tình với cuộc đời, cảm thông được nỗi đau nhân quần, thấm thía được nỗi buồn nhân sinh. Có lẽ thế mà những bài thơ bất hủ bao giờ cũng ẩn chứa những lời nhắn nhủ chí tình chí nghĩa, những lời an ủi thấm đẫm nhân văn và man mác nỗi tiếc thương, ưu tư, sầu muộn. Thấy một người đang đọc thơ mà cười lên khanh khách, nước mắt nước mũi nhòe nhoẹt, thì đó chỉ có thể là bài thơ dở kiểu “con cóc” hoặc “hay” kiểu… Bút Tre mà thôi!
Chúng ta thuộc “tuýp” người đa sầu, đa cảm nên ngay từ nhỏ đã rất thích thơ ca. Chính một phần quan trọng nhờ thơ ca mà tâm hồn chúng ta lớn lên, biết thương xót những cảnh đời khổ đau, biết yêu thương sâu sắc dân tộc mình, tổ quốc mình.
Rồi chúng ta cũng tập tành làm thơ. Lúc đó thật khó làm sao! Viết ra được bài thơ thì rất nhanh, chỉ khoảng 2 tiếng là xong. Hí hửng tưởng hay lắm, hôm sau đọc lại thấy dở òm. Thế là bắt đầu sửa, mới đầu sửa ít, sau sửa nhiều, sửa riết thành… bài thơ khác. Dù sao cũng hài lòng! Làm xong bài thơ rồi thì đem… giấu, vì xấu hổ không dám cho bạn bè thấy. Tự mình “hay” với mình được một tháng thì bỏ bẵng vì bận làm những bài thơ khác.
Một thời gian sau, sau khi đã vật lộn mệt nhoài với thơ, tốn không biết bao nhiêu là giấy mực để có được dăm bảy bài “hay không còn chỗ chê” thì đem bài thơ đầu tiên ra đọc lại để “ôn cố tri tân” và cũng để thưởng thức tài hoa của mình, thì lại thấy… dở òm. Lại sửa đi, sửa lại mãi để rốt cục có được một bài thơ mới dài gấp ba bài thơ cũ. Sửa xong, thở phào, đọc lại lần cuối và thấy… mãn nguyện, mắt rưng rưng đẫm lệ đầy tự hào. Đang tự hào thì chợt nghĩ tới dăm bảy bài thơ, vội đem ra đọc lại từng câu từng chữ và… đau khổ, vì chúng sao mà trở nên khô khan, nông nổi đến thế. Lúc đó, trong đầu chúng ta bật ra ý nghĩ: “Hay là thơ hay hay không còn phụ thuộc vào tâm trạng người đọc? Trước đây, khi mới làm xong, chúng ta thấy những bài thơ ấy “quá hay”, bây giờ lại thấy “dở quá” là bởi vì chúng ta vừa đọc xong bài thơ “hay nhất”? Có lẽ, một cách khách quan, những bài thơ đó vẫn hay chứ không đến nỗi tệ. Nhưng muốn biết có đúng như vậy không thì làm sao nhỉ? Chắc là phải đưa cho thằng bạn thân đọc để nó bình phẩm mới được!”.
Thế rồi vượt qua mọi sự ngại ngùng vốn dĩ của một tâm hồn quá hiếu thắng nên trở nên gàn rở, quá tự ái nên dễ bị tổn thương và do đó mà cũng hóa ra rụt rè trong giao tiếp xã hội, chúng ta đã đưa bài thơ “hay nhất” cho thằng bạn gần gũi nhất xem. Đọc xong nó phán: “Cũng được! Té ra mày cũng có khiếu về thơ cơ đấy!”. Chúng ta nhìn chăm chăm vào mặt nó dò xét và thấy ánh lên một nụ cười thầm ý nhị. Rồi chúng ta lại kín đáo đưa bài thơ cho thằng bạn thứ hai đọc. Thằng này “nuốt” xong bài thơ thì gật gù: “Kể cũng hay đấy! Vần điệu đúng luật, bố cục khá chặt chẽ, chữ viết nắn nót rất đẹp… Cố lên, có triển vọng đấy! Nhưng cố giảm bớt múa may loạn xạ hô hoán ồn ào đi!”.
Hai lời  khen ấy làm chúng ta chán nản hoàn toàn, bỏ bẵng đến ngót nghét 15 năm trời không ngó ngàng gì đến thơ thuổng nữa.
Đời người là một quá trình tồn tại lạ kỳ. Không ai có thể đi đúng theo con đường đời mà mình đã dự định, “vạch vẽ” ra thuở đầu đời, kể cả kẻ duy ý chí nhất. Bởi làm gì có sẵn con đường ấy! Ngay từ bước đầu tiên tự lập, mỗi người đều phải tự “vạch lối mà đi, mở đường mà tiến” trong bon chen kiếm sống, trong mày mò tìm hạnh phúc, qua đó mà vô tình cũng đồng thời làm ra con đường đời cho bản thân mình và nó chỉ được hoàn thành (rồi ngay lập tức trở thành “di tích”) khi mình đã đi qua cuộc đời. Vào khoảng cuối cùng của chặng đường đời, khi mà tất cả những nỗ lực bon chen, kiếm tìm đã hầu như không còn nữa, nhiệt huyết đã hạ, hạnh phúc hay khổ đau thì cũng đã an bài, khi mà phía trước đã hiện ra đường nét của một bến đò  mà mọi cuộc đời sớm muộn gì cũng đều kết thúc ở đó, hóa thành vong hồn, qua đó sang bờ bên kia đi vào miền u minh, viên miễn, thì con người ta chẳng còn gì mà phải hy vọng hay thất vọng nữa, cứ sống thế thôi và thường hay “ngoái nhìn về”, săm soi những chặng đường đời quá vãng. Chúng ta cũng vậy, dù chưa đến nỗi già nua như thế nhưng cũng bắt đầu sống như thế, nghĩa là bắt đầu biết nhẹ nhàng sống, bình thản trước một ngày mai qua đò ly biệt và ngồi hàng giờ trong đêm khuya làm sống lại những sự kiện vui tươi cũng như đau buồn của quá khứ.
Có nhiều sự kiện xảy ra trong cuộc đời mỗi người mà không ai có thể đoán trước được, có thể ngờ được, tạo nên những khúc ngoặt của đường đời, vô duyên cớ một cách kỳ lạ, không tài nào lý giải được để cuối cùng chỉ còn cách cho đó là định mệnh có sẵn, là số phận đã được vạch vẽ ra ngay từ lúc lọt lòng.
Vậy thì định mệnh hay số phận có thực không? Chúng ta cho rằng vừa có vừa không! Nếu hiểu định mệnh hay số phận như là một bản tổng kết cuộc đời, có biên niên chính xác, rạch ròi, thì là không, còn nếu hiểu như là một dự đoán xác xuất tương đối chính xác, dựa trên những số liệu về ngày sinh tháng đẻ, chỉ tay, diện mạo con người mà chỉ ra những chiều hướng tiến triển của con đường đời, và theo những chiều hướng ấy có thể dễ xảy ra những loại sự kiện có tính đặc trưng nào đó, thì là có. Như vậy, cũng cần phải cho rằng những thuật bói toán như chiêm tinh, tử vi, đoán mộng, xem chỉ tay… cũng có không ít sự thực hàm chứa trong đó. Những thuật bói toán đó có lý là vì chúng đã được xây dựng nên từ hàng ngàn năm, được hun đúc nên từ biết bao nhiêu chiêm nghiệm, biết bao nhiêu quan sát, suy ngẫm về con người, đời người, thông qua biết bao nhiêu thế hệ, xuất phát từ nhu cầu thiết tha của con người là mong muốn được biết trước cuộc đời mình ra sao, hạnh phúc hay khổ đau, gặp nhiều may mắn hay hoạn nạn để mà cố gắng né tránh những xui xẻo, để mà van nài đất trời cho tai qua nạn khỏi.
Dù rằng đến nay các thuật đoán mệnh có độ chính xác còn nhiều hạn chế, vẫn khoác những bộ cánh lòe loẹt rắm rối đầy siêu nhiên, huyền bí, thì cũng nên thừa nhận chúng cũng là một thành quả như bao thành quả khoa học khác trong việc nhận thức tự nhiên - xã hội - con người. Từ trước đến nay khoa học luôn chối bỏ tính nghiêm túc của thuật bói mệnh, bởi vì giọng điệu của nó lạc lõng trong khoa học, hơn nữa, kết quả chiêm bói của nó không cần đến bất cứ sự trợ giúp khoa học nào, mà hoàn toàn dựa trên cơ sở cảm nhận thuần túy những trùng hợp lặp đi lặp lại có tính phổ biến về đường đời con người, được đúc kết lại thành bài bản sau cả ngàn thế hệ trong lịch sử loài người. Dù chưa có được một lời giải thích thỏa đáng, rõ ràng nào, thậm chí toàn là những lời giải thích mập mờ, khiên cưỡng, duy linh thì cái bài bản ấy đã và vẫn đang thu phục được niềm tin của rất nhiều con người, vẫn sống bền bỉ, dẻo dai, và mạnh mẽ trong xã hội loài người. Có như thế là vì nó đã tỏ rõ được tính có lý của nó và dù còn nhiều sai sót (tất nhiên là không thể khắc phục được triệt để sai sót) thì coi như nó đã hoàn thành nhiệm vụ trong việc đảm nhận chức năng dự đoán đường đời của mỗi con người - cái chức năng mà, oái oăm thay, khoa học ngày nay chịu bó tay, hoàn toàn bất lực, không thể thực hiện được.
Chúng ta đã từng dự đoán rằng trong tương lai, một ngành khoa học nữa mà chúng ta gọi là “Khoa học tâm linh” sẽ ra đời. Lúc đó, các thuật đoán mệnh khác nhau sẽ được tập hợp lại, được lột bỏ những khiên cưỡng, mờ ám, vô nghĩa đi để lộ ra cái cốt lõi tinh túy của chúng, được nghiên cứu sâu sắc hơn để rút tỉa từ chúng những chí lý, hợp nhất lại thành một bộ phận, một khoa học chuyên biệt trong khoa học tâm linh.
Nhưng muốn cho khoa học tâm linh ra đời, vật lý học phải tiến bước thêm một chặng dài nữa. Rồi đây, chúng ta chắc chắn như đinh đóng cột… mục (!), vật lý học muốn toàn thiện, toàn mỹ thì phải điều chỉnh, sửa đổi rất nhiều những quan niệm đang hiện hành của nó. Muốn thế, việc đầu tiên là vật lý học phải từ bỏ cách hiểu cực đoan, máy móc và hẹp hòi về sự “thực chứng” đi, phải mở rộng ý nghĩa nó ra, tự “giải thoát” mình để có cơ hội nghiên cứu sâu hơn nữa trong Vũ Trụ vi mô, từ đó làm xuất hiện một chuyên ngành mới của vật lý học, cực kỳ quan trọng đối với vật lý học, đóng vai trò làm nền tảng cho vật lý học, mà chúng ta tạm đặt tên là “Không Gian học”, hay theo cách phân chia qui ước khác, là “Vật lý siêu vi mô”, bên cạnh những thuật ngữ đã có sẵn (vật lý vĩ mô, vật lý trung mô, vật lý vi mô). Vật lý siêu vi mô hình thành và hoàn thiện sẽ là tiền đề cho khoa học tâm linh (trong đó ắt hẳn phải có khoa chuyên ngành tạm gọi là “Dự đoán sinh mệnh học”) ra đời và đồng thời cũng đảm nhận luôn vai trò, cơ sở kiến thức cốt lõi, giúp khoa học tâm linh chứng minh, giải thích được một cách đích đáng mọi hiện tượng tâm linh mà ngày nay hầu như vẫn còn mờ mịt trong màn sương huyền bí. Dù sao thì chúng ta cũng xác định chắc chắn ngay bây giờ rằng nếu hiện tượng vong hồn là có thật thì phải tìm giải thích theo hướng có nguyên nhân chứ không thể từ Hư Vô được.
Trong Vũ Trụ, không có một sự kiện nào xảy ra mà không có nguyên nhân. Những sự kiện xảy ra trong một đời người cũng vậy. Trong đời mình, không ít lần chúng ta quyết định hành động một cách bất thình lình đến kỳ lạ, không hề có ý định từ trước, ngược với thói quen, cá tính, làm thay đổi có tính bước ngoặt cuộc đời mình, con người mình, mà không tài nào lý giải cho tỏ tường được, hoàn toàn vô duyên vô cớ, cứ như là “trời xui đất khiến”. Có như vậy vì sự kiện đó xảy ra thực sự không phải vô duyên vô cớ, chỉ có điều nguyên nhân sâu xa tạo thành nên nó không phải là do chúng ta chủ ý tạo ra và đồng thời chúng ta cũng hoàn toàn không nhận thức được.
Ở một góc độ quan sát nhất định, có thể cho rằng một cách tương đối, hành động của một con người là có tính tự thân, theo lý trí của bản thân mình và thông qua ý chí của mình mà tự quyết dược vận mệnh đời mình. Nhưng ở góc độ nhìn xuyên suốt và bao quát từ sự tự thân và tự quyết ấy chỉ có tính nhất thời, phiến diện, bất toàn và hình thức. Con người là một thực thể nên không thể biệt lập hoàn toàn với môi trường chứa mình mà tồn tại được, không thể không trao đổi, tương tác qua lại với môi trường mà sống được. Nói: một người hành động theo suy nghĩ của mình, cũng chẳng khác gì nói: một con vật hành động có lý trí, và nếu chỉ vậy thôi thì đó đúng là tự thân hành động. Nhưng suy nghĩ ấy hay lý trí ấy được hun đúc nên từ đâu, từ những yếu tố nào? Đặt ra câu hỏi ấy cũng là mở ra cuộc “trường chinh vạn dặm” về hỏi và đáp để cuối cùng làm xuất đầu lộ diện một loạt những yếu tố chi phối như: trình độ nhận thức, bản tính, ràng buộc xã hội, thôi thúc bản năng, điều kiện tự nhiên, tâm trạng nhất thời… Đến đây thì rõ ràng, cái suy nghĩ hay lý trí nói trên xuất hiện là hoàn toàn tự nhiên, có duyên cớ hẳn hoi chứ không thể tự dưng được, và hơn nữa, mức độ về sự tự thân của hành động đã “giảm giá trị” chân thực đi rất nhiều rồi.
Ngoài những yếu tố chi phối, tác động đến suy nghĩ và hành động như đã nêu ra ở trên, còn một yếu tố mà nhận thức ngày nay chưa “tiệm cận” được nên cũng khác thường, khó nhận biết, nhưng rất có thể lại là yếu tố quyết định làm xuất hiện những suy nghĩ, hành động bột phát hết sức kỳ lạ, ngược hẳn với nhân cách, lối sống trước đó, không thể ngờ được và thậm chí làm chuyển biến hẳn thiên hướng cuộc đời tưởng như đã được định đoạt. Có thể gọi yếu tố đó là “sự tác động tâm linh”. Tác động tâm linh đối với một sinh linh là kết quả tổng hợp của tương tác giữa sinh linh đó với (môi) trường cảm ứng kích thích không gian. Có thể hình dung đại khái trường ấy là sự hợp thành của hai trường: trường cảm ứng kích thích có nguồn gốc sinh vật (được tạo dựng nên từ sự tác hợp của các “điểm” hoạt động thu - phát KG, bao gồm loài người (các sinh linh và vong linh - tàn dư của sinh linh), động vật và thực vật), mang tính hoạt động nổi trội, bất ổn, và trường cảm ứng kích thích có nguồn gốc vô sinh (được tạo dựng nên từ sự tác hợp của các khối thu - phát KG như: Mặt Trời, Mặt Trăng, Trái Đất, núi non, sông biển…), mang tính thụ động, lặn, tương đối ổn định. Chúng ta cho rằng những hiện tượng có thực, đã từng xảy ra từ trước đến nay, dù ít gặp nhưng được nhiều người tận mắt chứng kiến mà không thể giải thích tường tận được, như: một người bỗng dưng trèo lên trốn trên trần nhà, người nhà tìm gọi liên tục mà không lên tiếng (hiện tượng “ma giấu”), một người tự nhiên có một ngày bỏ hết công việc đồng áng thường nhật để làm một việc chưa bao giờ từng làm là ra vườn đốn cây, chặt cành chất gọn gàng thành đống như đống củi, phải mời thầy về cúng giải mới hết (hiện tượng “ma nhập”), có người đang ngủ say bỗng thức dậy, tâm trạng hết sức bồn chồn lo lắng, đến nỗi không sao ngủ lại được, thậm chí nằm yên cũng không được, phải dời sang chỗ khác mới ngủ lại được, gần sáng thì một mảng trần nhà bằng bê tông rơi xuống trúng ngay chỗ cũ (hiện tượng “điềm báo”)…, đều là những biểu hiện của sự tác động tâm linh.
Trong tương tác, khi vật lý siêu vi mô đã trở thành một bộ phận cốt yếu, không thể thiếu được của vật lý học, thì cấu trúc, những qui luật vận động của trường cảm ứng kích thích không gian nói trên, cũng như sự tương tác giữa môi trường ấy với sinh linh, gây ảnh hưởng như thế nào đến suy nghĩ và hành động của sinh linh, sẽ trở nên hoàn toàn sáng tỏ và đồng thời cũng là nội dung chủ yếu của khoa học tâm linh. Đến lúc đó, dựa vào lý thuyết “Dự đoán sinh mệnh”, trên cơ sở những tài liệu lưu trữ về sự chu chuyển theo thời gian trong vận động của trường cảm ứng kích thích không gian trên Trái Đất, cũng như những tài liệu thu thập được về mặt tâm linh của một đứa trẻ nào đó và thân bằng quyến thuộc cả đã khuất lẫn còn sống của nó chẳng hạn (như: ngày tháng năm sinh, sinh quán, những đặc thù nổi trội trong hoạt động của não bộ…), người ta có thể rút ra những kết luận xác xuất về tương lai của cuộc đời đứa trẻ đó. Như vậy, sẽ đến một thời đại mà mỗi một con người, trước khi bước vào đời, đều “lận lưng” được một hồ sơ “dự đoán sinh mệnh” tương đối chi tiết của mình, có mức độ chính xác cao hơn nhiều so với bói mệnh chiêm tinh hay tử vi ngày nay, để từ đó mà có hướng tích cực điều chỉnh cải tạo linh hồn mình làm giảm thiểu những xui rủi, bất trắc trong cuộc đời mình, từ đó mà nâng cao được chất lượng cuộc sống. Chúng ta còn tin vào thời đại đó, một trong vài cách thức điều chỉnh, cải tạo linh hồn đạt hiệu quả cao, đó là một tổng hợp thực hành tu tập, được rút tỉa ra từ những tinh túy của yoga và khí công, đưa vào nghiên cứu đến tường tận rồi chỉnh lý, phát triển nâng cao hơn nữa và cuối cùng đúc kết lại thành bài bản dưới tên gọi (tạm lấy tên cũ!): “Khí công thiền pháp”…
Chẳng có bất cứ một điềm báo nào, chỉ “đùng một cái”, sau 15 năm không hề mảy may ngó ngàng gì tới nữa, chúng ta lại đột ngột nổi cơn mê mẩn thơ ca và sự mê mẩn ấy vẫn còn nguyên vẹn cho đến lúc này. Vì không thể tìm ra được một nguyên nhân khả dĩ nào làm xảy ra sự kiện “quay ngoắt” lại với thơ ca đầy bất ngờ ấy, chúng tà đành phải “đổ vấy” cho sự tác động tâm linh.
Xưa kia, chớm bước vào tuổi thanh niên, vì yêu thương mà chúng ta đã chủ động đến ve vãn nàng Thơ. Tình yêu thời trai trẻ, khi đã bốc lên rồi thì bao giờ cũng hừng hực. Cái hừng hực ấy, cộng với sự bồng bột pha lẫn ngại ngùng xấu hổ đã làm cho sự ve vãn của chúng ta trở nên bộp chộp, vụng về và do đó mà cũng ngớ ngẩn, khờ khạo. Ve vãn kiểu gì mà cứ chạy vòng quanh, cứ lấp ló, thập thò ở cách xa lắc, khoa chân múa tay phô diễn những cử chỉ, điệu bộ không giống ai, gây ngạc nhiên, vui vẻ là nhiều chứ tình thì chẳng thổ lộ được bao nhiêu? Cho nên nàng Thơ chẳng hiểu được đó là sự ve vãn tỏ tình, do đó mà cũng chẳng mảy may động lòng, cứ giương cặp mắt xanh biếc thơ ca và rợp mát mộng mơ nhìn chúng ta quay cuồng rồi cười lên khanh khách, thích thú vì tưởng rằng người trai đang hồn nhiên vui nhộn và rõ ràng là có năng khiếu diễn… hề.
Nàng Thơ không có nét đẹp lộng lẫy của cao sang, đài các, cũng không có cái nét đẹp tinh khôi, tươi thắm của thôn xóm, đồng quê. Nói chung, hình hài dáng vóc nàng trước những cặp mắt trần tục và cả những cặp mắt chuyên chấm thi hoa hậu. trông… thường thôi, chẳng có chút gì gọi là sắc sảo. Ấy vậy mà đối với những anh chàng đa sầu đa cảm, nàng lại có một sức hút đến ghê hồn.
Lúc đầu thoạt ngắm nhìn, chúng ta cũng thấy Thơ chẳng có gì đáng được gọi là hấp dẫn, thậm chí còn hơi xấu nữa là đằng khác. Tuy nhiên dần dà, cảm nhận của chúng ta về Thơ thay đổi lúc nào không biết. Trong Thơ tiềm ẩn một điều gì đó rất lạ, ngày một quyến rũ chúng ta, làm cho lòng chúng ta xao động mỗi khi thấy Thơ, gây ra nỗi buồn nhớ trong thời gian xa Thơ. Rồi có một lần chúng ta nhìn trộm sau lưng Thơ, đang chăm chú đến mái tóc dài mượt mà mới gội để xõa ra, dài đến ngang lưng thì Thơ đột nhiên quay ngoắt lại. Không kịp phản ứng và cũng để tỏ ra một trang nam nhi không thèm ngó trộm, chúng ta giương mắt nhìn thẳng vào mắt nàng. Thế là lần đầu tiên hai người nhìn nhau không chớp. Khoảng thời gian nhìn nhau đó không lâu, chắc chỉ chục giây mà sao lúc đó cứ như chìm đắm trong hàng thế kỷ. Sau khi bừng tỉnh, chúng ta nhoẻn cười gượng gạo, nói lảng một cách lãng nhách: “Tóc Thơ… nhiều quá!”, Thơ cụp hàng mi cong mướt rồi từ từ quay về lại phía trước, nét mặt bình thản, không hề có một chút biểu cảm gì. Còn chúng ta thì bị hớp hồn từ đó bởi ánh mắt trong veo, sâu lắng, miên man và thoáng buồn ấy. Cũng từ đó, chúng ta cố ve vãn Thơ và vì không dám thổ lộ bằng lời nên cứ tìm cách lảng vảng, lượn vòng quanh Thơ, làm đủ trò hòng bày tỏ tình yêu thầm kín của mình.
Hiệu quả đạt được sau một thời gian dài “hùng hục” ve vãn kiểu “trẻ người non dạ” ấy là chúng ta thành kẻ mất hồn thực sự, còn nàng Thơ thì vẫn: “trơ như đá, vững như đồng”, vẫn ngồi thản nhiên nhìn chúng ta dở đủ mọi trò ngớ ngẩn bằng đôi mắt ánh lên niềm vui trên cái nét thoáng buồn cố hữu, miệng nhoẻn cười, lâu lâu lại bật lên thành tiếng khanh khách.
Một vở kịch dù có hay đến mấy mà cứ xem đi xem lại hoài thì rồi cũng chán. Có lẽ vì thế mà cuối cùng nàng Thơ không còn để ý đến những “sô diễn” của chúng ta nữa. Đau đớn nhất là Thơ còn thì thầm với một người bạn và lọt đến tai chúng ta: “Tính khí gì mà bốc đồng còn hơn con nít! Hình như nó bị tưng tửng thì phải…”.
Câu nói ấy của Thơ đã như một mũi dao nhọn hoắt xuyên thấu khối tình si một chiều và do đó mà “công cuộc” ve vãn nhằm cố tỏ tình nhưng hầu như chỉ có tác dụng “mua vui” của chúng ta cũng kết thúc một cách… chưng hửng. Tuy nhiên, chính câu nói: “… bớt múa may loạn xạ, hô hoán ồn ào đi!” của thằng bạn mới làm cho tinh thần của chúng ta suy sụp hẳn, tình yêu say đắm nàng Thơ của chúng ta thực sự chết tốt, hết cả mơ mòng, hết cả vấn vương, hết luôn cả niềm hứng khởi trước thơ, ca, nhạc, họa…
Sự giận hờn nổi lên cuồn cuộn bởi lòng kiêu hãnh bị thương tổn đã nhanh chóng dập tắt ngúm ngọn lửa tình đang cháy rừng rực. Ngay cả cái ánh mắt lung linh, diệu vợi từng một lần soi rọi (tưởng lâu hàng thế kỷ) đến tận cùng sâu thẳm nỗi nhớ niềm thương trong tâm khảm chúng ta và đọng lại ở đó, phát ra những sắc màu óng ánh tưởng chừng như không thể hủy hoại được, cũng không còn lấy một chút le lói nào. Đối với kẻ đa sầu, đa cảm thì phải chăng đó là điều kỳ diệu?
Khi tình yêu cuồng si, da diết đến sướt mướt nàng Thơ của chúng ta đã hoàn toàn tan biến, ráo hoảnh thì cũng là lúc chúng ta bước vào đời.
Hình như những kẻ đa sầu, đa cảm đều có sẵn lòng nhún nhường, lượng thứ. Do đó, trong cái xã hội mà tình yêu thương đồng loại đã ít nhiều bị nguội lạnh đi bởi mức độ thèm khát kim tiền đã bị kích hoạt lên và bắt đầu thái quá (thể hiện ra như: nạn tham quan lại nhũng đã trở nên phổ biến, sách nhiễu mãi lộ hầu như công khai, xảy ra khắp nơi, ngay cả trong hai ngành nghề được cho là cao đẹp nhất là chữa bệnh cứu người (ngành y) và truyền thụ văn hóa, văn minh (ngành giáo dục) và lượng kim tiền chiếm hữu được đã đóng vai trò như một thước đo quan trọng bậc nhất về danh giá con người, những kẻ đa sầu đa cảm cũng thường phải chịu lép vế, thiệt thòi trên con đường hoạn lộ mưu cầu công danh và nhất là phải trải qua nhiều dằn vặt, buồn đau.
Sau 15 năm dấn thân trong trường đời, bôn ba đi tìm hạnh phúc và nỗ lực bon chen cố kiếm chút công danh, chúng ta trở thành một người đàn ông, mà nếu xét về mặt hạnh phúc thì có được một “gánh nặng” gồm người vợ hiền và hai đứa con gái nhỏ xinh, còn nếu xét về mặt công danh thì là “thủ lĩnh” của một gia đình “nghèo mạt rệp”. Theo đánh giá thông thường trong xã hội kim tiền thì đó là một thất bại hoàn toàn.
Tuy nhiên, chúng ta không cho là như vậy. Dù rằng, về công danh, đúng là chúng ta hoàn toàn chẳng sơ múi được gì, về mặt lợi lộc vật chất cũng chẳng kiếm được chút “cơm cháo” nào gọi là để dành “tích cốc phòng cơ”, thậm chí còn không đủ độ nhật, luôn “thiếu trước hụt sau”, và về lợi ích tinh thần thì đã phải chịu biết bao nhiêu những dằn vặt, muộn phiền, đắng cay, u uất, trong đời sống và công việc, những đổ vỡ, thương tổn, khổ tâm đến đau đớn trong niềm tin và kỳ vọng vào mình, vào người và vào xã hội trong suốt 15 năm “bâng khuâng đi tìm lẽ yêu đời” ấy, thì cũng chính nhờ thế, nghĩa là nhờ được quan chiêm đủ mọi tình cảnh hỉ, nộ, ái, ố xảy ra trong trường đời, nhờ bản thân được trải nghiệm và thấm thía sự bần hàn, túng quẫn nhiều khi đến cùng cực trong quá trình nỗ lực tìm hướng lập thân giữa một xã hội đang trong tình trạng hoang mang và cũng đầy cạm bẫy, chông gai, mà chúng ta đã có được một tinh thần bình tĩnh hơn, sáng suốt hơn, kiên định hơn, lạc quan hơn, đồng thời tâm hồn chúng ta cũng đồng cảm hơn, rộng lượng hơn, cao thượng hơn, nhân hậu hơn, và điều đặc biệt là chúng ta đã rút ra được một kết luận tối quan trọng: chúng ta quá ư là vô phước, vô duyên với công danh, có cách nghĩ, cách hành động và nhiều quan niệm lạc lõng, hoàn toàn không thích hợp với lối sống chốn quan trường.
Chính cái kết luận ấy đã “dìu dắt” chúng ta đi đến quyết định có tính “cách mạnh”. Và “cuộc cách mạng” chỉ xảy ra và kết thúc trong đúng có 3 ngày, dẫn đến không phải thành công hay thất bại gì, mà là sự “quay ngoắt” đột ngột theo hướng khác của một cuộc đời. Chúng ta còn nhớ ngày đầu tiên là ngày chủ nhật. Sáng hôm đó, vợ chồng đang ngồi nói chuyện với nhau về “cơm, áo, gạo, tiền”, bàn bạc và hoạch định lại cách chi tiêu tiền lương sao cho hợp lí, có thể tích cóp được chút đỉnh phòng khi có chuyện phải cần đến. Đang bàn tính, vợ buột miệng có ý than thở: “Ông mà là đảng viên (Đảng Cộng sản Việt Nam, thời đó phải là đảng viên, thậm chí không cần bằng cấp chuyên môn, mới được làm thủ trưởng đơn vị như: trưởng phòng, giám đốc… trong các cơ quan do nhà nước quản lý, và hầu như chỉ tồn tại loại cơ quan này vì hình thức tư bản tư nhân vẫn còn bị cấm chỉ. Có lẽ vì vậy mà tính “vì dân” trong phấn đấu vào Đảng sau này không còn nữa mà chỉ còn vì tư lợi, nghĩa là từ đó mục đích vào Đảng đã bị chủ nghĩa cơ hội thao túng. Đây phải chăng là một sai lầm trong công tác xây dựng Đảng với quan niệm sai lầm về chuyên chính vô sản?!) thì đã lên trưởng phòng, tăng thêm được chút lương cũng đỡ. Cái thằng đó mới về làm chưa đầy một năm mà đã được kết nạp Đảng, giờ là trưởng phòng, lẹ thiệt! Chắc ông bị “đì” rồi còn gì!...”. Câu nói “phang ngang” của vợ có lẽ chỉ vô tình chứ không có ý trách cứ, chê bai, bóng gió gì. Ấy vậy mà nó làm cho chúng ta nhức nhối rồi nổi điên tiết: “Bà thì biết cái quái gì! Chú ruột nó là vụ trưởng…”. Gầm gừ đến đó thì chúng ta chững lại, quay sang nhìn hai đứa con gái đang chụm đầu say sưa với trò chơi sắp hình, chìm vào im lặng. Không, lúc đó chúng ta không hề giận vợ, cũng không phải tự ái, mà buồn cho thân phận mình, thương vợ con mình có một người chồng người cha bất lực, chẳng làm nên trò trống gì và cảm thấy tức thở vì sự trào dâng uất ức bấy lâu đã cố ghìm nén trong lòng. Uất ức ấy nảy sinh, oái oăm thay, là từ sự thấu hiểu được vì đâu mà nên nỗi! Chao ôi, tình đời!
Cái quyết định đổi đời đã như một tiếng sét ngang tai, rất đanh và rền vang: “Nghỉ việc! Rời bỏ ngay cái “chính trường” mà suốt 15 năm đem hết năng lực ra phấn đấu một cách chính trực vẫn không có được một chỗ đứng khả dĩ ổn định để có thể hướng tới một tương lai sáng sủa hơn. Chúng ta đã "ngộ" ra: đó là một xã hội mang nhiều hoang mang mà nếu là xã hội xã hội chủ nghĩa thì dứt khoát không theo nghĩa như chúng ta nghĩ khi còn ngồi trên ghế nhà trường Dứt khoát phải ra đi! Dứt khoát phải quay về với dân dã, đời thường, vì đó mới chính là nơi chốn, là nơi chúng ta thuộc về nó, cái nơi từ lâu mở rộng vòng tay đón mà trước đây vì mù quáng, chúng ta đã không nhận ra! Và phải gấp lên mới được!”.
Với quyết định đó, chúng ta nhoẻn cười, nói chậm rãi và mạch lạc cho vợ nghe: “Em à, chắc phải tìm cách khác, chứ sống như thế này bấp bênh lắm! Mai, tôi xin nghỉ việc cơ quan ra ngoài kiếm việc khác làm!”. Vợ chúng ta là một người phụ nữ ít lời, lành tính, chiều chồng và “biết tỏng” chúng ta khi đã “quyết” điều gì rồi thì như dao chém cột, nên vẫn ngồi im thin thít, chỉ có đôi mắt là giương lên tròn xoe nhìn chúng ta không chớp, có vẻ thảng thốt, âu lo.
Thế là đơn xin nghỉ việc được thảo xong ngay chiều chủ nhật và đến sáng thứ hai thì đã “có mặt” trước mũi ông trưởng phòng tổ chức của cơ quan, nơi chúng ta đang làm việc. Ông này cũng tròn xoe mắt nhìn chúng ta: “Có chuyện gì thế? Sao lại nghỉ?...”. Chúng ta đáp lại nhỏ nhẻ, có phần rụt rè: “Dạ, thưa anh! Nghỉ việc nơi này, kể cũng rất tiếc! Nhưng đành phải vậy, vì hoàn cảnh gia đình em…”. Ông trưởng phòng tổ chức cắt ngang: “Thôi được rồi!... Mà nghĩ kỹ rồi phải không?... Để tôi trình giám đốc đã… Chiều mai, khoảng 2 giờ cậu ghé lại đây…”.
Tin chúng ta xin nghỉ việc lan ra rất nhanh trong cơ quan. Bạn bè của chúng ta thực sự lo lắng vì thời buổi đó viên chức lao động gián tiếp, ngồi bàn giấy, bỏ nhà nước ra ngoài rất khó kiếm sống. Những kẻ không ưa chúng ta thì xầm xì: “Nghỉ việc rồi thì có bốc cứt mà ăn. Rồi cũng phải xin vào làm lại thôi!”. Còn vài kẻ ganh ghét chúng ta thì nói toẹt: “Ngữ đó mà làm được gì! Kệ đi, cho nó chết!”.
Chiều thứ ba, đúng hẹn, chúng ta ghé. Ông trưởng phòng đi đâu mất. Cô nhân viên nói, ông có dặn nếu chúng ta tới thì bảo đợi một chút. “Một chút” của ông trưởng phòng tổ chức là một tiếng rưỡi. Thời đó, không cần biết đến thuyết tương đối hẹp của Anhxtanh, người dân Việt Nam ai mà không biết thời gian co giãn được như sợi dây cao su, thậm chí là còn co giãn “thoải mái” hơn thời gian của Anhxtanh nữa, co giãn vô tội vô vạ! Chúng ta cũng quá biết rồi nên bình tâm rít thuốc chờ đợi, chẳng sốt ruột gì. Đúng 3 giờ rưỡi thì ông về (cũng may(!), ông ta mà đi “suốt” luôn thì cũng phải chịu chứ làm gì được?). Mặt ông đỏ gay (chắc là đã “ực” cả lít bia “đối chứng” ở quán bên kia đường chứ không ít!). Có lẽ vì men bia mà ông trở nên ồn ào, vồn vã: “Cái cậu này lạ đời, đang ở trong “biên chế” ngon lành, người ta phải… (chắc định nói hai tiếng “tốn tiền” nhưng kịp “hượm” lại?!) khó khăn lắm mới xin vào được, ấy thế mà đùng đùng xin nghỉ!... Thời buổi khó khăn này, dân trí thức, nghề ngỗng không biết, ra ngoài lấy gì mà ăn, rõ là dại dột!... Tôi trả lại đơn cho cậu nhé?...”. Chúng ta chưa kịp mở miệng thì ông nói tiếp luôn: “Nói thế thôi chứ cậu có muốn nghỉ cũng không nghỉ được đâu! Tôi đã trình giám đốc, ông ấy nói cơ quan vẫn đang cần cậu nên không giải quyết, nếu cậu nghỉ ngang, sẽ không nhận được bất cứ chu cấp, trợ cấp nào theo chế độ và cũng không được nhận lại hồ sơ, lý lịch cá nhân của cậu. Giám đốc còn dặn tôi rằng, cơ quan đồng ý cho cậu nghỉ một tuần ăn lương để tĩnh trí lại rồi tiếp tục đi làm. Ưu ái cậu đến thế còn gì!... Thôi nhé, về xả hơi, hú hí với bà xã đi!... Thứ ba tuần sau có mặt, nhớ đấy!...”. Ông bắt tay chúng ta chào tạm biệt rất chặt, biểu lộ sự chân tình và mãn nguyện vì (chắc là theo ông nghĩ) đã kịp thời chặn đứng được một “cú tự tử” lãng nhách…
Phải nói rằng, ông trưởng phòng tổ chức là một người tốt, được nhiều người trong cơ quan yêu mến, kính trọng. Ông có lối sống ngay thẳng, khoáng đạt, có cách nói rổn rảng. tuồn tuột, có vẻ tỉnh bơ nhưng nếu ai biết, sẽ thấy trong đó chứa chất tính chân thực ân tình thường thấy ở người "chân đất". Nghe nói ông đã từng là tiểu đoàn trưởng bộ binh Quân Giải Phóng, có mặt trong hầu hết những trận đánh lẫy lừng ở địa bàn miền Tây - Nam Bộ thời Chống Mỹ, cứu nước, bị thương trong chiến dịch giải phóng tỉnh Phước Long. Sau ngày Thống nhất đất nước, ông xuất ngũ và được điều về làm trưởng phòng tổ chức của cơ quan này.
Khi chào ra về, chúng ta đã thầm cảm ơn lòng tốt của ông trưởng phòng tổ chức và chỉ thế thôi chứ tin chắc sẽ chẳng bao giờ còn quay lại cái cơ quan ấy nữa. Ông trưởng phòng tổ chức lúc đó, đâu thể ngờ được rằng, tờ đơn xin nghỉ việc của chúng ta không phải là “thành quả” của một cơn bốc đồng thiếu suy nghĩ, mà là của cái kết luận quan trọng, rút ra được sau 15 năm “ba chìm, bảy nổi, chín lênh đênh”, đang nung nấu tức tưởi tâm can thì bị câu nói “phang ngang” như một định mệnh của người vợ kích động, gây bùng nổ.
Ngày đầu tiên thoát ra hẳn cái vòng quay đơn điệu, tẻ nhạt đến nhàm chán: “sáng vác ô đi, tối vác về”, cũng như “đào ngũ” khỏi lực lượng “biên chế” của nhà nước, chúng ta tưởng sẽ thoải mái, vui vẻ lắm, nhưng không phải. Khi con đã đi nhà trẻ, vợ đi làm thì căn phòng trở nên vắng lặng. Sự vắng lặng ấy lúc đầu cũng làm cho tâm trạng của chúng ta thấy nhẹ nhõm, thảnh thơi thật, nhưng dần dần (những lúc rảnh rỗi ngồi không, hay chờ đợi con, người ta thường có cảm giác như thời gian trôi chậm chạp hẳn!), xuất hiện xen lẫn cả sự trống trải, hơi hụt hẫng, hơi tiêng tiếc, loáng thoáng buồn và loáng thoáng âu lo. Có lẽ ai tự nhiên “đùng đùng” bỏ công việc nói chung là ổn định với đồng lương ở mức trung bình của thời ấy, trong khi hoàn cảnh kinh tế gia đình thật sự eo hẹp, khó khăn, cũng đều có cái tâm trạng “tả pí lù” (thập cẩm, đủ thứ hằm bà lằng) như thế cả.
Chúng ta cũng dự định nghỉ ở nhà một tuần, theo đúng “hoạch định” kiểu gia ơn (và cũng có thể là mua chuộc) của ông giám đốc cơ quan mà chúng ta vừa rời bỏ, rồi sau đó mới bắt đầu “vào đời lần thứ hai” đi tìm việc làm ở các cơ sở tư nhân nhỏ, lẻ (được che đậy bằng những nhãn mác mang danh sở hữu tập thể như “tổ hợp”, “hợp tác xã”…). Để tránh né đi cái tâm trạng “thảng thảng, thốt thốt” ấy, chúng ta lôi hết đống giấy tờ, sách vở có thể chất đầy một tủ quần áo cỡ bự, đã thu thập, tích lũy, giữ gìn được trong suốt gần chục năm trời ra, thu dọn, loại bỏ bớt, sắp xếp lại cho gọn. Cứ nghĩ chỉ cần một ngày thong thả là xong công việc, ai dè phải kéo lê thê đến ba ngày.
Không phải tốn thời gian nhiều như thế là vì khối lượng công việc “đồ sộ” mà vì công việc cứ bị gián đoạn. Dỡ cái đống “ấp lủng” giấy tờ sách vở sau bao nhiêu năm không ngó ngàng tới đó ra thì kỷ niệm đồng thời cũng trỗi dậy, những năm tháng dĩ vãng ùn ùn lũ lượt hiện về, làm cho chúng ta phải ngừng tay, ngồi thừ ra đó như mất hồn đến một hồi mới sực tỉnh lại được để tiếp tục công việc.
Dù có chậm chạp thì công việc cũng đến hồi hoàn tất. Khi chúng ta đang gom cái phần giấy tờ, sách vở bị thải loại để buộc gọn lại cho “vợ bán ve chai” thì vô tình thấy một tờ giấy khổ A4 gấp làm đôi, đã ố vàng. Tò mò vì sợ quăng đi thứ cần lưu giữ lại nên chúng ta nhặt nó lên và mở ra xem. Thật là hết sức bất ngờ! Té ra đó chính là bài thơ cuối cùng, “hay nhất” mà chúng ta đã viết xưa kia, vào cuối thời hoa niên và từ lâu rồi, những tưởng đã vĩnh viễn thất lạc.
Nhặt lại được bài thơ ấy chỉ là sự tầm thường vô tình, nhưng nhặt được trong cái bối cảnh chuẩn bị tinh thần để “bước vào đời lần thứ hai” với một tâm trạng không chút hồ hởi mà cũng không chút bi lụy, thì lại là sự bất thường, hữu ý và hơn nữa, có hơi hướng tâm linh. Sau này, có lần chúng ta đã nghĩ như vậy và hơn nữa, còn cho rằng đó chính là thời điểm nàng Thơ đã thì thầm trong tiềm thức của chúng ta thông qua thần giao cách cảm: “Ngày xưa em cũng biết tình anh đối với em tha thiết lắm. Nhưng vì anh còn trẻ người non dạ quá mà em không thể theo “nâng khăn sửa túi” cho anh được vì sớm muộn gì cuộc tình nông nổi ấy, nếu có thành ra thì cũng sớm đổ vỡ mà thôi. Bây giờ, khi anh đã “thấm thía” cuộc đời đến độ “chín muồi” thì anh lại… có vợ mất rồi nên em cũng không thể về với anh được. Hôm nay em hiện ra dưới dạng bài thơ “hay nhất” mà anh viết hồi đó để khuyên anh quay lại với thơ ca và lúc này là lúc khởi đầu hợp ý nhất. Dù không thể trực tiếp “mớm lời” thì bằng cách gián tiếp, em sẽ cố gắng trợ giúp. Hãy quay lại “quấn quít” với thơ ca anh nhé! Rồi anh sẽ thấy thơ ca chính là đôi cánh diệu kỳ giúp cho tâm hồn con người bay ngày một cao, một xa, đến khắp góc bể chân trời trong thế giới mộng tưởng và khi đó tâm hồn mới có cơ may đạt đến sự toàn ngộ về thế thái, sự toàn thiện toàn mỹ về nhân tình!...”
Thời gian đã làm cho nét mực nhạt nhòa, nhưng vẫn còn đọc được. Lúc đó, chúng ta đã đọc đi đọc lại bài thơ đến cả chục lần với siết bao bồi hồi, xúc động. Một thời gian sau, chúng ta chép nó lại vào một cuốn sổ mới, có thay đổi lại vài từ cho bớt “nổ” và thuộc làu làu cho đến tận bây giờ. Đây này:
TUYÊN NGÔN
Sống có nghĩa như ngọn đèn thao thức
Trăn trở đời mình cố tỏ canh thâu
Sống có nghĩa biết cười vào số phận
Đêm tối càng đen càng lấp lánh vì sao.

Sống có nghĩa biết từ trong bùn đất
Tha thiết vươn lên, bát ngát tình yêu
Sống có nghĩa là giao hòa nảy nở
Gieo hạt giống vàng, chín rộ mùa sau.

Sống có nghĩa khi trở về cõi chết
Hiến lại cho đời một chút phù sa
Để những mầm lên thêm tràn trề sinh lực
Cho Trần Gian này thêm tươi thắm lá, hoa…

Có lẽ phần chủ yếu làm cho chúng ta xúc động mạnh là nội dung bài thơ. Bài thơ được sáng tác ra từ 15 năm trước hình như không phải dành cho cuộc “vào đời lần thứ nhất” mà như một điềm báo trước về sự xuất hiện cuộc “vào đời lần thứ hai”. Điều bất ngờ nhất là bài thơ đó sau khi được sinh ra, chưa một lần cất tiếng rành rọt thì nhanh chóng bị ruồng bỏ và biệt tăm trong quên lãng, lại đột nhiên xuất hiện, cất tiếng dõng dạc, ngân nga và vang vọng vào thời khắc rất cần sự an ủi, động viên tinh thần trước cuộc xông pha không thể quay lui, có tính “quyết tử” để “quyết sinh” và đồng thời cũng là để tự tôn trước người đời, bảo toàn phẩm giá.
Sự xuất hiện cực kỳ đúng lúc của bài thơ “hay nhất” tưởng đã thất lạc làm rúng động cõi lòng chúng ta và trong chốc lát, chúng ta đã thấu tỏ đến chân xác cái tuyệt vời mà thơ ca hàm chứa. Thế là tình yêu thơ ca lại trỗi dậy dào dạt trong tâm can.
Chúng ta quay về với thơ ca như vậy đó!
Cũng trong những ngày nghỉ ngơi, chờ đợi ấy, chúng ta làm được bài thơ đầu tiên sau 15 năm cách xa thơ ca và tuyệt tình với nàng Thơ. Bài thơ này hơi bị “thô mộc”, cũng hơi bị “hô hoán”, nhưng không hề “nổ”. Chúng ta thích nó như một khắc ghi kỷ niệm hơn là như một thổ lộ tâm tình. Nó đây:
NGHỈ VIỆC
Ta quyết về đây, Tự do ơi
Bon chen danh lợi chán nản rồi
Hùm thiêng chịu cũi thành lơ láo
Cóc tía thế cô, vẫn cậu Trời

Miếng cơm, manh áo mà thảnh thơi
Hơn yên thân ngợm, chẳng ra người
Từ nay lộng gió đường thiên lý
Ngâm thơ, uống rượu, chẳng cần thời.

Đường thiên lý quanh co muôn nẻo
Đầy gian lao, mà đủ buồn, vui
Ta chấp nhận hướng đi giông bão
Một mất, mười còn, vạn sinh sôi.

“Thừa thắng xông lên”, chúng ta viết tiếp bài thơ thứ hai. Bài này nghe rất “khí phách” nên không những có tính “hô hoán” mà còn ẩn chứa cả chất “nổ” nữa. Tuy nhiên, nếu đặt nó vào cái hoàn cảnh sinh ra nó thì cũng ổn, thậm chí là cũng hay:
TỰ ĐỘNG VIÊN
Hãy cười vang cho đời quèn ngạo nghễ
Hãy hát lên cho rực rỡ đêm đen
Thuyền có nát cứ dương buồm đây đó
Cánh chim bằng đâu xá những đường tên.

Đã là vàng thì đừng thèm sợ lửa
Đã làm trai nào há quản gian nan
Thân tráng sĩ là cầm cương ngồi ngựa
Tơi tả hình hài vẫn trơ mãi hồn gan.

Bài thơ “Thách thức” mà chúng ta đã từng “khoe”, ra đời sau bài thơ này. Nó được hoàn thành vào ngày cuối cùng làm “nhà báo” (ở nhà báo con báo vợ!).
Sự xuất hiện bài thơ “Thách thức” vào thời kỳ ấy, như bây giờ chúng ta nhận định, hình như là có sự mách bảo tâm linh hối thúc. Nếu cho rằng bài thơ “Tuyên ngôn” là điềm báo trước về cuộc “vào đời lần thứ hai” thì cũng có thể cho rằng bài thơ “Thách thức” là điềm báo trước về cuộc hành trình “đi tìm cái gì đó” của chúng ta sau một thời khoảng cũng ngót nghét 15 năm “dấy nghĩa”, “nếm đắng, nằm cay há phải một hai sớm tối, lên bờ xuống ruộng, nào chỉ ba sớm bảy chiều”, lê la hết đầu đường xó chợ mà tìm tòi học hỏi cái “khôn” cái “ngoan” ở đời, mà “ngộ” cho được Đức Huyền Diệu, mà hiểu được như thế nào là làm ăn lương thiện, như thế nào là giàu có chính đáng và đâu là lằn ranh không được vượt qua trong đối tác kinh doanh vì nếu vượt qua sẽ làm tổn thương Đức Huyền Diệu, để rồi nỗ lực “lấy sức ta mà giải phóng cho ta” khỏi khốn khổ, đói nghèo, để quay lại ngạo nghễ nói với cái đám “bất tài vô tướng”, nhờ “núp bóng nhà nước mà giàu sụ bất chính, từng “trù ẻo” và cũng đã ngỡ chúng ta “chết từ tám hoánh nào rồi” ấy, rằng: “Đây này, với hai bàn tay trắng thôi, vẫn xây nên cuộc đời, vẫn “tậu được” nhà cửa, đất đai. Nhưng cái tuyệt vời nhất là đây: chúng tao vẫn bảo toàn trọn vẹn phẩm giá con người trong suốt quá trình tạo ra của cải tài sản cho mình và đàng hoàng hưởng thụ của cải, tài sản đó không một chút hổ thẹn, còn chúng mày thì tuyệt đối, có thèm khát đến mấy cũng không thể làm được như thế! Đúng là: “Kiếp luồn cúi, đỉnh chung, mà nhục/ Thân tự do, rau cháo, mà vinh”!”.
Sau khoảng 28 năm mưu sinh (nghĩa là sau 15 năm “vô công rỗi nghề”, ngồi chơi xơi nước”, “sáng vác ô đi, tối vác về” của một thời "bao cấp", và tiếp theo là 13 năm “vơ đông vét tây, thu nam gom bắc”, “tay làm hàm nhai”, “sáng xách bị đi, tối xách về” của một thời "đổi mới"), chúng ta cũng tích lũy được chút đỉnh gọi là “lưng vốn”, để tự thấy cũng khá “nở mày nở mặt” giữa đám cần lao (thế thôi, chứ so với các bậc “đại gia” và cả “trung gia” thì chỉ như… con muỗi, không, như con vi khuẩn mới đúng!).
Đáng lẽ ra đến mức đó, “an phận thủ thường” là “trên cả tuyệt vời” rồi. Nhưng thói thường, mấy ai chịu dừng bước trên đà thắng lợi, mấy ai đã từng nếm trải thảm trạng đói nghèo cực khổ, đang vào thời sung sức cũng như làm ăn thuận lợi kiểu “làm đâu được đó”, “xuôi chèo mát mái”, “thuận buồm xuôi gió” và hơn nữa, nhiều khi là “làm chơi ăn thật”, lại không “được voi đòi tiên”, không “thừa thắng xông lên”. Chúng ta cũng không ngoại lệ và hơn nữa, thuộc vào hàng ngũ “tiêu biểu”, “điển hình” trong số đó. Có như thế là vì ngoài lòng tham cố hữu mà ở “người trần mắt thịt” ai cũng có, chúng ta còn có tính quá hãnh tiến nữa.
Trong nhiều trường hợp, nhất là đối với chúng ta khi còn ở thuở hàn vi rất cần đến sự nỗ lực cao độ để xông pha, thì sự hãnh tiến là có lợi. Nhưng sự hãnh tiến thái quá thường lại chỉ có hại. Một nguyên nhân quan trọng làm cho sự hãnh tiến trở nên thái quá là việc “gặt hái danh lợi” bỗng dưng trở nên dễ dàng, không phải bận tâm nhiều mà cứ “đầu xuôi” là “đuôi lọt”. Tuy nhiên, nguyên nhân sâu xa nhất, đối với trường hợp của chúng ta thôi, lại là thế này: ngay từ độ tuổi thanh niên, chúng ta đã bị “hớp hồn” bởi những lời giáo huấn của Khổng Tử, tin tưởng một cách nông cạn, thiếu suy xét quan niệm sống của Nho Giáo, nghĩ rằng đã là người thì phải sống sao cho có khí phách theo “khuôn thước” nhân, lễ, nghĩa, trí, tín mà Nho Giáo đề ra, phải “cột trụ kiên cường”, phải “dấn thân” không quản ngại mọi gian nguy, phấn đấu không ngừng trên con đường hoạn lộ để tạo lập công danh, để đạt cho được đến “công thành, danh toại” mà giúp nước, cứu đời, nghĩa là phải “nhập thế hữu vi” bằng mọi giá với khẩu hiệu “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Đó cũng là nền tảng tư tưởng cốt lõi mà chúng ta đã được dạy dỗ dưới mái trường Xã hội chủ nghĩa.
Sự hãnh tiến thái quá đã làm cho chúng ta mù quáng, “chủ quan khinh địch”, tưởng chỉ cần bước một bước là… tới trời (!), để rồi biến thành kẻ quá ư hung hăng, hung hăng đến bạt mạng. Thế là một kế hoạch phấn đấu gầy dựng, tạo của cải vật chất trong 5 năm để tiến tới kinh doanh bất động sản ra đời, và “đùng một cái”, chúng ta trở thành “ông” giám đốc công ty trách nhiệm hữu hạn Trường Sơn Đông (đặt cái tên này nhằm tưởng nhớ đến người cha kính mến của chúng ta, làm cho người mát lòng mát dạ nơi chín suối), có qui mô nhỏ bằng… hạt mít, có vốn điều lệ, dù đã khai khống lên gấp 20 lần cũng… chả ra làm sao cả. Có thể coi đây là bước khởi đầu cho “cuộc vào đời lần thứ ba” của chúng ta.
Đang làm ăn thuận lợi trong phạm vi “ven bờ” dù nhỏ hẹp nhưng vẫn đầy tiềm năng và hơn nữa là phù hợp với tài và lực của mình, chúng ta “đùng đùng” xông ra biển lớn trên một con thuyền chỉ to hơn cái thúng một chút, với hầu hết trang thiết bị chỉ dùng để “đánh giáp lá cà”, còn kinh nghiệm thì “có cũng như không”, hòng “đánh bắt xa bờ”.
Với một hành trang “lỏng lẻo” như thế và niềm tin cố hữu vào sự tử tế của con người mà tham gia “hùng hục” vào “cuộc chơi lớn” đầy rẫy “cờ gian bạc lận”, “mưu ma chước quỉ”, và không thiếu gì những kẻ gọi là “đá cá lăn dưa”, “ba que xỏ lá”, “ăn cháo đá bát”, “qua sông đấm buồi vào sóng”, “ăn quịt ở lường”, “ném đá giấu tay”, “khẩu Phật tâm xà”, “ngậm máu phun người”, “giết người không dao”…, thì nguy cơ thất bại thảm hại đã hiện ra lồ lộ, ai cũng có thể thấy được, chỉ có chúng ta, lúc đó, vì hãnh tiến thái quá nên quá “say máu đỏ đen” và do đó mà trở nên… mù tịt…
Trên đời này một trong những hành động nhẫn tâm nhất, đểu cáng nhất, trơ tráo nhất, hèn hạ nhất là lừa dối bạn bè, người thân của mình nhằm mưu cầu lợi riêng. Nhân đây, tôi xin kể về ba nhân vật mà tôi cho là những điển hình của thời buổi điển hình. Thằng đầu tiên, “đệ nhất anh hào”, tôi đặt tên là “bồ láo Thắng” (thằng bạn láo toét tên Thắng, thằng bố láo). Đầu nó to lắm, dễ lầm tưởng là vĩ nhân nhưng thực ra lại là đứa bất tài mang linh hồn “ngợm”, rượu bia vặt suốt ngày phần lớn bằng tiền túi người khác nhờ giỏi cách gài qua độ lại. Nó trả ơn cứu mạng của bạn bằng cách nói xấu người cho đẹp ta. Bạn tin tưởng nó thì nó nhân cơ hội dụ lấy luôn vợ bạn làm vợ mình. Nó khốn quẫn trong làm ăn, bạn dù còn nghèo nhưng thương tình cố gom cho nó mượn nợ. Khi có tiền rồi thì dấu bạn đi mua đất, bạn biết chuyện thì đổ thừa cho vợ, bắt chước vụng về màn Lưu Bị ném con để lấy lòng tướng: trước mặt bạn mà chửi vợ tơi bời, là “đồ con vợ ngu!”. Mấy năm sau bán đất kiếm lời, bạn hỏi nợ thì tráo trở nói quên rồi, không nhớ, hình như trả rồi… và lờ vờ rồi ăn quịt luôn. Điều nực cười nhất là có cái đầu to tổ chảng như thế mà nó không nghĩ ra là đời nó có thể phè phỡn bởi quịt được nợ nhưng sẽ gây ra biết bao tội tù cho đời con cháu nó. Ông Bà nói “Hổ dữ không ăn thịt con”, nó đã phạm vào một trong những tội ác vô luân nhất là gán nợ cho con cháu!
Nhân vật điển hình thứ hai tôi đặt tên là Hầu trung (con khỉ mà trung nghĩa?! Con trâu anh hùng hay trâu điên?). Thằng này đỡ hơn thằng kia về cái khoản trơ tráo và có tài hơn. Nó là thằng hết sức lì lợm, cố đấm ăn xôi, lươn lẹo và thượng đội hạ đạp có hạng. Từ một thằng vô danh tiểu tốt ở trại cải tạo ra, léng phéng thế nào mà được bồ nhí của một “tai to” chiều chuộng, “nói giùm” cho để lọt được vào một kho gạo đầy ắp và lớn “đùng đoàng”. Tất nhiên kho gạo đã sẵn có chuột rồi. Nói nó có tài là ở chỗ này: từ một con chuột đói mới vào, nó linh hiển kiểu gì mà chỉ sau 5, 6 năm nó vụt trở thành con chuột trọc phú vĩ đại, đám chuột cũ bị nó đạp xuống hàng đệ tử chầu chực ban phát, còn mấy “cha” coi kho thì được nó đội đủ cả nhà lầu, xe hơi. Gạo “chảy” vô tội vạ như thế mà cái kho vẫn luôn đầy vì liên tục được rót từ trên trời xuống vô tư theo sự khẩn cầu chẳng khác gì “lệnh” của con chuột vĩ đại. Đến tận bây giờ cũng chẳng có “ma” nào biết chuyện ấy. Điều kỳ lạ nhất là dần dà mấy cha coi kho cũng bị nó đạp về hưu tuốt luốt, chẳng cha nào dám ho he, còn nó thì trở thành một “tai to” mới với biết bao nhiêu lời khen ngợi, tung hô. Của đáng tội, cũng nên “thông cảm” chút ít cho nó. Trong giai đoạn nền kinh tế bao cấp không hẳn bao cấp, thị trường chưa ra thị trường, hơi giống thời kỳ "công trường thủ công tiền tư bản", chuột nhiều vô kể. Mà đã là chuột, muốn tiến thân dựng nghiệp thì chỉ có một cách duy nhất là cố đội đạp, đục khoét cho giỏi mà ngoi lên mà thôi. Điều làm tôi ghê tởm thằng Hầu trung là nó lúc nào cũng tìm đủ mọi cách bớt xén, xà xẻo tiền bạc của chính những người làm công cho nó. Có một lần nó khoe với tôi rằng nó nợ lương công nhân vì vàng hạ giá, nó lấy số tiền ấy đi mua vàng chờ đến khi lên giá mới bán ra trả lương công nhân, kiếm được số "lãi" kha khá và nó coi đó là một chiến công. Vợ nó, nếu không ai biết, cứ tưởng là ô-sin (người ở) trong nhà, phải chịu chế độ cấp phát tiền chợ và báo cáo chi tiêu từng ngày. Nó thương tiền đến độ Ơgieni Grăngđê cũng phải chào thua. Có lẽ nó là kẻ nhẫn tâm nhất thế giới.
Tôi đặt tên nhân vật thứ ba là Vua nổ. Thằng này đáng thương hơn hai thằng kia vì bị bệnh Vĩ cuồng. Thuở hàn vi, nó có một người bạn tốt, hiền như đất. Lúc đó thị trường trong nước đang có nhu cầu to lớn về một mặt hàng ngoại nhập. Nó rủ rê vài đứa bạn mày mò và phát hiện ra mặt hàng đó chỉ là sự kết hợp hết sức giản đơn từ vài nguyên liệu thiên nhiên có sẵn trong nước, vừa dồi dào về số lượng vừa rẻ như "bèo". Không có vốn lận lưng, và để né tránh rủi ro, nó đã phủ dụ người bạn hiền cầm nhà của mình để lấy tiền mua nguyên vật liệu . Lũ bạn bè kề vai sát cánh, nỗ lực trong vòng một năm thì công việc tạm ổn, đã thiết lập được một mạng lưới bán hàng đủ cho sản xuất. Tương lai giàu có đã mở ra trước mắt. Chính lúc này thằng Vua nổ mới bộc lộ bản chất tham lam ích kỷ và xảo quyệt của nó. Nó ngấm ngầm gây chia rẽ nội bộ tạo tình thế cho từng thằng bạn mắc sai lầm và từng đứa một lần lượt ra đi với một khoản tiền chia cũng khá. Cuối cùng thì người bạn nối khố hiền như cục đất, người cầm nhà để tạo vốn ban đầu cho công cuộc tìm vàng ấy cũng bị gài bẫy cho ra rìa nốt với số tiền trong tay là số tiền đủ chuộc lại cái nhà và hai phần ba số tiền lãi còn lại sau hơn một năm kinh doanh. Vua nổ đóng vai kẻ khốn khổ vì bạn, bao nhiêu công sức đành đổ sông đổ biển, phải làm lại từ đầu với vốn liếng hầu như bằng không. Nhưng nó đâu biết rằng có một người biết tỏng cái tâm địa đen ngòm của nó. Đó chính là vợ người bạn hiền của Vua nổ. Chị ta từng coi tôi là một người anh, một người thầy (dù tôi không xứng đáng) một người biết giữ miệng (cũng không xứng đáng nốt), đã kể hết cho tôi nghe trước khi chết ba tháng vì bệnh ung thư như là dịp cuối cùng trút bỏ nỗi lòng cho những người còn ở lại trần thế. Kể lại câu chuyện này, tôi xin lỗi vong hồn chị và cũng xin lỗi vong hồn anh (vì anh cũng đã đi xa lâu rồi và có lẽ anh chị đã đoàn tụ, đã tha thứ cho nhau về những lỗi lầm của kiếp người!). Mong chị và anh hiểu cho lòng tôi, mục đích của tôi không phải là bêu riếu mà là thay mặt anh chị tố giác, coi như cùng với anh chị để lại cho hậu thế một lời nhắn nhủ cảnh giác.
Vua nổ đã tán tỉnh chị và trong một lần buông thả, chị đã ăn nằm với nó tại nhà mình. Chị đã phải khóc hết nước mắt và nơm nớp lo sợ vì lần dại dột ấy. Việc cầm nhà của người bạn hiền cho Vua nổ làm vốn là có sự tiếp tay của chị. Đến khi chồng chị bị cho ra rìa thì chị mới thấy rõ đòn độc địa của Vua nổ, nhưng chị đã không dám nói ra dù rất thương chồng và căm hận kẻ đã gây điều tác tệ. Vua nổ tuy không còn đủ vốn nhưng, cơm lành canh ngọt đã bày sẵn ra mâm đâu vào đấy, đã có thể mua gối đầu nguyên vật liệu. Sản phẩm làm ra có chất lượng tương đương hàng ngoại nhập, lại rẻ hơn nhiều, đã được thị trường hồ hởi đón nhận, báo hiệu một nhu cầu khổng lồ chờ cung ứng. Và quan trọng hơn cả là Vua nổ đã bí mật thỏa thuận với một tập đoàn nước ngoài ngầm ngầm chuẩn bị đầu tư mở rộng trên danh nghĩa cơ sở mà Vua nổ đứng tên (cũng có thể là một cuộc rửa tiền chăng?). Điều này chị ta biết được qua sự rỉ tai của vợ Vua nổ (thật khốn nạn!).
Thế là sau hai năm vất vả “làm lại từ đầu”, thằng Vua nổ đã mua được ngôi nhà to đùng ngay khu trung tâm thành phố để làm “tổng hành dinh”. Và sau bốn năm kế tiếp nữa nó nghiễm nhiên đứng vào hàng ngũ các đại gia!
Phải công nhận rằng Vua nổ có biệt tài ăn cắp ý tưởng. Và mắc bệnh vĩ cuồng nên luôn tự nhận là của mình. Và tự phong cho mình đủ mọi bằng cấp và học vấn mà mình không có: rồi cứ thế mà nổ, nổ liên tu bất tận, nổ không biết ngượng mồm. Bạn bè cũ ai mà không biết nó nổ. Khi thành đại gia rồi, để giấu đi cái quá khứ ít học hèn kém của mình và cũng để nổ cho thoải mái tự nhiên hơn, nó đã cắt đứt mọi quan hệ với bạn bè cũ, kể cả những ân tình ngày xưa đã từng cưu mang nó. Chắc vì vậy mà nó được đặt tên là Vua nổ, một tuýp người kỳ quặc với một cuộc làm giàu cũng kỳ quặc đến mức hy hữu.
“Tam đại anh hào” kể trên chính là đại diện “xứng đáng” nhất của đám làm giàu bất chính, làm giàu trên đau khổ của người khác, làm giàu nhờ chà đạp lên mọi giá trị đạo lý làm nên phẩm giá con người và như vậy cũng có nghĩa là dày xéo lên cái lý tưởng xã hội mà cha ông chúng ta mơ ước lúc sinh thời, vì nó mà cha ông chúng ta làm cách mạng. Cùng với sự tiến bộ xã hội thì đám này hiện nay còn không nhiều đâu, một phần về với đất (do ăn uống vô độ), một phần vô ngồi hộp (vì tham lam vô độ bị lòi đuôi), một số đã gác kiếm, hạ cánh an toàn, chẳng có việc gì làm nên thường đi rao giảng đạo lý và tổ chức từ thiện rùm beng một cách đạo đức giả. Làm giàu mà lương thiện đã cực khó rồi, huống hồ là biết sống vì đại chúng!
Con đường làm giàu chân chính bắt đầu có thể là năng khiếu nhưng trước sau gì cũng phải rèn luyện, học hành để phát huy tài năng, vì chỉ khi có tài năng mới nhận biết và đón bắt kịp thời cơ hội mà vươn lên giàu có, và biết rằng chớ nên bắt chước tam đại anh hào của một thời "tiền tư bản" ấy. Nhưng ai ơi, hãy luôn luôn nhớ rằng đời người là hữu hạn để mà thấy cho hết ý nghĩa của sự giàu nghèo, sang hèn trước khi dấn bước vào thương trường muôn mặt bi hài. Người xưa đã để lại cho chúng ta những nhắc nhở hết sức quí giá để làm hành trang. Dưới đây là một số tôi sưu tầm được:
“Sự nghèo không đáng xấu hổ, chỉ đáng xấu hổ là những người nghèo không có chí.”
Lã Khôn
“Việc khó trong đời phải làm từ chỗ dễ. Việc lớn trong đời phải làm từ chỗ nhỏ.”
Lão Tử
“Trong đời này, kẻ nào sợ hiểm nguy sẽ luôn thấy hiểm nguy.”
Anon
“Biết được người hay người dở, ấy là khôn; tự biết mình hay mình dở, ấy là sáng suốt.”
Sách Kinh lý
“Những kẻ chuyên dùng sức mạnh, làm việc mạo hiểm, bắt cọp bằng tay không, chết cũng không thốt lời oán hận, ta không đi với những kẻ ấy. Ta chỉ đi với những kẻ gặp việc thì cẩn thận xem xét, nhiều mưu chước mà biết quyết đoán.”
Khổng Tử
“Đức nhỏ mà ở ngôi cao, trí mọn mà mưu toan lớn, nếu không gặp họa là hiếm lắm vậy.”
Kinh dịch
“Cái gì cũng biết mà đạo làm người không biết thì chưa gọi là người biết được.”
Hoài nam tử
“Nhà có của cải hàng nghìn, hàng vạn mà không biết cách làm ăn, thì cũng như nghèo vậy.”
Hàn thi ngoại truyện
“Muốn cho người ta yêu mình, trước hết phải yêu người đã. Muốn cho người ta theo mình, trước hết phải theo người đã.”
Quốc Ngữ
“Người quân tử hiểu rõ việc nghĩa cho nên thích nghĩa. Kẻ tiểu nhân hiểu rõ việc lợi cho nên thích lợi.”
Luận ngữ
“Không gì nghèo bằng không có tài
Không gì hèn bằng không có chí.”
Vông cách
“Không lấy bậy của ai, gọi là giàu. Không bị nhục với ai, gọi là sang.”
Công Ngư
“Người quân tử có khi phạm điều bất nhân, chứ chưa từng thấy kẻ tiểu nhân mà làm được điều nhân nghĩa.”
Khổng Tử
“Một sự nghĩ không cẩn thận có khi để lo cho bốn bể. Một ngày làm không chu đáo có khi gây di họa đến trăm năm.”
Sách cách ngôn
“Người có nhân chẳng bao giờ lấy thịnh suy mà thay đổi tiết tháo, người có nghĩa chẳng bao giờ lấy mất còn mà đổi lòng.”
Sách Nhi vị
“Lấy quyền thế mà giao du, quyền thế nghiêng là tuyệt, lấy lợi mà giao du, lợi hết là tan.”
Cương thường
“Người bạn hèn nhát đáng sợ hơn kẻ thù vì người ta đề phòng kẻ thù và hy vọng ở bạn bè.”
L. Tônxtôi
“Khi sống sung túc, phẩm hạnh lớn nhất là sự điều độ.
Khi gặp tai họa, phẩm hạnh lớn nhất là sự kiên cường.
Bây cơn
“Nhân nghĩa là cái đạo rộng lớn vô biên. Làm người có nghĩa có nhân, trước hết là giữ lòng thủy chung với thiên hạ.”
Cao Bá Quát
“Mai kia đi hết con đường
Mỗi người lại một mảnh gương để đời!...”
Phạm Hổ
“Sự giàu sang như cái nhà trọ chỉ có người cẩn thận thì mới ở được lâu. Sự nghèo hèn như cái áo rách, chỉ có người cần kiệm mới thoát khỏi được.”
Sách cách ngôn
“Khi giàu có người ta dễ làm người lương thiện, nhưng khi nghèo khó, làm người lương thiện thật khó khăn.”
E. Rulet
“Giàu là cội nguồn của lo âu vô tận.”
Bơ-cách-lốc
“Thế có thể làm điều ác mà không làm tức là thiện rồi. Sức có thể làm việc thiện mà không làm, thì là ác rồi.
Sách cách ngôn
***
Sau ba năm múa may quay cuồng loạn xị xà bì, chúng ta rơi vào cảnh nợ nần chồng chất, nhà cửa bị cầm cố, lãi mẹ đẻ lãi con thay nhau quần thảo tơi bời hoa lá cành. Tình trạng kinh tế gia đình đã ở bên bờ vực “khuynh gia bại sản”, tồi tệ đến độ cuộc sống đói khổ, vô gia cư xưa kia có thể xộc về lại bất cứ lúc nào. Chỉ đến khi lâm vào tình trạng nguy kịch, ngàn cân treo sợi tóc đó, chúng ta mới hoàn toàn thoát ra được khỏi vòng kiềm kẹp của sự hãnh tiến thái quá. Nhưng vẫn chưa đủ tỉnh táo để tìm ra biện pháp giải cứu dứt khoát và hiệu quả nào vì lại rơi ngay vào vòng chế ngự của sự tự ái, sợ mất thể diện mà thành ra gàn bướng, ù lỳ. Phải thêm một thời gian 6 tháng trời vùng vẫy, quẫy đạp “trong rọ”, tiền thì cứ tiếp tục mất, tật thì cứ tiếp tục mang như thế để tìm đủ mọi cách vượt thoát (theo hướng kiên cường quyết tâm hoàn thành cho được kế hoạch 5 năm đã đề ra!!!) mà vẫn vô phương và phải đến khi bị một chủ thầu xây dựng lừa gạt, ăn quịt một lúc 20 lượng vàng nữa (tổng cộng số vàng mà chúng ta bị mất do các đối tác lừa đảo trong cuộc vào đời lần thứ ba là khoảng 100 lượng tính ra tiền Việt Nam theo thời giá năm 2012 là khoảng hơn bốn tỷ rưỡi đồng),  chúng ta mới tỉnh ngộ ra được rằng, không những vô duyên với công danh mà chúng ta cũng vô duyên với sự giàu sang phú quý!
Kể cũng may, nếu không có cú lừa ấy, chắc chúng ta còn đại bại ở mức thê thảm hơn nữa. Chính cú lừa ấy đã làm cho chúng ta hoảng loạn, đồng thời chán nản nhân tình thế thái đến cùng cực. Sự tác động đồng thời của các yếu tố: suy sụp, chán nản và cả lời nhắc nhở hiền khô của mụ vợ: “Ông bà nói: sống có cái nhà, chết có cái mồ. Ông làm sao thì làm, chẳng may bị thất bại thì đừng để đến nỗi phải bán nhà!”, đã giúp chúng ta có được quyết định tối ưu: “đánh trống bỏ dùi”, đột ngột dừng bước, bỏ dở tất cả, rút chạy “không kèn không trống”, “lặn” xuống, “co” lại, hoạt động ở mức cầm chừng “được đâu hay đó” để cốt sống qua ngày và chủ yếu là bảo toàn căn nhà ở và một số của cải, vật chất còn “rơi rớt” lại, chưa “đội nón ra đi”.
Sự thất bại nặng nề của cuộc vào đời lần thứ ba làm chúng ta vô cùng đau buồn và suy nghĩ rất nhiều về thân phận mình. Lúc đó, chúng ta biết rằng, với độ tuổi “ngũ thập tri thiên mệnh”, chúng ta sẽ không bao giờ còn một cơ hội làm ăn nào nữa để vươn tới một cuộc sống khá giả và hơn nữa là để tích lũy được chút ít tiền bạc, của nả lo cho cuộc sống về già. Đó chính là điều làm chúng ta lo âu, sầu muộn nhất và cứ mỗi lần nghỉ đến vợ con thì lương tâm lại bị dằn vặt ghê gớm(!).
Sau một thời gian thì công việc làm ăn cũng bình ổn trở lại. Nhưng tương lai thì vẫn cứ mù mịt. Dù sao thì cái tâm trạng nặng nề muộn phiền và âu lo cũng phần nào nguôi ngoai. Nguôi ngoai thôi chứ không thể dứt được, nó đeo bám như đỉa đói ngày này qua tháng khác, lúc bận bịu hay bù khú với bè bạn thì lắng xuống, lúc rãnh rỗi lại nổi lên, nhiều khi nhức nhối. Để khuây khỏa, chúng ta quay lại với thói quen đọc sách khoa học – triết học mà chung ta đã bỏ bẵng ít ra là cũng 10 năm trời.
Trong một lần như thế, chúng ta lôi quyển “Lý thuyết tương đối hẹp và rộng” do chính Anhxtanh viết ra để đọc lại. Ngay từ thuở thiếu thời, chúng ta đã nghe đến thuyết tương đối và hiểu ngây ngô rằng thuyết đó chỉ ra: trên đời này chẳng có cái gì tuyệt đối cả mà cái gì cũng tương đối. Đến thời thanh niên, chúng ta mới có dịp tiếp xúc với thuyết tương đối hẹp, không hiểu gì mấy, nhưng khâm phục Anhxtanh. Cũng từ đó, cái Vũ Trụ mà Anhxtanh vạch vẽ ra đã gây nên một sự tò mò không dứt được và bắt chúng ta phải cố tìm hiểu nó.
Trình độ toán, lý rất hạn chế đã không cho phép chúng ta hiểu được dễ dàng thuyết tương đối hẹp (chứ nói gì đến thuyết tương đối rộng!). Phải mất một thời gian dài tự trang bị kiến thức, tự tìm tòi học hỏi thêm thông qua đọc sách, chúng ta mới nắm bắt được nội dung của nó, nhưng cũng chỉ… tương đối thôi.
Tuy nhiên, khi coi như đã hiểu được thuyết tương đối hẹp rồi, nghĩa là trút được một “đống” tò mò đè nặng tâm trí rồi thì ngay lập tức lại xuất hiện một vấn đề hết sức bất thường: nếu thuyết tương đối hẹp là chân lý, nghĩa là không gian và thời gian (có vẻ) hòa trộn với nhau được, hơn nữa, có tính co giãn theo vận tốc, khối lượng tăng lên khi vận tốc tăng, sự đồng thời bị phá vỡ… là có thật thì những định luật bảo toàn vật chất, bảo toàn năng lượng mà chúng ta đã học từ thời phổ thông, phải bị vứt vào sọt rác, còn nếu không, phải xét lại thuyết tương đối hẹp. Thế là “đống” tò mò mới lại nảy sinh.
Cái “đống” tò mò ấy đã làm chúng ta tốn biết bao nhiêu thời gian, biết bao nhiêu tâm trí mà vẫn không sao giải quyết được vấn đề. Dù thế, sự hao tổn ấy cũng không vô ích: chúng ta lớn khôn lên nhiều, nhận thức được rất nhiều điều quan trọng và đặc biệt là chính cái “đống” tò mò ấy đã dẫn chúng ta đến trước những mô tả về cuộc thí nghiệm của Maikensơn - Mookly để trầm tư mặc tưởng trên đó để rồi đột nhiên “đốn ngộ” được “gót chân Asin” trong phép biến đổi của Lorenxơ.
Khi lôi quyển sách “Lý thuyết tương đối rộng và hẹp”, mở ra định đọc lại thì chúng ta thấy hai tờ giấy xé từ vở học trò, đã ngả màu, xếp lại, kẹp trong đó. Chúng ta nhớ lại ngay, đó chính là hai tờ giấy minh họa một thí nghiệm tưởng tượng của mình, được thực hiện để thiết lập một phép biến đổi mới thay cho phép biến đổi Lorenxơ.
Có thể nói rằng, thí nghiệm tưởng tượng đó là một bước đi cực kỳ quan trọng và có tính đột phá khẩu. Nhưng dù sao thì “cửa mở” vẫn còn quá nhỏ hẹp, chỉ mới cho thấy triển vọng mà chưa thể “xông” vào được. Chúng ta đã phải dừng lại ở đó, tính đến lúc này, ước chừng cũng là 25 năm. Khi đọc lại hai tờ giấy đó, lòng chúng ta lại nổi say mê trở lại, muốn vứt bỏ hết để quay về tiếp tục tìm hiểu Vũ Trụ. Nhưng bằng cách nào đây khi mà không thể rời bỏ được cuộc sống phải làm việc hàng ngày để lo cơm, áo, gạo, tiền?
Thế rồi trong một lần khác vào ngày giáp Tết, việc làm đã hết sạch, để “giết” một ngày “rỗng rang”, chúng ta đi ra hiệu sách. Sáng hôm đó, chúng ta mua được ba cuốn sách có tựa đề lần lượt là “Lịch sử văn minh Ấn Độ”, “Khổng Tử”, “Lão Tử” và bộ sách gồm 5 tập có tựa đề “Lịch sử triết học phương Đông”. Cuốn đầu do Nguyễn Hiến Lê dịch, hai quyển sau do Nguyễn Hiến Lê viết, bộ sách 5 tập do Nguyễn Đăng Thục chấp bút.
Những cuốn sách đó viết rất hay, chứng tỏ tài năng không thể phủ nhận được của cả người dịch lẫn người viết. Chúng ta nhân tiện đây xin cảm ơn họ vì nhờ họ mà chúng ta tiếp cận được nhiều tinh hoa thâm hậu của quá khứ và qua đó nhận chân dần dần được cơ sở chân chính nhằm đánh giá thị phi trước nhân tình thế thái, trước những biến động thời cuộc mà chúng ta tưởng đã hiểu rõ từ lâu nhưng thực ra chẳng hiểu gì. G. W. Curtis có nói: “Sách là ngọn đèn bất diệt của sự thông thái tích lũy lại”. Thật chí lý!
(còn tiếp)

Mời xem:

LỜI PHÂN TRẦN

PHẦN I: CÓ MỘT CÁI GÌ ĐÓ

PHẦN II: NỀN TẢNG

PHẦN III: NGUỒN CỘI

PHẦN IV: BÁU VẬT

PHẦN V: THỐNG NHẤT

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

TT&HĐ I - 9/d

MUÔN MẶT ĐỜI THƯỜNG III/104

MỌC CÁNH