THỰC TẠI & HOANG ĐƯỜNG 46/b
THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG (IV)
ĐẠI CHÚNG
--------------------------
PHẦN V: THỐNG NHẤT
“Chính qua cuộc đấu tranh
nhằm thống nhất một cách hợp lý cái đa dạng mà đã đạt được những thành công lớn
nhất, dù rằng chính ý đồ đó có thể gây ra những nguy cơ lớn nhất để trở thành
con mồi của ảo vọng”.
A. Anhxtanh
“Người nhìn thấy cái đa dạng mà không thấy
cái đồng nhất thì cứ trôi lăn trong cõi chết”.
Upanishad
CHƯƠNG VI: THỰC CHỨNG
“Tinh thần thời đại cũng có
thể là một sự thực khách quan như bất cứ sự thực nào trong khoa học tự nhiên
(…).
Do đó, hai quá trình, quá
trình khoa học và quá trình nghệ thuật, không phải là rất khác nhau. Cả khoa
học và nghệ thuật trong suốt nhiều thế kỷ đã tạo nên ngôn ngữ con người mà nhờ
đó chúng ta có thể nói về những phần rất xa xôi của thực tại…”
W. Heisenberg
(tiếp theo)
Đó là chuyện về
sau này chứ lúc ấy, khi mua sách về, chúng ta “lôi” ông “Khổng Tử” ra đọc
trước. Có lẽ là do đã có kinh nghiệm về thành, bại trong những lần bước vào đời
và cũng do câu nói vui trong dân gian chúng ta còn nhớ: “Quân tử nhất ngôn là
quân tử dại, quân tử lải nhải là quân tử khôn” mà chúng ta đọc “Khổng Tử” thấy…
chán phèo. Tư tưởng của ông nghe “nổ” quá còn cuộc đời ông sao về cuối, lê thê,
ảm đạm quá. Ý đó làm chúng ta chạnh lòng. Rồi chúng ta quay sang đọc "Lão Tử”.
Khổng Tử thì chúng ta biết từ “tám hoánh” (vì chúng ta sinh ra và lớn lên vào
thời mà hình ảnh nhà nho vẫn được trọng vọng, tôn vinh), còn Lão Tử thì mãi đến sau này chúng ta mới “tiếp xúc” được về mặt tư tưởng (nhờ “Đổi Mới” và kinh tế
thị trường?). Ấy vậy mà khi đọc “Lão Tử”, lòng chúng ta bừng sáng. Thực ra ngay
lúc đó, chúng ta chưa hiểu được toàn bộ học thuyết triết học uyên thâm của Lão,
nghĩa là chưa hiểu được “Đạo tự nhiên”, mà chỉ thấm thía được cái “Đức huyền
diệu” của Lão mà thôi. Nhưng thế cũng quá đủ cho chúng giải tỏa được nỗi khắc
khoải: làm thế nào cùng một lúc vừa lo được ổn chuyện cơm, áo, gạo, tiền cho
gia đình, vừa có thể “vùi đầu” tìm kiếm câu trả lời thỏa đáng về bản chất không
gian và thời gian.
“Xuất thế vô
vi”, “vô vi vô bất vi”, “kẻ biết đủ là giàu” là những yếu tố tư tưởng giúp
chúng ta nhanh chóng (trong vòng 3 ngày) đề ra một hoạch định cho cuộc sống,
cho việc làm ăn tiếp theo của mình.
Có thể cho rằng
lần hoạch định ấy là bước chuẩn bị cho cuộc “vào đời lần thứ tư” của chúng ta
và cũng là lần cuối cùng. Nếu ba cuộc vào đời trước chủ trương “nhập thế hữu
vi”, “vỗ ngực xưng tên” ầm ĩ, thì cuộc vào đời cuối cùng này lại chủ trương
“xuất thế vô vi”, không “xuất đầu lộ diện” nữa và cũng “im hơi lặng tiếng”,
nhưng vẫn “lảng vảng” trong thời cuộc, vẫn “làm tất cả” (theo cách “hồn nhiên”,
uyển chuyển theo thời cuộc chứ không theo cách khiên cưỡng, “cứng còng” duy ý
chí nữa).
Muốn thực hiện
được như thế, điều tiên quyết là chúng ta phải tìm cho được hai người có sẵn
bản tính thật thà, chăm chỉ, tương đối sáng dạ để đào tạo, truyền thụ thành hai
trợ thủ trung thành, đắc lực, có khả năng “tác chiến độc lập”, quán xuyến công
việc như một thủ lĩnh thực thụ. Trong một xã hội kim tiền, “người khôn của khó”
thì rõ ràng, tìm và thu phục được hai con người như thế không phải là chuyện dễ
dàng, chỉ trong một sớm một chiều, mà phải cần thời gian, phải có kinh nghiệm
nhận biết nhất định, hơn nữa là phải chân thành cầu hiền tài thực sự và đặc
biệt là phải có duyên. Chúng ta thật may mắn (có duyên tiền định) được “trời
ban cho” hai người trợ thủ đẹp về nhân cách, tốt về năng lực, để cùng làm, cùng
ăn, biết cảm thông chia sẻ, giúp chúng ta ẩn dật ở nhà, tập trung tinh thần và
lực lượng đến mức cao nhất có thể vào việc thực hiện cuộc hành trình… đi tìm
cái gì đó.
Nếu không có sự
hoạch định mang đầy màu sắc mách bảo tâm linh huyễn hoặc và duyên tiền định đưa
đẩy một cách dị thường ấy thì lúc này; làm sao chúng ta “vi vu”, “lêu lổng” ở
đây được?
Phải chăng cuộc
“gặp gỡ” lần đầu tiên giữa chúng ta và Lão Tử, tưởng chừng như hoàn toàn tình
cờ, nhưng thực ra lại là do sự “xúi giục”, đặt bày tâm linh nào đó? Nếu đúng là
thế thì phải cho rằng cuộc vào đời lần cuối cùng là hoàn toàn mang tính định
mệnh. Nhưng làm sao có được cuộc vào đời lần cuối cùng nếu không có cuộc vào
đời lần thứ ba và trước đó nữa là cuộc vào đời lần thứ hai, rồi cuộc vào đời
đầu tiên? Theo nguyên lý nhân - quả, không có cuộc vào đời trước thì cũng không
thể có cuộc vào đời sau. Như vậy, có thể nói: nhìn ở góc độ này, đời người là
một quá trình tự thân; sống theo lý trí và ý chí của bản thân mình nhằm, trước
là chủ động thích ứng với môi trường để sống còn, sau là tích cực phấn đấu chế
ngự môi trường để sự sống còn đó vươn lên khá giả, giàu có, vinh quang; nhìn ở
góc độ khác, đời người là một quá trình được cấu thành của môi trường nên cũng
lệ thuộc vào môi trường, lý trí và ý chí của nó bị chi phối mạnh mẽ bởi những
tác động thường xuyên, liên tục, có thể nhận biết được và không thể nhận biết
được bởi thực trạng và những biến đổi tự nhiên - xã hội, những biến cố xảy ra
trong xã hội, bởi trình độ nhận thức chung của thời đại. Từ đó mà thấy, bất cứ
một người tỉnh táo và có lý trí nào cũng đều sống tự quyết hướng theo định mệnh
của mình. Thế thì đối với riêng chúng ta, lực lượng tâm linh nào đã khai mở trí
não, gợi ý và hối thúc, khiến chúng ta tình nguyện hiến dâng quãng đời còn lại
để kể lể “Câu chuyện hoang đường về Tự
Nhiên Tồn Tại” quá ư là tràng
giang đại hải này?
“Nhân chi sơ
vốn bản thiện” (người ta khi mới sinh ra đều mang tính thiện). Câu nói đó theo mọi người, đúng,
sai đến cỡ nào không biết, nhưng theo chúng ta, đúng nhất phải là "Nhân chi sơ vốn...không thiện không ác" và cũng tự nhận mình đã là con người như vậy.
Bà cố ngoại của chúng ta là người sùng tín đạo Phật, còn bà ngoại thì còn sùng
tín cả Cộng Sản. Hai “Đạo” ấy dù có những quan niệm triết học khác xa nhau về
tự nhiên - xã hội, nhưng có một điểm chung rất quí báu, hoàn toàn phù hợp với
Đức Huyền Diệu là kêu gọi mọi người từ ái, chính trực, giáo huấn con người
hướng thiện, yêu thương, đùm bọc lẫn nhau, nêu cao tinh thần vị tha, độ lượng.
Bà cố ngoại và bà ngoại đã thấm nhuần được cái điểm quí báu đó. Còn phía bên
nội chúng ta thì hình như có dây mơ rễ má với phong trào khởi nghĩa Tây Sơn về
mặt huyết thống, chí ít thì cũng là với nữ tướng Bùi Thị Xuân. Chắc là vậy nên
ở người cha của chúng ta lúc sinh thời, luôn thấy phảng phất khí phách của con
nhà tướng, sống buông thả, tự do, bất phục. Có lẽ sự pha trộn hai dòng máu ấy
đã làm cho chúng ta, ngay ở tuổi niên thiếu đã có những bản tính: thật thà cả
tin, dễ xúc động, rụt rè nhút nhát nhưng nhiều khi lại gàn bướng, hiếu thắng.
Sự thể hiện tổng hợp những bản tính ấy đã làm cho bạn bè cùng trang lứa đánh
giá chúng ta là loại người vừa ngố vừa khùng vừa… hay cãi.
Một con người
có một tuổi thơ yên ả, vô lo, được giáo dục theo lý tưởng "thân ái" và có những bản tính như thế mà bước vào xã hội,
tham gia vào cuộc đấu tranh sinh tồn đầy rẫy quyền mưu được giăng ra bởi ý chí và do đó cũng không thiếu cam go, gay gắt, tàn nhẫn, nhiều khi là quyết liệt,
khốc liệt đến lạnh tanh nhân ái, mà không vấp lên vấp xuống, không chuốc đổ vỡ,
bi kịch, không từng trải hoang mang, chán nản, khổ đau mới là chuyện lạ đời! Đến
tận bây giờ, hồi ức lại những năm tháng “dữ dội” của đời mình, dù đã trôi xa
trong dĩ vãng, chúng ta vẫn còn toát mồ hôi hột (cảm nhận thế thôi chứ với tình
trạng thể xác hiện nay, làm sao mà… “toát” được?!), mà căm ghét kẻ rắp tâm đoạt
lợi bằng cách cố tình hãm hại chúng ta một cách trơ tráo, vô liêm sỉ nhất. Tuy
nhiên, nói thật lòng, chúng ta không hận thù họ và dù có thể họ mang tội, thậm
chí là phải chịu bị phạt tội trước trời đất thì cũng không bao giờ đổ lỗi cho
họ về những thiệt hại mà họ đã gây ra cho chúng ta. Vì xét cho cùng, định mệnh
của cuộc đời chúng ta là phải trải qua những biến cố khốn khổ đó, không thể
khác được! Vả lại, trong “Kinh dịch” có viết: “Trong đạo xử thế, biết trách
mình là khôn, chỉ trách người là vụng”, và trong sách “Nhi vị” có viết: “Người
có nhân chẳng bao giờ lấy thịnh suy mà thay đổi tiết tháo, người có nghĩa chẳng
bao giờ lấy mất còn mà đổi lòng”. Nhưng có lẽ hay nhất là câu Cao Bá Quát để
lại cho đời: “Nhân nghĩa là cái đạo rộng lớn vô biên. Làm người có nghĩa có
nhân trước hết là giữa lòng thủy chung với thiên hạ”.
Nghĩ nghĩ ngợi
ngợi đến đây thì hồn vía chúng ta bỗng thấy hiện lên rõ mồn một bài thơ mà mình
đã làm vào những ngày nặng nề nhất của cuộc đời, khi chúng ta phải đi đến quyết
định đầu hàng trong cuộc quyết đấu giành giàu sang, phú quí, nhằm bảo toàn tính
mạng bản thân và gia đình:
TẶNG
MÌNH
“Thế
mà nay chịu khốn khổ nơi đây, đó là trời hại ta, chứ không phải tội ta đánh không
giỏi.”
Hạng Vũ
Đã từng một
thuở phong trần
Bôn ba vó ngựa,
dấn thân anh hùng
Mười năm thi
triển võ công
Lẽ ra tài ấy đã
lừng lẫy danh
Nhát tay chém
lũ tiểu nhân
Mắc vào gian kế
hỏi còn trách ai?
Sắp lên đến
đoạn đầu đài
Mà còn thương
hại thằng người lận dao
Thì đừng dấy
nghiệp binh đao
Thiên thời cũng
chịu, mưu sâu bằng thừa!
Thôi đi!...Xuống ngựa là vừa
Bẻ cung, chôn kiếm, quẳng cờ, bãi binh
Vô vi, xuất thế, an sinh
Rửa lòng thèm khát lợi vinh, thịnh cường.
Thôi đi!...Xuống ngựa là vừa
Bẻ cung, chôn kiếm, quẳng cờ, bãi binh
Vô vi, xuất thế, an sinh
Rửa lòng thèm khát lợi vinh, thịnh cường.
Tấn tuồng mưu
bá đồ vương
Chê thương Hạng
Vũ, khen trừng Lưu Bang
Diễn trên sân
khấu nhân gian
Nhục vinh phút
chốc, vĩnh hằng như nhau.
***
Vùng không gian
quanh chúng ta đã trở nên u ám, xám xịt hơn. Chúng ta vẫn đang vun vút bay (mà
thực ra là lan truyền!) hướng tới lỗ đen của Ngân Hà. Ô! Hình như có tiếng khóc
sướt mướt ở gần đâu đây thì phải. Lạ nhỉ?
- Ai đấy? -
Chúng ta hỏi vang vọng trong tâm tưởng.
Tiếng khóc nín
bặt, nhưng chỉ trong khoảng khắc, rồi lại bật ra, không lê thê sướt mướt nữa mà
ngắt quãng sụt sịt:
- Tôi… đây… chứ
ai!...
- Phát ra tiếng
Việt sõi như vậy thì ông là người Việt. Điều đó rõ rồi. Nhưng cụ thể là ai mới
được chứ? Kể ra thì giọng nghe cũng quen quen đấy!
- Tôi là… Hiện
Thực đây, là… nửa cái tôi của Thầy Cãi đây (hay anh muốn là của Ba Đá cũng
được!). Trong khi anh… được… tha hồ phởn chí… “tung tăng” khắp nơi, thì tôi…
lại bị níu chặt… vào xó nhà, cắm đầu cắm cổ tốc ký… hết ngày này qua ngày khác…
mọi phát biểu, nghĩ ngợi tùy hứng chả có đầu có đuôi, lại còn… “đầu cua tai
nheo” quá chừng chừng để… cố cầu may… cho hai ta có được… chút danh phận, ấy
vậy mà anh nỡ lòng nào lại quên béng tôi thế, hả… hả… hả?
- Ối, giời ạ!
Thì ra là anh hả Hiện Thực? Có lẽ vùng không gian mà tôi đang hiện diện ở trong
nó đã làm méo thông tin thần giao cách cảm từ anh truyền đến nên tôi không nhận
ra, chứ nào tôi làm sao mà quên nổi anh được? Nhưng tại sao mà anh lại khóc mùi
mẫn đến thế?
Có lẽ mắt Hiện
Thực đã ráo hoảnh nên thông tin nghe mạch lạc hơn:
Tôi thì cố chôn
vùi những sầu thảm trong quá khứ của cuộc đời chúng ta đi, còn anh thì vừa cứ
nghĩ ngợi, gợi nhớ về chúng nhiều quá, làm tôi tức điên lên và… khóc…
Hoang Tưởng
(cũng là chúng ta!) nghe vậy liền đáp:
- Đúng là tôi
vô tình thật! Xin lỗi anh nhé, Hiện Thực. Thật là “nhàn cư vi bất thiện”, ông
bà nói chả sai tí nào!... Thôi, để giết thời gian, không cho sự sốt ruột chờ
đợi ngày tái ngộ dày vò, tôi sẽ kể anh nghe vài chuyện vui để giải khuây, được
chứ?
- Ừ, kể đi! Xem
tôi có cười được không nào?
- Câu chuyện
đầu tiên:
Có lần Khổng Tử
đi đâu đó, gặp hai đứa trẻ cãi nhau. Một đứa nói: “Mặt Trời lúc mới mọc gần ta
hơn và buổi trưa thì ở xa ta hơn”. Đứa kia cãi: “Mặt Trời khi mới mọc xa ta hơn
là vào giữa trưa”. Đứa trước nói: “Mặt Trời lúc mới mọc to như một cái mâm,
trong khi ở giữa trưa nó chỉ to bằng cái đĩa là cùng. Khi thấy Mặt Trời to hơn
thì nó phải ở gần hơn và ngược lại, khi thấy Mặt Trời nhỏ hơn thì nó phải ở xa
hơn”. Đứa kia lại cãi: “Mặt Trời mới mọc thì mát, vào giữa trưa thì nóng. Nóng
hơn thì phải ở gần hơn, vậy Mặt Trời lúc giữa trưa phải ở gần chúng ta hơn lúc
nó mới mọc”. Khổng Tử đứng nghe hai đứa trẻ tranh luận, không biết giải thích
thế nào cho phải. Hai đứa trẻ thấy vậy, cười nhạo: “Thế mà thiên hạ cho ông là
người uyên bác, học rộng hiểu nhiều!”.
- Chuyện hay nhưng cũ rích. Tôi nghe kể đến nhàm tai rồi!
- Vậy thì
chuyện thứ hai:
Có một anh
phóng viên về một vùng quê, thấy một ông già ngồi trước sân uống rượu. Dưới
chân ông già là năm, bảy chai rượu cỡ một lít, trống trơn, nằm ngổn ngang. Anh
phóng viên nọ ngẫm nghĩ, thấy lạ, liền ghé vào hỏi cho ra lẽ: “Thưa ông! Làm ơn
cho con hỏi, ông già thế mà còn uống một lúc hết những ngần ấy rượu ạ?”. Ông
già trả lời tỉnh queo: “Có gì đâu? Chuyện
thường ấy mà! Ngày nào mà tôi chẳng uống hết ngần ấy rượu.”. Anh phóng viên
bụng bảo dạ: “Ông già ước chừng cũng đến 80 tuổi rồi chứ chả chơi. Vậy mà còn
uống rượu khỏe thế chắc phải có bí quyết sống gì đây rất đáng quí”, bèn hỏi tiếp:
“Thế thưa ông, ông sống như thế nào mà lớn tuổi rồi vẫn quá khỏe như vậy ạ!?”.
Ông già cười móm mém: “Sáng uống rượu, trưa uống rượu, chiều uống rượu, tối
uống rượu, ngày nào cũng uống rượu, uống riết thành quen mà được như thế, vậy
thôi!”. Anh phóng viên nghe mà thấy lùng bùng lỗ tai, chưa kịp nghĩ ngợi thêm
được gì thì ngay lúc đó, từ trong nhà bước ra một ông lão trông còn già hơn ông
kia, một tay chống gậy, tay kia xách một can rượu loại 10 lít còn đầy. Anh
phóng viên chưa kịp định thần, lại càng tá hỏa tam tinh hơn nữa: “Ối, cha mẹ
ơi! Ở vùng quê này, người ta không những giữ được sức khỏe rất tốt lúc về già
mà còn rất thọ nữa. Ông lão này chắc cũng phải ngót nghét 100 tuổi rồi chứ
không ít!”. Thế rồi không kìm nổi sự tò mò dâng lên đột ngột, anh phóng viên
vội quay lại hỏi ông già đang ngồi uống rượu: “Dạ, xin ông cho con mạo muội
hỏi, năm nay ông đã bao nhiêu tuổi và cụ kia bao nhiêu rồi ạ?”. Ông già nhướn
cặp mắt đỏ ngầu lên nhìn, nói: “Thằng kia mà “cụ” cái con khỉ! Nó là con tôi
đấy! Tôi năm nay đã 50 tuổi rồi, còn nó mới 30 tuổi thôi. Nó còn uống nhiều hơn
tôi nữa…”. Nghe đến đó, anh phóng viên vỡ lẽ, bật cười sặc sụa một hồi đến ngạt
thở, lăn đùng ra, ngất lịm.
- Chuyện này cũng “xưa” rồi, nhưng có cải biên nên nghe
cũng tạm!
- Đây là chuyện
thứ ba:
Trong nhà
thương điên ở Xêviia, có một anh chàng bị gia đình gửi vào đó vì bệnh mất trí.
Anh này học luật pháp tôn giáo ở Oxuna, song dù có tốt nghiệp ở trường đại học
Xalamanca, thì theo dư luận của số đông, anh vẫn là kẻ bị điên. Sau mấy năm
tĩnh dưỡng, chàng cử đó nghĩ là mình đã trở lại sáng suốt, minh mẫn, và với ý
nghĩ như vậy, anh viết thư cho Đức Tổng giám mục, khẩn khoản xin cứu anh thoát
khỏi cảnh sống khổ sở hiện tại, vì nhờ lòng nhân từ của Thượng Đế, trí thông
minh của anh đã hồi phục, chẳng qua gia đình muốn chiếm đoạt tài sản của anh nên vẫn
cho nhốt anh vào nhà thương điên và mong anh điên cho tới chết, mặc dù sự thật
khác hẳn. Tin vào nội dung bức thư với lời lẽ ý tứ khôn ngoan, hợp tình hợp lý,
Đức Tổng giám mục phái một giáo sĩ đến hỏi ông giám đốc nhà thương xem những
điều chàng cử viết cho ông có thực hay không, sau đó sẽ nói chuyện với chàng
ta, nếu thấy chàng ta tỏ ra tỉnh táo thật sự thì cho ra khỏi nơi đó và trả lại
tự do. Giáo sĩ được ông giám đốc nhà thương cho biết là chàng cử vẫn còn điên,
thường có những hành vi rất tức cười nhưng nhiều khi nói năng lại cứ như người
tỉnh táo, lúc tỉnh khôn bao nhiêu thì lúc điên lú lẫn bấy nhiêu, cứ nói chuyện
trực tiếp với anh ta khắc rõ. Giáo sĩ muốn xác nhận thực tế xem sao, bèn gặp
chàng cử trò chuyện hơn một tiếng đồng hồ. Trong suốt thời gian đó, chàng cử
không hề thốt ra một lời nào lệch lạc quàng xiên mà trái lại, nói đâu ra đó
khiến vị giáo sĩ không thể không nghĩ rằng anh ta có trí khôn như mọi người.
Trong cuộc nói chuyện, chàng cử thổ lộ rằng ông giám đốc nhà thương nhận quà
cáp của gia đình anh nên đã chơi xấu, bảo anh ta lúc điên lúc tỉnh. Chàng cử
còn nói với giáo sĩ: nguyên nhân tai hại gây ra sự bất hạnh này là số tài sản
kếch xù của anh và vì gia đình anh muốn hưởng trọn số tài sản đó nên đã làm cho
mọi người tưởng lầm và không tin Thượng Đế đã rủ lòng thương tới, khiến anh từ
một con vật trở lại thành người. Tóm lại, theo lời chàng cử thì ông giám đốc là
một kẻ khả nghi, gia đình anh ta là những người tham lợi độc ác, còn anh ta thì
hoàn toàn có lý. Sau cuộc trò chuyện, giáo sĩ quyết định dẫn anh chàng cử đến
gặp trực tiếp Đức Tổng giám mục để ngài chứng kiến tận mắt, sờ tận tay sự thật
của việc này. Với ý nghĩ đó, ông đề nghị giám đốc nhà thương cho trả lại quần
áo mà chàng cử đã mặc khi vào nhà thương. Ông giám đốc nhắc vị giáo sĩ cao
chừng việc mình làm vì chàng cử thật ra vẫn còn điên dại, không có điều gì phải
nghi ngờ cả. Mặc cho ông giám đốc khuyên can, vị giáo sĩ vẫn giữ nguyên quyết
định đưa chàng cử đi. Ông giám đốc đành phải tuân theo vì biết đó là lệnh của
Đức Tổng giám mục. Thế là chàng cử được nhận lại bộ quần áo còn tốt lành của
mình. Sau khi trút bỏ bộ đồ nhà thương và ăn mặc lại tử tế, chàng cử xin phép
vị giáo sĩ cho đi chào tạm biệt các bạn điên của chàng. Giáo sĩ ngỏ ý đi cùng
để tiện thể thăm những người điên trong nhà thương. Thế là hai người và một số
người có mặt tại đó cùng đi. Tới một chuồng nhốt một người mắc bệnh điên khùng
nhưng lúc đó đang tương đối tỉnh, không quậy phá, chàng cử nói:
“Người anh em
của tôi ơi, anh có muốn dặn dò gì không? Tôi trở về nhà đây. Thượng Đế nhân từ
bác ái đã trả lại trí khôn cho tôi mặc dù tôi không xứng đáng được hưởng. Tôi
đã khỏi bệnh và tỉnh táo. Đối với quyền lực của Chúa, không có việc gì không
làm được. Tôi đã đặt hết hy vọng và tin tưởng vào Người. Một khi Người đã đưa
tôi trở lại trạng thái ban đầu, Người cũng sẽ làm như vậy đối với anh nên anh
cũng đặt niềm tin vào Người. Tôi sẽ lo gửi quà bánh vào, anh cứ ăn tự nhiên. Vì
đã qua cảnh đó, tôi nghĩ rằng, tất cả các bệnh điên rồ của chúng ta đều do bụng
rỗng và óc đầy không khí. Anh bạn hãy can đảm lên! Mềm yếu trước đau khổ là hủy
hoại sức khỏe và đi mau tới cõi chết!”.
Có một bệnh
nhân ở chuồng đối diện, nghe được hết những lời chàng cử nói. Đang nằm tô hô
trên một chiếc mền cũ, hắn vùng dậy, lớn tiếng hỏi ai là người đã khỏi bệnh
điên và được ra khỏi nhà thương. Chàng cử đáp:
“Người anh em,
tôi là người được ra khỏi nhà thương. Tôi không cần phải ở lại đây nữa và tôi
hết lòng cảm tạ Thượng Đế đã phù hộ tôi!”.
“Ông cử ơi, hãy
liệu mồm liệu miệng! - Bệnh nhân điên nói - Tôi e quỉ nó lừa ông đấy! Xếp bộ
giò lại và ở yên trong chuồng cho khỏi mất công đi ra rồi lại đi vào!”.
“Tôi biết chứ!
- Chàng cử cãi - Tôi đã khỏi bệnh và không việc gì phải nằm trong này nữa.”.
“Ông mà khỏi
bệnh ư? - Bệnh nhân điên lại nói - Thôi, mời ông đi đi! Trước thần Hupitet mà
tôi thay quyền trên Trái Đất này, tôi xin thề: chỉ riêng việc tôi cho ông ra
khỏi nhà thương ngày hôm nay và coi ông là người có trí khôn thôi, thành Xêviia
sẽ bị tôi trừng trị, và sự trừng trị đó khủng khiếp đến nỗi người đời sẽ nhớ
mãi trong các thế kỷ sau này, amen. Anh chàng cử quèn ngu xuẩn kia không biết
rằng ta có thể làm được việc đó ư? Như ta đã nói, ta là Hupitet Sấm vang. Ta có
trong tay những tia chớp rực lửa dùng để uy hiếp và phá hủy Trái Đất. Nhưng ta
chỉ trừng phạt cái đô thị dốt nát này bằng hình thức sau đây: trong suốt 3 năm,
kể từ lúc ta ra tuyên bố trừng phạt này, ta không làm mưa xuống Xêviia và các
vùng lân cận. Mi thì tự do, lành mạnh, tỉnh táo, còn ta thì điên rồ, bệnh hoạn,
bị trói buộc ư? Nếu thế, thà ta tự thắt cổ cho chết còn hơn sống mà làm mưa!”.
Mọi người đứng
xung quanh đều chăm chú nghe những lời quát tháo của bệnh nhân điên. Chàng cử
nghe xong quay lại phía giáo sĩ, nắm lấy tay ông, nói:
“Xin ngài đừng
phiền lòng và đừng quan tâm tới những lời tên điên này vừa nói. Nếu hắn là
Hupitet và không muốn làm mưa thì tôi, Nếptunô - cha và thần nước - sẽ làm ra
mưa khi tôi muốn và khi nào cần thiết.”.
Giáo sĩ nhẹ
nhàng đáp lại:
“Thưa ngài
Nếptunô, ta không nên chọc tức ngài Hupitet! Xin ngài hãy ở lại nhà thương, một
ngày khác thuận tiện và rỗi rãi hơn, chúng tôi sẽ trở lại tìm ngài!”.
Câu chuyện đến
đây là hết.
- Chuyện này sao y bản chính từ tác phẩm bất hủ có tựa đề
“Đônkiôtê, nhà quí tộc tài ba xứ Mantra” của văn hào Xecvantex chứ gì? Thôi
Hoang Tưởng ơi, nếu anh không có chuyện nào mới và hay ho (mà chắc làm gì có vì
anh bỏ Trái Đất chu du trong Vũ Trụ lâu quá rồi còn gì) thì thôi, đừng kể nữa!
Hãy…
- Không, tôi sẽ
kể cho anh chuyện này, chắc chắn là mới toanh, anh chưa từng nghe bao giờ. Đây
là câu chuyện tôi coi như món quà nhỏ tặng anh ngày chúng ta đoàn tụ. Nghe nhé:
Xưa kia (đây là
cái “xưa” xưa nhất của mọi cái xưa; con số 13,8 tỷ năm được các nhà vật lý đoán
định cho tuổi Vũ Trụ, so với cái “xưa” này chẳng nhằm nhò gì (!), nó vượt ra
khỏi thời gian!), có một thân thể vô cùng phi thường, vô cùng huyền ảo mà loài
người sau này không sao hình dung được, đặt bừa cho cái tên là Vĩnh Hằng, và
một tinh thần cực kỳ siêu phàm, cực kỳ trác tuyệt, mà loài người sau này cũng
không sao hình dung được, cũng đặt bừa cho một cái tên là Tạo Hóa. Không biết
bằng cách nào mà Tạo Hóa “gian díu” được với Vĩnh Hằng, sinh ra một đứa con vĩ
đại hơn mọi vĩ đại, sau này được loài người đặt tên là Không Gian. Lúc đầu
Không Gian hoàn toàn không nhúc nhích, không có bất cứ động đậy nào, chỉ là một
khối vĩ đại của mọi vĩ đại nhưng bại liệt, như bị hôn mê sâu vậy. Thương xót
con quá, Vĩnh Hằng nói với Tạo Hóa:
“Ông ạ, tội
nghiệp Không Gian, con của chúng ta quá! Nó sống
mà như chết, cứ lù lù một đống ù lì, bất động như thế, khổ thân cho nó lắm! Ông
là tinh thần trác tuyệt của mọi trác tuyệt, xem có cách nào làm cho nó sống
động, tưng bừng lên, vui thú như con người ta được không?”.
“Bà nói cái gì
thế? Con người ta nào ở đây? Bà đừng có mà dựng chuyện hoang đường! Ở đây tuyệt
không có cõi nào, cái gì cả ngoài tôi, bà và Không Gian chết tiệt kia thôi! Bà
hãy nhớ cho điều đó!”.
“Vâng, vâng!...
Tôi có hơi quàng xiên một chút, xin lỗi ông nhé! Nhưng dù sao đi nữa…”.
Vĩnh Hằng chưa
kịp nói hết câu, Tạo Hóa đã ngắt lời:
“Con mình rứt
ruột đẻ, là tinh huyết của mình, sao lại không thương? Thấy Không Gian li bì
như thế, tôi cũng buồn lòng lắm chứ. Làm nó tỉnh dậy thì dễ rồi, nhưng phải
hượm hượm đã, kẻo… hối không kịp!”.
“Có chuyện gì
mà hối không kịp hả ông?”.
“Bà biết đấy,
con trẻ mà biết tung tăng, bay nhảy rồi nếu không có cách kìm chế chúng sẽ gây
tai họa khó lường được. Tôi phải tìm biện pháp chế ngự hữu hiệu đã, rồi sẽ làm
cho Không Gian hoạt náo. Nếu không thế, cứ tùy tiện cho Không Gian hoạt náo
thoải mái, còn bà thì có tính nuông chiều quá đáng, chẳng may nó thành đứa
nghịch tử, đập phá lung tung, trúng vào tử huyệt là tức khắc nó sẽ bị tiêu
vong. Nó đang “có” mà thành “không” thì tôi đây cũng không còn. Lúc đó may ra
chỉ còn lại một mình bà là “có” thôi.”
“Ông nói sao ấy
chứ, làm gì xảy ra như thế được? - Vĩnh Hằng trố mắt (chắc là cái gì đó chứ
không phải như mắt người!) ngạc nhiên – Giả sử như có chuyện ông và Không Gian biến
đi thì biến đi đâu mới được chứ?”.
“Ôi dào cái mụ
này, sao mà khờ khạo thế?! Không phải “biến đi” mà là “biến hóa”. Không Gian mà
tiêu vong thì lập tức tôi cũng biến hóa thành kẻ thù một mất một còn của chính
tôi, nghĩa là lập tức xuất hiện một kẻ và mụ phải ôm ấp kẻ cực kỳ quái gở,
không những đen ngòm đến kinh khiếp mà còn vô hồn đến bạt vía ấy. Lúc đó mụ có
chịu nổi không?... Sao lại cười hả mụ kia? Ái chà, chắc lại khoái cái cảnh được
âu yếm cái kẻ rỗng tuếch và hư hỏng đó chứ gì? Thật là đồ…”
Đang thấy vui
vì thấy rằng Tạo Hóa thương mình và Không Gian thật lòng, nghe đến đó, Vĩnh
Hằng vụt nổi tam bành:
“Ông không được
miệt thị tôi như thế! Cấm ông đấy! Tôi đường đường như thế này mà thèm chung
chạ với kẻ mạt hạng, vô hồn vô vía, chẳng có bất cứ một cái gì (kẻ mà sau này
chúng ta gọi là Hư Vô) ấy à? Đồ ăn nói hồ đồ! Gớm, mang tiếng là tinh thần tối
thượng, trác tuyệt của mọi trác tuyệt mà lại nói năng thô bỉ quá chừng! Ôi, sao
mà đau lòng thế!...”
Thường vẫn vậy,
khi Vĩnh Hằng “mặt đỏ như vang” thì bao giờ Tạo Hóa cũng “mặt vàng như nghệ”:
“Ấy chết, tôi
muôn lần xin bà tha lỗi! Tôi thật vô ý vô tứ quá, định đùa cho bà vui một tí,
không ngờ lại làm bà tổn thương. Đừng giận nữa kẻo tàn phai nhan sắc nghe bà!
Thôi, bà hỏi con xem nó thích hoạt động kiểu gì để tôi còn lo liệu”
Vĩnh Hằng luôn
thương yêu đến cùng cực đứa con độc nhất vô nhị của mình, nghe vậy, tươi tỉnh
trở lại liền bèn thủ thỉ hỏi Không Gian, khối vĩ đại của mọi vĩ đại đang im
thít trong lòng mình.
“Sao con, hỡi Không
Gian bé bỏng của mẹ? Cứ mạnh dạn nói ra đi để bố trù tính!”
Khối vĩ đại của
mọi vĩ đại có vẻ hơi rùng mình và từ trong sâu thẳm trầm trầm vang vọng ra:
“Aum! Bay nhảy,
múa may quay cuồng trong lòng mẹ (chứ còn ở đâu được nữa?) chẳng thích thú mà
cũng chẳng hay ho gì, chỉ gây ra sự mệt mỏi vô ích và chán chường vì đơn điệu.
Nhưng ù lỳ, bất động, mê man như lúc này thì… thà chết còn sướng hơn. Thưa bố
mẹ, tồn tại mà như không tồn tại thì tồn tại làm gì ạ?... Thế cho nên con muốn
là “Có” tất cả, vừa tĩnh lặng dịu hiền như mẹ, vừa sôi động dữ dội như bố, vừa
tĩnh vừa động, trong tĩnh có động và trong động có tĩnh, vừa là thế này vừa là
thế kia, vừa là cả hai mà cũng không phải cả hai!...”
“Ái chà chà!
Cái gì cũng muốn hết cả thì còn gì cho tao và mẹ mày hả Không Gian? ! Tạo Hóa
gầm gừ rồi nổi xung thiên - Đồ oắt con to xác kia, sao lại tham lam vô độ lượng
như thế? Thật quá thể!... Mà sao mụ lại cho ra đời cái thứ quỉ quái này được hả
Vĩnh Hằng?”.\
Vĩnh Hằng nghe
vậy, bật khóc sụt sùi, nước mắt dàn giụa (hồi đó làm gì có nước mắt nhỉ? Nhưng
đàn bà khóc lóc mà không chảy nước mắt thì còn khó tin hơn!), thương Không Gian
bao nhiêu thì cũng giận Tạo Hóa bấy nhiêu. Mãi sau mới thốt được một cách ấm
ức:
“Chơi cho đã
rồi mặc kệ ra sao thì ra, lại còn đổ thừa cho tôi nữa! Nếu ông không ve vãn,
tằng tịu tôi thì làm sao xuất hiện khối vĩ đại của mọi vĩ đại này được. Nếu Không
Gian quả thực có tính tham lam như ông nói thì hoàn toàn là tại ông chứ, sao
lại tại tôi, vì ông là… Tạo Hóa mà?… Nhưng thực ra, con chúng ta có tham lam gì
đâu. Nó muốn được như thế, thiết nghĩ, cũng chẳng có gì là quá đáng. Muốn có tất
cả thì đồng thời cũng muốn có “Không Gì Cả”, nghĩa là vừa muốn có vừa muốn
không có, muốn cả hai thì cũng tương đương với không muốn cả hai. Không Gian
chỉ ước muốn đơn giản có vậy thôi mà ông quát mắng nó, chì chiết tôi thậm tệ.
Ông ác độc quá ông ơi!...”
Thảng thốt đến
đó, Vĩnh Hằng lại tiếp tục khóc sụt sùi.
Trước cảnh sầu
muộn ấy, Tạo Hóa cảm thấy hối hận, thương Vĩnh Hằng vô cùng, nên lên tiếng dỗ
dành:
“Tôi biết lỗi
mình rồi! Thôi bà đừng khóc nữa kẻo bị… bệnh thì khốn khổ! Được rồi, tôi sẽ
chiều chuộng bà, cho Không Gian toại nguyện mơ ước của nó… Có điều tôi báo cho
bà biết trước: khi Không Gian được toại nguyên thì cũng là lúc tôi và bà phải
hòa nhập luôn vào nó, nghĩa là lúc đó, Tạo Hóa, Vĩnh Hằng và Không Gian sẽ hợp
thành một thực thế duy nhất…”
“Cũng được chứ
sao đâu! Có khi như thế hóa ra lại hay: tạo nên khối gắn kết keo sơn, bền vững,
chan chứa yêu thương và đầy ắp cảnh quây quần, đàn tụ… Tất cả vì đứa con duy
nhất của chúng ta, làm đi ông nhé! - Vĩnh Hằng tươi tỉnh, rạng rỡ hẳn lên”.
Thế là Tạo Hóa
hô:
“Hỡi Không Gian,
hãy là sự vĩ đại của mọi vĩ đại đồng thời là sự vi tiểu của mọi vi tiểu, hãy là
tất cả đồng thời không là gì cả, hãy thường biến trong bất biến và bất biến
trong thường biến!”
Tiếng hô vừa
dứt thì lập tức cả Không Gian, Vĩnh Hằng lẫn Tạo Hóa đều… hóa, hòa quyện vào
nhau thành Tự Nhiên Tồn Tại, với thể xác là Vũ Trụ, với
thể chất nền tảng là Không Gian (gồm vô vàn hạt KG tích tụ nên), chuyển hóa
không ngừng (biểu hiện của Tạo Hóa!) qua bất tận những “tức khắc” thời gian
(biểu hiện của Vĩnh Hằng!).
Vì Tự Nhiên Tồn
Tại có tất cả nên nó phải có thời khắc đầu tiên và thời khắc cuối cùng, và vì
không có gì cả nên cũng không có hai thời khắc ấy, nghĩa là lúc nào cũng có thể
là thời khắc đầu tiên đồng thời là thời khắc cuối cùng. Chính vì vậy, quang
cảnh Vũ Trụ ngày nay mà chúng ta thấy cũng tương tự như quang cảnh lúc nó mới
xuất hiện: là một đại dương Không Gian mênh mông “sinh sinh diệt diệt” vô vàn
những sự vật - hiện tượng và vạn vật - hiện tượng trình hiện ra trước quan sát
một cách vô cùng sinh động, “biến biến hóa hóa” không ngừng thành muôn hình vạn
trạng với muôn vùng quần tụ hợp thành một “xã hội” vô cùng khổng lồ các thiên
thể tích cực vận động, tương tác, cạnh tranh lẫn nhau để sống còn.
Trị vì và duy
trì cái “xã hội” khổng lồ và sinh động gồm đông đảo vô kể các thành viên ấy là
ông tổ Không Gian và vợ ông ta là bà chúa Thời Gian. Từ mối tình thủy chung
vĩnh cử của ông tổ Không Gian và bà chúa Thời Gian mà nảy sinh ra các hạt mầm
âm - dương. Các hạt mầm âm - dương được dung dưỡng, nuôi nấng lớn dần lên thành
các vì tinh tú và các thiên hà.
Vì thủy chung
vĩnh cửu thì cũng là vô thủy vô chung nên có thể coi Ngân Hà là hậu duệ của đời
đầu tiên, hay đời cuối cùng, thậm chí là đời thứ bao nhiêu của ông tổ - bà chúa
cũng được. Từ một hạt mầm âm - dương, được dung dưỡng trong điều kiện “mưa
thuận gió hòa”, Ngân Hà nảy nở thành một tinh tú xinh đẹp, rực rỡm múa tít váy
xòe, tỏa tinh hoa ngào ngạt như thế trong khi vẫn tiếp tục lớn lên. Váy của
Ngân Hà cứ xòe rộng ra mãi và trên đó tinh hoa ngào ngạt dần kết tinh lại thành
chi chít các vì sao ấy cũng múa tít. Lúc này Ngân Hà đã “phổng phao” thành một
thiên hà.
Nói riêng Mặt
Trời, nó cũng xoáy tít thò lò và vì được Ngân Hà cấp dưỡng thường xuyên nên
cũng vung vãi vật chất ra xung quanh, làm hình thành nên một vành đai nóng bỏng
gồm các hạt cơ bản. Khả năng cấp dưỡng của Ngân Hà có hạn độ nên Mặt Trời cũng
chỉ lớn lên đến mức độ nhất định và xoáy chậm hơn. Các hạt cơ bản trong vành
đai của nó tương tác với nhau tạo nên những thực thể lớn hơn và vành đai cũng
nguội dần, dàn trải ra theo hai hướng về phía Mặt Thời và ra xa Mặt Trời. Các
thực thể ấy tiếp tục kết tụ với nhau và từ đó mà hình thành nên các hành tinh
của Mặt Trời, trong đó có Trái Đất. Ngày nay, dấu tích mà vành đai đó vẫn còn
quan sát thấy ở khoảng giữa quĩ đạo của sao Hỏa và sao Mộc, được các nhà thiên
văn học đặt tên là “Vành đai thiên thạch”. Trong vành đai thiên thạch vẫn còn
chứa hàng trăm ngàn thiên thạch đủ mọi hình dạng, đủ mọi kích cỡ từ vài trăm
mét tới vài trăm km.
- Câu chuyện cổ
tích tôi vừa kể có hay không Hiện Thực?
- Mới thì đúng
là mới toanh rồi, còn hay thì đối với tôi kể ra cũng tạm được, nhưng đối với
người khác thì không biết thế nào…
- Dù sao anh
cũng ghi chép lại giùm tôi nhé!
- Tôi đã ghi
chép lại xong rồi đây, không sai và sót một chữ… Kệ anh! Mai mốt người đời có
chửi rủa thì anh giơ mặt ra mà chịu báng, tôi không chịu đâu đấy!
Hoang Tưởng
nghĩ thầm: “Hoang Tưởng thì vô hình nên làm gì có mặt, chỉ Hiện Thực mới có mặt
vì anh ta hữu hình. Đúng là đồ ngớ ngẩn!”
- Này, đừng có
mà nghĩ trộm về tôi như thế, không hay ho gì đâu! Ai mà không có đôi lúc lầm
lẫn trong đời? Trong câu chuyện lớn mà cha kể từ trước tới nay, thiếu gì những
lầm lẫn ngớ ngẩn. Tôi mà lôi hết ra thì chất lên như núi… Thôi, câm họng đi và
nhắm mắt lại! Cha đã ở ngay trên miệng lỗ đen của Ngân Hà rồi đấy, thưa cha!...
- Tôi cũng chả
có họng lẫn mắt!... Nhưng sao anh biết là tôi đang ở ngay trên miệng lỗ đen hả
Hiện Thực?... Ừ nhỉ!... Đúng r… ồ… i!
Cảm thức tiêu
biến, yên ắng tuyệt đối! Thông tin bằng thần giao cách cảm giữa hai cái tôi
cũng đột ngột bị cắt đứt!
***
Suốt hơn cả
tuần ngồi tốc ký liền tù tì lượng thông tin truyền về ồ ạt từ Hoang Tưởng, đến
lúc này tôi mới được dừng bút. Người mệt nhừ, chân tay mỏi rã rời, mắt mờ đi và
đầu óc thì lú lẫn hẳn. Cũng may là vừa đúng lúc cơ thể rơi vào kiệt quệ sức lực
và tinh thần thì được nghỉ ngơi. Nếu vừa rồi Hoang Tưởng không chui tọt vào lỗ
đen của Ngân Hà thì không biết sự thể đối với tôi sẽ tệ hại đến mức nào nữa!
Tôi uể oải đứng
dậy, rời khỏi cái bàn ngổn ngang sách vở, giấy tờ, kê ở xó nhà - nơi mà tôi tự
lưu đày mình đến chung thân, tình nguyện lao động khổ sai cho Hoang Tưởng - cầm
khay trà ra bộ bàn ghế đá ở ngoài sân. Trời đầy mây nên có vẻ như sà xuống
thấp. Mây không trắng muốt mà trắng đục, không nổi cuộn mà giăng đều ra như một
cái mền dày, gây cảm giác nằng nặng như bị thấm nước. Mới khoảng 2 giờ chiều mà
cảnh sắc đã xầm xuống như lúc 5 giờ chiều. Có lẽ một phần cũng vì tôi ngồi
trong sân có tường cao bao bọc và trên là vòm cành lá đan xen che phủ. Thỉnh
thoảng từng đợt gió mang theo nhiều hơi nước thổi ào về mát rượi. Có lẽ rồi
trời cũng mưa nhưng phải một lát khá lâu nữa và mưa sẽ không sôi nổi, ồn ào,
dứt khoát mà rả rích, lã chã. Những trận mưa không được sấm chớp báo hiệu và đi
kèm thường vẫn như thế. Dân gian quen gọi đó là mưa Ngâu tháng bảy. Nhẩm tính,
đúng là đang giữa tháng bảy âm lịch. Mưa Ngâu gắn liền với sự tích Ngưu Lang -
Chức Nữ. Có lần ngồi ngắm mưa Ngâu, tôi đã “tức cảnh sinh tình” như thế này:
Lạ thay Chức Nữ
- Ngưu Lang.
Muôn năm khóc
mãi dở dang vuông tròn
Đố ai ngăn được
nguồn cơn
Cho Thu ráo
hoảnh không còn lệ Ngâu.
Trời đất đến là
lạ, xoay vần thời tiết khí hậu, làm xuất hiện bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông nối
tiếp nhau luân hồi không ngừng nghỉ và hơn nữa còn làm cho bốn mùa tương phản
với nhau từng đôi một: Xuân - Thu, Hạ - Đông. Nếu mùa Xuân là mùa của hồi sinh,
cây cối đâm chồi nảy lộc, gợi cho lòng người hân hoan, phơi phới yêu đời thì
mùa Thu là mùa của héo úa, lá vàng rơi rụng, gợi nên cảnh già nua làm cho lòng
người cứ man mác buồn thương, man mác nhớ tiếc. Khi mùa Hè là mùa rực rỡ nắng,
dào dạt mưa, cây cối xum xuê, hoa trái rộ cành, sặc sỡ, trĩu mọng, gợi cho lòng
người dịu bớt lo toan, hồ hởi và đoan hậu vui sống, thì mùa Đông là mùa lạnh
giá, cảnh vật ảm đạm, sự sống sinh vật như ngưng trệ, gợi cho lòng người về sự
thê lương, chết chóc.
Trong bốn mùa
ấy, mùa nào làm cho lòng người trào dâng cảm xúc lai láng và thi vị nhất? Có
người cho là mùa Hạ vì những biểu hiện sôi nổi và sung mãn của nó. Có người lại
cho rằng mùa Xuân vì những biểu hiện hồi sinh, tinh khiết và đầy hứa hẹn tươi
sáng của nó. Nhưng đối với tôi, và có lẽ với cả nhiều người đứng tuổi có tính
đa sầu đa cảm, thì đó là mùa Thu.
Như đã nói thì
mùa Thu thường có những cảnh sắc gây cho lòng người những nỗi buồn man mác về
kiếp đời, loáng thoáng nỗi buồn thương, tiếc nuối về những tháng năm tươi vui
đẹp đẽ của cuộc đời đã chỉ còn là kỷ niệm trôi sâu trong dĩ vãng, không bao giờ
trở lại nữa.
Buồn man mác là
một trạng thái tình cảm tương đối khó tả. Nó làm cho tâm hồn lâng lâng lưu
luyến, lai láng nhớ nhung, lắng dịu ưu phiền. Nó không phải là vui nhưng nhiều
khi làm cho tâm hồn thấy thú vị, nó là buồn mà không hề làm cho tâm hồn sầu
thảm, khổ sở. Nó tao nhã, nhẹ nhàng như đêm trăng thanh gió mát; nó êm ái, diệu
vợi, thoảng chút ngậm ngùi như lời hát ầu ơ của người mẹ ru con…
Theo tôi, một
con người thức, tỉnh trong một khoảng thời gian nhất định nào đó, không thể
hoàn toàn vô tình được, dù có thể vô tình vô cảm ở một vài khía cạnh, trước một
vài hiện tượng hay biến cố. Hơn nữa, nếu thực sự cũng có lúc vô tình hoàn toàn
thì sự vô tình đó chỉ có thể xảy ra trong chốc lát, không duy trì kéo dài được
như ở loài vật.
Có thể qui tình
cảm của con người thành bốn biểu hiện cơ bản là vui, buồn, yêu, ghét. Mỗi biểu
hiện cơ bản đó lại bao gồm nhiều sắc thái tình cảm tương đối khác nhau. Chẳng
hạn đối với vui thì có: hơi vui, vui quá, sung sướng, hạnh phúc…; đối với buồn
thì có: buồn thiu, buồn tê tái, buồn não nề…; đối với yêu thì có: thích, say
mê, yêu đắm đuối…; đối với ghét thì có: không ưa, ghét cay ghét đắng, căm ghét,
căm thù… Nói chung, khi con người ta sống không được theo ý muốn, bị thất vọng,
vô vọng thì nỗi buồn sẽ đến. Tùy mức độ của nỗi buồn mà dẫn đến ghét, thù. Khi
con người ta được đáp ứng, thỏa mãn điều mình đang cần, đang ước muốn thì cái
vui ập đến. Tùy mức độ đáp ứng, thỏa mãn của những thứ làm cho vui mà xuất hiện
sự yêu những thứ ấy. Trong bốn thể hiện cơ bản vui, buồn, yêu, ghét thì có thể
coi vui và buồn hợp thành một cặp tương phản lưỡng nghi, yêu và ghét hợp thành
một cặp tương phản lưỡng nghi, trong đó vui - buồn hay yêu - ghét làm chuyển
biến lẫn nhau, làm tiền đề thể hiện của nhau, không có tình cảm vui thì cũng
không có tình cảm buồn và ngược lại, không có tình cảm yêu thì cũng không có
tình cảm ghét và ngược lại. Cần thấy rằng, nguồn gốc của yêu - ghét có xuất
phát điểm từ vui - buồn, không có vui - buồn, nhất quyết không thể xuất hiện
yêu - ghét. Ở những loài động vật bậc cao, có bộ não đã được phức tạp hóa nhất
định, có thể đã cảm giác được vui - buồn và ở nhiều loài, cả yêu - ghét nữa,
nhưng nói chung còn mờ nhạt, chưa sâu sắc. Ở loài người, do có bộ não với khả
năng suy nghĩ, tư duy trừu tượng đã đạt đến cao độ, thậm chí là hết mức có thể,
mà sự vui - buồn, yêu - ghét thể hiện ra được ở nhiều cung bậc khác nhau từ
nhạt nhòa đến sâu sắc và một khi đã bị kích hoạt thì trở nên vô cùng dữ dội. Nhưng nguyên nhân sâu xa nhất làm xuất hiện tất cả sắc tái tình cảm trên là quá trình đấu tranh sinh tồn ở loài người.
Khó mà hình
dung được bốn thể hiện cơ bản về tình cảm nói trên hình thành cùng một lúc
được, mà phải có trước, có sau. Vậy thì, tình cảm cơ bản nào được hình thành
đầu tiên, đóng vai trò tiền đề cho ba tình cảm cơ bản còn lại hình thành trong
thế giới sinh vật nói chung và đối với loài người nói riêng? Tôi cho rằng đó là
tình cảm buồn. Chính cuộc đấu tranh sinh tồn và tiến hóa thích nghi trong thế
giới sinh vật đã dần dần hun đúc nên thứ tình cảm buồn ấy, làm cho sự thể hiện
của nó ngày một rõ rệt và ở loài người thì đạt đến độ tinh vi sâu sắc nhất, để
rồi được khắc ghi không thể xóa nhòa trong tiềm thức con người, đồng thời đóng
luôn cái vai trò là căn nguyên làm biểu lộ ra mọi sắc thái tình cảm của con
người. Thông thường một con người, lúc rảnh rỗi nhất, ở trạng thái tinh thần
bình lặng nhất, sẽ cảm nhận được một sắc thái tình cảm rất êm dịu, rất nhẹ
nhàng, thấp thoáng chút xíu sự bâng khuâng, phảng phất chút xíu sự hụt hẫng,
thoang thoảng mơ hồ chút nhớ nhung luyến tiếc, thảng hoặc lại trỗi dậy bâng quơ
chút thi vị. Cái sắc thái tình cảm ấy chính là sự thể hiện của nỗi buồn đang
nằm ở tầng sâu ẩn dấu trong tiềm thức, và được gọi là “cái buồn mông lung, man
mác”. Có nhà thơ nào đó đã viết:
“Hôm nay trời
nhẹ lên cao
Tôi buồn không
hiểu vì sao tôi buồn.”
Lúc viết hai
câu thơ đó, chắc nhà thơ đang buồn man mác!
Nếu suy luận ở
trên là thỏa đáng thì trên cơ sở đó, có thể rút ra kết luận: nếu ở loài vật,
cái đóng vai trò như nền tảng, làm chỗ dựa cho những cảm giác vui, buồn, yêu,
ghét thể hiện ra, là sự vô tình, thì ở loài người, nền tảng ấy chính là trạng
thái buồn mông lung man mác của tâm hồn. Như vậy, buồn man mác là trạng thái
tình cảm của tâm hồn con người. Sự tồn tại của nó tuy có tính lặn, chìm khuất,
nhưng đồng thời lại có tính bền vững, thường trực, duy trì lâu dài, còn mọi
trạng thái tình cảm khác, so với nó, đều có tính nổi trội nhưng không bền vững,
chỉ nhất thời. Có thể ví von rằng, sắc thái tình cảm buồn mông lung man mác như
mặt hồ nước mênh mông phẳng lặng, còn mọi sắc thái tình cảm khác như là những
biểu hiện biến động ở những mức độ khác nhau của mặt hồ ấy, từ một gợn nhỏ lăn
tăn cho đến xoáy chìm, sóng nổi. Biến động nào rồi cũng qua đi và khi hầu hết
các biến động không nổi lên nữa thì mặt hồn lại trở về trạng thái hầu như phẳng
lặng, nghĩa là sự phẳng lặng của mặt hồ trở nên nổi trội.
Lâm vào tình
trạng buồn đau thì không ai muốn rồi, nhưng ở trong trạng thái vui vẻ mãi thì
rồi cũng đến lúc chán nản (một sắc thái của nỗi buồn). Rõ ràng, không có buồn
thì cũng không có vui nên không thể vui mãi mà không… hết vui. Như vậy, có vẻ
lạ lùng nhưng thực ra là tự nhiên, tâm hồn con người đều không “chịu đựng nổi”
hai tình trạng đó lâu dài, mà chỉ chấp nhận được một cách bình thản, nhiều khi
còn thú vị, sự duy trì kéo dài và liên tục tình trạng buồn man mác (hơi thoảng
buồn trong an nhiên tự tại). Nước lã bị coi là vô vị nhưng lại là nền tảng cho
mọi thức uống. Không có nó, không thức uống nào có thể triển khai được. Không
có nó, không chỉ loài người mà cả thế giới sinh vật trên Trái Đất này không thể
sống còn được. Dù bị coi là vô vị thì nước lã vẫn không thể vô vị đối với con
người và người ta có thể uống thường xuyên liên tục kéo dài suốt đời mà không
chán, rất nhiều khi còn cảm thấy ngon lành, ngọt ngào thực sự và vô cùng thỏa
mãn, chứ không thể uống bất cứ một thức uống nào khác như thế được. Có những
thức uống lúc này lúc khác được coi là tuyệt vời, nhưng chỉ mang tính nhất thời
và rồi cũng chán. Riêng đối với nước lã, bình dị va lạt lẽo thế mà không ai
chán, chẳng bao giờ chán, trái lại, ai cũng cần nó, thường xuyên cần nó, và nếu
thiếu nó thì “khát khao” nó, thấy quí trọng nó, do đó, hóa ra là nó “trên cả
tuyệt vời”. Tình trạng buồn man mác của tâm hồn cũng tương đối giống như… nước
lã. Đời người luôn trải qua những biến đổi, chấn động và từ đó mà cũng xuất
hiện đan xen nhau, tiếp nối nhau những sắc thái tình cảm khác nhau trong tâm
hồn.
Nếu sắp xếp tất
cả các sắc thái tình cảm vào một hệ thống tương phản thì sẽ có duy nhất một sắc
thái tình cảm có tính trung dung, đóng vai trò “mức O” của mọi sự phát triển
sắc thái tình cảm. Một cách hoàn toàn khách quan thì sắc thái tình cảm đặc
biệt, đóng vai trò làm gốc tương phản đó phải là “vô tình thuần túy”. Tuy nhiên
vì con người có tư duy và mang trong tiềm thức “nỗi buồn truyền kiếp” được hun
đúc nên từ quá trình đấu tranh sinh tồn đầy bi thương của loài người, nên ở con
người cái sắc thái tình cảm đóng vai trò gốc ấy không phải là “vô tình thuần
túy” nữa, cũng không phải là “vui man mác”, mà phải là buồn man mác với ít
nhiều thi vị nghĩa là đôi lúc thoáng nhẹ nỗi vui, mỉm cười bâng quơ dù đang
buồn man mác!).
Vì tình trạng
buồn man mác đóng vai trò gốc, mức O, mang tính nền tảng, cơ bản nên nó cũng có
tính lặn, tính tĩnh tại, và như thế, mọi trạng thái tình cảm còn lại so với nó
đều mang tính nổi trội, động. Nhìn chung, tĩnh là trạng thái bình thường, thông
thường, coi như không bị kích thích, động là tình trạng bị kích thích. Một cách
tự nhiên, trạng thái động bao giờ cũng có xu hướng trở về trạng thái tĩnh và
trạng thái tĩnh, khi bị kích thích sẽ chuyển biến sang trạng thái động. Trạng
thái động có hai loại tương phản nhau là âm (chẳng hạn: buồn, ghét) và dương
(chẳng hạn: vui, yêu). Nếu trạng thái động có tính cương, hoạt náo, tiêu hao
năng lượng (mất sức) thì trạng thái tĩnh có tính nhu, lặng, (hầu như không tốn
năng lượng (không mệt). Như đã nói, trạng thái tĩnh về tình cảm đáng lẽ ra phải
là sự vô tình, thờ ơ, nhưng ở con người có thiên hướng buồn, và hơn nữa, với
quan niệm tĩnh về tình cảm không chỉ là không buồn không vui mà đồng thời cũng
còn là vừa buồn vừa vui, nên trạng thái đó phải là buồn man mác có hơi hướng
thi vị, tức là nó cũng “động” thuộc về tập hợp trạng thái động nhưng được kích
thích ở mức coi như thấp nhất và được qui ước là “tĩnh”. Tôi cho rằng, đời
người là một cuộc dàn trải những biến động thường xuyên làm xuất hiện trong tâm
hồn phong phú những sắc thái khác nhau với những mức độ hoạt động khác nhau và
đều có thể qui về một trong bốn dạng cơ bản là vui, buồn, yêu, ghét. Trong đó,
tình trạng buồn man mác có hơi hướng thi vị là trạng thái tình cảm tĩnh lặng
nhất, thư thái nhất, êm dịu nhất, an lành nhất, thi vị nhẹ nhàng nhất của tâm
hồn. Vì thế mà nó được con người ta yêu thích và trở thành ấn tượng dễ chịu,
sâu sắc trong tâm hồn của những ai đã và đang qua trải nghiệm cuộc đời. Tôi cho
rằng mùa Thu có nhiều những cảnh sắc nhất gợi nên nỗi buồn man mác mang hơi
hướng thi vị, trong tâm hồn và do đó, mùa Thu cũng là mùa “sợi nhớ sợi thương”
nhất, đằm thắm nhất mà cũng du dương nhất đối với tôi.
Thực ra ở Nam bộ - Việt Nam, một năm được phân định tương
đối rõ ràng thành hai mùa Mưa và Nắng, chứ khó mà thấy được rành rọt được bốn
mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông như ở Bắc Bộ. Tuy nhiên, một trong những đặc trưng của
mùa Thu là lá vàng rụng nhiều, và trong sân nhà tôi có một cây nhãn cổ thụ, một
cây sứ già, cho nên cứ mỗi độ lá vàng của chúng rơi đầy sân là tôi biết được
mùa Thu đã về. Cảnh lá vàng rơi rụng lả tả theo từng đợt gió nổi mát rượi trong
sân thường làm cho lòng tôi trỗi dậy nhiều hoài niệm vui buồn lẫn lộn. Trước
đây, trong một lần như thế, tôi đã vỡ lẽ ra điều ngộ nghĩnh này: người ta,
trong sâu thẳm, luôn bị nỗi buồn truyền kiếp ám ảnh, chế ngự nên ai cũng vậy,
luôn tìm cách chạy trốn, vùng thoát khỏi nó, luôn tận dụng mọi cơ hội đến với
niềm vui sống. Nhưng thử hỏi, trên cõi đời này, mấy ai có được một niềm vui
sống đích thực va trọn vẹn? Vì thế mà có lẽ nỗi buồn chứ không phải niềm vui
mới là giềng mối làm nên những kiệt tác văn chương, những bất hủ thơ ca. Từ suy
nghĩ đó, tôi đã cho ra đời bài thơ ca ngợi nỗi buồn sau đây:
HUYỀN
THOẠI NỖI BUỒN
Ngày xưa ông
Tạo dỗ dành rằng
Người khôn nên
được hưởng Nỗi Buồn
Có chàng phụng
phịu: “Con không muốn…”
Ông cười:
“Thôi, cố khóc một lần!”
Chàng khóc rống
lên trút Nỗi Buồn
Cuộn dòng lệ
chát chảy thành sông
Lòng chàng sạch
sanh Niềm Cô Quạnh
Hí hửng về vui
với Phố Đông.
Từ đó tình
chàng tỉnh như không
Chỉ còn quay
quắt với hơi đồng
Nói cười nhăng
cuội, trơ vai kịch
Triền miên lạc
thú với đêm hồng.
Lệ chát tràn
trề hóa Bể Đông
Tiên cá ngây
thơ uống no lòng
Vụt hóa ngẩn
ngơ niềm cô quạnh
Lên ngồi bờ đá
ngóng mênh mông.
Nàng đâu hay
mình đã cảm thông
Nỗi Buồn Trần
Thế để vương lòng.
Biết thương,
biết nhớ trong chờ đợi
Biết là hạnh
phúc buổi trùng phùng.
Thế rồi hồn
nàng hóa hồn người
Ươm trong buồn
nhớ những mầm vui
Kết trái tình
yêu từ độ đó
Đủ đắng cay,
chua chát, ngọt bùi.
Chàng kia dần
hóa quỉ Sa tăng
Rình mò, quấy
nhiễu khắp lương dân
Linh hồn xơ
cứng trong hoan lạc
Gầm gừ, hú hét
rợn đêm trăng
¯¯¯
Về sau con cháu
ở Phố Đông
Lũ lượt kéo về
tắm Bể Đông
Tìm hớp Nỗi
Buồn trong lệ chát
Nghe ngàn xưa
vỗ tiếng vọng thầm:
“Thế gian mà
vắng Nỗi Buồn
Linh hồn bốc
cháy, điêu tàn thơ ca
Xấu đau xấu đớn
cỏ hoa
Núi ngồi thô
lỗ, sông trơ đáy ghềnh
Xuân cằn tê lụi
chồi mầm
Hè hun khô
khốc, gió hầm vũ phu
Đục ngầu bụi
bặm trời Thu
Đông ghè băng
giá đắp mồ Tình Yêu
Loài người
thành lũ quái chiêu
Đói xương khát
máu, lêu têu bầy đàn.”
- Thơ với chả
thuổng, buồn với chả nhớ!... Thôi, vui lên đi, tôi về rồi đây này!
Hiện Thực đang
ngồi buồn man mác bên bàn đá, giật thót mình, quay ngoắt đầu lại nhìn vào trong
nhà, rồi reo lên:
- Ôi, anh Hoang
Tưởng!... Mới thấy anh chui tọt vào lỗ đen của Ngân Hà mà giờ này đã xuất hiện
ở nhà, thật nhanh quá sức tưởng tượng! Có phải là anh đã di chuyển theo đúng
quĩ đạo mà anh đã suy đoán không?
- Tôi mù tịt,
đâu có biết quái gì! Vừa mới hoàn hồn trở lại tức thì…
- Thôi, kệ!
Cũng chẳng cần biết làm gì nữa! Điều quan trọng là anh đã về nguyên lành, không
bị chút “sứt tai gãy gọng” nào. Mà cũng thật đúng lúc… Nãy giờ thèm nói chuyện
để thư giãn, xả hơi mà chả có ai, cứ ngồi đây nhìn lá vàng rơi mà nghĩ ngợi
linh tinh, mệt cả đầu…
- Cái anh này,
nhìn lá vàng rơi thì chỉ có hoài niệm và buồn man mác một cách thi vị thôi. Như
thế là dễ chịu chứ mệt mỏi nỗi gì!...
Hiện Thực phá
lên cười:
- Ha, ha,… ha!
Tôi đùa anh đấy!... Mà này, tôi đã ghi chép xong toàn bộ thông tin của anh gửi
về từ trước đến nay thành một “núi giấy” ở trên bàn làm việc ấy. Vì phải tốc ký
“liến thoắng” liên tục nên không biết có sơ sót gì không? Anh đã về rồi thì nên
đọc lướt qua một chút…
- Thôi, thôi!
Tôi chả dại gì mà dây vào cái đống giấy ấy, vừa tốn thời gian, vừa tự mình làm
thui chột sự hoang tưởng của mình. Đó là công việc của anh và anh phải tự chịu
trách nhiệm về sự chính xác của nó trước… Tự
Nhiên Tồn Tại, Hiện Thực ạ! Còn
tôi chỉ có nhiệm vụ là la cà, ngao du đến những nơi tôi muốn và… “phán” thoải
mái!...
- Anh nói sao?
Sao tôi lại phải chịu trách nhiệm trước Tự
Nhiên Tồn Tại trong khi chỉ là
người chép lại một cách nghiêm túc nhất những kể lể bạt mạng và ngông cuồng của
anh? - Hiện Thực trợn mắt sửng cồ - Anh đừng có giở cái trò “được ăn được nói
được gói mang về” rồi “ném đá giấu tay” như thế nhé, không xong với tôi đâu!...
Ông thì dán đít vào ghế, ngồi ghi chép quần quật hết ngày này qua ngày khác,
còn mày thì rong chơi phởn chí khắp nơi, chẳng thèm ngó ngàng tới ai. Đồ tệ
bạc!
- Ấy chết! Sao
anh lại chửi tôi nặng nề thế hả Hiện Thực? Anh viết lách quần quật thì tôi hành
trình hùng hục, cũng tốn công sức lắm chứ nào có kém gì! Ý tôi muốn nói là quĩ
thời gian của chúng ta sắp hết mà tôi còn phải sục sạo nhiều nơi nữa. Chứ tôi
mà chúi mũi vào đống giấy ngồn ngộn như núi kia thì chắc rằng chúng ta sẽ không
hoàn thành được “Câu chuyện hoang đường về Tự Nhiên Tồn
Tại”. Cả tôi và anh, đều cùng phải nỗ lực, mỗi người một việc chứ biết làm sao?
Cố gắng lên nhé! Anh hãy tưởng tượng đến cái ngày đống giấy còn to hơn thế kia
nữa được in thành sách, bán chạy như tôm tươi trên khắp thế giới và tiền chảy
vào nhà chúng ta như thác đổ, sóng trào…
- Tiền vào như
thế có mà chết ngạt! - Hiện Thực vui vẻ trở lại - Anh lém lắm, Hoang Tưởng ơi!
Tôi xin lỗi về sự cáu bẳn vừa rồi vì hiểu lầm anh. Thực ra, tôi mến mộ anh biết
chừng nào! Chính anh chứ không ai khác đã động viên, giữ vững tinh thần tôi
trong những lúc cô đơn, hiu quạnh… À, này! Lúc nãy thấy anh về là tôi cứ ngỡ
câu chuyện mà chúng ta muốn kể cho thiên hạ nghe đã đến hồi kết thúc rồi. Bây
giờ nghĩ lại thấy còn thiếu thiếu cái gì đó, hình như là chưa có được một cái
hậu trọn vẹn. Đúng không anh Hoang Tưởng?
- Đúng đấy!
Chúng ta còn phải mày mò tìm cách vạch ra cho được nhiều ngộ nhận của vật lý
hiện đại về Tự Nhiên Tồn Tại, nhất là phải lật đổ cho được
quan niệm Big Bang về Vũ Trụ…
- Ái chà chà! -
Hiện Thực ngắt lời Hoang Tưởng - Coi chừng đấy Hoang Tưởng ơi! Công nhận là anh
có khả năng hoang tưởng “ác liệt” hơn nhiều người nhưng trình độ vật lý hiện
đại của anh thì nói anh đừng giận, chẳng đâu vào với đâu cả. Không khéo đâm đầu
vào đó, không những không giải quyết được gì mà còn bị nện cho u đầu bể trán,
chuốc lấy thất bại nhục nhã ê chề nữa!
- Cảm ơn anh đã
cảnh báo! Dù sao thì tôi cũng phải cố liều một phen xem sao, chứ cứ để sự tức
tối anh ách trong lòng thật không sao chịu nổi. Có thể rồi tôi sẽ hoàn toàn bó
tay, bất lực hoàn toàn thì lúc đó tôi sẽ nháy anh hủy bỏ những trang viết về
chuyện đó, và nó sẽ được giấu tịt trước mắt người đời. Nhưng biết đâu chừng…
Hãy nhớ lại đi Hiện Thực, trước đây tôi đã không ít lần từng vượt qua chướng
ngại vật tưởng không cách nào vượt qua nổi, ngoạn mục như thế nào!
Hiện Thực khẽ
lúc lắc đầu ái ngại:
- Ở trường hợp
này khó khăn gấp bội phần anh ạ… Thì tùy ý anh thôi. Tôi dù sao cũng chỉ là gã
thư ký quèn, ngồi hí hoáy ở xó nhà, không thể có tầm nhìn xa trông rộng như Tôn
Ngộ Không, quên, xin lỗi, như anh được.
- Yên tâm đi
Hiện Thực nhé! Có nhà văn đã nói: “Không có những chiến công lớn lao cho những
tâm hồn phẳng lặng”. Ở đời, có đi mới có đến, nếu không xông pha thì làm sao
gặt hái được thành tựu? Trước sau gì tôi cũng phải lang thang vào cái thực tại
mà vật lý hiện đại đã dàn dựng nên, để “cưỡi ngựa xem hoa” một lần cho biết rồi
lúc đó sẽ trù tính. Nhưng trước hết, tôi phải quay lại vật lý cổ điển để làm
cái công việc là tìm cách “thực chứng” cho những biểu thức mà chúng ta đã “sáng
tạo” ra, và cho rằng chúng là những biểu thức cơ bản nhất của vật lý học, dù
được viết dưới dạng “không giống ai”.
- Có lý đấy!
Thế anh định bao giờ tiến hành và theo hướng nào?
- Ngay bây giờ
tôi sẽ đến Thư viện Quốc Gia. Nội dung tiếp theo
của câu chuyện chắc cũng khá nhiều và đề cập đến nhiều vấn đề. Chỉ Thư viện
Quốc Gia may ra mới đáp ứng được.
Nói đoạn, Hoang
Tưởng vụt biến mất, chẳng khác gì một… vong hồn.
Hiện Thực mỉm
cười tủm tỉm về sự “hô biến” ấy rồi đứng dậy đi vào nhà, khẩn trương dọn dẹp
lại bàn làm việc, chuẩn bị sẵn sàng giấy bút để bước vào công cuộc “nai lưng
cày cấy” mới. Xong đâu đấy, Hiện Thực vừa định đi rửa mặt cho tỉnh táo thì
Hoang Tưởng lại vụt hiện ra.
- Ô hay! Sao
anh lại về? – Hiện Thực ngạc nhiên hỏi.
- Trống rỗng,
chẳng có gì ở đó cả!
- Trống rỗng là
thế nào? Đã mang tên là Thư viện Quốc Gia mà trống rỗng sao? Hay là anh đi lạc?
- Lạc thế quái
nào được mà lạc! Có những nơi cực kỳ xa xôi chưa một lần đến mà tôi còn tìm đến
trúng phóc được như thời Xuân Thu – Chiến Quốc bên Tàu, thậm chí đường đến diện
kiến Đấng Tạo Hóa hun hút thậm thượt như thế mà tôi còn chưa lạc nữa là…
- Lạ quá nhỉ!
Làm sao bây giờ? A! Trên kệ sách của chúng ta cũng có khá nhiều sách vật lý.
Anh xem lang thang trên đó có thể “kiếm chác” được gì chăng?
- Ừ! Có lẽ vậy…
cũng không đến nỗi nào, vì tôi đi theo cách mà tôi đã từng và đang đi.
- Anh nói thế
tôi không hiểu gì cả Hoang Tưởng ơi! Lang thang thì kiểu gì mà không được?
- Anh quên rồi
sao? Ngày xưa ấy, tít trong quá khứ xa mơ, trước khi chào tạm biệt anh để lên
đường, xuất bôn quyết tìm cho ra được “cái gì đó”, tôi đã từng nói với anh rằng
tôi đã xác định được một con đường, một cách đi cho riêng mình và phù hợp nhất
với mình. Với trình độ kiến thức khoa học cỡ… phổ thông, muốn tìm hiểu Tự Nhiên
Tồn Tại thì dù có khả năng hoang tưởng “ghê gớm” như tôi, cũng không thể “chen
chân” nổi trên những đại lộ khoa học chính qui chỉ dành riêng cho các nhà
nghiên cứu khoa học đích thực, trên những đường băng hàn lâm thẳng tắp dành cho
những nhà bác học tài năng xuất sắc, biết sử dụng các phương tiện hỗ trợ tối
tân vào công cuộc đi chinh phục những bí ẩn. Từ nhận định đó mà tôi đã chọn con
đường chưa có một ai đi trên đó vì nó chưa từng có trước đó, với cách đi là
tránh xa các đại lộ khoa học chính qui, các đường băng hàn lâm, tự vạch vẽ, tìm
lối mà đi một cách hồn nhiên, không khiên cưỡng, câu nệ, tùy thuộc vào đòi hỏi
của ngoại cảnh và cả ý thích của nội tình mà có thể là rề rà quanh quẩn, thong
dong “cưỡi ngựa xem hoa”, cắm đầu cắm cổ hành quân xa, và cũng có thể là vùn
vụt trong không gian, bao la hay vi vút trong thời gian miên man, cứ tiến theo
hướng tự nhiên mà đất trời thầm thì chỉ bảo. Chính vì thế mà như anh cũng thấy
rồi đấy, con đường mà tôi đã đi từ trước đến nay có hình thù thật là bất định,
lúc ngược lúc xuôi, lúc đến lúc về, lúc ra đi lúc trở lại, lúc ngoằn ngoèo
quanh co nhỏ hẹp, lúc thẳng tắp hun hút thênh thang, lúc cụ thể quen thuộc lúc
mông lung phi thường, lúc…
- Ối, thôi
thôi!... Dừng lại đi!... Anh lại bắt đầu nổi cơn hoang tưởng rồi.
Hoang Tưởng
đang cao hứng, hùng hồn, nghe vậy, chững lại:
- Hề, hề!... Ừ
nhỉ, không lê thê cho tốn thời gian nữa!... Tóm lại, sắp tới tôi sẽ tiếp tục
cách đi ấy trên con đường ấy. Anh thấy thế nào, được không?
- Tôi làm sao
mà biết có được hay không được? Nhưng anh còn sự lựa chọn nào khác hợp hơn nữa
đâu mà hỏi. Anh muốn đi tiếp thì cứ thế mà đi, còn có gặt hái được gì hay không
là tùy thuộc hoàn toàn vào may rủi. Tôi nghĩ vậy… À! Mà này: tôi nhớ có lần,
lâu lắm rồi, anh đã thử đặt tên cho con đường anh đi nhưng chưa được và anh có
nói sẽ đặt tên vào dịp khác. Theo tôi, lúc này là thích hợp nhất…
- Đúng rồi! Để
tôi nghĩ xem… A! Cái tên “Con đường cổ tích” nghe hay không?
- Còn “kêu” quá
anh à! Tôi cho rằng cái tên “Con đường danh riêng cho những gã hoang tưởng” là
xác thực nhất.
- Không được!
Tôi không muốn “tư hữu” con đường ấy vì dù tôi là người vạch ra nó thì công lao
của anh trong việc tạo dựng ra nó không phải là nhỏ. Nó là của chung chúng ta.
Vả lại, chúng ta vì “giàu có” hoang tưởng nhưng “nghèo kiết xác” kiến thức hàn
lâm nên con đường mà chúng ta tạo dựng luôn toát ra cái vẻ chất phác, cục mịch,
quê mùa. Vậy, nên chăng đặt tên con đường ấy là “Con đường của những gã nhà
quê”, hả Hiện Thực?
- Hay quá! Cái
tên đó đúng là hợp lý hợp tình hơn cả. Tôi đồng ý! Và để kỷ niệm cuộc đặt tên thành
công này, tôi đề nghị anh làm một bài thơ ca ngợi trước khi lang thang trên kệ
sách. Nhưng phải nhanh cấp kỳ, vì tôi biết anh là người “xuất khẩu thành thơ”
với tốc độ thuộc hàng thượng thừa…
- Xong rồi!
Đây:
Ôi con đường
của những gã nhà quê
Dẫn ta đi khắp
đó đây vô định
Vui thú biết
bao giữa bốn bề cô quạnh
Quên kiếp trăm
năm, quên cả ngày về.
Con đường quanh
co không lối không lề
Có đêm mưa tuôn
mềm lòng sỏi đá
Có ngày chói
chang rực tươi hoa lá
Có những cảnh
mơ huyền diệu tuyệt vời.
Ta đi lang thang
bỏ lại nỗi đời
Lấp liếm ưu
phiền, thỏa niềm mê muội
Thà như kẻ bị
lưu đày biệt xứ
Còn hơn ngồi
chán ngấy xó Trần gian
- Này, anh lại cạnh
khóe, xỏ xiên tôi đấy à, Hoang Tưởng? Đừng có quá đáng thế chứ! Tôi mà nổi điên
lên là anh phải hối hận đấy! - Hiện Thực gầm gừ.
- Đùa chút cho
vui ấy mà…
- Vui gì nổi mà
vui! Cà khịa đến cỡ đó mà nói là “đùa chút” à? Cái câu “còn hơn ngồi chán ngấy
xó Trần gian” bằng chửi cha người ta rồi còn gì…
- Cha anh không
là cha tôi chắc? Nói thế mà cũng…
- Tôi quên
thôi, có gì mà ầm ĩ nào?... Nói thế để tỏ rõ cho anh thấy tôi đã bị anh làm tổn
thương đến cỡ nào… Thật anh chả là cái thá gì cả đâu! Nói cho anh biết, nếu
không có cái tôi Hiện Thực chấp nhận ngồi một chỗ thì làm sao có được cái núi
giấy kia? Không có tôi thì đố anh viết được dù một chữ!... Đừng có làm tôi điên
tiết, uất quá tự treo cổ mình lên. Đến lúc đó, dù anh có “Quên kiếp trăm năm,
quên cả ngày về” thì quỉ Sa tăng cũng lôi cổ anh về… địa ngục, đố thoát!...
- Anh nói hoàn
toàn đúng, Nếptumô ạ!
- Mày nói tao
bị điên đấy à, hả thằng Hupitet kia? Được rồi! Ông đốt hết cái đống giấy ghi
chép toàn chuyện tào lao này đi cho mày biết tay!...
Hoang Tưởng hốt
hoảng thực sự:
- Ấy chết!
Đừng!... Đừng như thế mà Hiện Thực ơi! Mai mốt nếu may mắn có được chút vinh
quang nào thì cũng nhờ vào nó đấy. Chớ làm điều dại dột mà hối không kịp! Tôi
không thể làm cuộc hành trình thứ hai giống hệt như vừa qua nữa đâu. Anh cũng
biết mà!... Thôi! Cho tôi xin lỗi anh về sự đùa quá lố của tôi… Hai câu thơ
cuối anh cứ sửa lại như thế này nhé:
Cứ đi đi mà tan
thành cát bụi
Cho Hiện Thực
cười hùi hụi giữa Trần gian.
Hiện Thực tính
dễ nóng mà cũng nhanh nguội, nghe thế dịu giọng lại liền:
- Mệt anh quá!
Thôi anh lên kệ sách mà chu du đi. Đừng để phí thời gian thêm nữa! Trời đã xẩm
tối rồi kìa! Để tôi đi bật đèn cho sáng kệ sách… À, mà anh cần quái gì tới
đèn!...
Hoang Tưởng vụt
biến mất, gửi lại vang vọng tiếng cười ha hả, sảng khoái trong đầu Hiện Thực.
***
Trước hết, chúng ta viết lại một số biểu thức vật lý mà chính chúng ta đã thiết lập được:
Trước hết, chúng ta viết lại một số biểu thức vật lý mà chính chúng ta đã thiết lập được:
1- Những biểu
thức chuyển đổi thời gian và khoảng cách giữa hai hệ chuyển động (đều) tương
đối so với nhau:
2- Hai biểu
thức cộng vận tốc:
3- Biểu thức
biểu diễn mối quan hệ giữa nội năng và động năng của một vật:
4- Biểu thức về
quan hệ giữa năng lượng và thể tích của hạt KG:
Chúng ta cho
rằng những biểu thức trên là những biểu thức cơ bản nhất, tổng quát nhất, mang
tính căn nguyên của vật lý học. Từ chúng có thể dẫn xuất, suy ra, nếu không tất
cả thì cũng là hầu hết những biểu thức vật lý cơ bản khác.
Nhận định như
thế là quá “chủ quan khinh địch” và do đó mà cũng thật hợm hĩnh! Nhưng biết đâu
chừng, nếu đúng thì sao? Thì những biểu thức trên sẽ trở thành những người lính
xung kích ưu tú của vật lý học trong công cuộc khám phá những bí ẩn của Vũ Trụ
để nhận thức đúng đắn hơn về Tự
Nhiên Tồn Tại.
Sẽ rất bấp bênh
nếu sự đúng sai của một nhận định được quyết định chỉ bằng suy lý, biện luận
thuần túy. Do đó muốn quả quyết nhận định trên là thực sự đúng đắn thì cần phải
trưng ra được những bằng chứng không ai có thể chối cãi được và để có thể trưng
ra được những bằng chứng ấy thì trước hết những biểu thức nêu trên phải mô tả
được một cách xác đáng hiện thực khách quan trong lĩnh vực vật lý học.
Dù có thấy rằng
những biểu thức ấy được xây dựng nên từ những suy diễn, chứng minh hoàn toàn
hợp lý thì cho đến lúc này vẫn chưa thể khẳng định dứt khoát được mức độ xác
thực của chúng. Trong lịch sử toán học và vật lý học đã xảy ra rất nhiều trường
hợp một biểu thức, một nhận định hay một lý thuyết được mọi người thừa nhận
suốt một thời gian tương đối dài vì đã có chứng minh chặt chẽ, được thực
nghiệm, kiểm chứng và thậm chí là đã tỏ ra đắc lực trong ứng dụng thực tiễn,
mãi về sau mới biết là chúng chưa hẳn đúng, còn khiếm khuyết hoặc hoàn toàn sai
lầm.
Vì vậy, mục
đích của chúng ta đến với vật lý học lần này là lấy những biểu thức mà chúng ta
đã thiết lập được làm cơ sở để suy ra một số biểu thức quan trọng đang tồn tại
trong vật lý học, đã được thử thách qua quá trình lịch sử kiểm nghiệm và ứng
dụng dài lâu nên tỏ ra hoàn toàn đúng đắn. Thông qua đó mà trả lời luôn sự nhận
định ở phía trên của chúng ta là đúng hay sai.
(còn tiếp)
(còn tiếp)
Mời xem:
Nhận xét
Đăng nhận xét