CÂU CHUYỆN LỊCH SỬ 26 (Tài liệu tham khảo)
(ĐC sưu tầm trên NET)
Văn minh Việt cổ “bị đánh cắp” như thế nào?
(Kienthuc.net.vn) - Những cứ liệu trong lịch sử Trung Quốc chứng tỏ
người Việt có nhiều phát minh vĩ đại, trong đó, lịch rùa chứng minh
Việt Nam ra đời trước Trung Quốc.
GS.TSKH Hoàng Tuấn, Giám đốc Trung tâm
Unesco, chuyên gia nghiên cứu về văn hóa phương Đông đã tìm ra những
chứng cứ chứng minh về những phát minh lý thú của người Việt trong thời
kỳ dựng nước bị kẻ xâm lược cố tình xóa bỏ và đánh tráo. Đó là nền văn
hóa nhân bản - là nền văn minh "Lịch toán - Nông nghiệp"...
Nước Việt có trước thời Hùng Vương
Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của sử gia đời Trần là Lê Văn Hưu sau này được Ngô Sĩ Liên đời Lê biên soạn lại cho đến cuốn Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim thời Pháp thuộc và các bộ Lịch Sử Việt Nam
của nhiều tác giả Viện Sử Học thời hiện đại thì: Nước ta được thành lập
từ thời Hồng Bàng, với vị vua đầu tiên là Kinh Dương Vương vào năm Nhâm
Tuất, tức năm 2879 trước Công nguyên, tính đến năm 2013 này thì đã
4.892 năm.
Sau Kinh Dương Vương là 18 đời các Vua
Hùng nối tiếp, với tên nước là Văn Lang. Nước Văn Lang thời đó rộng
lớn, phía Bắc là miền đồng bằng phì nhiêu thuộc lưu vực sông Dương Tử
giáp Hồ Động Đình, phía Nam giáp Lâm ấp (Chiêm Thành cũ), Tây giáp Ba
Thục, Đông giáp biển Đông. Ngay tên Kinh Dương Vương cũng đã mang ý
nghĩa rõ ràng về "vua của hai vùng đất rộng lớn là châu Kinh và châu
Dương cổ" - nay đã thuộc Trung Quốc.
Nhiều người còn nghi ngờ về thời kỳ
lập nước xa xôi trên với lý do duy nhất là 18 đời vua Hùng không thể kéo
dài đến hàng ngàn năm (mỗi đời vua trong các Triều đại Đinh, Lê, Lý,
Trần, Nguyễn sau này cũng chỉ từ 15 - 30 năm). Thời các vua Hùng nếu mỗi
đời kéo dài đến 50 năm thì 18 đời Hùng Vương cũng chỉ là 900 năm. Như
vậy, thời Hùng Vương kéo dài đến hàng ngàn năm là hoang đường!
Tuy nhiên, nếu xét thời gian chỉ ngắn
ngủi như trên thì không phù hợp với nhiều hiện tượng lịch sử bành trướng
xâm lược của Đế quốc Hán Mông xưa. Vì vậy, 18 đời vua Hùng chỉ là 18
chi họ Hùng Vương, mỗi chi gồm nhiều vị nối tiếp nhau cai trị đất nước,
đều gọi là đời Hùng Vương thứ nhất, hoặc thứ hai... Nếu chi họ đó không
có con trai hay người tài nối vị thì dòng họ gần kề sẽ lên nối ngôi và
được gọi là đời Hùng Vương thứ ba hay thứ tư...
Điều này phù hợp với thời đại Thái cổ
của Tổ tiên xưa: Người đứng đầu các bộ lạc thời "săn bắn và thuần hóa
súc vật" đều được gọi là Phục Hy; người đứng đầu các bộ lạc thời "nông
nghiệp đầu tiên" đều được gọi là Thần Nông. Vì vậy, thời Phục Hy và Thần
Nông, mỗi thời kỳ đều có nhiều vị đứng đầu cùng tên nối tiếp nhau.
Tiếp đến thời Hùng Vương cũng thế:
Thời Hùng Vương thứ nhất hay thứ hai, thứ ba... cho đến thứ 18, mỗi đời
đều gồm nhiều vị vua Hùng. Thời gian như thế mới phù hợp với nhiều hiện
tượng lịch sử liên quan đến dân tộc Việt cổ mà các sử gia Trung Quốc sau
này cũng đã ghi.
Tranh minh họa. |
Nước Văn Lang được thành lập dưới thời
Kinh Dương Vương chắc chắn là vào thời kỳ nền nông nghiệp đã phát triển
khá mạnh vì thời đó đã có nền lịch toán vững chắc để phục vụ nghề nông.
Tuy nhiên, đất nước rộng lớn của cư
dân Bách Việt xưa - từ khi lập nước - đã liên tục suốt hàng ngàn năm bị
dân du mục Hán - Mông thiện chiến, giỏi cưỡi ngựa, bắn cung, ở phía Bắc
sông Hoàng Hà xâm chiếm và bị thu hẹp cho đến khi chỉ còn lại phần đất
phía Nam bao gồm các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam và đồng bằng
Bắc bộ cho đến Đèo Ngang xưa và cả vùng đất còn lại này lại bị dân Hán -
Mông đô hộ thêm một ngàn năm nữa.
Trong suốt nhiều ngàn năm liên tục bị
đánh phá và bị đô hộ, nền văn hóa nông nghiệp xưa cũng bị xóa sạch vết
tích. Tuy nhiên, những tinh hoa của nền văn hóa nông nghiệp đó thì không
thể xóa hết và được kẻ xâm lược trị vì tiếp thu và biến thành nền văn
hóa chính quốc. Nền văn hóa Khoa Đẩu xưa - mà lịch sử cổ còn ghi - cùng
nền văn hóa kế thừa Khoa Đẩu là nền văn hóa Việt Nho cũng bị xóa bỏ.
Phần tinh hoa không xóa nổi thì biến thành nền văn hóa Hán Nho của chính
quốc.
Vua Hùng và các quân Lang. |
Người Việt nghiên cứu Vũ trụ từ khi ra đời
Những cứ liệu còn ghi trong lịch sử
Trung Quốc chứng tỏ lịch sử lâu đời của Việt Nam và chính người Việt là
người có nhiều phát minh vĩ đại: Nghiên cứu vũ trụ, lịch số... trong đó,
lịch rùa chứng minh Việt Nam ra đời trước Trung Quốc. Cổ sử Trung Quốc
viết: "Vào thời vua Nghiêu (năm 2357 trước CN - tức trước khi nước Trung
Hoa ra đời rất lâu; sau khi nước Văn Lang được thành lập 522 năm), có
sứ giả Việt Thường (1) đến Kinh đô tại Bình Dương (phía Bắc sông Hoàng
Hà - tỉnh Sơn Tây ngày nay) để dâng hai con Thần Quy, vuông hơn ba
thước, trên lưng có khắc chữ Khoa Đẩu ghi việc từ khi trời đất mới mở
trở về sau...".
Vua Nghiêu sai người chép lại và lưu
vào "tàng thư" gọi là "Lịch Rùa" (2). Sách "Thông Chí" của Trịnh Tiều
xưa cũng đã ghi rõ về việc Thị tộc Việt Thường tặng lịch Rùa cho vua
Nghiêu. Nếu tính từ năm thành lập nước Văn Lang đến nay thì lịch rùa
chắc chắn cũng đã có từ gần 5.000 năm trước. Tại sao vào thời xa xưa đó
mà người Việt Thường lại có thể giải thích được "việc trời đất từ khi
mới mở đến sau này"? Rõ ràng họ đã có một nền văn minh "lịch toán" rất
phát triển. Vì sao? Vì đó là yêu cầu của nền nông nghiệp đã được hình
thành từ lâu đời (nghề canh tác lúa nước). Để dự báo thời tiết cho nông
nghiệp bắt buộc họ phải phát triển lịch toán.
Và cơ sở của "Lịch Toán" này chắc chắn
đã được khắc trên mai rùa đem sang tặng vua Nghiêu để cầu bang giao. Vì
thế mà cổ sử Trung Quốc mới ghi lại là "... trên lưng rùa khắc chữ Khoa
Đẩu ghi việc trời đất từ khi mới mở trở về sau này". Như vậy là người
Việt Thường đã nghiên cứu vũ trụ rất sớm, đã đi sâu tìm hiểu vũ trụ từ
khi mới sinh thành và đã đem những hiểu biết đó để làm lịch phục vụ nông
nghiệp.
(1) Việt Thường: Ngay tên Việt Thường
mà thời vua Nghiêu gọi tên nước Văn Lang xưa cũng thể hiện "dân tộc
trồng lúa nước". Theo cụ Nguyễn văn Tố (trong Sử ta so với sử Tầu) thì
Việt Thường là tên để chỉ cái "xiêm" của người Việt cổ trồng lúa nước,
vì chưa có bang giao, người Tầu xưa (dân Hán - Mông) chưa hiểu rõ nên
gọi luôn tên dân mặc "xiêm" là tên nước. Tên Việt Thường xuất hiện từ
đó. Về sau khi đã có chữ viết, các nhà chép sử buổi sơ khai cứ theo cách
gọi cũ ghi tên Việt Thường để chỉ vùng đất phát triển nhất của dân Bách
Việt.
(2) Lịch rùa: Lịch đã được khắc trên
mai rùa mang sang cống vua Nghiêu chỉ có thể là hai bảng Âu Đồ và Lạc
Thư - cơ sở của Lịch toán xưa - mà sau này người Trung Quốc đã đổi tên
gọi là Hà Đồ và Lạc Thư cho hợp với sự giải thích hoang đường và thần bí
của họ. Hai bảng Âu Đồ và Lạc Thư chính là cơ sở của Lịch Toán Can Chi
đã được hình thành từ thời cổ đại và đã được sử dụng trong các nước Á
Đông cho đến tận ngày nay.
GS.TSKH Hoàng Tuấn (Giám đốc Trung tâm Unesco, chuyên gia nghiên cứu về văn hóa phương Đông)
Nhận xét
Đăng nhận xét