CÂU CHUYỆN TÂM LINH 95
(ĐC sưu tầm trên NET)
Giả thiết phong thủy chưa từng tiết lộ về sự phát tích 13 đời vua nhà Nguyễn
Tương truyền, nhà Nguyễn phát tích nhờ mộ Triệu Tổ Nguyễn Kim được hổ
táng, thiên táng vào long khẩu (miệng rồng) núi Triệu Tường phía sau
làng Gia Miêu. Nhà Nguyễn định đô ở Huế và đồi Hà Khê, nơi có chùa Thiên
Mụ nổi tiếng được xác định là long mạch đế vương nhà Nguyễn.
Mộ Tổ biến mất trong miệng rồng
Kinh thành Huế |
Ông tổ nhà Nguyễn là Nguyễn Công Duẩn,
lập nhiều chiến tích trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn nên được phong tước,
con cháu được đời đời làm công thần nhà Lê. Ông có 7 người con trai, sau
phân thành 7 chi. Chi thứ tư sinh ra Nguyễn Kim, có ba người con.
Năm 1802, cháu đời thứ 11 của Nguyễn Kim
là Nguyễn Phúc Ánh thống nhất hai xứ Đàng trong và Đàng ngoài thành
Việt Nam như ngày nay. Sau khi lên ngôi, Nguyễn Ánh lấy niên hiệu là Gia
Long (Gia là Gia Định, Long là Thăng Long) thể hiện việc thống nhất
toàn vẹn đất nước.
Vua Gia Long từ hơn 200 năm trước đã
phong cho Gia Miêu là đất Quý Hương (tên Nôm là Bái Đền), huyện Tống Sơn
là Quý Huyện. Làng Gia Miêu xưa giờ chia thành 3 làng: Gia Miêu 1, Gia
Miêu 2, Gia Miêu 3. Lăng Triệu Tổ Nguyễn Kim là nơi hợp táng ông bà
Nguyễn Kimthuộc địa phận làng Gia Miêu 3. Năm 1808, Vua Gia Long đặt tên
cho khu mộ Nguyễn Kim là lăng Trường Nguyên (suối dài vĩnh cửu).
Theo truyền thuyết, ở vùng núi Triệu
Tường (trước có tên là Thiên Tôn) vốn có một long khẩu (miệng rồng). Nơi
đó được chọn để táng mộ Nguyễn Kim. Quan tài ông sau khi đưa vào miệng
rồng thì bỗng nhiên trời mưa to gió lớn, sấm sét dữ dội.
Thấy vậy, người đi đưa tang hoảng sợ,
chạy tán loạn. Đến khi gió bão tan, mưa tạnh, mọi người trở lại chỉ thấy
núi đá chi chít, cây cỏ um tùm, không thể nào nhận ra được nơi có long
khẩu chứa quan tài của Triệu Tổ. Về sau có ai hỏi lăng mộ Nguyễn Kim an
táng nơi đâu, chỉ được trả lời: “Ngài được hổ táng, thiên táng nên không
thể biết”.
Hà Khê, long mạch đế vương nhà Nguyễn
Các vua chúa nhà Nguyễn rất quan tâm đến
phong thủy khi chọn đất xây dựng thủ phủ, nơi định đô. Khi làm Trấn thủ
xứ Thuận Hóa kiêm trấn thủ Quảng Nam, chúa Nguyễn Hoàng đã đích thân đi
xem xét địa thế nơi đây, chuẩn bị cho mưu đồ mở mang cơ nghiệp, xây
dựng giang sơn nhà Nguyễn sau này.
Trong một lần rong ruổi vó ngựa dọc bờ
sông Hương ngược lên đầu nguồn, Nguyễn Hoàng đã tìm thấy long mạch đế
vương ở đồi Hà Khê, nổi danh về phong thủy với thế đất “rồng cuộn hổ
ngồi”. Dãy núi Kim Phụng chạy đến sơn phận của huyện Phong Điền thì bị
một ngọn đồi tách khỏi dãy Trường Sơn để chạy xuyên theo hướng Đông
Nam.
Trên đường đi, sơn mạch của dãy núi ấy
có đoạn nổi lên (thành rú Lại Bằng), có đoạn lại chìm xuống dưới các
cánh đồng, rồi nổi lên lần nữa thành gò, thành đồi - cứ thế kéo dài ra
trông như một con rồng đang uốn lượn, lên xuống qua nhiều núi, nhiều
rừng như Phụ Ô, Bồn Trì, Bồn Phổ cho đến xã Hà Khê (cách trung tâm TP.
Huế khoảng 5 – 6km về hướng Tây) thì đột khởi thành đồi Hà Khê mà người
ta thường cho là thế đất “đầu rồng nhìn ngoảnh lại”.
Sách “Đại Nam thực lục” viết: “Nơi đây
nổi lên một gò cao (đồi Hà Khê) có hình tựa như đầu một con rồng đang
ngoảnh lại. Phía trước đồi có con sông lớn uốn khúc bao quanh, phía sau
có hồ nước lớn, tạo thành phong cảnh tốt tươi. Người dân địa phương cho
biết gò này rất thiêng.
Một đêm, có một bà lão mặc áo đỏ, quần
lục xuất hiện trên đồi, nói với mọi người rằng: “Rồi đây sẽ có một vị
chân chúa đến xây chùa trên gò này để kết tụ linh khí, làm bền long
mạch, cho nước Nam hùng mạnh”. Nói xong liền biến mất. Người trong vùng
gọi bà là Thiên Mụ - tức bà già ở cõi trời xuống. Chúa Nguyễn Hoàng cho
nơi ấy có linh khí, mới dựng chùa, gọi là chùa Thiên Mụ”.
Từ xa nhìn lại, đồi Hà Khê tựa như hình
dáng một con rùa khổng lồ, cõng trên lưng ngôi chùa cổ kính đang cúi đầu
xuống để uống nước sông Hương.
Tương truyền khi chùa xây xong chưa bao
lâu thì có một con rùa khá lớn từ dưới sông Hương bò lên đồi Hà Khê để
vào khuôn viên chùa Thiên Mụ cư trú. Mỗi lần khát nước rùa lại bò về
hướng hồ nước sau chùa để uống, dần dà rùa đã làm đổ hàng rào phía sau
chùa. Con rùa đã bị sét đánh trong một cơn giông và hóa đá tại chỗ.
Cuộc di dân, giải phóng mặt bằng đầu tiên trong lịch sử
Vua Thiệu Trị trong cuốn “Ngự đề đồ họa
thi tập” đã nhắc đến vùng đất xưng vương của họ Nguyễn với hai địa danh
nổi tiếng sông Hương - Núi Ngự. Núi Ngự Bình là nơi chầu về của muôn núi
(quần phong triều củng), còn sông Hương là nơi trăm dòng đổ về (bách
xuyên hợp phái).
Trong cuốn “Văn hóa, tôn giáo, tín
ngưỡng Việt Nam dưới nhãn quan học giả L.Cadière”, Cadière viết: “Một
bên là ngọn đồi Thiên Mụ (Hà Khê) với tháp Phước Duyên bảy tầng ngất
ngưỡng như chọc thủng trời xanh để đưa xuống những nguồn phúc lộc, và
bên kia hữu ngạn là mô đất Long Thọ - trường sinh bất tử.
Mô đất này cũng có những đặc tính nhiệm
màu kỳ lạ mà sau này các thầy địa lý của triều đình Việt Nam cũng công
nhận. Vì nó án ngữ nguồn chảy của sông Hương, tưởng như nó đang gối đầu
lên dòng nước và nghiêng nghiêng đối diện với đồi Thiên Mụ tạo thành một
thế phong thủy gọi là cánh cửa thông thiên và trục xe địa phủ”.
Quốc sử quán triều Nguyễn chép: vào năm
1636 chúa Nguyễn Phúc Lan (tức chúa Thượng) thấy đất Kim Long là nơi “có
địa hình tốt đẹp” nên đã dời dinh đến đó và Kim Long trở thành thủ phủ
đầu tiên đóng bên bờ tả ngạn sông Hương. Trước đó, các chúa Nguyễn có 4
lần dời dựng, thay đổi vị trí thủ phủ. đó là Ái Tử (1558 - 1570), Trà
Bát (1570 - 1600), Dinh Cát (1600 - 1626), Phước Yên (1626 - 1636). Tuy
nhiên, Gia Long Nguyễn Ánh không chọn đất Kim Long để định đô mà quyết
định xây dựng một kinh đô mới.
Vua Gia Long |
Sau ngày lên ngôi, vua Gia Long đã đích
thân nghiên cứu tìm đất tốt, hướng tốt, thuận tiện để xây dựng kinh
thành Huế. Cố đô Huế được xây dựng trên đất của 8 ngôi làng với tổng
diện tích 520ha, chu vi 9.889m. Vì vậy dân cư 8 làng phải di dân để lấy
mặt bằng gồm: Phú Xuân, Vạn Xuân, Diễn Phái, An Vân, An Hòa, An Mỹ, Thế
Lại, An Bửu.
Trong đó đất làng Phú Xuân hầu hết đều
nằm gọn trong phạm vi kinh thành sẽ xây. Vua Gia Long nghĩ rằng việc đền
bù nhà cửa, ruộng vườn cần phải chu đáo, giữ yên lòng dân, do đó, để
giúp dân làng Phú Xuân tái định cư, ổn định cuộc sống, nhà vua đã cấp 30
mẫu ruộng, 3 thửa đất để dựng nhà và 1.000 quan tiền.
Bảy làng còn lại mỗi nhà “được cấp 3
lạng bạc và mỗi ngôi mộ dời đi được cấp 2 lạng bạc”. Đây là đợt giải tỏa
lớn, triệt để và khẩn trương, được tiến hành trong vòng 2 năm. Riêng
phần mộ vắng chủ quy tập về nghĩa trang Ba Đòn có đến 10.000 ngôi.
Học giả Cadière viết: “Khi bắt đầu xây
dựng Hoàng thành và Tử cấm thành, nhà vua cho dựng lên thành lũy, ban
đầu bằng đất rồi dần dần bằng gạch. Bằng những việc làm trên, có lẽ Gia
Long đã hết sức củng cố thêm những phòng thủ ma thuật thiên nhiên …
Các cung điện của kinh thành đều có ghi
rõ ràng các can chi, ngày khởi công xây dựng. Các bảng ghi ngày tháng
xây dựng đều có ghi ngày tốt giờ tốt. Hẳn rằng Gia Long khi cho xây dựng
đều cho tuân thủ các tập tục này: chọn ngày tốt thượng lương.
Trước hôm đó, họ cho chuẩn bị kỹ lưỡng:
ban đất, chuẩn bị nền móng, trụ cột, bào đẽo các cột kèo…. Cũng như ở
Tây phương, người ta tổ chức long trọng lễ đặt viên đá đầu tiên”./.
Theo Pháp luật Việt Nam
Rùng mình chuyện rắn thần báo oán ở Thái Nguyên
Sự tồn tại của rắn thần trong ngôi đền Long Khánh Từ thuộc xã
Ký Phú, Đại Từ, Thái Nguyên vơi những lời đồn ma quái, chết
chóc nếu có người dám cả gan mạo phạm đến thánh thần làm
người nghe rùng mình.
Bị trừng phạt vì coi thường thần linh
Cận cảnh trong ngôi đền thờ thần rắn |
Câu chuyện ông Lê Văn Thử – thủ từ
của ngôi đền Long Khánh Từ - và nhiều người dân trong vùng gặp
được hai thần rắn xuất hiện trong ngôi đền càng trở nên kỳ bí
hơn khi vào cuối những năm 1968, tại khu vực xã Ký Phú xuất
hiện một trận hạn hán kéo dài khiến cho ruộng đồng khô hạn,
nứt nẻ, không thể trồng cấy được bất cứ cây gì, người dân
trong vùng cũng không có nước mà uống.
Bí quá, người dân chẳng biết than
ai đành tụ họp nhau lại mua lễ đến đền Long Khánh Từ cầu các
thần linh ban mưa thuận gió hòa để người dân được trồng cấy.
Sau khi khấn vái thần rắn xong, người dân xã Ký Phú mới ra
trước cửa đền cùng té nước, tạo mưa giả, sau đó vào ngôi đền
nhỏ gần đó thắp hương cầu khấn.
Ngay đêm hôm đó, trời nổi gió và
mưa to kéo đến. Kể từ đó, người dân thường xuyên mang lễ vật
đến đền Long Khánh Từ thắp hương. Sau này, đền được mọi người
tu sửa khang trang. Cứ khi nào gặp hạn hán, người dân cả vùng
lại kéo nhau vào đây té nước cầu mưa.
Không dừng lại ở đó, từ sau khi ông
Thử diện kiến rắn thần lần đầu tiên vào năm 1968, đã có hàng
loạt những hiện tượng lạ xảy ra xung quanh ngôi đền khiến cho
mọi người khiếp sợ.
Theo lời ông Thử, vào năm 1970, con
ông Mã Điền ở xóm Chuối đi chăn trâu đến gần ngôi đền không có
cửa, thấy bên trong có hoa quả người dân đem đến thờ cúng nên
đã cả gan vào trộm. Đến tối khi về nhà, đứa bé này bỗng dưng
đau bụng dữ dội, tới đêm thì qua đời mà không ai rõ lý do.
Chỉ đến khi sự việc xảy ra gần
được 1 tháng, những đứa trẻ trong vùng mới kể cho mọi người
nghe về sự việc thì người nhà ông Mã Điền mới ngã ngửa, đem
hương hoa lên đền Long Khánh Từ để cầu khấn, mong thần linh phù
hộ cho linh hồn đứa con tội lỗi sớm được siêu thoát và thần
không giáng tội xuống cả gia đình.
Ông Thử cũng kể thêm câu chuyện về
người từng phạm đến đền thiêng và phải chịu tội: “Ở ngôi đền
cũ có cây đa rất to, đến khi phải ngả đi thì cây có tuổi thọ
là 52 năm, ngoài ra còn có hai cây lựu cao khoảng 18 mét. Năm đó
có một người đàn ông tên Thức làm bên thủy lợi, không hiểu vì
lý do gì đã chặt cho hai cây lựu đổ về phía đền. Lạ thay, khi
cây lựu ngã đổ thì một cơn gió thổi mạnh đẩy cây rạp ra phía
bờ suối".
"Người đàn ông đó sau khi về nhà
mấy ngày thì tự tay treo cổ hai người con trai, bản thân ông ta
ngay tối hôm đó cũng uống thốc sâu tự tử. Bao năm qua, người dân
nơi đây vẫn còn nhớ câu chuyện này”.
Đến khi đền Long Khánh Từ được
chuyển về khu đất ở nhà ông Lê Văn Thử, tất cả các bát hương
cũ ở đền có từ thế kỉ 17 cũng được chuyển về đây. Vào một
đêm năm 1998, người đàn ông trong làng do bí tiền quá đã đến
ngôi đền này lấy trộm bát hương chính đem bán. Ông Thử biết
việc đó nhưng vẫn giữ im lặng vì nghĩ rằng thần linh sẽ tìm ra
người này.
Quả nhiên, hai hôm sau khi đền Long
Khánh Từ mất bát hương thì một người đàn ông trong vùng bỗng
nhiên lăn đùng ra ốm. Gia đình mang đi khắp các bệnh viện lớn
nhỏ để chữa trị nhưng không tìm ra bệnh. Trong khi đó, người
đàn ông này lúc tỉnh lúc mê, nhiều khi còn nói năng nhảm nhí,
xưng mình là thánh thần giáng trần.
Lúc này, ông Thử mới đến gia đình
nói rõ sự tình và khuyên người đàn ông đó thú nhận rồi đem
trả bát hương. “Hôm sau, gia đình họ mang bát hương đến ngôi đền
đặt lại đúng vị trí cũ rồi mượn thầy về cúng suốt ba ngày
ba đêm ở ngôi đền thì anh ta mới hết bệnh”, ông Thử cho biết.
Vào năm 1997, khi chính quyền trong
vùng bắt đầu khởi công xây dựng hồ chứa nước Vai Miếu, đã có
một đám công nhân đến đây dựng lán ở suốt một thời gian dài
để xây dựng công trình. Theo những câu chuyện được truyền miệng, khi
đám công nhân tiến hành dỡ bở đền Long Khánh Từ thì đôi rắn
thần bất ngờ bò ra. Có một số công nhân thấy thế liền vác
cuốc xẻng đuổi bắt nhưng không được.
Đến tối, khi đám công nhân này đã
tắm rửa và bắt đầu nghỉ ngơi, kết thúc một ngày làm việc
vất vả thì bất ngờ ngôi lán bị sập khiến một công nhân tử
vong. Điều làm mọi người kinh hãi là nạn nhân chính là người
đầu tiên phát hiện ra đôi rắn và cố đuổi bắt nhưng không được.
Từ đó, đám công nhân sợ quá phải nghỉ làm mấy ngày liền. Có
người đã phát ốm, không dám làm ở công trình hồ Vai Miếu nữa
mà xin nghỉ việc.
Nỗi sợ hãi về việc bị rắn thần
trừng phạt vì phạm phải đất thiêng tiếp tục được nối dài khi
vào năm 2002, một thanh niên tên Thắng ở xóm Gió, xã Ký Phú đến
hồ Vai Miếu tắm lúc trưa nhưng rồi cũng không thấy về. Người
thân và bà con hàng xóm cũng đi tìm xác nạn nhân nhưng không
thấy. Sau 3 ngày, dân làng thấy xác nạn nhân nổi lên ở vị trí
chính giữa chân đập hồ.
Tiếp đến, năm 2005, một người đàn
bà tên Tình (xóm Dứa, xã Ký Phú) lội qua suối để sang bờ bên
kia đi bộ về nhà, đi đến giữa suối thì bất ngờ nước từ trong
nguồn ào ra cuốn trôi bà ra hồ. Bà con nhân dân trong xóm phải
thắp đóm đi tìm khắp các ghềnh đá ven hồ. Mọi nỗ lực tìm
kiếm tưởng chừng như vô vọng thì may sao một thanh niên trong xóm
lặn xuống, đã thấy xác bà mắc ở một gốc cây khô dưới lòng
hồ – nơi ấy chính là nền móng của ngôi đền Long Khánh Từ
trước đây.
Sự thật về thần rắn trong ngôi đền
Đền Long Khánh Từ, thuộc xã Ký Phú, huyện Đại Từ, Thái Nguyên |
Để biết thực hư về những lời đồn
thổi, chúng tôi đã đến gặp người đại diện chính quyền địa
phương. Trao đổi với phóng viên, ông Lỗ Văn Đường, Phó chủ tịch
UBND xã Ký Phú, cho biết: chuyện rắn xuất hiện trong đền là do
người trông coi đã chứng kiến. Chuyện những người dân trong vùng
truyền tai nhau về thần rắn ở Long Khánh Từ là có thật, còn
chuyện có phải rắn thần không thì không phải vì nhiều khi tình
cờ rắn bò vào đền.
Ông Đường lý giải thêm về những
lời đồn ma mị thần thánh bắt người mỗi năm ở hồ Vai Miếu:
“Chuyện thần thánh bắt người ở hồ Vai Miếu mỗi năm là hoàn
hoàn không có thật. Chuyện người thanh niên tên Thắng chết đuối
năm 2002 ở hồ là do anh này bị mắc bệnh tâm thần, đến hồ tắm
nhưng do không biết bơi nên bị ngã xuống hồ chết đuối. Trường
hợp của bà Tình ở xóm Dứa chết ở hồ là do khi đi hái chè
trong núi về, thời gian đó trời hay mưa, nước lũ từ đầu nguồn
đổ ra bất ngờ nên bà Tình bị nước cuốn đi”.
Giáo sư Mai Đình Yên – chuyên gia đầu
ngành về động vật học của Việt Nam - cho biết: ở nước ta có 3
loài rắn lục hình dáng bên ngoài có thể giống và có thể
nói nôm na là “rắn có mào” là: rắn lục mũi hếch, rắn lục
sừng và rắn lục voi. Ba loại rắn này phân bố ở Lào Cai (Sa
Pa), Lạng Sơn (Mẫu Sơn) và Tam Đảo (Vĩnh Phúc). Nhiều khả năng
loài rắn này có ở Hà Nội, Hưng Yên.
Giáo sư Yên khẳng định: “Những loài
rắn này cực độc, nọc nguy hiểm cho người. Loài rắn này có
giá trị nghiên cứu khoa học, số lượng còn rất ít đã được ghi
vào sách đỏ, mức độ đe dọa tuyệt chủng loại E. Bởi vậy rất
ít người nhìn thấy nó trong tự nhiên. Những loài rắn độc kể
trên có hình dạng kỳ quái, đầu rắn có vết sừng nhô cao, hay
cái mũi hếch cao lên như cái mào khiến người nhìn vào thấy
cảm giác lạnh hết cả người vì sợ".
"Ba loài kể trên đều cực độc, ánh
mắt nhìn tập trung của con rắn có khả năng thôi miên, nó làm
cho con mồi bị nhũn ra, không còn khả năng kháng cự. Ngay với
con người, khi gặp cái nhìn tập trung của loài rắn này cũng
có thể bị ngất. Khi gặp rắn lạ, hiếm mà sợ quá bị ngất xỉu
thì họ tưởng tượng ra sự thần thánh là điều dễ hiểu”.
Cũng theo giáo sư Mai Đình Yên, những
loài rắn cực độc này thích chui vào trong đền, miếu, hốc cây
cổ thụ, nơi yên tĩnh để trú ẩn. Đó là đặc tính sinh học của
loài rắn, loài ăn thịt nên chui vào đền, miếu vừa để ẩn mình
vừa để bắt chuột. Những loài rắn độc sống ở những nơi linh
thiêng không phải chuyện lạ.
Nhưng với những người đến cầu khấn
ở nơi linh thiêng đền, miếu thường đang có trắc ẩn về tâm linh,
họ muốn thỉnh cầu một điều gì đó ở thần linh. Tình cờ họ
nhìn thấy một trong số những loài rắn độc có hình thù kì
quái thì sẽ nghĩ là “ngài” hiển linh. Họ sẽ tưởng tượng ra
nhiều điều kỳ quái mang tính chất tâm linh.
Còn loài rắn mà theo của những
lời đồn đại về rắn thần là có lớp vảy ngũ sắc, có màu đỏ
như mào gà, đa phần là sự tưởng tượng… thần hồn nát thần
tính, sợ bóng sợ gió. Giáo Sư Yên nói: “Trên internet có lưu
truyền một bức ảnh con rắn màu xám vàng, có cái màu đỏ chót
trên đầu như mào gà nhiều khả năng là sản phẩn của công nghệ
chỉnh sửa ảnh. Nếu người dân đã từng chứng kiến một con rắn
có mào ở miền Bắc nước ta thì rất có thể đó là loài rắn
lục voi, có tên quốc tế là Viperdae”.
Còn tiến sĩ Trịnh Hòa Bình, Giám
đốc Trung tâm Điều tra dư luận xã hội, thuộc Viện Xã hội học,
cho biết: “Đó là chuyện đồn thổi, người ta cố tình dựng lên
để đẩy sự tập trung của mọi người vào sự tín ngưỡng nào
đấy, hoặc chỉ đơn giản tạo ra sự hấp dẫn, bịa đặt như thật
của một câu chuyện hoang đường".
"Gần đây nhất là những tin đồn
thổi xung quanh việc rắn thần có mào nhập vào một người ở xã
Uy Nỗ, Đông Anh, Hà Nội vào cuối năm 2010 đã làm xôn xao dư
luận nhưng thực chất đã được các nhà khoa học chứng minh đấy
chỉ là những tin đồn hoang tưởng và đánh vào tâm lý mê tín,
hiếu kỳ, muốn tìm hiểu những sự vật, hiện tượng lạ trong xã
hội mà có sức lan tỏa nhanh chóng. Đó là ý đồ của người tạo
dựng câu chuyện gắn với một loài vật không có thật là rắn
thần".
"Còn trong tín ngưỡng dân gian,
nhiều nơi có miếu thờ tử xà, mãng xà lại là chuyện khác.
Nhưng tục thờ thần thánh là tập tục đã có từ lâu đời trong
tâm linh người Việt, những câu chuyện về sư xuất hiện của loài
rắn luôn mang đậm màu sắc huyền bí. Dù có hay không những câu
chuyện kỳ bí ấy thì chúng ta vẫn nên lưu giữ nét văn hóa tâm
linh độc đáo đó để răn dạy con cháu về sau phải biết tôn kính
nhưng di tích lịch sử, đền thờ miếu mạo mà không dám xâm
phạm".
"Ngoài ra, những câu chuyện như thế
còn có mục đích hữu hiệu trong việc răn dạy con cháu, ví như
khi một đứa trẻ con không nghe lời, người nhà có thể đưa câu
chuyện về rắn thần xuất hiệnn ở những ngôi đền linh thiêng ra
để răn thì cháu bé sẽ biết nghe lời và đi vào khuôn mẫu của
chuẩn mực đạo đức xã hội hơn”.
Theo Khoe & Dep
Nhận xét
Đăng nhận xét