THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG 45/c
THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG (IV)
ĐẠI CHÚNG
--------------------------
PHẦN V: THỐNG NHẤT
“Chính qua cuộc đấu tranh
nhằm thống nhất một cách hợp lý cái đa dạng mà đã đạt được những thành công lớn
nhất, dù rằng chính ý đồ đó có thể gây ra những nguy cơ lớn nhất để trở thành
con mồi của ảo vọng”.
A. Anhxtanh
“Người nhìn thấy cái đa dạng mà không thấy
cái đồng nhất thì cứ trôi lăn trong cõi chết”.
Upanishad
CHƯƠNG V: CHIÊM BÁI
“Bằng cách ở mỗi hiện tượng
tự nhiên của cái riêng lẻ, cái qui ước và ngẫu nhiên, chúng ta hướng mắt đến cái
phổ quát, cái khách quan và tất yếu, thì đó là chúng ta tìm cái độc lập đằng
sau cái lệ thuộc, cái tuyệt đối đằng sau cái tương đối, cái vĩnh cửu đằng sau cái
vô thường. Và như tôi nhìn thấy, cái khuynh hướng này biểu lộ không những trong
vật lý học, mà còn trong mỗi ngành khoa học, vâng, không chỉ trên lĩnh vực khoa
học, mà còn trên lĩnh vực của cái thiện và cái mỹ ”.
Max Planck.
“Cái huyền diệu là trong tất
cả các hiện tượng của tự nhiên, có một tính qui luật phổ quát ngự trị mà ở mức độ
nào đó, có thể nhận thức được đối với chúng ta”.
Max Planck.
(tiếp theo)
Theo Nguyễn Hiến
Lê thì dân tộc Trung Hoa tới đầu đời Chu (thế
kỷ thứ XII, TCN đã văn minh hơn rất nhiều so với thời Nghiêu, Thuấn, xã hội được
tổ chức lại hợp lý hơn nên chặt chẽ hơn, hoàn chỉnh hơn, theo thiết chế quân
quyền, phụ quyền và nam quyền. Tục lệ, lễ nghi, luân thường tới đầu nhà Chu, cũng được Chu Công Đán qui định thành một hệ thống
(có lẽ đóng vai trò như một thứ giống như luật pháp) mà đời sau gọi là đạo Nho
và Chu Công được tôn là ông tổ của nó. Đến thế kỷ VI, TCN, Khổng Tử tiếp thu,
ghi chép lại, mở rộng và làm sâu sắc thêm, đạt mức hoàn chỉnh như một học thuyết
thuần túy về xã hội, nhân sinh. Vì vậy mà tên tuổi Khổng Tử dần lấn át Chu Công và trở thành người sáng lập nên Nho gia. Hàn Phi
Tử từng nói: “Đạt tới mức cao nhất của Nho là Khổng Khâu”.
Theo Khổng Tử
thì một người đạo đức phải thấm nhuần được ngũ thường (năm đạo lý có tính vốn dĩ
bất biến trong mọi thời đại) là nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, và phải thể hiện được
trong đời sống các đức: trung, hiếu, tiết, nghĩa, cũng như: cần, kiệm, liêm, chính.
Nhưng tựu trung lại, các đức cốt lõi nhất mà cũng bao trùm nhất, vừa là nền tảng
vừa là giềng mối của mọi cái đức trong quan niệm đạo đức của Khổng Tử, chính là
đức nhân. Vì thế mà Phùng Hữu Lan gọi nó là “toàn đức”. Có thể hiểu nghĩa của
chữ nhân mà Khổng Tử nêu ra là gồm “ái nhân” (yêu thương con người) và “thiện
nhân” (làm điều tốt cho người). Đối với “ái nhân” thì Khổng Tử cho rằng phải
có mức độ và phải theo hướng ưu tiên từ gần đến xa, từ thân đến sơ và thậm chí
là phải biết ghét nữa. Trong sách Hiếu kính có viết: “Không yêu thân thích của
mình, mà yêu được người ngoài, ấy gọi là kẻ phản lại đức vậy. Không tôn kính thân
thích mình, mà tôn kính người ngoài, ấy là kẻ phản với lễ vậy”. Còn trong sách Luận Nhữ, Khổng Tử đề cập đến sự ghét như sau: “Chỉ người
có đức nhân mới có thể biết yêu người, mới có thể biết ghét người”, và: “Ta chưa
thấy kẻ quí trọng điều nhân ghét kẻ bất nhân. Kẻ quí trọng điều nhân thì thượng
tôn nó. Kẻ ghét điều bất nhân thì khi làm điều nhân, không để cho điều bất nhân
vướng vào mình”. Còn đối với “thiện nhân” thì Khổng Tử cho rằng muốn biết thế nào
là làm tốt cho người, phải dựa trên cơ sở suy từ lòng ta ra lòng người, bởi vì
cùng là con người cho nên mình muốn hay không muốn điều gì thì người cũng muốn
hay không muốn điều ấy. Ông nói: “Cái gì mình không muốn thì đừng làm cho người”.
Cũng trong Luận ngữ, có chuyện trước câu hỏi của Tử Cống - môn đồ của ông:
- Nếu có người
thi ân cho nhân dân và cứu giúp đại chúng thì người đó thế nào? Có thể gọi là
nhân được không?
Khổng tử đã đáp:
- Sao chỉ gọi là
người có nhân thôi? Phải gọi là bậc thánh chứ! Vua Nghiêu vua Thuấn cũng chưa làm
được vậy thay! Người có nhân, mình muốn tự lập thì cũng thành lập cho người, mình
muốn thành công thì cũng giúp cho người thành công. Biết từ bụng ta suy ra bụng
người, đó là phương pháp thực hành của người có nhân.
Có lẽ tiêu biểu
nhất cho cái quan niệm “thiện nhân” là câu sau đây: “Dĩ trực báo oán, dĩ đức báo
đức”, nghĩa là, lấy chính nghĩa, công minh mà đối xử với kẻ bất nhân, với oán cừu,
lấy đức nhân mà đáp đãi, tri ân với đức nhân, ơn ngãi.
Tóm lại, Khổng
Tử cũng kêu gọi yêu thương đồng loại, nhưng phải yêu thương trước, sau sao cho
phù hợp (từ thân đến sơ), và không ghét bỏ ai (kể cả kẻ bất nhân (nhưng chưa gây
điều ác?), chỉ ghét điều bất nhân, ghét kẻ gây ra điều ác (gây ra oán cừu).
Như vậy, về đại
thể, quan niệm đạo đức hay đức nhân của Khổng Tử là có tình có lý vì nó phù hợp
với tình cảm cũng như nguyện vọng của Đại chúng, nhất là lại xuất hiện trong thời
Xuân Thu - Chiến Quốc, thời loạn lạc, tương tàn hạng nhất trong lịch sử Trung
Hoa cổ đại. Tuy nhiên khi đề xướng ra một cách cụ thể những tiêu chí và hành động
nhằm thực hiện đức nhân trong đời sống xã hội thì ông đã có phần “quá đà”, xa rời
thực tiễn và do đó mà phạm không ít sai lầm. Nguyên nhân sâu xa, nôm na là thế
này: Khổng Tử đã không thấy được phú quí thì sinh lễ nghĩa nhưng lễ nghĩa thì
không sinh ra phú quí được (còn trong trường hợp nào đó mà thấy lễ nghĩa sinh
ra phú quí thì cái lễ nghĩa ấy chỉ có thể là… bất nhân!).
Ai mà không luyến
tiếc cái xã hội đại đồng, hồn nhiên vui thú trong an bình thời Nghiêu, Thuấn.
Song cái xã hội ấy đã quá xa mờ và hơn nữa, dù sao thì đời sống vẫn còn chìm
trong mông muội. Có lẽ đối với Khổng Tử, cái xã hội đáng luyến tiếc nhất, cái xã
hội đã làm cho ông mê hoặc, chính là xã hội phong kiến phân quyền Tây Chu vừa mới
trôi qua. Sau khi tiêu diệt nhà Thương, nhà Chu
thống nhất thiên hạ, làm vua các chư hầu, cương vực lãnh thổ mở rộng, vươn tới
tận biển Đông. Nhờ đưa ra được quyết sách hợp lý về chính trị và kinh tế mà tình
hình chính trị lắng dịu, tình hình kinh tế khởi sắc, tạo điều kiện cho xã hội
thời đầu Chu nhanh chóng trở nên cực thịnh, gặt
hái được nhiều thành tựu văn hóa, văn minh, đời sống của đại chúng nhân dân khấm
khá hơn, sung túc hơn và vì thế mà trong xã hội, hoạt động văn hóa cũng trở nên
sôi nổi hẳn trên mọi lĩnh vực, kích thích sức sáng tạo, làm cho hoạt động văn hóa
ấy ngày càng đa dạng, phong phú. Trong một điều kiện hoàn cảnh xã hội phồn vinh
như vậy, khi mà hầu hết con người đều được sống trong yên ổn, làm ăn được thuận
lợi dễ dàng, thì sự căng thẳng, gay gắt trong mưu cầu sống còn giữa người với
người sẽ bớt đi rõ rệt, thậm chí là lặn xuống chìm khuất, vì thế mà những biểu hiện
của mặt trái nhân tính trong xã hội cũng giảm thiểu, và nổi trội lên trong mối
quan hệ giữa người với người là sự hòa thuận hơn, thông cảm hơn, nhường nhịn hơn,
dung thứ hơn, và nói chung là có nhân văn hơn. Chính trong cái bối cảnh sán lạn
thái bình đó, Chu Công đã đúc kết, cân nhắc, hệ
thống lại và đề ra thành một bản văn, vừa có tính qui định về hoạt động văn hóa
trong xã hội, vừa có tính lý luận về một lối sống văn hóa mà mọi người nên theo
(hay phải theo?), nghĩa là như một học thuyết sơ khai về luân thường đạo lý mà
người đời sau gọi là đạo Nho.
So với cái xã hội
đầy ly loạn và tương tàn thời Xuân Thu thì rõ ràng, xã hội thời đầu Chu đã qua, dưới mắt Khổng Tử là cực kỳ tươi đẹp. Do đó mà
ông cũng cho rằng cái xã hội đó, cùng với thiết chế quân quyền của nó, là một mẫu
mực cần phải noi theo. Sách Luận Ngữ còn lưu lại câu nói của Khổng Tử: “Nhà Chu
nối dõi theo hai triều đại là nhà Hạ và nhà Ân, lễ văn rực rỡ thịnh lắm thay!
Ta theo nhà Chu”. Chắc hẳn là vì không thấy được
cái căn nguyên tự nhiên đóng vai trò tạo thời cơ dẫn đến sự hình thành nên cái
xã hội thịnh vượng đầu thời Chu (cũng như ở thời
Nghiêu, Thuấn), cho nên Khổng Tử đã tin rằng, có được cái xã hội tươi đẹp như vậy
là hoàn toàn nhờ vào tài đức của ông vua anh minh hay của những vị quan đầu triều
mà vua tin tưởng, trao cho trọng trách. Người có công rất lớn trong buổi đầu
thiết lập và củng cố nhà Chu là Chu Công. (Ông
là em của Chu Vũ Vương. Vũ Vương chết, Thành Vương nối ngôi lúc còn nhỏ nên Chu Công nắm quyền nhiếp chính. Chu Công là một người tài,
đề ra nhiều quyết sách quan trọng, phủ dụ được các nước nhỏ qui phục làm chư hầu,
mở rộng được lãnh thổ, kích thích được sản xuất, nhất là trong nông nghiệp, do đó
mà chấn hưng được đất nước và nhà Chu nhanh chóng
cường thịnh). Ngưỡng mộ Chu Công và cũng tin rằng nhờ thực hành được theo hệ thống
“lễ, nhạc” của Chu Công mà xã hội nửa đầu thời Tây Chu
mới trở nên tươi đẹp một cách mẫu mực, cho nên Khổng Tử không những tiếp thu trọn
vẹn không phê phán cái hệ thống ấy mà còn phát triển nó lên thành một học thuyết
thực sự, tương đối hoàn chỉnh về nhân sinh, về đạo đức và chỉ ra rằng chỉ có
trau dồi đạo đức (theo ông quan niệm), hành động nêu cao cái tinh thần đạo đức ấy
trong sinh hoạt, đời sống (nghĩa là phải đáp ứng được những chuẩn mực hình thức
mà ông cho là thuộc về đạo lý vốn có của nhân sinh), thì lễ, nhạc trong xã hội
mới được thực thi và đó là lúc xã hội trở nên tốt đẹp.
Chính vì khởi
phát từ một nhận thức cơ sở sai lầm mà phương châm sống đạo đức do Khổng Tử đề
xướng bị bao phủ bởi tính hình thức (lễ nghi), tính duy ý chí đến mức cực đoan
(biết không làm được vẫn làm), tính xa rời thực tế cuộc sống (làm nhiều khi chỉ
vì được tiếng là “quân tử”), do đó mà cũng hàm chứa tính mù quáng cũng như đầy tính
lý tưởng và là một “thách đố” thực sự đối với ngay cả những người có tâm huyết,
nỗ lực để có được lối sống ấy. Đọc lại cuộc đời của Khổng Tử mà thấy chính bản
thân ông cũng không thực hành được cái lối sống do mình hô hào.
Mặc Tử là người
không theo tư tưởng xuất thế, vô vi của Đạo Gia mà theo tư tưởng nhập thế, hữu
vi của Nho Gia và suốt cuộc đời ông, đúng là ông đã sống theo tư tưởng chủ đạo ấy:
hoạt động quên mình trong thiên hạ, cái gì thấy lợi cho xã hội là làm, làm không
biết mệt, không nề hà hiểm nguy. Chẳng hạn, khi hay tin nước Lỗ chuẩn bị đem quân
đi đánh nước Trịnh, Mặc Tử đã đến dùng tài hùng biện của mình để ngăn cản Dương Văn Quân - vua nước Lỗ. Lại nữa, khi biết được Công
Thâu Ban đã chế tạo được cho nước Sở cái thang mây và nước Sở chuẩn bị đem nó
theo để đánh nước Tống, Mặc Tử đã tức tốc từ nước Tề, đi suốt 10 ngày 10 đêm đến
đất Dĩnh (kinh đô nước Sở) tìm gặp Công Thâu Ban nhờ giúp ngăn cản vua Sở thực
hiện việc đó. Công Thâu Ban phục lời biện giải của Mặc Tử nên đã đưa Mặc Tử đến
yết kiến vua Sở. Vua Sở nghe Mặc Tử hùng biện cũng phục luôn, bèn thôi việc đánh
nước Tống. Cao đồ phái Nho gia là Mạnh Tử, dù đả phá gay gắt học thuyết Kiêm Ái
của Mặc Tử thì cũng phải ca ngợi nhân cách của ông: “Họ Mặc gồm yêu, mòn trán,
lỏng gót, cái gì lợi cho thiên hạ là làm”. Trang Tử, cũng là một cao đồ cùng thời
với Mạnh Tử nhưng theo Lão gia, tuy cho học thuyết của Mặc Tử là “… hay thật,
nhưng thực hành ra tài không được (…) Ấy là bậc trên của sự loạn nhưng dưới sự
trị vậy” cũng phải thốt lên: “Mặc Tử là người tốt ở gầm trời. Muốn tìm không thể
được. Thật là tài sĩ vậy!”.
Nếu chỉ xét đơn
thuần trên bình diện giáo huấn luân lý thì học thuyết của Nho Gia mang tính rất
tích cực. Nó khuyến khích con người ta sống ngay thẳng, kiên cường, có khí phách.
Trai thời loạn muốn tìm một lẽ sống để lập thân và hơn nữa là giúp đời, dễ tin
theo những chỉ dạy của Nho Gia. Mặc Tử là người có hoài bão lớn, có lẽ thuở đầu
đời đã chọn tu thân để theo nghiệp Nho Gia và đã tiếp thu trọn vẹn những cơ sở
lý luận của học thuyết ấy. Tuy nhiên, những biểu hiện thái quá, khiên cưỡng và
rườm rà vô tích sự trong thực hành đạo đức theo quan niệm của Khổng Tử, giữa một
thời cuộc nhiễu nhương, đầy những đau thương thống khổ không kẻ đoái hoài có lẽ
đã tác động rất mạnh đến tâm hồn Mặc Tử, làm cho ông từ một người tin theo trọn
vẹn thành người tiếp thu một cách có phê phán Nho Gia và làm xuất hiện một trường
phái biện giải đạo đức mới gọi là Mặc Gia. Do đó, có thể nói Mặc Gia có nguồn gốc
xuất phát từ Nho Gia và là một trường phái của cái tư tưởng nhập thế hữu vi.
Mặc Gia cũng lấy
cái cốt lõi của đức nhân (yêu thương con người, làm việc thiện) làm nền tảng của
đạo đức, làm tiêu chuẩn để truy xét đạo đức. Ở đây, nếu chỉ nhìn lướt qua thì Mặc
Tử cũng đồng thuận với Khổng Tử. Thế nhưng, nếu đi sâu tìm hiểu hơn nữa thì
quan niệm giữa hai ông là khác biệt. Trong khi theo Khổng Tử, yêu thương phải từ
thân đến sơ, yêu mình rồi mới tới yêu người và đã có yêu thì phải có ghét, thì
Mặc Tử kêu gọi phải gồm yêu tất cả như nhau không phân biệt thân, sơ (Kiêm ái).
Theo quan niệm của Khổng Tử, làm điều thiện cho người tức là làm điều tốt lành,
điều gọi là “nghĩa”. Việc “nghĩa” là việc làm phù hợp với đức nhân và như vậy,
muốn biết thế nào là “nghĩa” thì phải thấm nhuần “ngũ thường” và trước hết là
“cái gì mình không muốn thì cũng đừng làm cho người”, mình không muốn đau thì cũng
đừng làm người khác đau. Mặc Tử đả phá cái quan niệm ấy vì ông cho rằng trong
thiên hạ, biết việc làm nào là tốt hay xấu, là nghĩa hay không nghĩa, hơn nữa,
làm sao biết được cái mình không muốn thì người khác cũng không muốn (mình chán
thịt không lẽ ai cũng chán thịt!?). Theo Mặc Tử, quan niệm “nghĩa” của Khổng Tử
là mơ hồ, hành động để thể hiện: Trung, hiếu, tiết, nghĩa nhằm nêu cao đức là
không thiết thực (!). Trong “Trung Hoa cổ đại triết học sử” của Hồ Thích (ở thiên
“Công Mạnh”) có đoạn:
“Tử Mặc Tử hỏi
một nho gia: Sao lại làm nhạc?
Nhà nho đáp: Nhạc
để làm nhạc.
Tử Mặc Tử nói:
Người vẫn chưa trả lời câu hỏi. Nay ta hỏi: Sao lại làm nhà?
Người nói: Mùa đông
tránh rét, mùa hè tránh nắng, nhà để cách biệt con trai con gái.
Như thế, người đã
bảo ta cái cớ làm nhà.
Nay ta bảo: Cớ
sao làm nhạc?
Người bảo: Nhạc
để làm nhạc.
Như thế cũng như
hỏi: Cớ sao làm nhà mà đáp: nhà để làm nhà”.
Như vậy, Mặc Tử
quan niệm đạo đức chính là Kiêm ái và một người đạo đức thì trong cư xử, hành động
phải tỏ rõ lòng kiêm ái ấy một cách thiết thực, và muốn thiết thực thì phải hiểu
“nghĩa” là “lợi”, làm việc nghĩa tức là làm ích lợi cho người, “đói thì chia ăn,
rét thì chia mặc, ốm đau thì thăm nuôi, chết thì chôn cất”, hành thiện là cứu
nhân độ thế, “cái gì có lợi cho thiên hạ là làm” không nề hà, câu nệ. Trong “Kiêm
ái hạ”, Mặc Tử viết:
“Nay ta đương tìm
lấy cách lấy được điều lợi cho thiên hạ mà làm, thì lấy “Kiêm” làm chính, làm
phải. Đó là đem cái tai thông, mắt tinh sáng mà trông, nghe cho nhau. Đó là đem
cái chân tay khỏe mạnh mà làm lụng cho nhau. Kẻ có đạo thì cùng dạy bảo lẫn
nhau. Cho nên những người già, góa vợ không con, có kẻ nuôi nấng trông nom cho
trọn tuổi già. Những kẻ nhỏ yếu mồ côi cha mẹ, có chỗ nương tựa cho lớn cái thân.
Nay quen lấy “Kiêm” làm chuẩn tắc, làm chính nghĩa thì lợi ra như thế”.
Trong “Kiêm ái
thượng”, ông viết:
“Nếu khiến thiên
hạ gồm yêu nhau, ai ai cũng yêu cha anh và vua như yêu thân mình, ghét làm điều
bất hiếu, cha anh coi con em mình, vua coi bề tôi cũng như thân mình, ghét những
điều bất từ, thì điều bất hiếu bất từ sẽ không có. Còn có trộm cướp nữa chăng? Đã
coi nhà người như nhà mình thì ai ăn trộm? Đã coi thân người như thân mình thì
ai ăn cướp? Cho nên trộm cướp sẽ không có nữa. Còn có đại phu làm loạn nhà
nhau, chư hầu đánh lẫn nước nhau nữa chăng? Đã coi nhà người như nhà mình thì
ai làm loạn? Đã coi nước người như nước mình thì ai đánh nhau? Cho nên cái nạn đại
phu làm loạn nhà nhau, chư hầu đánh lẫn nước nhau, sẽ không còn nữa. Nếu làm được
cho thiên hạ gồm yêu lẫn nhau, nước nọ với nước kia không đánh lẫn nhau, nhà nọ
với nhà kia không làm loạn lẫn nhau, trộm cướp không có, vua tôi cha con đều hiền
từ, thì thiên hạ trị. Cho nên thánh nhân làm việc cai trị thiên hạ, không thể
không cấm sự ghét và khuyên sự yêu”.
Có thể thấy vì
gốc xuất phát của Mặc gia là Nho gia và Nho gia lại được xây dựng nên từ nhận
thức cơ sở sai lầm của Khổng Tử, cho nên Mặc gia dù có khác Nho gia về cách thức
yêu thương người (mà Nho gia hợp lý hơn) và cách thức hành đạo (mà Mặc gia thiết
thực hơn), thì cả hai thuyết ấy đều cực đoan và duy ý chí như nhau. Chúng đóng
vai trò như hai giáo huấn về đạo đức, về lối sống đẹp đẽ, cao thượng ở đời, đồng
thời thuyết giảng rằng khi ai ai cũng sống có đạo đức như chúng đã chỉ ra thì lúc
đó xã hội sẽ trở nên tươi đẹp như thời Nghiêu, Thuấn, như thời đầu Chu mà mọi
người hằng mơ ước, khát vọng. Nếu có thể gọi cái xã hội cao đẹp theo quan niệm
Khổng Tử là “xã hội chính danh - lễ nhạc” thì cũng có thể gọi cái xã hội cao đẹp
theo quan niệm Mặc Tử là “xã hội kiêm ái - đại đồng” và cả hai xã hội ấy vì đều
được ý chí thuần túy sáng tạo ra, bất chấp những đòi hỏi có nguồn gốc tự nhiên
và mù quáng mà tối thượng là đòi hỏi sống còn, tồn tại một cách cố hữu ở mỗi
con người, nhất là vào giai đoạn đấu tranh mưu cầu cuộc sống trong nội bộ xã hội
đã trở nên thường xuyên căng thẳng, và nhiều lúc là đặc biệt gay gắt, cho nên đều
chỉ là ảo huyền, không tưởng, và nếu xét ở góc độ là những biểu hiện hoạt động
của mặt phải nhân tính thì có tính lý tưởng cao đẹp cho những người có lòng trắc
ẩn phấn đấu hướng về để rồi qua đó mà phần nào kiềm chế được sự hỗn loạn xã hội,
phần nào làm giảm bớt nạn đày ải, giết chóc lẫn nhau gây thống khổ, đau thương
cho con người, nhất là con người thuộc tầng lớp quần chúng cần lao.
Như một tất yếu
lịch sử, sự thịnh - suy của một xã hội phong kiến là không thể tránh khỏi. Nhà
Chu cũng vậy, sau một thời gian phát triển thịnh vượng (thời Tây Chu) thì bước
vào suy tàn (thời Đông Chu). Thời Đông Chu gồm hai thời đoạn Xuân Thu và Chiến Quốc. Thời Xuân
Thu - Chiến Quốc xảy ra triền miên các cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn giữa
các chư hầu. Nguyên nhân của chiến tranh, không thể khác, chính là do cuộc đấu
tranh sinh tồn trong nội bộ xã hội đã bị kích hoạt đến mức cực đoan bởi tác động
đồng thời của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, nhưng chung qui lại là sự sa
sút nghiêm trọng của nền kinh tế, nhất là sự suy giảm sản lượng nông nghiệp không
thể khắc phục và sự tham muốn vô độ của tầng lớp quí tộc chóp bu, của vua chúa ở
một số nước chư hầu. Mục đích của cuộc tranh hùng triền miên và khốc liệt giữa
các chư hầu thời Xuân Thu - Chiến Quốc xét cho cùng thì cũng vì danh lợi: tránh
bị tiêu vong, chiếm đoạt nhau để đảm bảo sống còn và liền theo là cả giàu sang
phú quí. Cuộc chiến tranh đó làm cho đời sống của đại chúng thời Đông Chu chìm vào thống khổ, đau thương.
Tình cảnh đó làm
nổi bật hơn bao giờ hết trong lòng xã hội cái nguyện vọng thiết tha được sống yên
ổn làm ăn, vui hưởng thái bình. Nỗi thống khổ, đau thương cùng cực và cái nguyện
vọng thiết tha ấy của đại chúng, ngay từ thời đoạn Xuân Thu, đã khuấy động mạnh
mẽ lòng người, gây sự chú ý đặc biệt đối với mặt phải nhân tính (đau xót cho thân
phận con người), từ đó mà làm xuất hiện một hàng ngũ những bậc chí sĩ, có tâm
huyết với thời cuộc, ưu tú về trí tuệ, tích cực đi sâu tìm hiểu cái nguyên nhân
nào dẫn đến chiến tranh li loạn làm băng hoại, bi đát xã hội, để rồi đề xướng
ra phương cách thực hiện nhằm loại trừ chiến tranh, nhằm làm cho mọi người
trong thiên hạ đều được sống trong yêu thương, an ổn, thái bình. Chính vì thế mà
thời Xuân Thu - Chiến Quốc là thời xuất hiện đột phá hàng loạt trường phái triết
học với “trăm hoa đua nở” các học thuyết, mà chủ yếu là bàn về xã hội nhân
sinh, và người đời sau cũng gọi đó là thời “Bách gia chư tử” (hiểu tạm là “Trăm
nhà hiền triết”?).
Trong “Bách
gia” ấy, tiêu biểu nhất, nổi bật nhất là Đạo Gia, Nho Gia và Mặc Gia. Có thể
cho rằng Nho Gia và Mặc Gia là “cùng phe”, đều chủ trương nhập thế, hữu vi thì Đạo
Gia là “phe” tương phản với hai “phe” ấy và chủ trương xuất thế, vô vi. Có thể hiểu
nhập thế, hữu vi là tham gia vào thời cuộc, tích cực tác động vào thời cuộc để
giúp đời. Theo cách như thế, nhiều người đơn giản hiểu xuất thế, vô vi là rời bỏ
thời cuộc về ở ẩn, không làm bất cứ điều gì dính líu tới thời cuộc, nghĩa là sống
một cuộc đời thụ động, yếm thế. Hiểu như thế là hoàn toàn sai lầm, không đúng ý
của Lão Tử. Theo Lão Tử, vô vi không có nghĩa là không làm gì mà chỉ là trông
thì tưởng như không làm gì (giống Tự Nhiên!) mà hóa ra là làm tất cả (vô vi vô bất vi), nghĩa là
vô vi mà hóa ra còn hữu vi hơn cả Khổng, Mặc và do đó xuất thế mà hóa ra nhập
thế hơn cả Khổng, Mặc. Chúng ta cho rằng cái chủ trương ấy là cực kỳ trác tuyệt,
bởi vì nó hàm chứa tính nguyên lý (hợp với Tự Nhiên), đóng vai trò kim chỉ nam cho việc lựa chọn
phương thức, cách thức, biện pháp phù hợp nhất về đối nhân xử thế trong tất cả
mọi lĩnh vực, từ sinh hoạt thường nhật, kinh tế, chính trị cho đến quân sự. Chắc
chắn rằng không phải Lão Tử nêu ra chủ trương đó một cách tùy hứng cảm tính hoặc
chỉ đơn thuần là để đả phá chủ trương nhập thế, hữu vi của Khổng, Mặc, mà rút
ra được là từ nhận thức xác đáng về tự nhiên (Đạo) của ông. Hơn nữa, ông còn
cho rằng, con người (dù có sáng tạo), chỉ khi làm biết tuân theo tự nhiên, phù
hợp với tự nhiên thì mới đạt được thành quả. Trong Đạo Đức Kinh, ông viết:
“Đạo, bản thể
thì hư không mà tác dụng thì cơ hồ vô cùng, nó uyên áo mà tựa như làm chủ tể vạn
vật.
Nó không để lộ
tinh nhuệ ra mà phân định, gỡ được rối loạn, mà tỏa sáng khắp nơi, hòa đồng với
trần tục. Nó thâm trầm, sâu kín, cứ như không hiển hiện mà thực sự trường tồn”.
Đoạn khác:
“Đạo vĩnh cửu
thì không làm gì (vô vi - tĩnh lặng như
không) mà không gì không làm (vô bất vi - làm xuất hiện vạn vật - hiện tượng,
chuyển hóa và biến đổi không ngừng)”.
Đoạn khác nữa:
“Đạo vĩnh cửu
không có tên, chất phác (tự nhiên như thế), tuy ẩn vi mà thiên hạ không coi thường
nó được. Các bậc vương hầu biết giữ nó thì vạn vật sẽ tự động qui phục”.
Và:
“Người bắt chước
đất, đất bắt chước trời, trời bắt chước Đạo, Đạo bắt chước tự nhiên”. (Dựa vào đây
chúng ta nói: loài người bắt chước thế giới sinh vật, thế giới sinh vật bắt chước
thiên nhiên, thiên nhiên bắt chước Vũ Trụ, Vũ Trụ bắt chước Tự
Nhiên, và… nghe cũng tàm tạm!).
Như vậy, quan
niệm xuất thế của Lão Tử không phải là rời bỏ chính trường, quay lưng với thời
cuộc như nhiều người sau này lầm tưởng, không phải như kiểu xuất gia đi tu tiên,
tu phật của Đạo Giáo, Đạo Phật (chúng ta cho rằng Đạo Giáo và Đạo Phật là hai
nhánh có nguồn gốc xuất phát từ Đạo Gia và bị biến tướng thành tôn giáo), mà là
tìm cách làm mất danh, dấu tên tuổi đi (tạo ra hư danh, tên gọi mới), dấu bặt
tung tích đi, lẩn khuất đâu đó, thế thôi chứ vẫn tham gia vào thế sự, tưởng đã ở
ngoài mà thực ra vẫn ở trong chính trường, tưởng quay lưng mà thực ra vẫn đối
diện với thời cuộc, âm thầm tác động tích cực đến chính trường, thời cuộc theo
cách của Đạo: tùy cơ mà biến, tùy tâm mà động, không bằng cách này thì bằng cách
khác, không theo hướng này thì theo hướng khác, uyển chuyển, tự nhiên như Đạo
chứ không máy móc, cương cường, biết không thể được cũng cố làm như Nho, Mặc. Có
thể nói học thuyết của Bách gia, chỉ duy nhất học thuyết của Đạo Gia được coi là
một thực thể triết học hoàn chỉnh và thống nhất vì nó bao gồm cả học thuyết về
tự nhiên (Đạo: vừa là thực thể Tồn Tại, vừa là nguyên lý Tự Nhiên) và học thuyết
về xã hội, nhân sinh. Hai học thuyết đã hợp thành một học thuyết chặt chẽ, thống
nhất vĩ đại, không thể tách rời, mà học thuyết về tự nhiên là tiền đề của học
thuyết về xã hội, nhân sinh, và học thuyết về xã hội, nhân sinh lấy học thuyết
về tự nhiên làm cơ sở để dựa vào đó mà luận giải mọi vấn đề thuộc mọi lĩnh vực
nảy sinh trong đời sống con người, trong vận động xã hội, cả việc đề ra phương
hướng, cách thức, biện pháp giải quyết. Điều đặc biệt cần nhấn mạnh là dù học
thuyết của Đạo Gia, do hạn chế thời đại mà còn nhiều chỗ ngây thơ, lý giải hời
hợt, kiệm lời như một phác thảo, nhưng về đại thể thì lại rất đúng, không những
là đúng nhất trong lịch sử triết học Trung Hoa mà còn có khả năng là đúng nhất
trong toàn bộ lịch sử triết học thế giới (đúng hơn cả học thuyết Mác-Lênin!), từ xưa đến nay.
Đạo Gia có nguồn
gốc không? Có! Tuy Lão Tử (hoặc cũng có thể một người đã ẩn danh dưới tên gọi Dương
Chu - người Chu ở Lạc Dương, chăng?) là người
sáng lập thì ông cũng không thể “bất thình lình” sáng tạo ra được mà phải theo
con đường tất yếu: kế thừa có chọn lọc những quan niệm duy vật trước đó, đúc kết
chúng lại, mở rộng và làm sâu sắc thêm thành một học thuyết triết học hoàn chỉnh
về tự nhiên - xã hội.
Xã hội thịnh vượng
đầu thời Chu đã tạo điều kiện thúc đẩy phát
triển và làm sôi nổi các hoạt động trong lĩnh vực văn hóa và tinh thần của con
người ở đó. Trong hoạt động tinh thần, xuất hiện sự chú tâm nhiều hơn trước về
những hiện tượng vận động của thiên nhiên, về những diễn biến trong thế giới
sinh vật cũng như về cuộc sống con người và cố gắng giải thích chúng, tìm hiểu
hơn nữa những nguyên nhân tạo ra chúng. Quá trình đó làm cho những nhận thức về
tự nhiên, xã hội đã kế thừa được từ thời Ân Thương nhanh chóng được phát triển
thêm và đạt đến mức độ sâu rộng hơn hẳn. Có thể vì thế mà trong thời Tây Chu, những thuật ngữ như âm, dương, lưỡng nghi, ngũ hành,
tứ tượng, bát quái, thiên, đế,… đã được dùng phổ biến trong những luận giải về
tự nhiên xã hội. Trên cơ sở chữ viết đã được hoàn thiện thêm một bước quan trọng
mà thời đó cũng đồng thời những bản văn manh nha tính trước tác, ghi chép lại
những truyền khẩu dân gian, những luận giải đó, có những bản văn là tiền thân của
Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Dịch sau này.
Có lẽ thuật ngữ
tứ tượng, bát quái đã có từ thời Ân Thương, được Văn Vương tiếp thu, nghĩ ra cách
biểu diễn bằng hai vạch liền (“”, dương) và đứt (“”, âm). Lúc đầu, có lẽ chúng chỉ có ý nghĩa nào
đó trong lĩnh vực quân sự, như thế trận, cách hành binh chẳng hạn, về sau được
dùng trong lịnh cực bói toán để từ đó phát triển dần; rồi được ghi chép lại thành
sách tiền thân của Kinh Dịch. Tương tự, thuật ngữ "ngũ hành" cũng đã xuất hiện từ
thời Ân Thương, dùng để chỉ cái số lượng tiền định, được ấn định một cách huyền
linh bởi tự nhiên và con người phải theo đó mà đề ra nguyên tắc, cách thức thiết
lập nên xã hội và hành động sống trong xã hội. Đến thời Tây Chu, ý nghĩa "ngũ hành"
dù được làm cho sâu rộng thêm (qui vạn vật trong thiên hiên thành năm hình thể
vật chất trong thiên nhiên thành năm loại: Kim (núi), Mộc (cây, gỗ), Thủy (nước),
Hỏa (lửa), Thổ (đất)), thì vẫn chưa có biểu hiện (hoặc mới manh nha biểu hiện)
dùng nó để giải thích những vận động, chuyển hóa, biến đổi trong thiên nhiên.
Trong thiên Thiên Vận (sách Nam Hoa Kinh) của Trang Tử có đoạn:
“Vu Hàm Siêu viết:
Lại đây! Ta bảo
mi: Trời có sáu cực năm thường. Các đế vương thuận đấy thì bình trị, trái với đấy
thì xấu dữ. Chín loại trong Lạc Thư trị nên, đức đủ soi xuống dưới trần thế,
thiên hạ đội lấy đức ấy. Thế gọi là Thượng Hoàng”
Trong Kinh Thư
Cao Dao Mô có viết:
“Người ta đại
diện làm thiên công. Trật tự cửa Trời có giềng mối quan hệ làm ngay chính năm
quan hệ của ta, năm mối sâu dày thay! Trật tự của Trời có lễ, tự ta năm lễ có
phép thường thay! Cùng nhau kinh sợ hiệp hòa ở trong tay! Thiên mệnh cho kẻ có đức
và có năm chức phục, năm huy chương. Trời phạt kẻ có tội và có năm hình pháp, năm
cách áp dụng vào đấy. Chính sự đẹp thay, đẹp thay!
Còn trong Kinh
Thi Đại Nhã thì viết:
“Trời sinh ra dân
chúng, có vật là có phép tắc, dân cần giữ đạo thường, hãy yêu lấy cái đức tốt ấy”.
Như chúng ta từng
phán đoán thì cội rễ xuất phát của tứ tượng, bát quái và ngũ hành là Hà Đồ - Lạc
Thư. Hà Đồ thuở đầu tiên chỉ là cái dạy cách tính toán (cộng, trừ), đóng vai trò
như một “sách” toán (và rất có thể là cuốn sách toán đầu tiên của nhân loại). Đồ
rằng đã có một nền văn minh đồ đá-gỗ xuất hiện từ rất sớm ở đâu đó trong khu vực
trung du Bắc Bộ Việt Nam và Nam Trung Quốc, nhưng nhiều khả năng hơn cả là ở
khu vực Thanh Hóa - Hòa Bình của Việt Nam, nơi được cho là phát tích đầu
tiên của nghề trồng lúa nước trên thế giới. Chính nền văn minh này đã sáng tạo
ra Hà Đồ. Đến thời Phùng Nguyên - Lạc Long Quân thì Hà Đồ mất hẳn công dụng tính
toán và trở thành như một vật thiêng, ẩn chứa huyền bí về chuyện trời - đất của
tổ tiên truyền lại. Bước vào thời Hùng Vương thì xuất hiện thêm Lạc Thư - một
biến thái của Hà Đồ và cả hai trở thành biểu tượng về trời - đất, rồi được coi
như bộ sách đá giảng giải về sự “khai thiên lập địa”, cuối cùng thì đóng luôn cái
vai trò là cẩm nang xây dựng một thiết chế xã hội vững mạnh theo hình thức có
Thiên có Đế. Nếu quả thực Hà Đồ - Lạc Thư là do người Lạc Việt sáng tạo ra thì
có lẽ đến thời nhà Ân hoặc đầu thời Chu nó mới được truyền bá sáng Trung Quốc
(chứ không phải vào thời vua Nghiêu như có lần chúng ta đã giả định) và trở thành
báu vật vương triều ở đó.
Chắc rằng các
thuật ngữ âm, dương, lưỡng nghi không xuất phát từ Hà Đồ - Lạc Thư, nhưng vào
thời Tây Chu đã được sử dụng phổ biến. Âm và dương là tên gọi hai thế lực tương
phản nhau trong Vũ Trụ. Sự tồn tại, tương tác, chuyển hóa lẫn nhau của hai thế
lực này chính là căn nguyên, giềng mối của mọi hiện tượng nảy sinh, mất đi, vận
động, biến hóa vạn vật trong thiên nhiên. Có lẽ quan niệm đó đã rất thịnh hành
vào nửa cuối thời Tây Chu và trở thành độc tôn,
đóng vai trò như một thuyết triết học sơ khai nhằm giải thích vận động của tự
nhiên. Phùng Hữu Lan trong “Trung Quốc triết học sử” có viết:
“Ngay từ cổ thời
cũng đã có nhiều cố gắng giải thích hiện tượng Vũ Trụ bằng thuyết âm dương, hai
lực đại diện cho giống cái và đực, tối và sáng, mềm và rắn, tĩnh và động chống đối
nhau. Sau này, nhất là trong quan niệm Vũ trụ Dịch, người ta giả định có sự hỗ
tương hành động của hai lực Âm - Dương mà sinh ra tất cả hiện tượng trong Vũ Trụ.
Giải thích như thế đã thấy có ở ngay từ trong sách Quốc Ngữ vào khoảng năm 780
TCN khi xảy ra việc động đất ở ba lưu vực thuộc địa phận nhà Chu”.
Đến thời Xuân
Thu thì Kinh Dịch xuất hiện trên cơ sở kết hợp âm dương - lưỡng nghi với tứ tượng
- bát quái, đồng thời cũng manh nha xuất hiện một thuyết mới giải thích sự tồn
tại và biến hóa của vạn vật - hiện tượng trong thiên nhiên gọi là thuyết ngũ hành.
Thuyết ngũ hành có tính vật lý hơn là triết học. Đến thời Hán thì thuyết âm dương
và thuyết ngũ hành hợp nhất thành một.
Quan niệm về sự
vận hành của Vũ Trụ theo âm dương lưỡng nghi có mang tính kết thừa không, nghĩa
là nó có phải là sự phát triển lên từ một quan niệm cổ xưa hơn nữa không? Chúng
ta cho là có và đó chính là cái ý niệm lưỡng phân lưỡng hợp, tương tác tương thành,
đã nhận thức được qua quá trình quan sát và chiêm nghiệm ra là đặc tính cơ bản
của hiện thực thiên nhiên, đó là tính tương phản, trái ngược từng đôi một như:
trời cao - đất thấp, nắng - mưa, nóng - lạnh, đực - cái…, và dù trái ngược nhau
thì lại rất cần đến nhau, khi tác hợp nhau thì gây ra sự biến hóa, tái tạo. Nhất
là sự tương phản đực - cái trong thế giới sinh vật, khi tìm đến nhau để giao hợp
thì làm nảy sinh sự sống mới, duy trì giống loài, và bên cạnh sự tồn sinh ấy còn
làm cho tinh thần con người đạt đến trạng thái khoan khoái nhất của đời sống: cực
lạc.
Nếu vào thời tiền
sử thực sự đã từng tồn tại cái ý niệm ấy thì nó xuất phát lần đầu tiên ở đâu trên
thế giới? Phải chăng là ở Ấn Độ vì đó là nơi có tục thời linga - yôni (dương vật
- âm vật) từ rất sớm, vào khoảng 1500 năm TCN, cùng với sự hình thành của tín
ngưỡng Bàlamôn(sau này gọi là đạo Hindu hay Ấn Độ giáo)? Tục thời linga - yôni
có tính thiêng liêng đặc biệt đối với người Ấn Độ. Họ coi linga - yôni là nguồn
gốc của mọi sáng tạo. Trong “Lịch sử văn minh Ấn Độ”, W. Durant viết:
“Người Ấn không
thích gì bằng có con, dẫu cảnh Niết bàn, họ cũng không ước ao bằng. Vì vậy một
phần mà họ trong cái khả năng tình dục, thời những vật tượng trưng sự sinh sản,
con cái đầy nhà. Nhiều dân tộc khác cũng đã có một thời thờ dương vật, duy ở Ấn
là người ta thời cái đó suốt từ thời thượng cổ tới thế kỷ XX, không lúc nào gián
đoạn. Shiva là thần, mà dương vật là hình ảnh, các Trantra (Chân ngôn) là kinh
sách. Shakai, tức năng lực sinh hóa, sáng tạo của Shiva có khi qui cho nữ thần
Kali (vợ Shiva), có khi là một âm hộ của Shiva, thế là Shiva có cả âm lẫn dương
mà người ta tượng trưng bằng hai ngẫu tượng gọi là yôni và linga, tức là âm hộ
và dương vật. Ở Ấn Độ, nơi nào cũng thấy dấu vết của sự thờ phụng sinh thực khí
đó: khi thì là những dương vật trong các đền ở Népal, ở Benares…,
khi thì là những linga vĩ đại ở các đền thờ Shiva, rồi những đám rước dương vật
long trọng, những hình dương vật người ta đeo ở cổ, ở cánh tay. Ngay hai bên đường,
cũng dựng các linga, người Ấn cầm trái dừa đã lột vỏ, đập mạnh vào để tưới
linga, đó là một cách dâng lên vật cho linga (…).
(…) Hình như dân
chúng đã từ lâu rồi không nghĩ tới tính cách tượng trưng sinh thực khí của các
vật đó nữa, chỉ thấy đó là một cách linh thiêng tổ tiên truyền lại để hình dung
quyền năng của thần Shiva (…). Trong mọi sự thờ phụng, sự thờ phụng thần Shiva
là có tính cách nghiêm trang nhất, khắc khổ nhất, và phái thờ linga là phái
nghiêm cách nhất ở Ấn Độ”.
Phải chăng linga
- yôni là cặp biểu tượng của tạo hóa thiêng liêng và tục thờ phụng đó xuất hiện
là nhờ có ý niệm lưỡng phân lưỡng hợp, tương tác, tương thành? Nếu thế thì cũng
có thể chọn những cặp vật khác, thậm chí là “hay” hơn như trời - đất, lửa - nước…
làm biểu tượng cho sự tạo hóa chứ cứ gì phải dùng hai vật có tính kể ra cũng tầm
thường và thậm chí không lấy gì làm thơm tho ấy? Hơn nữa sao không thấy mảy may
cái ý niệm ấy được thể hiện ở đâu cả trong Kinh Vêda? Vậy thì ít có khả năng cái
ý tưởng về tự nhiên có tính khái quát cao độ đó xuất hiện đầu tiên ở Ấn Độ?
Nhưng sao không
cho rằng nó cũng có thể xuất hiện đầu tiên ở Trung Quốc? Ít có khả năng vì tương
tự như trên, không thấy nó thể hiện trong Kinh Thi, Kinh Thư. Đến đây, chúng ta
tin vào suy đoán: cái ý tưởng cho rằng thiên nhiên hoạt động theo nguyên lý lưỡng
phân lưỡng hợp, tương tác tương thành ấy xuất hiện lần đầu tiên ở Việt Nam và
qua thông thương, giao lưu văn hóa mà được truyền bá sáng Trung Quốc vào khoảng
cuối thời Ân - đầu thời Chu. Trong “Lịch sử tư tưởng Việt Nam”, Huỳnh Công Bá có viết:
“Từ Vũ Trụ luận,
tín ngưỡng cũng như nghệ thuật của cư dân Đông Sơn, có thể nhận ra một đặc điểm
của tư duy thời này là tính lưỡng phân - lưỡng hợp. Tư duy lưỡng phân - lưỡng hợp
(dualisme) là một loại tư duy phân loại chia hai - hợp một đã xuất hiện khá lâu
(từ thời đại đồ đá) và có thể nhận ra ở nhiều vùng khác nhau trên thế giới. Nhưng
ở Đông Nam
Á, tư duy lưỡng phân - lưỡng hợp tồn tại lâu dài, tạo thành một đặc điểm khá nổi
bật. Tư duy lưỡng phân - lưỡng hợp của người Đông Sơn được biểu hiện ở nhiều cặp
biểu tượng đối lập như Trời - Đất, đực - cái, cha - mẹ, trên - dưới, cao - thấp,
nóng - lạnh, sáng - tối, núi - biểu, Long Quân (rồng) - Âu Cơ (chim)…”
Và đoạn khác:
“Một biểu hiện
rõ nét của tín ngưỡng phồn thực trên đồ đồng Đông Sơn là hình ảnh những cặp nam
nữ giao hoan trên nắp thạp đồng Đào Thịnh, những hình dương vật và âm vật nằm
giữa mặt trống đồng được cách điệu hóa bằng các tia sáng mặt trời và các hoa văn
lông công xen giữa các tia sáng. Tục thờ âm vật và dương vật trong các nghi lễ
cầu mùa của cư dân Đông Sơn vẫn còn được bảo lưu trong tục rước nõ nường ở một
số làng xã Bắc Bộ về sau”.
Quan sát trống đồng
Ngọc Lũ, chúng ta cho rằng có thể thấy rất rõ ràng cái ý niệm về một thế giới lưỡng
phân tương phản, lưỡng hợp tương thành đã trở nên sâu sắc, tín ngưỡng thờ cúng
tổ tiên (ý niệm về hai thế giới) và nghi lễ phồn thực đã trở nên phổ biến trong
xã hội. Như vậy, gốc xuất phát của ba hiện tượng ấy phải ở vào thời kỳ xa xưa hơn
đó nữa.
Có thể nghi lễ
phồn thực thời Đông Sơn chưa mang hoặc chỉ mang nhẹ tính tín ngưỡng thờ phụng mà
chỉ hoặc chủ yếu là mang tính hội hè, vui chơi văn hóa và hai biểu tượng linga,
yôni được đề cao là nhằm tôn vinh sự sống, ca ngợi sự tồn sinh và an lạc. Nếu
thế, hiện tượng văn hóa ấy chỉ có thể được hình thành và xuất hiện lần đầu tiên
vào thời kỳ nào đó trước thời Đông Sơn, thời kỳ mà xã hội thực sự an bình, lương
thực, của cải dồi dào, phồn thịnh lâu dài để cư dân có được lối sống phồn thực.
Thời Đông Sơn,
xã hội đã theo chế độ phụ quyền và nếu nghĩ rằng trống đồng Đông Sơn chính là vật
linh linga thì trước đó, vào thời xã hội còn theo chế độ mẫu quyền, vật linh phải
là yôni và có hình dáng nào đó tương tự như trống đồng lật ngược. Phải chăng là
cái nồi gốm thời Phùng Nguyên (có hình tròn xoay), hay là sái bếp? Cũng theo Huỳnh
Công Bá trong tác phẩm nói trên thì:
“Tín ngưỡng phồn
thực ở cư dân Phùng Nguyên cũng đã xuất hiện với việc thờ sinh thực khí qua bức
tượng đá về một người đàn ông có giới tính phóng đại được tìm thấy ở di chỉ Văn
Điển. Ngoài ra, ở di chỉ thuộc văn hóa Đồng Đậu, người ta còn tìm thấy một số
di vật bằng xương mà các nhà nghiên cứu cho là biểu hiện của hình tượng dương vật”
Nếu xã hội thời
Đồng Đậu vẫn còn theo chế độ mẫu quyền thì những di vật bằng xương ấy là những
vật linh linga thì vật linh quan trọng hơn - yôni, là cái gì để tương xứng với
chúng? Hơn nữa, nếu đúng như Huỳnh Công Bá nhận định và cho rằng nghi lễ phồn
thực chỉ hình thành được khi đã có ý niệm lưỡng phân lưỡng hợp, tương tác tương
thành thì có thể hiện tượng nghi lễ phồn thực còn xuất hiện trước đó nữa. Cũng
trong tác phẩm đã nêu, Huỳnh Công Bá viết:
“Con người Việt
Nam
có mặt trên mảnh đất này cách đây khoảng 50 vạn năm (…). Trong thời kỳ tiền sử,
thông qua các loại hình công cụ tìm được của người nguyên thủy, cho thấy ở tổ
tiên người Việt Nam
lúc bấy giờ đã xuất hiện lối tư duy phân loại (…). Trong nền văn hóa Hòa Bình,
cách ngày nay trên một vạn năm, người Việt Nam đã phát minh ra nông nghiệp
(bao gồm các hoạt động trồng rau, đậu, bầu, bí, khoai nước, củ từ, lúa nước…), điều
đó chứng tỏ họ đã có những nhận thức khá sâu sắc về thế giới tự nhiên, về qui
luật sinh trưởng của thực vật. Chính trong thời kỳ đá mới này, tư duy và quan
niệm của con người Việt Nam
phát triển khá cao. Các hình thái về ý thức đã nảy sinh như quan niệm về sự tồn
tại của linh hồn, tư duy về tín ngưỡng vật tổ, tín ngưỡng nông nghiệp, tư duy về
mỹ cảm, về hình học, về chữ viết, về số đếm, về thiên văn, về lịch pháp… Các loại
hình nghệ thuật về hội họa và điêu khắc đã ra đời. Người ta đã biết vẽ khắc trên
đá và trên đất sét, đã biết tô màu và vẽ màu trên đồ gốm. Qua các hoa văn hình
chữ S được vẽ lặp đi lặp lại xung quanh đồ đựng biểu thị sự tuần hoàn, sự chuyển
động của thời gian, sự đắp đổi của mùa màng, thể hiện tư duy về thời gian, về Vũ
Trụ. Qua các hình khắc trang trí trên đồ gốm cho thấy ở họ đã nảy sinh ý thức về
nhịp điệu và tính chất cân xứng. Với sự xuất hiện của các công cụ đá có chuôi
tra cán hoặc có nấc để buộc cán cho thấy tư duy về lôgic đã nảy sinh.Với những
vòng trang sức bằng đá được khoan theo lối tách lõi, những hạt chuỗi đá được
khoan từ hai đầu cho thấy con người lúc bấy giờ đã có những ý niệm chính xác về
đường tròn, về chuyển động quay…”.
Trên cơ sở đó,
chúng ta phỏng đoán rằng cái ý niệm về một thế giới lưỡng phân tương phản, lưỡng
hợp tương thành đã xuất hiện tại thời điểm nào đó trong quá trình lao động chế
tạo công cụ và trồng trọt chăn nuôi của cư dân Hòa Bình và tiếp theo, trong một
giai đoạn cực thịnh nào đó của đời sống xã hội Hòa Bình, cũng xuất hiện hội lễ
phồn thực, tôn vinh cuộc sống, ngợi ca tồn sinh và an lạc.
Rõ ràng, cư dân
của nền văn hóa Hòa Bình đã chọn rau, củ, quả hạt làm nguồn thức ăn chủ lực để ăn
và phục vụ chăn nuôi gia súc. Tuy nhiên, sự tăng trưởng dân cư tuyệt đối và tỉ đối
do tự phát, do qui luật mùa màng và do cả ảnh hưởng của thiên tai mà vào thời kỳ
đầu mới phát hiện lúa nước có thể làm lương thực được, đời sống của cư dân Hòa
Bình lúc đó còn bấp bênh thường bị sự đói ăn đe dọa, chỉ có thể bán định cư và
do đó mà không thể tập trung sống quây quần thành một xã hội đông đảo được. Dù điều
kiện đất đai và trình độ canh tác đã mở ra khả năng thu hoạch đại trà hạt lúa nước
thì cũng chẳng giải quyết được gì ngoài một phần nhỏ dùng nuôi gia súc. Để có
thể định cư được lâu dài và đồng thời giải quyết căn cơ nạn thiếu lương thực,
thực phẩm thì chỉ còn cách lấy hạt lúa làm lương thực chủ lực, vừa đủ ăn vừa có
thể tích trữ ăn dần chờ thu hoạch mùa sau nhờ khả năng cung ứng lớn lao tiềm tàng
của nó. Nhưng không thể ăn hạt lúa trực tiếp được và muốn ăn nó, nhất là ăn cho
no, không phải dễ: phải làm sao tách bóc vỏ hạt lúa với một số lượng thực sự
nhiều theo cách nào đó hàng loạt để nhanh chóng có được một lượng gạo cần thiết.
Trước cái đòi hỏi có tính quyết định đó, bộ não sáng tạo của người Việt nguyên
thủy thời văn hóa Hòa Bình đã dẫn họ đến một chế tác tuyệt vời, đó là cái cối đá
và cái chày gỗ. Khi sử dụng kết hợp chúng với nhau (chày gỗ giã vào lòng cối đá)
thì lượng thóc trong đó nhanh chóng bị bóc tách vỏ và sau khi lược, sàng vỏ thóc
đi thì có được gạo (có thể là ở hình thức gần như bột gạo. Và chỉ sau này, khi đã
xuất hiện cối xay gạo hoặc bàn chà bằng đá thì mới có được lượng gạo là gồm những
hạt gạo nguyên).
Khi đã có chày
cối giã thóc lấy gạo thì coi như người Việt nguyên thủy của nền văn minh Hòa Bình
đã tạo ra một cuộc cách mạng vĩ đại cho mình và sau này là cho cả nhân loại
trong trồng trọt, trong việc giải quyết vấn đề cung ứng lương thực. Có thể sự
xuất hiện chày cối xảy ra vào nửa cuối thời kỳ tồn tại của nền văn minh Hòa Bình,
khoảng 7-8 ngàn năm cách nay, rồi sau đó mới có bàn chà đá và sau nữa là cối
xay đá.
Chúng ta cho rằng
chính chày cối giã (hoặc cũng có thể dùng để nghiền) lúa đã làm cho đời sống người
tiền sử Hòa Bình biến chuyển nhanh chóng từ du cư chủ yếu sang định cư là chủ yếu,
có khả năng thu hẹp địa bàn hoạt động để sống theo từng nhóm đông đảo có tính
quần cư xã hội, sung túc hơn nhiều và tạo nên một hình thái xã hội kiểu cộng đồng
dù còn sơ khai, và rất thịnh vượng. Chính trong giai đoạn thịnh vượng và an bình
kiểu cộng đồng này, dạng sơ khai của hội lễ phồn thực nhằm tôn vinh cuộc sống,
ngợi ca sự tồn sinh và an lạc với hai biểu tượng linga - yôni đã ra đời. Tuy
nhiên linga và yôni ở đây không phải là biểu tượng của dương vật và âm vật mà là
biểu tượng của cái chày và cái cối. Biết đâu chừng những khúc xương thời Đồng Đậu
mà các nhà khảo cổ cho là những linga, đơn giản chỉ là những cái chày! Sau này,
qua thời gian, cùng với nghề trồng lúa, nó được truyền sang Ấn Độ và vì sự liên
tưởng tương tự, nên bị hiểu sai đi thành những biểu tượng cách điệu của dương vật
và âm vật. Sự thể có lẽ chỉ là như thế(!)…
Tiếp thu được cái
tinh thần tôn vinh cuộc sống, ca ngợi sự tồn sinh an lạc (nhớ rằng đã từng có
người Việt thường sang yết kiến, dâng chim trĩ cho Chu
Công và người đó chắc phải tài giỏi của nước Văn Lang ) và lấy thuyết âm dương,
lưỡng nghi, coi âm và dương là hai thế lực tạo ra mọi diễn biến trong tự nhiên,
làm xuất phát điểm, Lão Tử thiên tài đã xây dựng học thuyết triết học về tự nhiên
- xã hội, tưởng là bí hiểm nhưng hóa ra là quá sáng láng, tuyệt mỹ như một viên
ngọc bích hầu như không có tì vết. Tiêu biểu và cũng mang nội dung cốt lõi của
học thuyết đó, chính là cuốn Đạo Đức Kinh, một tuyệt tác triết học có một không
hai trên thế giới. Qua cuốn sách đó, người ta thấy hiện lên một Lão Tử, một Đạo
gia có một nhân cách đạo đức sáng ngời: dung dị, đĩnh đạc, khiêm nhường, bình
thản mà nồng nàn tình yêu thương đồng loại, nhất là đối với đại chúng cần lao.
Nếu luận giải đúng cách cuốn Đạo Đức Kinh thì chỉ cần thấm nhuần nó, học theo
chỉ bảo của nó đã đủ để một con người trở thành người nhân đức, một nhà chính
trị được đại chúng tôn vinh, một nhà quân sự được đại chúng ngưỡng mộ và một nhà
lãnh đạo đất nước được đại chúng kính yêu.
Quan niệm về đạo
đức, hay đức nhân của Lão Tử cũng lấy tình yêu thương con người làm cơ sở, làm
giềng mối, nhưng ông cho rằng nó có nguồn gốc từ tự nhiên và lấy quan niệm về tự
nhiên làm xuất phát điểm để bàn luận vấn đề đạo đức cho nên nhiều người chưa thấy
được tính xác đáng và nhất quán trong lập trường tư tưởng của Đạo Gia về vấn đề
này. Trong Đạo Đức Kinh có viết:
“Thiên địa bất
nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu; thánh nhân bất nhân, dĩ bách tính vi sô cẩu.”
Vế sau được nhiều
người hiểu khác nhau. Nguyễn Hiến Lê thì dịch:
“Trời đất bất
nhân, coi vạn vật như chó rơm; thánh nhân bất nhân, coi trăm họ như chó rơm.”
Và hiểu: trị dân
thì phải theo Đạo, nghĩa là theo tự nhiên, để cho dân phát triển theo thiên tính,
đừng can thiệp vào”.
Nhưng theo chúng
ta thì có lẽ nên thay “trăm họ” bằng giữ nguyên “bách tính” và hiểu: Đạo không
thị phi, chỉ làm ra này kia một cách tự nhiên thế thôi; đã là thánh nhân thì cũng
nên thế không nên chấp nê tính cách cá nhân (như nóng, giận, tự ái…) hay những
nhận thức khác nhau (về tự nhiên - xã hội, nhân sinh) mà làm gì.
Cũng trong cuốn
sách ấy, ở chỗ khác viết:
“Đạo sinh ra vạn
vật, đức bao bọc mỗi vật, vật chất khiến cho mỗi vật thành hình, hoàn cảnh hoàn
thành mỗi vật. Vì vậy mà vạn vật đều tôn sáng tạo và quí đức. Đạo sở dĩ được tôn
sùng, đức sở dĩ được quí là vì đạo và đức không can thiệp, chi phối vạn vật mà để
vạn vật tự nhiên phát triển.
Đạo sinh ra vạn
vật, đức bao bọc, bồi dưỡng, nuôi lớn tới thành thục, che chở vạn vật. Tuy sinh
dưỡng vạn vật mà không chiếm cho mình, làm mà không cậy công, để cho vạn vật tự
lớn lên mà mình không làm chủ, như vậy gọi là Đức Huyền Diệu.”
Như vậy, Đạo
sinh ra vạn vật một cách tự nhiên, chẳng thị phi gì, cứ thế mặc, bao bọc nuôi dưỡng
hoặc không bao bọc nuôi dưỡng, tùy ý. Nhưng khi Đạo “quyết định” bao bọc nuôi dưỡng
thì đó chính là Đức. Đức là một mặt của Đạo nên nó cũng tự nhiên, nhưng khi một
vật được sinh ra và được bao bọc, nuôi dưỡng đến thành thục thì đối với bản thân
nó, Đạo và Đức lại ở trong vòng đánh giá thị phi của nó, và vì nó được sinh ra,
lớn lên, hiện hữu, góp mặt với thế giới hiện thực, được “sống” cho nên nó tôn sùng
Đạo, và quí Đức, và đối với con người thì Đức đó là Đức Huyền Diệu. Chẳng hạn
người mẹ sinh ra đứa con là do Đạo bày, thiên tính bao bọc và nuôi dưỡng đứa
con đó đến khôn lớn là do mặt phải (mặt tốt) của Đạo - chính là Đức Huyền Diệu
bày, tự nhiên thế thôi, nhưng đứa con khi lớn lên, hiểu ra, sẽ tôn sùng mẹ, thương
yêu mẹ, nghĩa là tôn sùng Đạo và quí Đức.
Một con người,
nếu đã biết sùng Đạo và quí Đức thì cũng có nghĩa là đã biết tự coi trọng bản
thân sự sống của mình, thích sống hơn chết và do đó mà lúc bình thường cũng ưu
tiên cho mạng sống của mình, quí và yêu thương đời mình nhất.
Qua đó mà thấy
Lão Tử đã phát hiện ra tính tự ái, vị kỷ tồn tại tự nhiên trong mỗi con người.
Chưa hết, ông còn phát hiện ra cái tham muốn danh lợi bởi lý trí mù quáng của
con người, và hơn nữa, ông còn khuyên đừng chạy theo tham muốn danh lợi quá đáng
trong đoạn viết sau đây (cũng trong Đạo Đức Kinh):
“Danh tiếng với
sinh mệnh cái nào quí? Sinh mệnh với của cải cái nào trọng? Được danh lợi mà mất
sinh mệnh, cái nào hại?
Cho nên, ham
danh quá thì phải hao tổn nhiều, chứa của cải nhiều thì mất mát nhiều. Biết thế
nào là đủ thì không nhục, biết lúc nào nên ngừng thị không nguy mà có thể sống
lâu được.”
Lão Tử phát hiện
ra tính tự ái, ích kỷ cố hữu của con người nhưng bản thân ông lại không tự ái, ích
kỷ theo cách hiểu cực đoan, xấu xa. Đạo Đức Kinh viết:
“Thánh nhân không
có thành kiến, lấy lòng thiên hạ làm lòng mình. Thánh nhân tốt với người tốt, tốt
với cả người không tốt, nhờ vậy mà mọi người đều hóa ra tốt; tin người đáng tin
mà tin cả người không đáng tin, nhờ vậy mà mọi người đều hóa ra đáng tin.”
Đó chính là điểm
xuất phát của cái tư tưởng “lấy ân báo oán” và quan điểm giáo huấn con người bằng
sự tin yêu trong sáng, bằng tấm gương sống có đạo đức của bản thân mình. Chúng
ta cho rằng đây là một luận điểm hết sức đúng đắn của Đạo Gia. Trong thực tế đời
mình, chúng ta đã thấy được điều ấy và nhất là trong lịch sử đấu tranh chống xâm
lược của dân tộc Việt, nó đã trở thành như một truyền thống nhân đạo trước quân
xâm lược bị đánh bại.
Tuy nhiên, sự
thực hiện hành vi đạo đức, giúp người của Lão Tử rất hồn nhiên, theo kiểu cứ tự
nhiên như không, không cương cường danh chính như chủ trương của Khổng Tử, cũng
không quên mình như Mặc Tử, vì theo ông:
“Người có đức
cao thì không có ý cần đức, cho nên có đức; người có đức thấp thì có ý cần đức,
cho nên không có đức.
Người có đức
cao thì vô vi (thuận theo tự nhiên) nên không (thấy) cố ý làm; người có đức thấp
cũng (cố) vô vi (để được cho là tự nguyện) nên (thấy) cố ý làm (vì danh lợi).”
Điều đặc biệt
trong quan niệm đạo đức của Lão Tử là ghét giết chóc, ghét chiến tranh, nhưng cũng
chấp nhận chiến tranh. Bởi vì, cũng theo luật tự nhiên, khi bị đe dọa tước đoạt
nguồn sống, mạng sống và không còn đường lùi thì chỉ còn cách chống cự lại đến
cùng, do đó mà đành phải nghênh chiến. Nhưng dù có nghênh chiến thì cũng phải
trên tinh thần tôn trọng sinh linh, nghĩa là không giết chóc bừa bãi, vô cớ và
phải tỏ rõ lòng nhân hậu khi thắng trận. Vì chúng ta đã bàn luận nhiều về chiến
tranh rồi nên ở đây chỉ trích lại một đoạn ngắn trong Đạo Đức Kinh:
“Vì binh khí là
vật bất tường (gây họa), ai cũng ghét cho nên người giữ đạo không thích dùng nó
(…), bất đắc dĩ phải dùng nó (…) thì điềm đạm, tránh (cực đoan) là hơn cả. Thắng
cũng không cho là hay, nếu cho là hay tức là thích giết người (…). Giết hại nhiều
người thì nên lấy lòng bi ai mà khóc; chiến thắng thì nên lấy tang lễ mà xử.”
Khi hiểu quan
niệm về đạo đức của Lão Tử theo tinh thần như trên thì cũng sẽ hiểu ngay những
luận điệu thâm thúy về “vị ngã”, “khinh vật trọng sinh” và “vô danh” của Dương
Chu, một trong những bậc tiền bối của Đạo Gia (và cũng có thể là chính Lão Tử).
Người đời sau còn
lưu câu nói nổi tiếng của Dương Chu: “Nhổ một sợi lông, lợi cả thiên hạ cũng không
làm”. “Lợi” ở đây có hai nghĩa: “làm lợi cho cả thiên hạ” và “có được cả thiên
hạ”.
Cho đến tận ngày
nay, không phải ai cũng hiểu thấu được ẩn ý của Dương Chu trong câu nói đó. Mạnh
Tử - một hiền triết Nho gia, nói có ý chê bai, cho là Dương Chu đề cao lối sống
hẹp hòi ích kỷ, chỉ biết có mình, chỉ sống vì mình (vị ngã), và như vậy thì đâu
phải là đức, thiện: “Dương Chu chủ trương vì mình, nhổ một sợi lông mà lợi thiên
hạ, không làm”.
Câu nói của Dương
Chu thực ra đã làm thoát ra được một cách cô đọng nhưng rất sắc nét cái tinh thần
hành động bắt chước tự nhiên, tuân theo tự nhiên của Đạo Gia. Rõ ràng chỉ cần
cho đi một sợi lông mà cả thiên hạ được lợi hoặc được cả thiên hạ là điều quá ư
phi lý, chỉ là ảo tưởng, không thể xảy ra trong hiện thực. Đã biết không thể làm
ra được như thế mà cứ làm thì thật là vô Đạo và hóa ra là kẻ ngớ ngẩn, ngu ngốc.
Cứ giả sử là làm được đi nữa thì việc nhổ đi một sợi lông của mình sẽ làm mình đau,
làm mất đi một phần cơ thể sống của mình như thế là phạm vào cái tính tự nhiên:
tự tôn trọng mình, tự bảo dưỡng cuộc sống của mình, và hơn nữa, vì làm như thế
là khiên cưỡng, cho nên cũng “thấy được” là cố ý là (vì danh lợi), do đó mà cũng
thất đức, vô đạo đức”.
Kể ra thì Dương
Chu cũng đúng khi không thèm “chơi” cái trò nhổ lông để giúp thiên hạ hay để đổi
lấy thiên hạ!
Dù sao, cái
quan niệm vị ngã của Dương Chu vẫn chỉ thị đến sự ích kỷ, hẹp hòi và để tránh điều
đó trong khi chưa nhận thức được mặt tác động tiêu cực của qui luật tự nhiên xã
hội, cũng như chưa thấy được hết và sâu sắc mức độ tác động mãnh liệt, lớn lao,
cả tích cực lẫn tiêu cực của lý trí đến đời sống con người, ông đã phải đưa ra
một luận giải có tính lý tưởng hóa về nhân sinh hành vi trong hoạt động đạo đức.
Trong Xung Hư Chân Kinh, thiên Dương Chu, của Liệt Tử có viết lời Dương Chu:
“Người xưa, mất
một cái lông mà lợi cho thiên hạ thì cũng không chịu, mà có ai đem cả thiên hạ
phụng dưỡng thân mình thì cũng không nhận. Nếu mọi người đều không muốn làm lợi
cho thiên hạ thì thiên hạ sẽ bình trị”.
Nghĩa là ai ai
cũng chỉ lo cho cuộc sống của mình thôi, ai ai cũng không mưu cầu danh lợi, thì
xã hội sẽ an bình. Quả là lạ lùng, ai cũng vị kỷ thì làm gì còn vị kỷ nữa, mà đã
không còn vị kỷ thì vị nhân cũng không còn nốt. Một xã hội mà toàn những con người
như thế thì lạnh lùng quá, nhẫn tâm quá, bị bao phủ bởi cái tình cảm yêu mình -
ghét người, và như thế, vô hình dung, té ra lại là không “tôn sùng Đạo và quí Đức”!
Chắc ý Dương
Chu không phải thế! Mà có lẽ thế này: sống thuận với lẽ trời là “vô vi vô bất
vi” mà tỏ rõ được cái đức tự nhiên là “bảo bọc, nuôi dưỡng” sinh linh. Nhưng sức
riêng ta không thể lo gồm được thì trước hết phải ưu tiên tự lo cho ta. Ta sống
theo bản tính tự nhiên nên “biết thế nào là đủ” và chỉ cầu vừa đủ sống thôi.
Sau đó, nếu đã sống vừa đủ rồi mà cái “lo cho ta” còn dư thì đó không còn là của
ta nữa và ta đem trả lại cho thiên hạ để thiên hạ “bao bọc, nuôi dưỡng” những
người đói khát, nghèo khổ, chưa đủ tự lo đủ cho mình. Ta sống theo lối ấy là
theo ý trời, là do Đạo bảo thế chứ chưa hẳn là muốn thế (không muốn nhưng không
phải là không muốn mà muốn tất cả: sống lâu, an lạc!!!), và như thế, ta cũng đâu
có chủ đích làm phước, làm đức cho ai ngoài bản thân ta ra cả. Vì không chủ đích
làm cho nên vô vi, không cần đức nên ta có đức, ta tốt với ta thì ta cũng tốt với
người, ta yêu thân ta thì ta cũng yêu thân người (một cách hoàn toàn tự nhiên,
không hề giả dối). Nếu ai ai cũng sống được như vậy, không cầu lợi cho mình cũng
như không cầu lợi cho thiên hạ thì thiên hạ thái bình…
Sau đây chúng
ta trích một vài đoạn nữa trong Xung Hư Chân Kinh, thấy rõ hơn cái tinh thần vị
ngã tưởng nhỏ mọn, nhẫn tâm nhưng thực ra hợp lý, cao thượng và lồng lộng tính
nhân văn.
“Dương Chu bảo:
(…) Người thời
thái cổ biết sống ở đời là tạm đến, biết chết là tạm đi, cho nên tùy tâm mà động
(làm theo lòng mình), không trái với sở thích (luật) tự nhiên. Họ cứ thế vui sống
và không từ bỏ cái tình ấy nên cái danh không quyến rũ họ được. Vì họ sống theo
bản tính nên không trái với sở thích (xu thế vận động) của vạn vật.”
“Dương Chu bảo:
Người ta có bản
chất giống trời đất, cũng mang tính của ngũ hành, là loài tối linh trong muôn vật.
Ấy vậy mà móng tay và răng không đủ để tự vệ, da thịt không đủ để che chở thân
mình, chạy không đủ nhanh để trốn nguy, lại không có lông để chế ngự nóng lạnh,
buộc phải nhờ cậy vào vật để tự nuôi sống bằng cách dùng trí chứ không thể ỷ vào
sức. Cho nên cái quí của trí là bảo tồn được thân ta làm quí, cái đáng khinh của
sức ấy là chiếm đoạt lấy vật làm khinh. Như thế, thân ta không phải của ta, nhưng
đã sinh ra rồi thì không thể không bảo tồn nó; vật không phải ta có, nhưng đã có
rồi thì không thể bỏ đi.
Thân là của sự
sống, vật là chủ của nguồn nuôi sự sống. tuy ta giữ được toàn vẹn thân sống thì
cũng không thể có (tư hữu) cái thân ấy được. Tuy ta không bỏ vật thì cũng không
thể có (tư hữu) cái vật ấy được. Có được cái thân ấy, có được cái vật ấy, đó là
sự tự tung tự tác một cách trái ngang cái thân, cái vật của thiên hạ. Làm được
như thế chỉ có thánh nhân (vua chúa, đại vô đạo) họa chăng!
Coi thân mình là
chung với cái thân của thiên hạ, chung với cái vật của thiên hạ, thì chỉ bậc chí
nhân (đại nhân, đại trí) mới thực hiện được. Và như thế chính là tột bậc của sự
toàn thiện”.
“Dương Chu bảo:
Người làm điều
thiện không phải để cầu danh mà danh tự nó tới. Danh không hẹn gì với lợi mà lợi
theo nó. Lợi không hẹn gì với sự tranh giành mà sự tranh giành cứ đến với nó. Vì
vậy người quân tử phản thận trọng mà làm điều thiện”.
“Dương Chu bảo:
Nhà sang, áo đẹp,
thức ăn ngon, vợ đẹp, có bốn thứ đó thì còn cần gì khác nữa? Nếu còn cần thêm nữa
là tham lam vô độ. Kẻ tham lam vô độ là loài mọt của âm dương (trời đất)”.
Nói tóm lại, ba
học thuyết về đạo đức của ba trường phái Nho Gia, Mặc Gia và Đạo Gia dù có đúng
có sai với mức độ nhiều hay ít thì nhìn chung đều lấy sự tôn trọng cuộc sống, tình
yêu cuộc sống làm cơ sở xuất phát cho lập luận và đều kêu gọi con người về tình
yêu thương đồng loại, đừng giết chóc nhau mà hãy làm việc thiện, được cho là tốt
đẹp trong xã hội. Đó chính là biểu hiện tính khách quan mà chúng hàm chứa, và
như vậy sự khác biệt giữa chúng với nhau là do sự lũng đoạn của nhận thức chủ
quan ở những người sáng lập nên chúng gây ra. Một cách tương đối, có thể cho rằng
Nho Gia là lập trường tư tưởng đại diện cho tầng lớp quí tộc, quan lại tiến bộ
trong triều đình, Mặc Gia là lập trường tư tưởng đại diện cho tầng lớp khá giả,
giàu có chính đáng trong xã hội và cuối cùng, Đạo Gia là lập trường tư tưởng đại
diện cho Đại chúng cần lao. Có lẽ cũng vì thế mà học thuyết về đạo đức của Đạo
Gia, so với hai học thuyết về đạo đức kia, là đúng nhất, có tính hiện thực nhất.
Đến đây, chúng
ta tự hỏi: vậy thì loài người có bao giờ được sống trong cái xã hội có viễn cảnh
mà Mặc Tử đã mường tượng ra, hoặc có tính hiện thực hơn, do Dương Chu mường tượng
ra, cùng với sự loại trừ vĩnh viễn chiến tranh, loại trừ vĩnh viễn những cuộc
giết chóc lẫn nhau nhằm tranh đoạt nguồn sống của nhau, không? Chúng ta trả lời
ngắn gọn thế này: có thể, nhưng cũng còn tùy!
Đã là con người
thì phải có “cái tôi” thị phi. Vì có “cái tôi” thị phi nên con người không thể
giũ bỏ được sự vị kỷ, tự tôn. “Cái tôi” đó chính là bộ não biết tư duy trừu tượng.
Bộ não biết tư duy trừu tượng làm cho con người có được một tình cảm sâu sắc về
mọi mặt của đời sống và thông qua trải nghiệm mà nó cảm nhận được thế nào là đau
đớn, cực khổ, thế nào là vui sướng, cực lạc, cũng như đời người đáng quí và
quan trọng ở chỗ nào, để rồi thay cho sự “muốn sống” bản năng, có chừng mực ở
con vật là sự tham sống sợ chết và thèm muốn được hưởng nhiều khoái lạc, ngự trị
ở mỗi con người. Cái bản năng “pha lẫn” lý trí đó, tùy thuộc vào mức độ mù quáng
hay lệch lạc của lý trí mà làm cho mức độ vị kỷ, tự tôn ở mỗi con người, và cũng
tùy lúc thể hiện của ý chí, có sự khác biệt nhau, nhưng thông thường thì ai cũng
ưu tiên lo toan cho đời sống của bản thân mình trước, nghĩa là coi trọng và yêu
thương bản thân mình nhất (nhớ rằng, chính cuộc đấu tranh sinh tồn làm nảy nở
ra sự yêu, ghét). Chính tình yêu vị kỷ, vừa là bản năng, vừa là do lý trí hối
thúc đó cùng với sự suy nghĩ và cảm nghiệm mà sau đó, con người còn biết yêu thương
và lo toan cho người khác nữa theo những mức độ khác nhau ở mỗi con người, cả
giữa người này với người khác, và cũng tùy lúc, tùy mức độ tác động của ý chí,
nhưng thông thường thì giảm dần từ thân đến sơ, từ gần đến xa, càng sơ, xa càng
mờ nhạt và thậm chí là không yêu không ghét. Nghĩa là, con người nào, thông thường
cũng yêu mình và yêu người tùy mức độ và tùy lúc. Hay nói cách khác, đã là con
người thì ai cũng luôn yêu thương mình và “mình” ở đây được mở rộng có mức độ,
tùy lúc và tùy vào mỗi con người mà có
thể hiểu là: gia đình mình, dòng học mình, dân tộc mình…, hoặc: nhà mình, làng
xóm mình, quê hương mình, tổ quốc mình…
Trong dân gian
Việt Nam
vẫn tồn tại câu nói “giúp đói chứ không giúp nghèo”, hay: giúp ngặt chứ không
ai giúp nghèo” (nghĩa là giúp người gặp khó thoát khỏi cơn bĩ cực chứ biết thế
nào là nghèo mà giúp). Ngẫm kỹ, thấy ông cha ta thật chí lý!).
Không có ghét
thì làm sao có yêu? Cho nên khi đã yêu thì con người cũng biết ghét: ghét những
cái gì, những kẻ nào đe dọa, làm phương hại đến sự sống của “mình” (“mình” ở đây
cũng có thể là dân tộc, tổ quốc). Ghét là tương phản của yêu nên yêu có nhiều
cung bậc thì ghét cũng có nhiều cung bậc: từ chê bai, khinh bỉ cho đến căm thù
và thậm chí là hận thù truyền kiếp.
Có thể thấy,
suy cho cùng thì chính tự nhiên chứ không phải cái gì khác thiết lập nên cơ chế
yêu mình rồi yêu người ở mỗi con người, và đó chính là biểu hiện cái cơ chế tránh
giết chóc lẫn nhau ở loài người. Tuy nhiên, nếu cơ chế tránh giết chóc đồng loại
ở loài vật có tính nghiêm ngặt bao nhiêu thì ở loài người lại lỏng lẻo bấy nhiêu.
Tính hạn định về
qui mô cũng như tính thường xuyên biến đổi có chu kỳ và đột biến không theo chu
kỳ của môi trường thiên nhiên cùng với qui luật tăng trưởng lạm phát về số lượng
ở các giống loài sinh vật chính là hai yếu tố cơ bản làm xuất hiện đủ mọi chuyện
như: có sống thì có chết, có no đủ thì có đói khát, có sinh thì có diệt, gây ra
“hỉ, nộ, ái, ố” trong thế giới sinh vật. Ở loài vật, sự “hỉ, nộ, ái, ố” nói
chung chỉ biểu hiện một cách mờ nhạt, còn ở loài người thì sự biểu hiện đó trở
nên rõ ràng, đậm nét. Có như thế là bởi vì loài vật chỉ “muốn” có chừng mực còn
loài người thì “muốn” đến vô chừng vô mực. Dẫn đến, nói nôm na, loài vật có hành
vi nào thì loài người có hành vi đó, nhưng khi ở loài vật, hành vi chỉ đến mức độ
“đủ dùng”, thì ở loài người, hành vi được kích hoạt đến mức độ cực đoan.
Loài người, thuở
đầu tiên, tích cực lao động và sáng tạo là nhằm chống lại đói khát, thiếu thốn,
muốn no đủ và an nhàn. Khi đã no đủ và an nhàn rồi thì loài người lại muốn sống
sao cho thoải mái hơn nữa, sung sướng hơn nữa, thế là sự sáng tạo cũng hướng vào
tiêu dùng để nhằm cải thiện, nâng cao hơn chất lượng cuộc sống cả về mặt vật chất
lẫn tinh thần, đồng thời bản thân sự tiêu dùng cũng tăng lên về qui mô. Sự tiêu
dùng tăng lên tác động trở lại, kích thích lao động sáng tạo tích cực hơn nữa để
lúc này, không những chỉ đáp ứng nhu cầu lương thực, thực phẩm, mà còn để đáp ứng
cho nhu cầu tiêu dùng phi lương thực, thực phẩm đã tăng lên. Quá trình đó lặp đi
lặp lại một cách “lẩn quẩn” và bị cái “muốn” mù quáng ở loài người “động viên,
xúi giục” mà ngày một “phát phì”: tổng các nhu cầu tiêu dùng cho sinh hoạt cá
nhân đã thành thói quen và tổng nhu cầu tiêu dùng dành cho lao động sáng tạo, “đồ
sộ” lên mãi đến cực đoan. Trong khi đó, do bị tác động bởi tính hạn định khách
quan và cả chủ quan mà khả năng cung ứng cho nhu cầu tiêu dùng trong lao động sáng
tạo (trong sản xuất) cũng có tính hạn định, luôn bị sự thiếu hụt đe dọa, do đó
mà cũng xuất hiện nạn khan hiếm vá liền với nó là nạn tranh giành tài nguyên
thiên nhiên cũng như nguồn nhân lực. Tình hình đó sẽ trở nên trầm trọng thêm
khi gặp phải thiên tai và đồng thời cũng tất yếu làm xuất hiện sự giàu nghèo
trong xã hội: kẻ giàu, người nghèo, khu vực này giàu hơn khu vực kia, nước này
nghèo hơn nước kia…
Bên trong cái
tiến trình “phát phì” trường kỳ đó, chính lao động sáng tạo đã làm cho hiện tượng
đầu lĩnh trong bầy đàn ở loài vật trở nên rõ ràng hơn ở loài người để từ đó mà
xuất hiện bộ phận lãnh đạo của một tập thể người đông đảo hơn nào đó có vai trò
chỉ huy, điều hành tập thể đó trong hoạt động sống nhằm tăng cường khả năng sống
còn và muốn thế, nó phải được đảm bảo có một quyền lực nhất định. Qua đó mà thấy
sự phân định lãnh thổ và sự xuất hiện các hình thức lãnh đạo có quyền lực và điển
hình là nhà nước pháp quyền trong xã hội loài người là một tất yếu lịch sử.
Khi một con người
được tập thể hay xã hội trao cho một trọng trách nào đó thì nó cũng có một quyền
lực nhất định. Cái quyền lực đó mở ra cho con người đó khả năng có lợi thế hơn
người trong mưu sinh, trong việc đáp ứng cái “muốn” được hưởng lạc nhiều hơn nữa,
đang nung nấu khôn nguôi trong lòng nó, thôi thúc nó làm điều bất chính, và khi
mặt phải nhân tính không còn kiềm chế nổi cái “muốn” đã biến thành “gã thèm khát
khổng lồ” thì nó bắt đầu mưu mô chiếm đoạt của cải vật chất (mà nó không thể làm
ra được một cách lương thiện, chân chính trong xã hội) bằng cách tham nhũng ăn
gian, ăn hối lộ, thậm chí là chiếm đoạt công khai, trắng trợn nhờ vào quyền lực,
vây cánh mà nó đang lợi dụng.
Hiện tượng phân
định giàu - nghèo, phân định quyền lực trong đời sống xã hội đã làm cho cái “muốn”
của mỗi con người vốn dĩ đã cực đoan càng cực đoan hơn nữa đến độ thái quá thành
nỗi tham muốn, thèm khát khuấy động mạnh mẽ, và thường xuyên trong tâm trí con
người, lũng đoạn cái tình yêu thương vốn dĩ đã bị thiên vị của nó (yêu mình rồi
mới yêu người, yêu thân hơn sơ). Chính vì thế mà trong xã hội cũng xuất hiện sự
phân định tương đối thành hai loại người: hiền hơn và ác hơn, lương thiện và bất
lương. Tình hình đó làm giảm hiệu lực của cái cơ chế tránh giết chóc lẫn nhau
trong nội bộ loài người và mở ra khả năng chực chờ xâm hại nghiêm trọng nó.
Lúc bình thường,
“yêu mình” đã được ưu tiên thì lúc tình hình xã hội căng thẳng trong mưu sinh,
“yêu mình” càng được chú trọng hơn nữa và trở thành ưu tiên số một, tối thượng,
thậm chí trở thành tình yêu duy nhất: chỉ yêu mình thôi (hiện tượng mẹ nhường
miếng ăn cho con để mình chết đói là trường hợp đặc biệt, tương tự như thế là
trường hợp xông vào làn tên mũi đạn để bảo vệ gia đình, xét cho cùng thì đó là
“mình hy sinh vì sự sống của mình” và chỉ xảy ra khi bộ não đã bị kích thích đến
cao độ). Khi đã đạt đến trạng thái chỉ yêu mình thôi và đứng trước sự lựa chọn
giữa sống hay chết, còn hay mất thì “mình” sẵn sàng làm đủ mọi chuyện, kể cả giết
chóc người nếu có điều kiện.
Ở loài người,
thuở đầu tiên, mình đi đánh người, bức hại, giết chóc người chỉ đơn giản nhằm cấp
bách giải quyết cái đói đe dọa sự sống của mình. Sau, quen giết chóc người rồi
thì thành như một cách thức kiếm ăn được sử dụng thường xuyên. Cuối cùng, mình đi
giết chóc người không phải chỉ vì đói nữa mà vì muốn chiếm đoạt tài nguyên thiên
nhiên của người, thành quả lao động của người và cả sức lao động của người để
thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của mình, thỏa mãn sự thèm khát giàu sang của mình,
thỏa mãn lòng tham vô độ lượng của mình và thậm chí, chỉ là để thỏa mãn cái sở
thích được đi chinh chiến của mình. Và như vậy, đối với mình lúc này, cái cơ chế
tránh giết chóc đồng loại ở loài người coi như hoàn toàn mất tác dụng.
Qua phân tích ở
trên, có thể thấy việc thiết lập quyền lực, tranh đoạt, giết chóc lẫn nhau
trong nội bộ loài người, xét đến cùng là có nguồn gốc tự nhiên, và con người bị
hối thúc thực hiện bởi thế lực tuy ngấm ngầm nhưng mạnh mẽ của tự nhiên. Nhưng
nếu xét ở góc độ trực tiếp hơn thì sự tranh đoạt, giết chóc lẫn nhau trong xã hội
loài người cũng có một phần nguyên nhân do nhân tạo. Chính cái mặt trái sáng tạo
của bộ não biết suy nghĩ và có tình cảm sâu sắc một cách thiên vị nhưng chưa nhận
thức thấu đáo cái thân phận sinh vật hèn kém của con người, phải chịu hoàn toàn
trách nhiệm trong việc kích hoạt bạo lực, đẩy cuộc đấu tranh sinh tồn của loài
người đến mức khốc liệt, cực đoan chưa từng thấy trước đó trong thế giới
sinh vật, gây ra những cuộc giết chóc lẫn nhau vô cùng thảm khốc, vô cùng tàn bạo
trong xã hội loài người. Trong cái xã hội “tràn trề” văn minh ngày nay, sự giết
chóc lẫn nhau để tranh đoạt, để hả thù hận vẫn xảy ra ở khắp nơi, làm cho chúng
ta có cảm nghĩ, giết chóc đồng loại đã trở thành cái thú ngấm vào tận xương tủy
ở một bộ phận không ít con người mất rồi. Ngày nay, con người suy nghĩ về thân
phận loài người, đánh giá địa vị loài người trong thế giới sinh vật, trong môi
trường thiên nhiên, hình như chẳng khá hơn ở thời cổ đại là bao nhiêu, thậm chí
còn mê lầm hơn, vị kỷ hơn và kiêu ngạo hơn. Trên thế giới hiện tại, thuộc thập
niên đầu tiên của thế kỷ XXI, các chính khách, các nguyên thủ quốc gia (tổng thống,
thủ tướng…) của các nước lớn văn minh, giàu có về kinh tế, mạnh mẽ về tiềm lực
quân sự, hầu hết đều ưa thích khoe khoang bạo lực, sẵn sàng a dua nhau dùng thủ
đoạn bạo lực, mượn tiếng nhân quyền, dân chủ, bảo vệ dân chúng mà ngang nhiên tự
quyết, dội bom đạn xuống “đầu” các nước khác, yếu hơn mà họ ghét, thậm chí là xâm
chiếm luôn, gây nên không ít sự giết chóc và sự tàn phá tan hoang hàng loạt những
thành quả lao động của nhân dân các nước đó. Có như thế là vì suy nghĩ của họ đầy
ích kỷ, tự kiêu: chỉ yêu thương mình và tự cho mình có quyền định đoạt số phận
của các nước nhỏ hơn, yếu hơn, kém văn minh hơn. Như vậy, dù họ là những con người
văn minh lịch sự có thừa thì vẫn thiếu đạo đức. Họ tưởng mình đang làm những điều
văn hóa nhưng thực ra là vô văn hóa, tưởng mình đang suy nghĩ sáng suốt nhưng
thực ra là vô minh, mê lầm, tưởng mình là một trang quân tử mã thượng nhưng thực
ra chỉ là kẻ tiểu nhân đê hèn.
Cuối cùng, chúng
ta đặt lại câu hỏi: vậy thì trong tương lai, trên thế giới có bao giờ xuất hiện
một xã hội loài người mà mọi người đều an ổn làm ăn ít ra là như thời Nghiêu,
Thuấn ở Trung Hoa thời thượng cổ và nhất là bạo lực và chiến tranh vĩnh viễn không
bao giờ xảy ra nữa không?
Và chúng ta lại
trả lời: có thể, nhưng cũng còn tùy! Muốn được thế, có lẽ loài người phải đáp ứng
được những điều kiện sau đây:
1- Khoa học kỹ
thuật phát triển đến trình độ tạo ra được nguồn cung cấp lương thực, thực phẩm
thực sự dồi dào, đủ cung ứng cho toàn thể loài người một cách bền vững, đồng thời
tạo ra cách thức khai tác năng lượng hạt nhân dễ dàng hơn, an toàn hơn để lấy đó
làm nguồn cung cấp năng lượng duy nhất phục vụ cho hoạt động sống của con người
và được sử dụng một cách phổ biến, dễ dàng trong dân dụng đời thường, bên cạnh đó
cũng tạo ra được nguồn cung ứng vật tư nguyên liệu luôn được tái tạo trở lại một
cách nhanh chóng, đủ để cung ứng cho nhịp độ sản xuất công nghiệp ở trình độ
cao trên toàn cầu (tương tự như gỗ và tái tạo rừng).
2- Loài người đã
nhận thức thấu đáo và sáng tỏ được bản chất thực sự của con người, thấy được tội
lỗi mà nó gây ra cho môi trường thiên nhiên, thế giới sinh vật cũng như đối với
cả bản thân nó, đồng thời cũng thấy được cái nguyên nhân khách quan và chủ quan
đã “xúi giục” nó gây ra những tội lỗi ấy để mà biết ăn năn hối cải theo hướng:
+ Thấm nhuần một
lối sống chừng mực, có văn hóa, hướng thiện.
+ Không chọn mục
đích cuộc đời theo hướng ưu tiên giảm dần: giàu có - no đủ - sống lâu (lộc, phước,
thọ) mà phải lấy no đủ, an nhàn để sống lâu mà vui thú điền viên, rong chơi thưởng
ngoạn những danh lam thắng cảnh trong thiên nhiên, trong Vũ Trụ (trong một thực
sự ảo, thực như một hiện thực, kỳ thú hơn hiện thực), làm lựa chọn ưu tiên tối
thượng.
+ Điều tiết
sinh đẻ một cách có kế hoạch.
+ Khi các phương
tiện giao thông và truyền thông đã trở nên cực kỳ hiện đại: an toàn, tiện nghi,
tốc độ cực nhanh thì coi như Trái Đất đã nhỏ đi nhiều (một cách tỷ đối). Lúc đó,
loài người chỉ cần một chính phủ duy nhất, kiểu như Liên Hiệp Quốc ngày nay điều
hành, còn các nguyên thủ quốc gia chỉ đóng vai trò như thống đốc bang, biên giới
lãnh thổ được xác định lại cho hợp lý đối với việc điều hành và chỉ có tính hình
thức, một ngôn ngữ và chữ viết quốc tế được sáng tạo ra và được sử dụng một cách
phổ thông, còn ngôn ngữ các dân tộc chỉ đóng vai trò như thổ ngữ. Không còn quân
đội và vũ khí giết người mà chỉ có lực lượng cảnh sát cùng với những phương tiện
trấn áp có thể gây sát thương ở mức độ nhất định, nhưng không gây chết người.
Chúng ta tin rằng
khi loài người đáp ứng được những điều kiện đó, nó sẽ có được một xã hội mà con
người trong đó sống an bình, hạnh phúc nhất. Bởi vì khi đó, coi như loài người đã
đưa được cuộc đấu tranh sinh tồn trong nội tại nó hướng (chủ yếu) ra phía ngoài
với đối tượng là môi trường thiên nhiên và Vũ Trụ.
Hướng tiến triển
đến một xã hội đại đồng yên ổn và vui tươi đó có phải là một tất yếu đối với loài
người không? Nếu không thì thật là bất hạnh, nếu đúng thì xin… cảm ơn Tạo Hóa!
Nhưng thôi, không
“nhăng cuội” lộn xộn và dông dài nữa, chúng ta hãy quay về tiếp tục “thực hiện”
cho xong quá trình người hóa mà chúng ta tưởng tượng ra trên cơ sở những tài liệu
và kết quả khảo cổ sẵn có trong tay!
***
Có thể rằng, vào
khoảng 600 - 700 ngàn năm cách nay, đã xuất hiện ba loại người Homo erectus khác
biệt nhau khá rõ về màu da: da đen và không lông ở Châu Phi, da sạm và không lông
ở miền nhiệt đới Châu Á, da sáng và lông hóa có mức độ ở miền ôn đới. Cũng có
thể khi đó, ngôn ngữ “í a í ới” kết hợp với điệu bộ đầu, cổ, chân tay đã phong
phú và phức tạp hơn trước, hơn nữa ngôn ngữ của ba loại người Homo erectus đã có
những sự khác biệt nhất định, nhưng họ vẫn tương đối còn hiểu nhau được.
Theo các nhà khảo
cổ thì vào khoảng 550 ngàn năm trước, người Homo erectus đã biết tạo ra và duy
trì lửa. Nhưng hiện tượng đó xuất hiện lần đầu tiên ở đâu trên thế giới và người
Homo erectus dùng lửa đầu tiên vào việc gì?
Đang liều lĩnh
tưởng tượng một cách ngon trớn và mang trong lòng sự thiên vị, chúng ta cho rằng
con người tạo ra và sử dụng lửa cho cuộc sống của mình lần đầu tiên là ở Đại Lục
Mẫu (và nếu Đại Lục Mẫu thực sự chưa hề tồn tại thì là ở Đông Nam Á). Có lẽ vào thời đó trên Đại
Lục Mẫu và cả ở Đông Nam
Á, bạt ngàn cây họ tre như: trúc, vầu, nứa… Những cây này mọc thành từng đám rừng
ken nhau dày đặc. Khi dông gió, bị sét đánh trúng, chúng dễ bốc cháy và tạo nên
cháy rừng. Tuy nhiên hiện tượng đó không gợi ý được cho người Homo erectus cách
tạo ra lửa. Còn một hiện tượng gây nguy cơ cháy rừng nữa mà chính nó mới làm
cho họ biết tự tạo ra ngọn lửa. Đó là do những nguyên nhân nào đó, như khô hạn
chẳng hạn, làm những bụi cây đó khô héo đi. Khi có đợt gió khô nóng thổi đến,
do mọc ken dày mà xảy ra hiện tượng thân cây nọ chà qua xát lại thân cây kia, làm
nhiệt độ tại vùng bị chà xát tăng dần đến độ bốc khói, ngún lửa, rồi bùng lên
cháy trong gió. Bắt chước, người Homo erectus đã dùng hai miếng tre, vầu hay trúc
khô… chà xát nhau và từ đó xuất hiện ngọn lửa đầu tiên trên thế giới.
Lúc đầu, người
Homo erectus chỉ thấy ở ngọn lửa sự làm cháy, làm nóng và làm sáng, do đó nhiều
khả năng họ chỉ sử dụng lửa nhằm mục đích sưởi ấm trong mùa đông giá lạnh, nhất
là vào ban đêm. Có thể rằng họ cũng thường xuyên quây quần ăn uống, nhảy múa
quanh đống lửa và trong những lần như thế, họ ngẫu nhiên đánh rơi hoặc chủ ý quăng
những mẫu thức ăn thừa vào đống lửa. Dần dần họ phát hiện ra một điều quan trọng:
củ, quả, hạt và cả cá, thịt thú, khi được nướng trên lửa, vùi vào tro than còn
cháy, sau một thời gian ăn nhất định thì trở nên mềm hơn, dễ cắn, nhai hơn. Thế
là một cách thức ăn mới ra đời và trở thành cách ăn chủ yếu ở người Homo
Erectui: ăn thức ăn đã được làm mềm (làm chín) nhờ lửa. Sự chuyển biến từ cách ăn
tươi nuốt sống sang lấy ăn chín làm chủ yếu đã tạo nên một tác động mạnh mẽ đến
quá trình người hóa ở Đại Lục Mẫu nói riêng và Đông Nam Á nói chung, theo hướng tăng trưởng
nhanh chóng khối lượng bộ não, cải tạo lại răng, hàm, khuôn mặt… để rồi vào khoảng
hơn 500 ngàn năm trước đây, ở đó xuất hiện loài người Homo Sapiens (người tinh
khôn). nhờ được cung cấp nhiều tố chất hơn mà khối lượng của bộ não ở người Homo
sapiens lớn hơn của người Homo erectus và do đó mà khả năng suy nghĩ của người
Homo sapiens cũng ở mức độ sâu sắc hơn người Homo erectus nhiều.
(Tự nhiên, một ý
nghĩ chợt lóe lên trong đầu chúng ta như thế này: một cách tương đối, có thể lấy
hiện tượng mơ mộng và sự nhớ lại mơ mộng ấy sau khi thức dậy xảy ra thường xuyên
ở con người ngày nay để hình dung sự tiến triển mức độ suy nghĩ ngày một sâu sắc
của bộ não trong lịch sử của quá trình người hóa. Sau một ngày tích cực phục vụ
cho hoạt động sống (và ở người là cả tư duy sáng tạo) từ bộ não cũng đạt đến trạng
thái kích thích cao độ, gây ra cảm giác buồn ngủ để tự vệ. Như vậy giấc ngủ là
hình thức nghỉ ngơi của bộ não, giúp cho nó từ trạng thái vận động bị kích thích
lên căng thẳng trở về với trạng thái điều hòa, bình thường, vốn có của nó (trạng
thái vận động tối thiểu), tức là làm giảm mức độ chuyển hóa có nguy cơ bị làm
cho rối loạn trong nội bộ của nó (vì nếu bị như thế thì nó sẽ không còn là nó nữa!).
Khi một người chìm vào giấc ngủ thì cường độ hoạt động của não người đó giảm hẳn
đi và mức độ hoạt động thấp nhất của nó lúc đó là chỉ còn hoạt động vô thức. Có
lẽ nếu chỉ mệt mỏi thực sự về thể xác do hoạt động sống tích cực thôi thì khi
ngủ, não người đó chỉ hoạt động hoàn toàn vô thức, và nếu chỉ mệt mỏi, căng thẳng
về hoạt động tinh thần thôi thì trong giấc ngủ, người đó chủ yếu là chiêm mộng
hết sự việc này đến sự việc khác. Tuy nhiên, trong thực tế, một người không thể
chỉ mệt mỏi về thể xác, cơ bắp mà không mệt mỏi về tinh thần, trí não và ngược
lại, chỉ duy có điều mức độ giữa hai sự mệt mỏi ấy, trong mối quan hệ giữa chúng
với nhau, có thể là nhiều ít khác nhau. Chính vì vậy mà trong một giấc ngủ, các
nhà nghiên cứu thấy rằng thường thì não thực hiện hai cách ngủ: ngủ sâu (không
chiêm mộng) và ngủ REM (có chiêm mộng). Hai cách ngủ ấy xuất hiện đan xen nhau
trong suốt một giấc ngủ. Chúng ta cho rằng trong giai đoạn ngủ REM, bộ não dù đã
giảm cường độ hoạt động của nó xuống rất nhiều, thì ở mức độ nào đó, vẫn chưa
triệt tiêu được hẳn mặt tích cực (mà ở người là tính có ý thức) trong hoạt động
thực tiễn, luôn ẩn chứa tiềm tàng trong nó. Nghĩa là khi ngủ REM, bộ não vẫn còn
bị lũng đoạn bởi tác động tổng hợp mù quáng của ba yếu tố mang tính tương đối
chủ quan là nghĩ suy, trừu tượng hóa, hồi ức (mà ở những loài động vật bậc cao,
nghĩ là chủ yếu (mắt thấy tai nghe hiện thực và phân biệt được trong chừng mực
nhất định vạn vật - hiện tượng, cũng như sự lợi hại trong hiện thực), ít suy, và
hồi ức thì còn ở mức thấp: chóng quên).
Nói tóm lại, hoạt
động chủ đạo của não người ngày nay trong giấc ngủ của nó, là hoạt động vô thức
nhưng cũng thường xuyên bị lũng đoạn bởi tính hữu thức mà nó vốn dĩ dung chứa
tiềm tàng. Tùy mức độ thể hiện của tính hữu thức trong giấc ngủ REM mà cảnh chiêm
mộng hời hợt hay sâu sắc, và khi thức dậy sự nhớ lại (hồi ức) là mờ nhạt hay rõ
nét, nhanh chóng bị xóa nhòa trong tâm trí hay được khắc ghi tương đối lâu dài.
Có thể dùng sự
chiêm mộng trong khi ngủ và nhớ lại sau khi thức giấc ở con người ngày nay để để
dù là thô thiển thì cũng phần nào dùng được cho việc đánh giá mức độ suy nghĩ sâu
sắc của não người trong giai đoạn nào đó của quá trình người hóa. Chúng ta cho
rằng, đại khái, ngoại trừ những cái cần thiết cho hoạt động sống còn và lặp lại
hàng ngày có thể được lưu nhớ lâu dài nhờ có sự thường xuyên được nhắc nhở, còn
thì những sự kiện xảy ra trong ngày hôm trước, đến ngày hôm sau, người Homo erectus
hậu kỳ đã quên đi ít nhiều, và có thể là đến năm, bảy ngày sau, họ đã không thể
nhớ lại mảy may. Còn đối với người Homo sapiens thì có lẽ dăm ba ngày sau vẫn còn
thấy rõ mồn một những sự kiện xảy ra trong ngày hôm nay, và cũng có khả năng, dù
độ sắc nét của những sự kiện đó đã giảm dần đu, thì phải đến (chắc là) cả tháng
thậm chí là lâu hơn nữa, họ mới không thể hồi ức lại được nữa… Có thể coi sự nhớ
lại những cảnh đã chiêm mộng là trường hợp riêng của hiện tượng hồi ức về quá
khứ. Quá khứ là những cảnh, những sự kiện phi hiện thực đã từng là hiện thực.
Hiện thực của ngày hôm qua chỉ còn như một giấc chiêm mộng của ngày hôm nay mà
thôi!).
Với bộ não tiến
triển hơn vào cấu trúc hàm, răng, miệng giúp cho sự phát âm linh động hơn nhờ
chuyển sang chế độ ăn thức ăn chín là chủ yếu mà trong giai đoạn đầu hiện diện ở
Đông Nam
Á, ngôn ngữ của người Homo sapiens, dù vẫn phải kết hợp với điệu nộ chân tay, dù
vẫn chỉ phát ra toàn nguyên âm, thì đã có bước phát triển vượt bậc: phong phú hơn
nhiều về số lượng âm tiết phát ra, chuỗi âm tiết có liên quan đến nhau được liên
tục phát ra thành đoạn để diễn tả một sự việc, một hiện tượng của đã dài ra.
Hay chúng ta nói: ngôn ngữ “í a í ới” còn sơ sài ở người Homo erectus đã tiến
triển lên ngôn ngữ phức “ú a ú ớ” phức tạp hơn ở người Homo sapiens giai đoạn đầu
tồn tại và chuyển biến thành thứ ngôn ngữ “bi ba bi bô” (có phụ âm ở đầu âm tiết)
phong phú và phức tạp hơn nữa, có khả năng diễn tả hiện thực sâu rộng hơn nữa,
trong khoảng hậu kỳ tồn tại của họ. Sự kiện đó cũng có nghĩa rằng bộ phận lớn
người Homo erectus còn lại trên thế giới với chế độ ăn sống nuốt tươi (coi như
dừng bước trong quá trình người hóa), về mặt ngôn ngữ, đã hầu như không thể hiểu
người Homo sapiens được nữa.
Sau một thời
gian “dừng chân” không lâu trong khu vực Đông Nam Á, (có lẽ là trong khoảng 10 đến
20 ngàn năm), do những nguyên nhân khách quan và chủ quan, người Homo sapiens,
mang theo chế độ ăn chín là chủ yếu, lan tràn ra khắp các châu lục (trừ Châu Mỹ)
và có thể là cả châu Úc, cũng như châu Nam Cực và Bắc Cực). Trong cuộc lan tỏa
dân cư ồ ạt này, người Homo sapiens nhanh chóng có mặt ở hầu hết các khu vực có
người Homo erectus đang sinh sống, có điều kiện tương đối thuận lợi cho hoạt động
sống của con người. Như vậy, lúc đó, ở đâu có người
Homo erectus thì cũng có người Homo sapiens. Hai giống người này đều biết tạo
ra lửa và sử dụng lửa, nhưng trong khi người Homo erectus chỉ dùng lửa để sưởi ấm
vào mùa lạnh giá và vẫn giữ tập quán ăn sống nuốt tươi, thì người Homo sapiens
còn dùng lửa để làm chín thức ăn phục vụ cho chế độ ăn chín là chủ yếu và đã trở
thành tập quán không thể bỏ được của họ.
Có thể là do đã
có sự khác biệt tương đối rõ về mặt hình thể và nhất là bất đồng ngôn ngữ mà
hai giống người ấy đã coi nhau như những kẻ xa lạ và giữa họ đã nảy sinh ra cuộc
cạnh tranh sinh tồn ngày một gay gắt. Nhờ đã tinh khôn hơn, mối liên kết mang tính
xã hội giữa các thành viên hợp thành quần thể chặt chẽ hơn trong hoạt động sống
mà người Homo sapiens có ưu thế vượt trội hơn người Homo erectus trong cuộc cạnh
tranh đó. Dần dần, ở tất cả các khu vực xuất hiện người Homo sapiens, người Homo
erectus đóng vai trò như “thổ dân” ở những khu vực đó hoàn toàn bị lấn át, phải
phiêu dạt đến những vùng có điều kiện sống khó khăn hơn, bị giảm dần số lượng cá
thể, trở thành thiểu số trước đa số áp đảo người Homo sapiens.
Theo kết quả khảo
cổ thì người Homo sapiens đã có mặt ở Trung Cận Đông vào khoảng trên dưới 400
ngàn năm cách nay, có mặt ở Đông Phi vào khoảng trên dưới 200 ngàn năm cách
nay. Và cũng theo nhiều nhà nghiên cứu nhân học thì đại diện cuối cùng của người
Homo erectus tồn tại đến khoảng trên dưới 120 ngàn năm cách nay thì tiêu vong.
Có lẽ thời điểm
xuất hiện người Homo sapiens ở Trung Cận Đông và cả ở Châu Âu phải sớm hơn nữa
so với kết quả khảo cổ, thậm chí là không dưới 480 ngàn năm cách ngày nay. Bộ
phận người Homo sapiens chọn Châu Âu làm địa bàn sinh sống, có thể do phải thích
nghi với điều kiện khí hậu có mùa đông rét buốt hơn hẳn của vùng ôn đới so với
của vùng nhiệt đới, và hơn nữa, hầu hết mặt sông, hồ bị đóng băng, đã tiến hóa
theo hướng thành người Homo neandertalensis
để rồi sau này (khoảng trên dưới 100 ngàn năm cách nay) làm xuất hiện người Neanderthal
(Neanderthal là tên một thung lũng ở Đức, nơi lần đầu tiên tìm thấy di tích của
giống người này, vào năm 1856). Xét về mặt người hóa thì chúng ta có cảm tưởng
rằng, sự tiến hóa thích nghi ấy có vẻ mang tính thoái hóa, hay nói đúng hơn là
một bước lùi: cẳng tay và cẳng chân ngắn lại chút ít nhưng cơ bắp mạnh mẽ hơn,
gò má thấp xuống, cằm chìm đi, cổ ngắn bớt, dù vẫn ăn thức ăn chín (nướng qua lửa),
nhưng lượng thịt trong khẩu phần thức ăn là chủ yếu, thậm chí là vào mùa đông,
chỉ ăn thịt động vật, lông dày hơn. Điều đặc biệt là đầu người Neanderthal rất
to, sọ chủ yếu phát triển ra phía sau để đảm bảo tính cân bằng cho lối đi, đứng
thẳng, chứa một bộ não có khối lượng lớn hơn của chúng ta ngày nay. Có thể thấy
ở nhiều loài động vật, não bộ của chúng cũng to hơn của chúng ta, nhưng trí khôn
của chúng, thậm chí, còn thua cả trí khôn của con chó. Như vậy, không phải sự tăng
trưởng nào về khối lượng của bộ não cũng làm cho nó tinh khôn hơn. Hướng ưu tiên
trong quá trình tiến hóa người hóa là làm cho bộ não biết suy nghĩ ngày một sâu
sắc và muốn thế thì điều kiện tiên quyết là bộ não phải có đủ tố chất đáp ứng
cho sự tiến triển ấy, do vậy, khối lượng của nó đòi hỏi phải tăng lên đến mức độ
phù hợp. Từ nhận định này, có thể đưa ra suy đoán rằng, khối lượng não bộ vượt
trội ở người Neanderthal so với khối lượng não bộ của những giống người khác cùng
thời kỳ, không phải hoàn toàn là do sự đòi hỏi nói trên, mà chủ yếu là do bị
“phát phì” đơn thuần. Có thể rằng khi một bộ phận người Homo sapiens đến sinh sống
ở Châu Âu, dù có gặp không ít khó khăn về mặt khí hậu, địa hình sinh thái của mùa
đông băng giá, thì họ cũng được đứng trước một nguồn thức ăn thực sự dồi dào, đó
là những đàn thú có thân hình to lớn, ăn thực vật, đã thích nghi được với môi
trường ở đó và đang thời kỳ phát triển tương đối nhanh về số lượng, nhất là đông
đảo những bầy voi ma mút, mà trình độ tổ chức săn bắt của họ đã có khả năng
khai thác được. Do chuyển qua chế độ ăn thịt, cá, sò, ốc là chủ yếu, mà lượng
thức ăn đó cũng rất dồi dào và cũng tương đối dễ dàng kiếm được, nên khối lượng
não bộ của con người ở Châu Âu tăng lên quá mức cần thiết cho việc nâng cấp trình
độ suy nghĩ của nó: chỉ một phần ít được dùng vào việc đó, số lớn còn lại là dư
thừa, tích tụ ở đó như một lực lượng dự trữ tiềm tàng. Nếu đúng là thế thì cái
sọ “kềnh càng” thái quá của người Neanderthal chỉ làm cho họ “mệt mỏi” thêm
trong hoạt động sống, trong cạnh tranh sống còn, nhất là khi nguồn thức ăn truyền
thống của họ bị giảm sút đáng kể, trở nên khó kiếm. Phải chăng đó là nguyên nhân
chủ yếu làm cho người Neanderthal biến mất một cách đột ngột cách đây khoảng 35
ngàn năm?
Nếu không kể giai
đoạn đầu của quá trình người hóa ở Đông Nam
Phi và cuộc lan tỏa dân cư từ Đông Bắc Phi sang các miền duyên hải nhiệt đới Tiểu
Á - Nam Á - Đông Nam Á
của người Homo erectus thì có thể nói những nảy sinh tự nhiên có tính hối thúc
quá trình người hóa tiến triển nhanh hơn theo hướng làm xuất hiện loài người ngày
nay đều xảy ra ở Đông Nam Á, hay cũng có thể nói: Đông Nam Á là nơi xảy ra những
chuyển biến cơ bản tạo ra những tiến triển có tính bước ngoặt trong quá trình
người hóa, đồng thời đó cũng như một trung tâm xuất phát những làn sóng lan tỏa
dân cư, tạo nên một quá trình lan tỏa dân cư nổi trội, theo hướng từ những miền
duyên hải nhiệt đới vào sâu trong đại lục địa Á - Âu, từ vùng nhiệt đới sang vùng
ôn đới, từ Á sang Âu, kéo dài suốt lịch sử của quá trình người hóa.
Khi người Homo
sapiens xuất hiện thì coi như họ đã được người Homo erectus bàn giao lại nhiệm
vụ tiếp tục hành quân đến tương lai, giương cao ngọn lửa đã sáng tạo được để hoàn
thành nốt những bước đi cuối cùng của cuộc trường chinh người hóa vĩ đại, kéo dài
suốt chừng 10 triệu năm.
Nhiều người thường
nói: não người là siêu việt nhất (hay hoàn hảo nhất) trong các bộ não. Nói như
vậy e là không chính xác. Có những loài chim thiên di cả chục ngàn cây số để tránh
mùa đông rét mướt, hoặc kiếm ăn, đã có thể định vị được cố hương sau một thời
gian xa cách thậm chí là hàng nửa năm trời để trở về lại cố hương. Mũi chó thính
hơn mũi người cả triệu lần. Loài rùa biển chọn môi trường sống ở cách xa nơi
“chôn nhau cắt rốn” của nó hàng chục ngàn cây số, nhưng đến kỳ sinh đẻ, nó vẫn
nhớ lại chính xác nơi đó mà vượt trùng dương trở về. Nếu xét trên những mặt đó
thì não của chim, chó, rùa hẳn là phải ưu việt hơn não người. Cho nên, nếu cho
rằng não người là hoàn thiện nhất thì phải hiểu là hoàn thiện nhất về mặt tư
duy mà thôi.
Có lẽ cấu tạo của
não bộ người Homo sapiens đã giống với của não bộ người ngày nay: mọi thể hiện
trong hoạt động của não người ngày nay đều đã có ở hoạt động của não bộ người Homo
sapiens. Có thể nói một cách hình tượng: não bộ người Homo sapiens là não bộ người
ngày nay - một kiệt tác của tự nhiên, chưa qua khâu củng cố đến hoàn thiện lần
cuối cùng.
Ở người Homo
sapiens, nhờ đã có một khả năng hồi ức tỏ tường, sâu rộng và tương đối “dài hơi”
(nhớ lâu) và qua đó cũng biết tưởng tượng về cái gọi là “ngày mai” hay “tương
lai”, mà tính tự giác, tính hoạch định trong hoạt động sống của họ đã trở nên rõ
ràng. Những biểu hiện về mặt xã hội hóa trong lối sống của họ cũng vậy. Dù vẫn
sống chủ yếu là du cư nhưng cũng đã xuất hiện cả biểu hiện của sự định cư, hay
có thể nói đó là lối sống định cư trong du cư. Vào thời đại Homo sapiens, con
người có thể đã sống theo từng nhóm mà các thành viên trong nhóm có mối liên hệ
huyết thống với nhau. Những nhóm ấy sống du mục “loanh quanh” trong một phạm vị
lãnh thổ nhất định. Một nhóm, khi du cư đến một địa bàn gọi là mới, dễ dàng hơn
trong việc tìm kiếm thức ăn, thì tạm thời định cư lại. Do chế độ ăn thức ăn chín
đã thành tập quán và cũng do nguyên nhân phải chia sẻ thức ăn cho những thành
viên chưa tự lập được hoặc đã mất khả năng lao động, mà cách ăn theo bữa được hình
thành. Vào buổi sáng, trước khi phân công nhau tỏa đi các phía kiếm ăn, mọi người
trong nhóm quây quần lại ăn và đó là bữa ăn sáng. Sau đó phần lớn thành viên của
nhóm tỏa đi kiếm ăn, một bộ phận ít ở lại lo củng cố nơi ăn chốn ở, coi dưỡng
trẻ em, người già yếu. Chiều, sau khi bộ phận đi kiếm ăn trở về, mang theo thành
quả mới kiếm được, thì cả nhóm lại quây quần lại ăn uống quanh đống lửa, đó là
bữa chiều. Khi kiếm được dư dả thức ăn thì cả nhóm nghỉ ngơi, thậm chí là suốt
ngày ăn chơi nhảy múa. Sau một thời gian khai thác, thức ăn trong địa bàn hoạt động
của nhóm trở nên khan hiếm, cạn kiệt, họ lại du cư đến địa bàn khác.
Trong một khu vực
nhất định, các nhóm người Homo sapiens đã thường xuyên có mối quan hệ với nhau,
giao tiếp với nhau thông qua ngôn ngữ chung, trao đổi thành quả lao động cho
nhau, tạo nên hình thức một cộng đồng xã hội tương đối gắn bó. Thông qua mối
quan hệ này mà xuất hiện những nhóm người mới. Sự tăng trưởng tự nhiên có tính
lạm phát về số lượng người sẽ tất yếu dẫn đến sự thiếu hụt thức ăn trong khu vực,
thúc ép một số nhóm phải di cư ra khỏi khu vực để tìm địa bàn sống mới, tạo ra
hiện tượng lan cư.
Như đã nói thì
ngôn ngữ của người homo sapiens ngày càng phong phú, phức tạp và tương đối lưu
loát. Trong ngôn ngữ đó đã xuất hiện những câu, những đoạn ngắn đóng vai trò như
một đúc kết kinh nghiệm, một lưu nhớ về kiến thức, về sự hiểu biết nhằm truyền đạt
cho nhau, nhất là từ thế hệ trước cho thế hệ sao.
Nói chung, người
Homo sapiens về sau đã có ý thức tương đối rõ ràng về cuộc sống của họ, về hành
vi lan động sáng tạo của họ. Dù có thể là còn rất mờ nhạt thì những ý niệm về
quê hương, bản quán, lãnh thổ, tổ quốc đã bắt đầu hình thành trong họ. Đối với
người Homo sapiens ở Đông Nam
Á, được sống ổn định trong định cư lâu dài đã trở thành nguyện vọng ngày một
thiết tha. Có lẽ đó là nguyên nhân chủ yếu thúc giục họ năng động sáng tạo hơn
nữa trong lao động để sao cho không những kiếm đủ ăn mà còn dư dôi, để dành cho
những thời đoạn trái mùa hoặc những lúc gặp khó khăn do ảnh hưởng của thời tiết,
khí hậu… Nghĩa là phải làm sao đạt được năng suất ngày càng cao trong săn bắt,
hái lượm, tạo ra được nguồn cung cấp thức ăn dồi dào về mặt tiềm năng, đồng thời
phải tìm ra cách tích trữ được thức ăn tương đối lâu dài.
Một trong những
hướng ưu tiên trong lao động sáng tạo của người Homo sapiens ở Đông Nam Á
là đánh bắt cá và tăng cường kỹ năng đánh bắt cá. Họ là những người bơi giỏi mà
lặn cũng tài. Có thể vào thời đó, người Homo sapiens đã chế tạo được những chiếc
bè gồm những thân cây như tre, nứa… ghép lại với nhau chặt chẽ thành mảng, thậm
chí còn làm ra được cả buồm bằng cách đan những thân cây nhỏ, mềm như cỏ, dây
leo… thành tấm lớn. Lúc đầu những chiếc bè đó được dùng trong ao, hồ lớn để ra
xa bờ, làm nơi nghỉ mệt sau những lần bơi lặn tìm sò, ốc và đâm, bắt cá. Sau
khi đã sử dụng thành thạo bè trong các ao hồ thì nó được dùng trên sông và cuối
cùng là trên biển cả. Hiện tượng cá nướng chín, để khô phía trên ngọn lửa (hun
khói), phơi khô dưới nắng để vài ngày sau hoặc lâu hơn nữa vẫn không bị thối rữa,
vẫn ăn được đã là một gợi ý quan trọng cho việc tích trữ thức ăn ở người Homo
sapiens. Song, quan trọng hơn cả trong việc giúp cho người Homo sapiens sáng tạo
ra một cách thức độc đáo, vừa giải quyết được vấn đề tích lũy thức ăn, vừa là một
hành động tích cực duy trì, tái tạo nguồn thức ăn, đó là hiện tượng lưỡng cá, sò,
ốc ở các ao hồ sau khi đã bị đánh bắt làm cho giảm đi đáng kể, thậm chí là gần
như cạn kiệt thì sau một thời gian nhất định, lại trở nên dồi dào. Chính hiện tượng
đó đã dẫn người Homo sapiens đến ý niệm “chăn nuôi” thủy sản. Những thức ăn dư
thừa sau khi ăn đã được họ ném xuống ao hồ gần đó cho cá ăn. Khi đánh bắt cá thì
có ý thức chừa lại những con nhỏ để nuôi tiếp. Rất có thể nuôi cá là hình thức
tự giác, tích cực một cách có ý thức đầu tiên của loài người trong việc nuôi dưỡng,
tái tạo và tăng cường nguồn thức ăn. Từ việc nuôi cá mà người Homo sapiens có
thể đã nghĩ đến việc nuôi những động vật ăn cỏ hiền lành khác như trâu, bò, lợn…
chẳng hạn.
Bên cạnh đó, nhờ
có cách ăn chín mà người Homo sapiens có một hướng tiến quan trọng khác trong
việc tăng cường nguồn thức ăn và mở rộng khả năng tích lũy, tàng trữ thức ăn. Đó
là tìm ra được những cách thức chế biến phù hợp để ăn được hầu hết những quả, củ,
hạt có trong thiên nhiên, và đặc biệt là đã tìm ra được một chủng loại thức ăn
mới, gồm hầu như tất cả các cây nhỏ, thân mềm mà ngày nay chúng ta gọi chung là
“rau”. Quá trình mở rộng nguồn thức ăn thực vật đó đã giúp cho người Homo sapiens
phát hiện ra rằng, có những loại cây tương đối dễ trồng, chỉ sau một thời gian
ngắn đã cho nhiều quả, củ như bầu, bí, khoai lang, sắn… chẳng hạn, và rau cũng
thế, rất dễ mọc, tăng trưởng nhanh, đồng thời cũng mau cho thu hoạch. Đã sẵn có
ý thức về nuôi cá thì ý tưởng về “trồng rau” cũng tất yếu xuất hiện. Đến đây thì
một phương thức có tính căn cơ, giải quyết tương đối cơ bản cho lối sống định cư
lâu dài, chính thức ra đời, và được gọi tên là “trồng trọt - chăn nuôi”.
Nhờ có phương
thức “trồng trọt - chăn nuôi” là tính xã hội trong cộng đồng người Homo sapiens
càng trở nên rõ rệt hơn: quan hệ giữa các nhóm, giữa các thành viên thường xuyên
hơn, gắn bó hơn. Cũng nhờ có phương thức đó mà hoạt động làm ăn của người Homo
sapiens dần trở nên hoàn toàn có ý thức: có dự trù, hoạch định, có kế hoạch
trong việc phân định của ăn của để, chọn thời điểm phù hợp để nuôi cấy, gieo trồng.
Khi phương thức
kiếm ăn “trồng trọt - chăn nuôi” trong các cộng đồng người Homo sapiens ở Đông Nam Á đã
trở nên phổ biến, thì dù phương thức “săn bắt - hái lượm” vẫn còn đóng vai trò
chủ yếu, lối sống định cư lâu dài vẫn xuất hiện như một hiện tượng nổi trội, và
có thể gọi đó là lối sống “du cư trong định cư”, hay còn gọi là “bán định cư”.
Chính cái lối sống
du cư trong định cư lâu dài đã làm cho những ý niệm phôi thai về cha mẹ, con cái,
anh em một nhà, bà con dòng họ về giống nòi, quê cha đất tổ, sự sở hữu, lãnh thổ,
tổ quốc… dần trở nên rõ ràng và ngày một sâu sắc ở người Homo sapiens.
Trí tưởng tượng
“điếc không sợ súng” dẫn chúng ta đến điều này: hiện tượng trồng trọt - chăn nuôi
đi liền với lối sống du cư trong định cư lâu dài đã xuất hiện lần đầu tiên tại Đại
Lục Mẫu vào khoảng 150 ngàn năm cách ngày nay. Lối sống mới và chế độ ăn mới (ăn
chín, theo bữa, tăng cá giảm thịt, chủ yếu là củ quả kèm theo nhiều rau) đã tác
động trở lại, cải tạo người Homo sapiens ở Đại Lục Mẫu chuyển biến thành người
Homo sapiens sapiens (người thông minh). Chúng ta cho rằng người Homo s. sapiens
xuất hiện lần đầu tiên vào khoảng hơn 130 ngàn năm cách nay. Từ những người đó
(còn gọi là người tiền Homo s. sapiens) mà định hình thành người Homo s. sapiens
- tiền thân của người hiện đại, xuất hiện vào khoảng 40 - 50 ngàn năm cách nay.
Có lẽ đó cũng là thời điểm kết thúc của quá trình người hóa, vì từ đó đến nay dường
như không còn thấy xuất hiện sự tiến hóa nào nữa, nhất là về mặt trí não, có vẻ
như mức độ suy nghĩ sâu sắc đã đạt đến hạn định.
Từ Đại Lục Mẫu,
lối sống và chế độ ăn, cùng với văn hóa của người Homo s. sapiens, theo làn sóng
lan tỏa dân cư, xâm nhập trước tiên vào phần Đông Nam Á thuộc đại lục địa Á - Âu. để
rồi từ đó mà xâm nhập vào khắp các khu vực khác trên đại lục địa này và cả châu
Phi. Theo kết quả của khảo cổ học thì người Homo s. sapiens đã có mặt ở Indônêxia
vào khoảng 130 ngàn năm về trước, và ở Cận Đông là vào khoảng 100 ngàn năm về
trước.
Có thể cho rằng,
ở hầu hết các khu vực, người Homo sapiens “bản địa” và người tiền Homo s.
sapiens mới đến đã có sự hòa hợp tương đối với nhau, ảnh hưởng lối sống của
nhau và đồng hóa nhau theo xu thế tạm gọi là “người hiện đại hóa”. Riêng tại châu
Âu thì vào khoảng 80 ngàn năm cách nay, người Homo s. sapiens mới xuất hiện đông
đảo. Do chuyển hóa từ người Homo sapiens theo hai hướng tương đối nghịch nhau mà
giữa người Homo s. sapiens và người Neanderthal đã có những khác biệt lớn về mặt
sinh học. Vì không thấy có hình thức chuyển tiếp (trung gian) giữa hai loài nhỏ
này nên các nhà nhân học cho rằng giữa họ không có sự giao phối. Tình thế đó dẫn
đến cạnh tranh sinh tồn quyết liệt giữa hai loài người này. Trong tình trạng ngày
một khan hiếm thịt động vật và hoàn toàn yếu thế hơn trước sự cạnh tranh mạnh mẽ
môi trường sống của người Homo s. sapiens, người Neanderthal tiêu hao dần và đi
tới tuyệt chủng.
Đến khoảng 40
ngàn năm cách nay thì người Homo s. sapiens coi như đã lan tỏa ra khắp đại lục Á
- Âu và Châu Phi, đồng thời cũng kết thúc quá trình lan tỏa dân cư theo xu thế ưu
tiên, nổi trội từ Đông Nam
Á ra khắp nơi. Từ đó, cuộc lan tỏa dân cư của loài người chuyển biến sang một hình
thức mới, có biểu hiện nổi trội mới: lúc đầu, từ những khu vực có môi trường sống
thuận lợi và đông đảo dân cư hơn, dân cư lan tỏa ra xung quanh, đến những khu vực
hẻo lánh, có môi trường sống khó khăn hơn, từ hạ nguồn các con sông lan tỏa lên
thượng nguồn, từ đồng bằng phì nhiêu ven các con sông lan tỏa lên trung du, thảo
nguyên và vào cả những vùng rừng núi âm u, hiểm trở, sau đó, cũng xuất hiện rải
rác những cuộc lan tỏa cùng hướng nhưng ngược chiều với những chiều hướng nói
trên. Quá trình lan tỏa dân cư có vẻ tương đối hỗn loạn đó đã tạo nên hiện tượng
tạm gọi là “giao thoa dân cư”, dân cư của khu vực này lấn át dân cư của khu vực
kia và ngược lại. Hiện tượng đó ngày càng trở nên phổ biến theo cùng với sự tăng
trưởng số lượng ngày càng đông đảo của loài người và đồng thời cũng làm nảy
sinh sự cạnh tranh sinh tồn nhiều lúc rất gay gắt giữa những bộ phận người Homo
s. sapiens với nhau, đe dọa trực tiếp đến lối sống du cư trong định cư lâu dài
của nhau, thu hẹp phạm vi lãnh thổ đáp ứng cho lối sống ấy của nhau. Trong tình
hình ấy, đã sẵn ý niệm về lãnh thổ của cộng đồng (hình thức sơ khai của bộ tộc,
tương tự như hình thức liên kết giữa các bộ lạc hoặc thị tộc sau này) thì cũng
tất yếu xuất hiện ý niệm về quyền sở hữu lãnh thổ và quyền được ở trên mảnh đất
quê hương, bản quán. Chính sự thôi thúc phải cạnh tranh để sống còn và quyền được
sở hữu lãnh thổ ấy đã thổi bùng lên cái gọi là bạo lực để từ đó mà xuất hiện hình
thức cạnh tranh cực đoan nhất: đấu tranh vũ trang gây chết chóc lẫn nhau giữa
hai bộ phận đối đầu nhau. Có thể rằng cuộc chiến tranh đầu tiên gây chết chóc bằng
“vũ khí chuyên dụng” trong nội bộ loài người đã xảy ra cách nay khoảng (ít ra
thì cũng) hơn 10 ngàn năm về trước.
Khi hiện tượng
xâm lấn và bảo vệ lãnh thổ đã xảy ra tương đối thường xuyên thì cũng là lúc xuất
hiện những hình thức đầu tiên nào đó có tính qui ước để đánh dấu phạm vi lãnh
thổ đã sở hữu. Khi đã xuất hiện sự sở hữu lãnh thổ thì đồng thời cũng xuất hiện
sự phân hóa ngôn ngữ thành đa ngôn ngữ. Ngày nay có một sự khác nhau dễ nhận biết
về cách phát âm trong ngôn ngữ của người Châu Âu (dù có gốc Xlavơ hay Latinh)
so với cách phát âm trong ngôn ngữ còn lại của thế giới (nhất là của Châu Á).
Trong hai loại ngôn ngữ đó, nói chung, nguyên âm và phụ âm đều được sử dụng nhuần
nhuyễn và cũng tương tự nhau, cũng gồm hai hệ thống các nguyên âm và các phụ âm,
rồi trên cơ sở kết hợp hai hệ thống ấy, chọn lựa, sắp xếp hai loại âm tiết ấy với
nhau mà tạo ra những âm thanh mới để chỉ về những sự việc nào đó, những hành động
nào đó, mà khi phát âm chúng một cách liên tiếp và hợp lý thì có thể mô tả được
một hiện tượng (đã, đang, sắp diễn ra) nào đó, hoặc một ý tưởng, một suy nghĩ nào
đó. Tuy nhiên, trong khi ngôn ngữ Châu Âu, nói chung, là sự hợp thành của những
âm thanh đa âm tiết, nhiều khi phải nhấn mạnh phụ âm, nhất là âm gió, ở đầu hay
ở cuối âm thanh thì mới hiểu được và thường thì những đơn âm hợp thành âm thanh
đa âm tiết ấy, nếu tách ra đứng một mình thì hầu như chẳng có nghĩa gì cả, thì
ngôn ngữ ngoài Châu Âu, nói chung, là sự hợp thành của những âm thanh đơn âm tiết,
và những âm thanh đa âm tiết chỉ là sự kết hợp đơn giản của đôi ba đơn âm tiết đó,
cho nên không có sự nhấn mạnh phụ âm và khi tách một âm tiết nào đó của âm
thanh đa âm tiết ra đứng độc lập thì (thường là) nó vẫn còn ý nghĩa vốn có trước
đó của bản thân nó. Chẳng hạn, trong Anh ngữ có âm thanh đa âm tiết: Xờ-taa-tờ
(start: khởi sự, bắt đầu). Nếu không thể hiện để nhận biết được âm “xờ” và âm
“tờ” trong khi phát âm thanh ấy thì chẳng ai hiểu gì cả và nếu tách âm “xờ” hay
“tờ” ra đứng độc lập thì bản thân chúng là vô nghĩa. Nhưng trong Việt ngữ không
có hiện tượng ấy: “khởi sự” là một âm thanh được tạo thành bằng cách ghép đơn
giản hai đơn âm “khởi” và “sư”. Hai đơn âm này được coi như là sự kết hợp một cách
tự nhiên và hợp lý theo khả năng phát âm thanh của người Việt đối với phụ âm “khờ”
và nguyên âm “ởi” hay của phụ âm “sờ” và nguyên âm “ự”, để khi phát âm thì gọn
lại là “khởi” hay “sự” chứ không phải là “khờ-ởi” hay “sờ-ự”. Hơn nữa, nếu hiểu
âm thanh “khởi sự” là “khởi đầu sự việc” thì khi tách âm thanh đó thành hai đơn
âm đứng độc lập “khởi” vẫn có nghĩa là “khởi đầu”, “bắt đầu” và “sự” vẫn có nghĩa
là “sự việc”. Trong ngôn ngữ Việt, không có những âm thanh kiểu “ởi khờ” (ởikh)
nghĩa là thể hiện có tính nhấn mạnh phụ âm ở cuối âm, và dù một âm thanh có phụ
âm ở cuối thì nó cũng không được thể hiện một cách rõ rệt, chẳng hạn như âm “ớt”,
không ai phát âm thành “ớt-tờ” cả. Còn ở Anh ngữ lại có, chẳng hạn như âm
“iventờ” (event: biến cố), nếu trong khi phát âm, không thể hiện rõ phụ âm “t” ở
cuối thì không thể hiểu được.
Người ta nói
“phong ba bão táp không bằng ngữ pháp Việt Nam”. Nói như vậy có lẽ không đúng.
Chúng ta cho rằng ngôn ngữ Việt Nam
giản dị, trong sáng. Trình tự diễn đạt về một sự kiện, biến cố nào đó bằng Việt
ngữ rất hợp lý, rất sát với diễn tiến của sự kiện, biến cố ấy trong hiện thực.
Chúng ta nói: “Nước dâng lên làm lụt cả một vùng”, và người nghe thấy ngay ra được
hiện tượng và diễn tiến của hiện tượng. Trong câu nói đó, không có một âm thanh
nào thừa cả, vô nghĩa cả và diễn tiến của hiện tượng trong thực tế đã xảy ra đúng
như vậy. Còn khi chúng ta nói: “Cả một vùng ngập lụt là do nước dâng”, thì người
nghe hiểu được ngay cái nguyên nhân gây ra thực trạng ấy là “nước dâng”, hai âm
“là”, “do” đóng vai trò tiếp ngữ nhằm chỉ đích danh cái làm cho “cả một vùng ngập
lụt”. Không ai nói “Đi ăn cơm, tôi” vì nó trái ngược với trình tự diễn tiến
trong thực tế, và như thế không ai có thể hiểu được, mà phải nói: “Tôi đi ăn cơm”,
nghĩa là phải theo trình tự chủ ngữ - vị ngữ - tân ngữ. (Chủ thể thực hiện hành
động tác động đến khách thể và nếu thiếu chủ thể thì cái quá trình đó trở nên mơ
hồ, phi thực và thậm chí là không thể xảy ra được). Điều gây ấn tượng mạnh nhất
của Việt ngữ, gợi cho chúng ta cái suy nghĩ rằng nó còn lưu giữ được toàn bộ dấu
tích của ngôn ngữ cổ xưa nhất - ngôn ngữ “bi ba bi bô” của người Homo sapiens,
và thậm chí cả của tiền ngôn ngữ - ngôn ngữ “ú a ú ớ” của người Homo erectus, đó
là cách ghép có tính cực kỳ đơn giản, cơ giới, rời rạc các đơn âm tiết thành đoạn,
thành câu nói, mà sau khi ghép rồi thì các đơn âm tiết vẫn không bị biến thái
khi phát âm.
Còn trong các
ngôn ngữ gốc Châu Âu thì tình hình rất khác. Chẳng hạn trong ngôn ngữ Hunggari
(ở Trung Âu), có thể nói: “Nem lehet meg itt a búcsuzás” (phát âm theo tiếng Việt
là: “Nem lehetơ mêgơ ittơ o bucchùdásờ”). Nếu dịch sang tiếng Việt theo đúng vị
trí các âm tiết trong câu thì nghĩa của nó là thế này: “Không thể vẫn ở đây là
sự (cuộc) chia tay” và… thật là tối nghĩa. Nhưng nếu hiểu được cách nói muốn nhấn
mạnh trọng tâm vào vấn đề nào đó của người Châu Âu thì sẽ dịch ra được: “Ở đây,
chưa thể xảy ra sự (cuộc) chia tay được”, và hoàn toàn hiểu được. Hay ví dụ khác,
khi người Mỹ nói: “I love you, too”, nếu dịch theo vị trí âm tiết thì là: “Anh
yêu em cũng” và rất tối nghĩa, nên phải dịch là: “Anh cũng yêu em” và dễ dàng
hiểu được. Sau đây là ví dụ về sự biến thái âm thanh của một âm tiết gốc sau
khi tham gia vào ghép câu. Nếu từ ba âm gốc trong tiếng Anh là “you” (nghĩa là
“anh”), “hit” (nghĩa là “đánh”) và “I” (nghĩa là “tôi”), chúng ta ghép thành câu:
“You hit I” (“I”, khi phát thành âm thanh thì nghe là “ai”) để muốn nói rằng
“Anh đánh tôi” thì người Anh sẽ cười cho thối mũi, mà phải nói: “You hit me” (với
âm thanh phát ra của “me” là “mi”, cũng có nghĩa là “tôi” chứ không phải là âm
thanh “ai” nữa) thì mới diễn đạt được cái ý muốn nói đó.
Như vậy, có thể
thấy, so với cách ghép câu của Việt ngữ thì cách ghép câu trong ngôn ngữ gốc Châu
Âu là phức tạp hơn, khó khăn hơn rất nhiều (dù có thể là làm cho câu mang ý nghĩa
tinh tế hơn, rõ ràng hơn), đòi hỏi người học thứ ngôn ngữ đó phải thuộc những
qui tắc biến đổi âm thanh không phải là dễ nhớ, nghĩa là mất hẳn đi tính tự nhiên,
dung dị mà thay vào đó là nặng nề tính chủ quan, khiên cưỡng.
Chúng ta cho rằng
tất cả các ngôn ngữ ngày nay trên thế giới đều có chung một nguồn gốc xuất phát
ban đầu mà gần nhất có thể chính là ngôn ngữ của người Homo s. sapiens (tồn tại
đến khoảng thời gian trên dưới 50 ngàn năm về trước thì bắt đầu bị phân hóa).
Nhưng tại sao lại
có sự khác biệt dễ thấy nói trên giữa ngôn ngữ Á (mà Việt ngữ là tiêu biểu) và
ngôn ngữ Âu (mà Anh ngữ là tiêu biểu)? Căn nguyên sâu xa và có tính quyết định
tạo ra sự khác biệt đó chính là do chế độ ăn (hay thành phần thức ăn truyền thống)
của người Homo s. sapiens ở Đông Nam Á và của người Homo s. sapiens ở
Châu Âu có sự khác biệt đáng kể. Sau khi phương thức kiếm ăn bằng trồng trọt -
chăn nuôi ra đời thì người Homo s. sapiens ở Đông Nam Á tất nhiên là vẫn giữ chế độ ăn
chín và ăn tạp, nhưng tỷ lệ giữa các chủng loại thức ăn trong một bữa ăn thường
nhật, nói chung là, thịt thú rừng ít, thịt cá, tôm, sò, ốc… và thịt các động vật
nhỏ, lưỡng cư như ếch, nhái nhiều hơn, nhưng chính yếu là thức ăn củ, quả (nhiều
tinh bột) kết hợp với các loại rau (nhiều chất xơ). Chính lối ăn mềm, ít béo,
nhiều tinh bột kèm chất xơ hóa ra lại phù hợp với khí hậu nhiệt đới, hơn nữa, làm
cho cơ bắp con người dẻo dai hơn và nhất là làm cho khuôn mặt con người chuyển
biến thành thanh thoát, nhẹ nhõm hơn, hoạt động của môi, miệng, lưỡi… linh hoạt
hơn, uyển chuyển hơn, do đó mà cũng phát ra được nhiều loại âm tiết khác nhau với
nhiều cao độ trầm bổng khác nhau. Một trong những nét độc đáo của Việt ngữ là tính
trầm bổng, “líu lo” của nó. Nhiều người nước ngoài, nhất là người phương Tây đã
lấy làm thích thú khi nghe người Việt nói chuyện với nhau. Hỏi tại sao thì họ nói:
“Nghe như chim hót”. Có lẽ học tiếng Việt khó không phải vì ngữ pháp mà vì sự
phát âm của nó.
Trong làn sóng
lan tỏa dân cư có tính tương đối ồ ạt và lâu dài, người Homo s. sapiens từ Đông
Nam
Á đã mang theo văn minh và lối sống ưu việt của họ (du cư săn bắt hái lượm
trong định cư trồng trọt chăn nuôi, lấy rau, củ, quả làm thức ăn chủ lực trong
bữa ăn và “tích cốc phòng cơ”) đến hầu hết mọi miền của đại lục Á - Âu và cả Châu
Phi. Tràn sang Châu Âu, người Homo s. sapiens về cơ bản vẫn sống trên nền tảng ấy.
Tuy nhiên, để thích nghi với điều kiện sống trong một môi trường có khoảng thời
gian lạnh, băng giá kéo dài hơn hẳn thời gian nóng, ấm, người Homo s. sapiens đã
phải cải biến đối tượng của trồng trọt chăn nuôi cũng như trong khẩu phần bữa ăn:
tăng chất béo (nghĩa là ăn thịt nhiều hơn), giảm chất xơ (nghĩa là ăn củ quả,
nhất là rau, ít đi). Chính điều kiện khí hậu và chế độ ăn ấy đã làm cho khuôn mặt
và cả cơ hàm, miệng của người Homo s. sapiens ở Châu Âu chuyển hóa dần theo hướng
“quắc thước” hơn, đồng thời mức độ trầm bổng của âm thanh phát ra từ miệng cũng
giảm xuống. Do số lượng nguyên âm có thể phát thanh được từ miệng đã bị hạn chế
đi nhiều, trong khi phải tăng cường ngôn ngữ để đáp ứng cho đòi hỏi xã hội hóa
trong hoạt động sống cũng như cho đòi hỏi nhận thức về tự nhiên ngày càng cao của
mình mà người Homo s. sapiens ở Châu Âu đã phát triển ngôn ngữ theo hướng tăng
cường sử dụng phụ âm và đa âm tiết hóa cho mỗi âm thanh phát ra.
Nếu thực sự đã
từng tồn tại Đại Lục Mẫu thì chắc rằng cách nay vào khoảng 30 - 40 ngàn năm về
trước, đã có những biến động địa chất làm cho nó tách rời hẳn vùng Đông Nam Á
thuộc đại lục Á - Âu (Đông Nam Á ngày nay). Hẳn là lúc đó, hoạt động sống của
người Homo s. sapiens đã ở một trình độ vượt trội so với thời kỳ đầu thoát thai
ra từ người Homo erectus. Lao động kiếm sống của họ trong thời gian này tất nhiên
là vẫn theo hai phương thức cơ bản: săn bắt - hái lượm và trồng trọt chăn nuôi.
Tuy nhiên hiện tượng lựa chọn một trong hai phương thức ấy làm chủ yếu ở từng
nhóm, từng bộ phận, từng cụm người Homo s. sapiens theo điều kiện địa hình, thổ
nhưỡng trong phạm vị địa bàn lãnh thổ mà họ làm ăn sinh sống, đã trở nên tương đối
phổ biến và như vậy, cũng sẽ kéo theo sự tồn tại của hiện tượng trao đổi thành
quả lao động giữa những nhóm, những cụm người Homo s. sapiens với nhau. Trong
phương thức săn bắt - hái lượm, đánh bắt cá và sò ốc có thể đã được nhiều nhóm,
nhiều cụm người Homo s. sapiens lựa chọn làm công việc kiếm sống chủ yếu. Trình
độ đánh bắt cá và sò ốc lúc đó đã có những tiến bộ đáng kể, đủ đáp ứng một cuộc
sống no đủ, thậm chí là sung túc cho họ. Có thể rằng lúc bấy giờ, bè mảng do người
Homo sapiens phát minh trước đó đã được người Homo s. sapiens cải tiến hơn nữa để
có khả năng thực hiện đánh bắt ngày một xa bờ, ngày một dài ngày. Chúng ta tưởng
tượng ra những cái bè hình chữ nhật, có nhiều lớp mảng tre nứa xếp chồng lên
nhau (để nổi hơn, chịu tải lớn hơn mà cũng an toàn hơn), bốn bề có thành (cũng được
ghép từ những mảng tre nứa) bao bọc, giữa bè là một cái cột được ràng buộc chặt
và trên đó là một cái buồm được kết lại từ những mảnh da thú. Nếu người Homo s.
sapiens đã từng chế tạo ra những cái bè đại loại như vậy thì đó chính là thế hệ
đầu tiên của những chiếc thuyền buồm đi biển sau này. Phải chăng con thuyền cứu
nạn Nôyê trong truyền thuyết có hình dạng và cấu tạo tương tự?
Có lẽ vào khoảng
25 - 30 ngàn năm về trước, người Homo s. sapiens ở Đại Lục Mẫu đã ngang dọc trên
biển cả bằng những chiếc bè - thuyền kiểu đó để đánh bắt cá và chở cá đi trao đổi
những chủng loại thức ăn rau, củ, quả, thịt thú rừng, gia súc với những nhóm người
Homo s. sapiens khác, thậm chí tới tận những miền ven biển của Đông Nam Á ngày
nay. Đó là những chuyến hải hành đầu tiên của loài người trên thế giới.
Trong trồng trọt
chăn nuôi, người Homo s. sapiens ở Đại Lục Mẫu đã có thể có những tiến bộ vượt
bậc: thuần hóa được khá nhiều loài động vật hoang dã, đã xuất hiện nghề chăn thả
từng đàn gia súc, đã có hiện tượng chuyên canh rau củ quả theo mùa, thậm chí là
đã phát hiện ra cây ngô và bước đầu dùng nó như một cây lương thực quan trọng.
Chính sự phát
triển vượt bậc trong trồng trọt - chăn nuôi đã tạo điều kiện cho người Homo s.
sapiens về cơ bản chuyển sang lối sống định cư lâu dài. Những cụm dân cư được định
hình và rải rác khắp Đại Lục Mẫu. Người ta cũng có thể đi xa kiếm sống một thời
gian, xong rồi thì lại trở về nơi đã từng thường trú, nơi đã từng được sinh ra
và lớn lên. Cuộc sống tương đối no đủ và hứa hẹn một tương lại ngày càng sung túc
ở hầu hết những cụm dân cư của Đại Lục Mẫu, cũng như yêu cầu về trao đổi thành
quả lao động trong kiếm sống đã hầu như triệt tiêu sự cạnh tranh gay gắt để sống
còn trong nội bộ người Homo s. sapiens ở đó. Mối quan hệ giữa các cụm dân cư là
có tính tương đối mật thiết, trên tinh thần tương trợ, thân ái, đôi bên cùng có
lợi. Một cộng đồng xã hội sung túc và hiền hòa với những con người quả cảm và
chăm chỉ trong lao động, thuần phác, hồn nhiên và lạc quan trong cuộc sống đã bắt
đầu ló dạng ở Đại Lục Mẫu, để rồi không lâu sau đó Đại Lục Mẫu trở thành nơi cực
kỳ tươi đẹp và hạnh phúc, thành một Địa Đàng có ngọn núi Tudi đầy huyền thoại mà
loài người ngày nay vẫn còn chưa nguôi tiếc nuối.
Tiếp tục tưởng
tượng (ở mức độ hoang tưởng bạt mạng nhất!), chúng ta thấy vào khoảng hơn 20 ngàn
năm cách ngày nay, xã hội loài người ở Đại Lục Mẫu đã đạt đến cực thịnh, làm xuất
hiện ở đó một nền văn minh hết mực thanh bình, không hề biết đến chiến tranh, vô
cùng rực rỡ, hơn hẳn mức độ văn minh của bất cứ khu vực nào khác trên thế giới.
Theo một truyền
thuyết thì người Homo s. sapiens ở Đại Lục Mẫu thời kỳ văn minh đó còn được gọi
là người Mẫu La.
“La” có nghĩa là Mặt Trời và người Mẫu La có tục thờ Mặt Trời. Rất có thể công
cụ lao động cũng như đồ dùng trong sinh hoạt của người Mẫu La chủ yếu được chế
tạo từ gỗ, tre nứa, với một phần là vỏ sò, ốc cỡ lớn, xương động vật, công cụ bằng
đá chỉ được sử dụng hạn chế và phần nhiều là dùng để ghè, đập và cũng có khi là
để đục, đẽo. Nhiều khả năng họ đã chế tác ra được cung tên để sử dụng trong hoạt
động săn bắt, và trong việc chế biến thức ăn, họ không chỉ làm chín bằng cách nướng
mà còn bằng cách nấu (cho thức ăn sống vào những thứ có hình dáng tương tự như
vỏ sò, vỏ ốc biển, có thể được làm từ đất sét, rồi đổ nước vào đặt trên ngọn lửa).
Nếu đã từng là như thế thì nên gọi thời đại đó là thời đại văn minh đồ gỗ.
Trong thời đại ấy đã xuất hiện những hình vẽ mang tính hội họa và cả những điêu
khắc, tạc tượng bằng gỗ và đá.
Cuộc sống trong
phồn vinh và thanh bình lâu dài đã làm cho tâm hồn của con người Mẫu La có bản
chất thuần phác, hồn nhiên, tràn đầy lạc quan và ứng xử với nhau hiền hòa đồng
thời cần cù, chăm chỉ trong lao động sáng tạo và là những người đi biển đầy quả
cảm.
Nhưng rồi thời đại
phồn thịnh ấy cũng qua đi. Sự tăng trưởng số lượng tự phát do cuộc sống no đủ,
sung túc tạo ra đã dần dần làm cho đời sống của đại đa số cư dân ở Đại Lục Mẫu
lâm vào tình trạng ngày càng khó khăn hơn trong công cuộc kiếm sống mưu sinh. Sự
“chật chội” của môi trường sống đã làm nảy sinh những đợt đi tìm những miền đất
mới bên ngoài Đại Lục Mẫu. Bên cạnh những đoàn hải hành đi làm ăn xa rồi trở về
là những chuyến hải hành với mục đích rời khỏi Đại Lục Mẫu tìm chốn định cư lâu
dài. Đầu tiên, có thể là sự xâm nhập vào những khu vực ven biển rồi sâu hơn vào
nội địa thuộc Đông Nam
Á ngày nay và sống hòa đồng với cư dân “bản địa” ở những nơi đó.
Có thể rằng vào
khoảng 20 ngàn năm cách nay đã có những cuộc hải hành vượt biển vĩ đại của người
Mẫu La từ Đại Lục Mẫu. Đó là những đoàn thuyền bè gồm nhiều chiếc liên kết với
nhau chở trên đó hàng trăm người, thậm chí là cả ngàn người vượt biển để đến định
cư lâu dài ở những miền đất mới đã được khám phá. Dưới một hình thức diễn tả nào
đó, nhiều khả năng những tấm bản đồ tương đối chi tiết về nhiều vùng đất và vùng
biển trên Trái Đất đã được tạo ra. Ngày nay, khi nói về những tấm bản đồ hàng hải
rất chính xác thời Trung Cổ, các nhà khoa học đều thống nhất rằng chúng được
sao chép lại từ những bản đồ cổ xưa hơn nữa, chẳng hạn từ thời tồn tại và hoạt động
của thư viện Alêxandria - Hi Lạp cổ đại. Xixêron nói: “Nơi hai đầu trục của bầu
trời đi qua đều phủ đầy tuyết” để tả về hai miền Bắc Cực và Nam Cực. Vì sao ông biết được như thế khi mà mãi
2 ngàn năm sau đó mới có những con thuyền đến được bờ châu Nam Cực lạnh giá?
Bản đồ của Ptôlemê thể hiện vùng Bắc Âu với những phần phủ trắng. Khoa học hiện
đại ghi nhận đó là những vùng tương ứng với thời kỳ băng hà vào khoảng 8000 năm
TCN. Vị chuyên gia về lịch sử và địa lý châu Mỹ nổi tiếng, giáo sư G. Hepged đã
thu thập các chứng cứ xoay quanh các bản đồ của các nhà hàng hải cổ rồi đưa ra
kết luận: “Từ thời xa xưa đã có một nền văn minh bao trùm thế giới và các nhà họa
đồ học thời đó đã lập nên các tấm bản đồ hoàn chỉnh về mọi vùng khác nhau trên
hành tinh. Rồi chúng được đồng loạt vẽ dựa trên những tri thức khoa học đồng nhất
về phương diện kỹ thuật, các qui ước cũng như cách tính toán tỷ lệ xích chung…
với những dụng cụ vẽ hoàn thiện giống hệt nhau”. Có một hướng lan tỏa dân cư đầy
gian nan nhưng cũng đầy hứa hẹn đối với người Mẫu La ở thời kỳ đó, đó chính là
hướng tới châu Úc. Chắc rằng người Mẫu La đã có mặt ở Châu Úc vào xấp xỉ thời điểm
đã nói ở trên. Sau đó một thời gian, bằng đường biển họ cũng đổ bộ lên vùng Nam Á thuộc Ấn Độ ngày nay, và cả các vùng Đông Nam và
Nam Châu Phi. Ngoài hướng đến
Châu Úc, còn một hướng nữa có phần gian nan hơn nhưng cũng không ít hứa hẹn, đó
là từ Đại Lục Mẫu vượt biển đến các quần đảo Polinêdi (trong đó có đảo Phục
Sinh) rồi từ đó vượt biển một lần nữa để đến Nam Mỹ. Có thể người Mẫu La có mặt
lần đầu tiên ở Nam Mỹ vào khoảng không dưới 15 ngàn năm cách nay (mãi sau này rất
lâu, người Homo s. sapiens ở Đông Bắc Á mới vượt được eo biển Bêring để xâm nhập
vào Bắc Mỹ. Có thể rằng khi người Homo s. sapiens Đông Bắc Á xuất hiện lần đầu
tiên ở Bắc Mỹ thì người Mẫu La đã sinh sống ở Nam Mỹ hàng mấy ngàn năm rồi).
Sau khi đã lan
tỏa dân cư đến những miền đất đầy hứa hẹn, thênh thang, chưa có dấu chân người
và sinh cảnh tươi tốt, trù phú thì Đại Lục Mẫu đã giải quyết được căn bản những
khó khăn trong kiếm sống và xã hội người Mẫu La ở đó lại bắt đầu bước vào một
giai đoạn phát triển lên cực thịnh mới. Từng đoàn thuyền hùng hậu chở những đồ
chế tác tinh xảo bằng gỗ, đá (như cung tên, những ngọn lao bằng tre hoặc tầm vông
vừa cứng vừa dẻo dai, những điêu khắc tín ngưỡng quí giá vì tính thiêng liêng,
cần cho việc thờ phụng tế lễ…) và cả những sản vật khác ra đi từ Đại Lục Mẫu và
trở về đầy ắp những sản vật, thực phẩm, thú lạ do trao đổi mà có.
Có lẽ vào thời
kỳ đó, trên Đại Lục Mẫu đã bắt đầu xuất hiện những công trình đã thực sự to lớn,
đây đó đã mọc lên những bức tượng đá khổng lồ, làm cho cảnh Địa Đàng càng trở nên
hùng vĩ, huyền linh hơn nữa. Chúng ta đoán như vậy vì cho rằng tất cả những công
trình đá có tầm vóc khổng lồ đến choáng ngợp như các pho tượng đầu người ở đảo
Phục Sinh, những kim tự tháp ở Nam
Mỹ và ở Ai Cập thời cổ đại… đều được tạo tác nên theo những kỹ năng, bí quyết đều
có tính kế thừa từ kỹ năng, bí quyết của người Mẫu La…
Thế rồi đến một
ngày nào đó trong khoảng thời gian trên dưới 12 ngàn năm về trước, không gian
trên Đại Lục Mẫu bỗng trở nên khác thường, đỉnh của ngọn núi hình kim tự tháp mà
người đời sau gọi là “Tu Di huyền thoại” thường vẫn lấp lánh như pha lê, bỗng
phản chiếu ra ánh sáng màu vàng ruộm ảm đạm, cây cối im phắc bởi không có một
ngọn gió, chim muông bay dáo dác trên bầu trời, muông thú gầm rú, gia súc lồng
lên, hoảng loạn. Người Mẫu La trên Đại Lục Mẫu, trước cái biểu hiện bất thường đầy
đe dọa đó, dù không biết điều gì đang xảy ra thì ai cũng thấy lòng bứt rứt, bất
an và đều dừng mọi hoạt động sống và chờ đợi trong âu lo.
Nhưng thời gian
chờ đợi trong âu lo ấy của người Mẫu La trên Đại Lục Mẫu không lâu. Đột nhiên, đất
rùng mạnh dưới chân họ và một tiếng nổ long trời lở đất phát ra từ phía núi Tu
Di, ngọn của quả núi hùng vĩ đó đã biến mất, thay cho nó là một cột lửa khổng lồ,
cao vút đến trời xanh. Chưa ai kịp hoàn hồn thì tiếp theo là hàng loạt cú nổ còn
kinh thiên động địa hơn bội phần, hất tung phần lớn Đại Lục Mẫu lên không
trung, tạo nên một trận mưa đất đá xuống một vùng rộng lớn ở Thái Bình Dương, có
khi đến tận bờ biển châu Mỹ. Trong nháy mắt, Đại Lục Mẫu - một Địa Đàng trở thành
huyền thoại và cũng là ước mơ đối với hậu thế, cùng với toàn bộ cư dân và nền văn
minh rực rỡ của nó, biến mất.
Vụ nổ liên hoàn
hủy diệt cực kỳ vĩ đại đó không những chỉ làm tan biến một lục địa mà còn gây
chấn động mạnh mẽ đến toàn cầu, tạo ra những đột biến kiến tạo ở nhiều khu vực,
nhưng mạnh mẽ nhất có lẽ là ở đáy các đại dương. Sự đột biến kiến tạo ở đáy các
đại dương đã là nguyên nhân chủ yếu làm xuất hiện hàng loạt đợt sóng thần khổng
lồ của những khổng lồ tràn vào càn quét, làm ngập lụt nặng nề hầu như khắp các
miền duyên hải trên thế giới, gây ra sự tàn phá hết sức nặng nề, có tính hủy hoại
và diệt chủng thực sự đối với sinh cảnh ở những nơi đó.
Cuộc thiên tai đó
đã gây nên ấn tượng khủng khiếp nhất trong tâm khảm những người còn sống sót để
rồi bằng con đường truyền khẩu mà hậu thế sau này được biết đến một thiên tai
ghê gớm có qui mô toàn cầu đã từng xảy ra trong quá khứ xa mờ được gọi dưới cái
tên “trận Đại Hồng Thủy”. Ngày nay ở hầu hết các dân tộc đều có một câu chuyện
dưới dạng truyền thuyết hay thần thoại, nhiều khi na ná nhau, ám chỉ về trận
thiên tai kinh hoàng ấy. Chẳng hạn, dân tộc Việt Nam có câu chuyện Ông Đùng, dân tộc
Trung Hoa có câu chuyện Bà Nữ Oa…
Một câu hỏi đặt
ra: tại sao các bộ phận người Mẫu La đến định cư ở các nơi như Đông Nam Á ngày nay, Nam Mỹ, Úc… lại không kế thừa được
và từ đó tiếp tục phát huy nền văn minh của họ để cho khi Đại Lục Mẫu đột ngột
biến mất thì nền văn minh rực rỡ của nó cũng đột ngột biến mất theo, hầu như không
để lại dấu viết gì? Chắc chắn là vẫn còn những di vật, tuy không nhiều, thuộc nền
văn minh đó còn lưu đến tận ngày nay, nhưng chúng ta chưa nhận biết nó. Cũng đã
có sự kế thừa về văn hóa, lối sống, về trình độ văn minh ở những bô phận người
Mẫu La sống bên ngoài Đại Lục Mẫu mà chúng ta vì chưa hẳn tin vào sự tồn tại của
nền văn minh Mẫu La nên cũng chưa nhận biết nó. Khi nói trình độ chế tác gỗ - đá
của người Mẫu La đã đạt mức độ điêu luyện, tinh xảo thì không có nghĩa người Mẫu
La cụ thể nào cũng đạt được kỹ năng ấy mà có thể chỉ một bộ phận nhỏ là nắm được
bí quyết và thực hiện được. Cũng như khi nói người của thế kỷ XX đã chế tác được
máy bay thì không phải bất cứ người nào ở thế kỷ ấy cũng chế tác được máy bay,
mà chỉ có ít ỏi vài nhóm nhỏ người ở vài khu vực làm được điều đó. Nếu đột nhiên
những nhóm đó và những khu vực đó biến mất như Đại Lục Mẫu thì coi như khả năng
chế tạo máy bay cũng mất đi. Khi những chiếc máy bay đang sử dụng lần lượt hư hỏng
hết thì hiện tượng di chuyển bằng máy bay chấm dứt và thấy có vẻ như nền văn
minh hàng không tiến triển thụt lùi, trở lại nền văn minh thủy - bộ chẳng hạn.
Do đó, có thể nghĩ rằng trong cuộc lan tỏa dân cư của người Mẫu La từ Đại Lục Mẫu
ra thế giới, những người ra đi hầu hết là những người bình dân “ít hiểu biết”,
chứ không phải là những người ưu tú về trí tuệ, về tài năng đại diện cho nền văn
minh Mẫu - La…
Đến đây, câu
chuyện hoang tưởng của chúng ta về quá trình người hóa đã hết. Chúng ta không
thể khẳng định chắc chắn được Đại Lục Mẫu cùng với nền văn minh Mẫu La rực rỡ của
nó đã từng thực sự hiện diện hay không, nhưng chúng ta tin tưởng sâu sắc vào điều
này: bắt đầu từ người Homo erectus, đã xuất hiện một quá trình lan tỏa dân cư và
cả văn hóa, văn minh, có tính liên tục, có xu thế nổi trội đặc biệt từ Đông Nam
Á ra khắp thế giới và sự nổi trội đặc biệt của quá trình này được thể hiện đến
tận 12 ngàn năm cách nay mới mất dần đi.
Một câu hỏi bất
chợt nảy ra: loài người hôm nay có còn nằm trong quá trình tiến hóa sinh vật nữa
không?
Đó là một câu hỏi
đơn giản nhưng thật khó trả lời cho đích đáng được! Có lẽ chỉ khi nào con người
không thuộc vè thế giới sinh vật thì nó mới thoát khỏi tiến trình đó. Nhưng làm
sao con người thoát ly ra khỏi thế giới sinh vật được khi bản thân nó là sinh vật?
Vậy thì loài người vẫn phải nằm trong quá trình tiến hóa sinh vật và tất nhiên
là bị quá trình ấy chi phối. Có điều loài người tiếp tục tiến hóa theo hướng nào?
Chúng ta biết rằng mục đích của tiến hóa sinh vật là làm cho giống loài nào đó
cải biến để thích nghi với điều kiện của môi trường sống. Tuy nhiên, như chúng
ta đang thấy, khả năng sáng tạo và kỹ năng chế tác của con người đã làm cho loài
người trở thành vô địch trong đấu tranh sinh tồn đối với mọi giống loài sinh vật
khác (kể cả đối với siêu vi khuẩn?), và dễ dàng sống thích nghi được trước mọi
biến đổi về khí hậu, thời tiết và sinh sản hiện nay trên Trái Đất. Con người ngày
nay vẫn chỉ sở hữu một cơ thể yếu ở nhưng nó lại có thể bay nhanh hơn chim, lặn
sâu hơn cá, chạy nhanh hơn ngựa, vồ chộp mồi hiệu quả hơn hổ báo, mạnh hơn
voi…, có thể sống bình thản trong sa mạc, ở Nam Cực, thậm chí là ở những trạm Vũ
Trụ bay vòng quanh Trái Đất. Thế thì loài người cần gì phải tiến hóa nữa.
Xét ở góc độ tiến
hóa theo hướng có một bộ não biết tư duy ngày một sâu sắc thì có lẽ vì sự tiến
triển nào rồi cũng phải có hạn độ và hình như não người đã tiến triển đạt được
cái hạn độ đó rồi và vì vậy có thể coi như con người đã ngừng tiến hóa.
Dù có ngừng tiến
hóa thì loài người vẫn không ngừng sáng tạo và sáng tạo ngày càng xuất sắc để đáp
ứng những đòi hỏi ngày càng cao, từ tự nhiên vừa giả tạo (mà nó chưa nhận thức được
mặt trái tai hại của chúng). Chính cái mặt trái tai hại của của quá trình tích
cực sáng tạo và tăng cường sáng tạo để thỏa mãn sự thèm muốn vô hạn độ và mù quáng
của con người, đến một thời đoạn nào đó sẽ làm xuất hiện ở loài người một cuộc
tiến hóa thích nghi “âm thầm” mà nếu nhìn ở góc độ tự nhiên thì đó lại là một
tiến trình thoái hóa sinh học: nhờ có đầy đủ những phương tiện, công cụ, thiết
bị tối tân hỗ trợ trong di chuyển, trong lao động, trong học tập, trong sinh hoạt…
mà con người sống thỏa mãn hơn, song cũng vì bị lệ thuộc mà con người thoái hóa
dần: cơ thể nhỏ lại, chân tay ngắn bớt, mất dần đi sự sắc sảo về tư duy dù sở hữu
cái đầu to hơn (giống trường hợp người Neandethal), bụng như cái trống và lười
biếng lao động. Khi tài nguyên thiên nhiên đã bị khai thác đến mức cạn kiệt mà
chưa có nguồn bổ sung thay thế, sinh cảnh trở nên tiêu điều, xơ xác thì tình trạng
thoái hóa sinh học ở con người trong điều kiện môi trường sinh thái như vậy sẽ đẩy
loài người rơi xuống vực thẳm của sự tiêu vong.
Viễn cảnh đen tối
ấy có thể xảy ra không? Tùy thuộc vào sự nhận thức và phát hiện ra sớm hay muộn
biện pháp khắc phục của bản thân con người mà thôi!
***
Tôi bừng tỉnh dậy
và thấy mình đang ngồi trước bàn làm việc.
Kể cũng lạ kỳ! Đang
đi qua đi lại trong phòng, dự định ra quán nhậu nhẹt để giải sầu thì hai từ
“lao động” bỗng nảy ra, “dìm” tôi chìm đắm vào suy tưởng mê man và không biết mình
ngồi lại vào đây từ lúc nào. Nhìn lên đồng hồ treo tường thấy mười giờ sáng. Ô
hay, lúc nãy thấy mười giờ sáng, bây giờ cũng vẫn mười giờ sáng, thế là thế nào!?
Đồng hồ chết rồi à? Không, nó vẫn sống! Chiếc kim giây vẫn nhích từ vạch này sang
vạch khác một cách đều đặn. Hay thời gian không trôi? “Có nhẽ đâu thế” được!...
Vợ tôi đi chợ về.
Đi qua chỗ tôi ngồi, mụ gờm gờm nhìn tôi. Từ trước đến nay có bao giờ mụ nhìn tôi
lạ lùng như thế đâu. Hôm nay mụ mắc chứng gì thế nhỉ? Trên đời này, tôi đã từng
yêu thương nhiều người, nhưng có lẽ vợ con là những người tôi yêu thương nhất
(tất nhiên là không kể bản thân mình rồi!). Tuy nhiên, yêu thương vọ con bao
nhiêu thì đồng thời cũng say đắm Tự Nhiên Tồn Tại bấy nhiêu, cho nên đối với vợ
con, tôi lại như một kẻ vô tâm vì bao nhiêu tâm trí đã dồn cho Vũ Trụ mất rồi!
Cái số tôi nó thế, biết làm sao được! Không biết cái nhìn gờm gờm ấy có phải là
biểu hiện của sự trách hờn đối với thằng đàn ông có tính khí kiểu miệng nói yêu
thương người này mà lòng lại mê tít kẻ khác? Nếu quả có thế thì thật là tội tình
cho vợ tôi và cả cho tôi nữa! Thôi! Phòng xa bao giờ cũng tốt hơn là “nước đến
chân mới nhảy”. Nghĩ vậy, tôi ngoái xuống bếp “hát”:
- Mụ mặc bộ quần
áo đó đẹp đấy, trông trẻ ra đến mấy tuổi…
- Thôi đi cha! Đừng
có mà nịnh đầm!...
- Không, tôi
khen thật chứ nịnh mụ mà ăn được giải gì! Mà trưa nay ăn món gì đấy? Mới giờ này
mà sao đói quá, không biết?...
- Không đói mới
là lạ! - Vợ tôi nói vọng lên, giọng có phần diễu cợt - Không ăn gì từ tối hôm
kia đến giờ, không chết đói là quá may cho ông, chứ còn than thở nỗi gì!
Tôi giật mình:
- Bà nói sao chứ…
- Nói sao là
sao? Thật chẳng có ai như ông, cứ ngồi lù lù một đống trong xó hết ngày nay qua
ngày khác, lúc thì im phăng phắc như phỗng, lúc thì ngáy vang ầm ầm như sấm, bỏ
cả ăn uống… Dễ nể thật đấy!
À, ra thế! Đến
lúc này thì tôi mới hiểu: đồng hồ không chết, thời gian vẫn trôi, chỉ có tôi là
ngừng trệ vì chìm đắm trong mộng mị.
Chắc là tại tiếng
mỡ xèo xèo và mùi hành phi bốc đến tận đây, thơm nức gây kích thích mà cái cảm
giác đói lúc này bỗng trỗi dậy ghê gớm: mồ hôi tôi vã ra, mắt hoa lên, mệt rã rời.
Tôi vội kêu vợ làm cho tôi một tô “mì ăn liền”.
Đúng là “mì ăn
liền”: chỉ không đầy ba phút sau vợ tôi đã “dâng lên” một tô ngào ngạt mùi hành
ngò và thấy có cả một cái trứng gà được đập ra cho vào đó nữa. Tôi là kẻ chúa
ghét ăn nóng, nhưng lần này thì… a lê hấp, loáng một cái, cả tô mì đang bốc hơi
nghi ngút đã được trút vào trong bụng. Mồ hôi túa ra đầm đìa nhưng người thì vô
cùng sảng khoái. Lau sạch mồ hôi rồi bật quạt lên, luồng gió mát rượi làm cho tôi
thấy thật là nhẹ nhõm, có cảm giác như nếu nhón chân nhảy, có thể bay lên đụng
trần nhà được, còn trí não thì tỉnh táo khác thường. Rõ ràng là tôi đã hoàn hồn
trở lại.
Hình như con người
ta, đang mê mệt trong hoang mang, bế tắc bỗng dưng được hoàn hồn trở lại, thì nỗi
bi quan, chán nản lập tức bị đẩy lùi, nhường chỗ cho tinh thần lạc quan, sự hồ
hởi vui sống và niềm hăng say sáng tạo trở về. Tâm trạng của tôi bây giờ là như
thế. Bất chợt, tôi lại nhìn đến chồng bản thảo cao nghễu nghện ở góc bàn và thấy
sao mà trìu mến quá, sao mà tự hào quá! Dù đó chưa chắc là thành quả của một quá
trình thực chứng và thậm chí chỉ đơn thuần là thành quả của một “công cuộc”
hoang tưởng phi thực tại, thì cũng không hề tầm thường chút nào, bởi vì tôi tin
rằng sau khi xuất bản, nó, cái chồng bản thảo ấy đấy, chí ít cũng như một luồng
gió mới tươi mát và đầy sinh khí (được tạo thành bằng cách tổng hợp lại có phê
phán những “tinh nhuệ” được rút tỉa ra từ những luồng gió cũ của các thời đại đã
qua) thổi vào nhận thức đương đại về Tự Nhiên Tồn Tại đang chững lại trong
hoang mang, rối bời, tạo nên một sự khuấy đảo cần thiết làm bừng tỉnh nhiều khối
óc và con tim vẫn còn mê muội, “chúi mũi” theo những lối sáo mòn đã trở nên cũ
kỹ, chật hẹp trong cách nghĩ và cách cảm. Hơn nữa, dù trong nội dung tư tưởng của
chồng bản thảo kia có thể đã phô bày ra quá nhiều những luận điểm ngây ngô, khờ
khạo, thì chí ít nó cũng đứng về phía Đại Chúng cần lao, tự nhận là con em của Đại
Chúng cần lao, đồng cảm với họ và tha thiết yêu thương họ, để từ đó mà lên tiếng
bênh vực họ, ca ngợi chính nghĩa kêu gọi tình yêu thương đồng loại, lên án áp bức
bất công, sự bành trướng, xâm lược thô bạo của các thế lực cường quyền… Nghĩ đến
đây, trong đầu tôi nảy ra ý muốn làm một bài thơ để ca ngợi hết lời công cuộc
lao động sáng tạo vô song và đầy ý nghĩa của mình mà mụ vợ tôi, rất tiếc, chưa
bao giờ dù chỉ một lần tỏ ra đồng tình ủng hộ, thậm chí còn nói: “Chỉ có thằng
khùng mới sống cuộc đời mài đũng quần và cắm đầu cắm cổ tạo ra cái đống tầm phào,
chẳng đem lại chút lợi lộc nào như thế!”. Có lần tôi ôn tồn bảo: “Bà chưa thấy được
cái tầm vóc lớn lao của…”. Chưa nói được hết câu, mụ ta đã “độp” lại chát chúa:
“Úi giời ơi, vĩ đại nhỉ!? Tầm vóc của cái đống ấy đem bán giấy vụn may ra được
20 đồng bạc, may ra ăn được tô phở… Gớm! Đừng có mà tưởng mình là vĩ nhân! Vĩ
nhân gì mà bảo lắp giùm thêm một cái bóng đèn nữa ở nhà bếp, cứ loay hoay cả ngày
không xong: dây nhợ thì lòng thòng, công tắc thì xiêu vẹo, tối bật lên thử thì
nổ cái “bụp”, cả nhà tối om! Dị hợm thì có chứ vĩ nhân vĩ nhiếc gì!...”. Kể cũng
đáng tội, đúng là tự tán dương mình tự nịnh nọt mình chẳng bao giờ hay ho cả.
Nhưng đang ở tâm trạng hứng khởi đến bốc đồng này, cũng nên thông cảm cho “cái
tôi bản năng” một chút chứ! Xét cho cùng thì huênh hoang lên đến “tầm cỡ” như
thế cũng chẳng mang tội gì, chẳng gây chết “thằng tây” nào!
Tôi là kẻ thích
thơ và cũng hay làm thơ. Tôi đã sáng tác được chừng 300 bài thơ. Đôi khi tôi cũng
gửi những bài thơ mà tôi cho là hay nhất đi dự những cuộc thi thơ. Có đi mà không
có hồi đáp. Chưa bao giờ thơ của tôi được nhắc tới chứ nói gì tới được giới thiệu
trên mặt báo. Cứ mỗi lần gửi thơ đi là mỗi lần hồi hộp chờ đợi để rồi chuốc lấy
thất vọng ê chề. Cuối cùng, tôi đành phải đi đến kết luận: thơ tôi dở là cái chắc!
Tuy vậy, vì thơ tôi là thể hiện tình cảm chân thành của tôi trước cuộc sống, là
nơi tôi gửi gắm những ưu tư phiền muộn không thể thổ lộ “bô bô” cùng ai được, nên
tôi vẫn chép vào hai cuốn sổ tay bìa đen và nâng niu, giữ gìn chúng. Đấy, hai
cuốn sổ tôi vẫn để ở kia kìa, cạnh chồng bản thảo đồ sộ ấy. Ơ!... Ngộ thế nhỉ!...
Sao lại là ba cuốn sổ tay bìa đen? Chỉ là hai thôi chứ? Ở đâu ra cuốn sổ tay thứ
ba dày cộm kia? Thế là thế nào nhỉ?...
Tôi vội với tay
lấy cuốn sổ ấy và mở ra xem. Ở trang đầu tiên chỉ có bốn chữ “Nhật ký hành trình”
viết theo lối chữ in hoa mà tôi vẫn hay dùng. Lập tức mắt tôi hoa lên và tim đập
thình thịch đến ná thở trong lồng ngực. Cuộc phiêu du kỳ thú với biết bao nhiêu
cảnh quan huyền hoặc lại cuồn cuộn hiện ra, rõ mồn một theo từng trang nhật ký.
Dù không ghi chép theo trình tự ngày tháng thì những sự kiện tiếp nối nhau
trong cuốn sổ ấy đủ gây cho tôi một ấn tượng rất mạnh về sự tồn tại thực sự của
cuộc hành trình. Hơn thế nữa, những dòng chữ tốc ký và có phần nguệch ngoạc kia
chắc chắn là do chính tôi viết ra chứ không thể ai khác. Đặc biệt nhất là tôi vẫn
còn nhớ như in lời dặn dò của Tạo Hóa và khi đọc lời dặn dò của Tạo Hóa được
ghi chép trong cuốn sổ ấy, thấy hoàn toàn chính xác, không hề có một tí teo khác
biệt nào. Thật là phi thường!...
Bất giác, tôi lại
ngồi thừ người ra, lại không còn hiểu ất giáp gì nữa cả. Trong khi cảm tính cứ
xúi giục tôi phải tin vào sự có thực của cuộc phiêu du thì lý trí lại cười hềnh
hệch mà rằng: “Dù ông có ba đầu sáu tay đi chăng nữa thì cũng làm sao có thể vừa
thực hiện cuộc hành trình lâu đằng đẵng và viết chi chít nhật ký trong cuốn sổ
tay dày cộm này, vừa ngồi đây viết ra chồng bản thảo cao vọi kia được?”. Có lẽ
không nên nghĩ ngợi gì thêm nữa là hơn, kẻo mới hoàn hồn chưa được mấy chốc lại
lâm vào mê loạn, dẫn đến điên khùng thì chí nguy. Nghĩ đến cảnh phải đến định cư
lâu dài ở “thái bình Thiên Quốc” (nhà thương điên Biên Hòa) mà sởn gai ốc!
Không khí trở nên
ngột ngạt. Tôi nhìn ra sân, cảnh vật đang im phăng phắc thì đột nhiên lá cành bị
lay động báo hiệu có gió về. Gió càng ngày càng mạnh dần lên làm cho khí hậu bớt
bứt rứt và kéo mây đen vần vũ tối sầm cả bầu trời. Mưa bắt đầu rơi lác đác. Bất
thình lình, một ánh chớp phát ra sáng lòa rồi tiếp theo sau là một tiếng sấm nổ
đinh tai nhức óc, cứ như là sét đã đánh trúng sân nhà tôi vậy. Tôi giật bắn mình
vì kinh khiếp. Vợ tôi ở dưới bếp chạy vọt lên, bàn tay để lên ngực, chỗ có trái
tim, thều thào: “Hết hồn hết vía à!”. Thấy vậy, tôi mỉm cười ra điều chẳng có gì
mà ầm ĩ: “Thấy được ánh chớp là yên tâm rồi, có gì đâu phải sợ đến xanh mặt
xanh mày như thể sắp chết thế hả mụ!?”. (Đúng là đối với một trang nam nhi, sự
sợ hãi nhanh chóng được lấp liếm trước một người phụ nữ đang sợ hãi. Nhiều thằng
đàn ông đâu biết rằng, trong đời sống, khi tình huống đòi hỏi buộc phải tự vệ để
bảo toàn sự sống còn cho bản thân và gia đình, người đàn bà thường trở nên gan
góc gấp trăm, gấp ngàn lần họ).
Cú sét đánh
kinh hoàng đó tựa hồ như là hiệu lệnh của Thiên Lôi làm cho mưa đang lác đác bỗng
ào xuống như trút nước. Hàng triệu triệu, hàng tỷ tỷ giọt mưa thi nhau lao vun
vút xuống, rất căng, cứ như chúng được phun ra từ những vòi rồng khổng lồ trên
thiên đình.
Tôi rất thích
ngồi ngắm mưa rơi và hít thở cái không khí ngai ngái, ướt át, mát mẻ có phần lành
lạnh mà nó cùng với gió tạo ra, ngồi hàng giờ như thế không biết chán. Mỗi khi
ngắm mưa rơi, tôi có cảm giác như đang được chiêm ngưỡng cảnh đất, trời trùng
phùng, hoan lạc, vạn vật đều có vẻ thích thú, tươi vui vì được thỏa thê tắm gội
sau những ngày nóng nực, nắng úa da héo thịt, nhớp nháp và hôi nồng khói bụi.
Những khi ấy, lòng tôi cũng dịu hẳn lại. Mọi bức bối, khó chịu, mọi gay gắt thị
phi, mọi thúc dục sân si, nảy sinh trong cuộc sống đời thường chứa chất trong lòng
trước đó, đều mềm ra và tan chảy theo mưa. Nếu cho rằng bình minh làm con người
ta hồ hởi vui sống hơn, hoàng hôn làm người ta u sầu, nhung nhớ hơn, và nắng gắt
làm người ta bẳn tính, vị kỷ hơn thì hình như những trận mưa rào làm người ta
hiền từ, vị tha hơn!...
Mưa hùng hục, căng
cứng một hồi rồi cũng bớt, cũng chùng lại, trở thành tầm tã và dạt dào bởi những
cơn gió đã thổi mạnh hơn. Cửa sổ phòng tôi mở toang từ trước nên từng đợt gió
mang theo nhiều bụi mưa li ti lồng vào làm những trang sách hất qua hất lại phần
phật, giấy tờ trên bàn bay tứ tung, tờ nào không bay được, nằm phơi mình thì lấm
tầm ướt nhòe. Tôi hít lấy hít để, hít đến căng lồng ngực những luồng gió ấy. Thật
khoan khoái quá đỗi!...
Cái gì cũng phải
có hạn định. Mưa to mấy thì rồi phải đến lúc tạnh. Trận mưa vừa rồi cũng vậy. Sân
nhà tôi đã trở nên quang đãng dù cây cối và mặt sân vẫn còn ướt sũng. Mây đen đã
tan biến, nhường chỗ cho những đám mây trắng như tuyết bay lãng đãng. Bầu trời
trở lại cao xanh và ngời lên trong nắng nhẹ. Thường thì sau những cơn mưa ào ạt,
nhà cửa trông mới mẻ hơn, cây cối trông xanh tốt hơn và nói chung toàn bộ cảnh
sắc trông mạch lạc, tươi tắn hơn, không khí cũng có vẻ thơm tho hơn. Trước mắt
tôi bây giờ là một hiện thực mê hồn, đẹp hơn mọi bức tranh thủy mặc đẹp nhất mà
tôi đã từng có diễm phúc được chiêm ngưỡng trong đời.
Ngó nghiêng ngó
ngửa trời đất và vạn vật đến mãn nhãn xong, tôi bắt đầu uể oải nhặt nhạnh giấy
tờ và sắp xếp lại các thứ trên bàn làm việc, rồi nhìn lại cuốn “Nhật ký hành trình”
còn để mở ở trước mặt. Những đợt gió ban nãy đã lật nó đến trang chính giữa. Tôi
thường viết chữ đứng nên những hàng chữ viết nghiêng ở trang ấy lập tức đập vào
mắt tôi và rồi khi tôi đọc xong, chúng bỗng có vẻ sống động, thậm chí còn như đang
uốn éo múa may trước mặt tôi nữa. Trong phút chốc những mắc mứu lôgic liên quan
đến cuộc phiêu du kỳ thú và cuốn sổ tay nhật ký của cuộc phiêu du ấy được giải
tỏa hết. Thật kỳ lạ nhưng trong cuộc đời thường xảy ra những trường hợp như thế:
có những bế tắc dù cố gắng đến hết mức với đủ mọi cách mà vẫn không sao giải
quyết được, đành chịu bó tay, thì đùng một cái lại tình cờ được tháo gỡ dễ dàng
đến không ngờ. Không kìm nổi xúc động, tôi run run đọc to lên những hàng chữ viết
nghiêng ấy: “Làm sao mà thuyết phục được những nhà duy vật cực đoan, những nhà
thực chứng cố cựu? Vì bị gông xiềng bởi cái sức ỳ tâm lý đã hằn sâu đến thâm căn
cố đế nên họ chẳng bao giờ tin nổi cuộc hành trình của chúng ta là có thực, chẳng
bao giờ tin vào những ghi chép về một sự thực vĩ đại của chúng ta. Họ đâu biết được
rằng, cuộc hành trình của chúng ta thực sự xảy ra trong hiện thực, dù hiện thực
này tồn tại trong thực tại ảo. Toán học hay vậy lý học chẳng hạn, có phải là hiện
thực không? Đó là hiện thực! Nhưng rõ ràng không phải là hiện thực thể hiện ra
trực tiếp từ thực tại khách quan và trước mọi quan sát mà là hiện thực trong thực
tại ảo, được con người sáng tạo ra thông qua sự quan sát, nhìn nhận có tính đặc
thù của mình trước thực tại khách quan vốn dĩ. Hiện thực đã qua thì không còn là
hiện thực nữa mà đã thuộc về ảo mộng, hiện thực chưa tới thì chưa phải là hiện
thực và cũng thuộc về ảo mộng nốt. Hiện thực đích thực chỉ là cái lằn ranh vô cùng
mỏng manh giữa hai thứ ảo mộng ấy và con người, nếu không có sự hồi ức thì không
thể cảm biết được nó. Cái hiện thực mà con người đang thấy ở trước mặt là do sự
hoạch định của hồi tưởng mà có. Nó đâu phải là hiện thực đích thực, mà chỉ là
hiện thực “hư hư thực thực”, thực thì ít mà tưởng thì nhiều. Khi chúng ta thấy
một chiếc máy bay đang bay thì chỉ có điên khùng mới nói rằng đó không phải là
một hiện thực. Nhưng nếu chúng ta không có sự hồi tưởng và suy đoán thì làm gì
có hiện thực đó mà chỉ có hiện thực là chiếc máy bay đứng in trên bầu trời, và
thậm chí là nếu không có ánh sáng phản chiếu liên tục từ chiếc máy bay đó đến mắt
của chúng ta thì đối với chúng ta, bản thân nó cũng không hiện hữu, dù rằng nó
vẫn đang bay và hiện tượng đó là một tồn tại hiển nhiên trong không gian, ngoài…
thời gian (vì thời gian không phải là một tồn tại thực mà chỉ là sự thể hiện ra
trước quan sát một trong hai đặc tính cơ bản của tồn tại, đó là đặc tính tạm
gọi là “quá trình”, hay còn có thể gọi là đặc tính “lâu -mau” của tồn tại). Vì
những lẽ đó mà chúng ta tự tin dõng dạc tuyên bố với thế giới rằng: cuộc hành
trình vô tiền khoáng hậu đi tìm cái gì đó của chúng ta đã từng là hiện thực,
đang là hiện thực và vẫn còn tiếp diễn trong miền thăm thẳm của tư duy trừu
tượng - cõi… thực tại Hoang Đường!”.
Đúng vậy! Bản
thân Tự Nhiên
Tồn Tại là chân lý tuyệt đối. Tất cả mọi hiện tượng (mọi quá trình, mọi biến
cố) xảy ra trong Vũ Trụ đều có lý, đều hợp lý vì đều bị ràng buộc chặt chẽ bởi
nguyên lý Tự Nhiên,
đều là sự thể hiện của Tự Nhiên, chứ không thể phi lý, phi Tự Nhiên
được. Tuy nhiên, do đặc tính đầy đủ tuyệt đối (nghĩa là phải có cả thiếu thốn!)
của Tự Nhiên
Tồn Tại mà tồn tại cái gọi là nguyên lý nước đôi, nghĩa là trước một quan sát
và nhận thức bị khống chế bởi sự khiếm khuyết chủ quan và khách quan, bị thị
phi hóa trong nhận định bởi sự phân định tự nhiên) Tự Nhiên Tồn Tại thể hiện ra
như thế này mà cũng như thế khác, lúc thế nọ lúc lại thế kia, có thực thì cũng
có ảo, có xuôi thì cũng có ngược, có những hiện tượng gọi là thuận lý thì cũng
có những hiện tượng gọi là nghịch lý… Vì tình hình đó có nguyên nhân từ khách
quan lẫn chủ quan cho nên không thể khắc phục được và hơn nữa, phải thừa nhận
nó là một tồn tại tự nhiên, hoàn toàn có lý để mà nhận thức được thấu triệt Vũ
Trụ. Điều đặc biệt đáng chú ý là sự thuận lý hay nghịch lý của một hiện tượng
xảy ra trong hiện thực hoặc do suy lý ra chỉ có tính tương đối, tùy thuộc vào
sự đánh giá có tính qui ước, vào sự cảm nhận chủ quan của thực thể quan sát
nhận thức. Trình độ nhận thức ngày càng cao, ngày càng thích đáng sẽ dần dần
“vạch trần” những cái trước đó bị coi là nghịch lý, để chúng trở nên thuận lý
hoặc chỉ là do sự ngộ nhận sai lầm. Có thể nói nguyên nhân nảy sinh nghịch lý
chính là trình độ nhận thức còn hạn chế về thực tại khách quan, là mặt còn
khiếm khuyết, bất lực của trí não con người trong quá trình đi giải thích thế
giới.
Kể cũng ly kỳ!
Tôi đi tìm sự thực về cuộc hành trình mà chính tôi đã và đang thực hiện. Nhờ
cuộc hành trình ấy mà tôi viết ra được biết bao nhiêu điều suy ngẫm về thực tại
khách quan. Sự suy ngẫm ấy khi được viết ra thì rồi sẽ được “nhào nặn”, đúc kết
thành tư tưởng. Như vậy, tôi làm sao có được tư tưởng của mình nếu không có
những tiền đề tư tưởng được ghi chép vắn tắt trong cuốn sổ nhật ký hành trình
đang sờ sờ trước mặt và làm sao có được cuốn sổ nhật ký với người viết nó chính
là tôi đây nếu tôi thực sự chỉ ru rú ở xó nhà chứ chưa hề phiêu du đến bất cứ
đâu cả? Nhưng làm sao có thể vừa phiêu du đó đây trong Vũ Trụ để quan chiêm vạn
vật - hiện tượng vừa “mài đũng quần” ở đây để viết ra chồng bản thảo ngồn ngộn
thế kia được? Nghịch lý chăng? Không phải đâu! Ánh chớp chói lòa và tiếng sét kinh
thiên động địa ban nãy đã là điềm báo thiêng liêng về cái thời khắc ngọn gió vô
tình mở ra trang có những dòng chữ nghiêng mà tôi đã từng viết trong cuốn sổ
nhật ký hành trình, để rồi qua đó nảy ra trong tôi câu trả lời giản dị đến
không ngờ: “Làm gì có nghịch lý nào ở đây!”. Tôi chỉ có một “cái tôi” duy nhất.
Đó là điều không ai có thể phản bác được. Nhưng sự “duy nhất” ấy lại là một
tổng thể hợp thành thống nhất của hai “cái tôi” tương phản nhau” Cái tôi Hiện
Thực và Cái tôi Hoang Tưởng. Trong khí cái tôi Hiện Thực ù lỳ, máy móc, lúc nào
cũng cảm thấy cô đơn sầu muộn, bi quan chán nản trước những gai góc đời thường
của cuộc sống, thì cái tôi Hoang Tưởng lại vô cùng hiếu động và khoáng đạt, lúc
nào cũng hồ hởi lạc quan, tha thiết yêu đời và tràn trề mộng ước. Tôi bị cao
huyết áp và nghe theo lời khuyên của những bậc cao minh kim cổ nên đã học khí
công dưỡng sinh để chế ngự cái bệnh ấy. Trong quá trình luyện tập thực hành,
lắng nghe sự hồi đáp của cơ thể, dần dần, tôi đã đúc kết được một cách thức
“khí công thiền pháp” phù hợp cho riêng mình tạm gọi là “tọa thiền thu phát
quang năng”. Nhờ có cách luyện khí công ấy mà tôi trở nên khỏe khoắn khác
thường. Những bệnh lặt vặt như cảm cúm vừa bén mảng tới là bị tôi phát công
đuổi chạy có cờ, tửu lượng tăng lên đến mức bạn bè phải bái phục, gọi tôi là
“đại ca”, còn thuốc lá thì khỏi nói, một ngày hút hết hai gói (40 điếu) vẫn còn
thèm. Thấy hiệu quả quá, tôi luyện công như điên nhưng đồng thời cũng đâm ra
chủ quan, chiều tối nào cũng ra quán nhậu, lê la trác táng đến bét nhè. Thế là
tôi bị “tẩu hỏa nhập ma” lúc nào không biết, thành kẻ bốc đồng ghê gớm. Rồi đến
một ngày, sự bốc đồng ấy thăng hoa lên cùng cực làm cho cái tôi duy nhất của
tôi “phân thân” thành hai cái tôi tương phản nhau: Hoang Tưởng và Hiện Thực. Cuộc
đời tôi từ đó thay đổi, phải sống trong tình trạng một cái tôi duy nhất mà cứ
như hai cái tôi với hai nhân cách sống tách biệt nhau tương đối rạch ròi. Sự
“phân thân” đã làm cho hai cái tôi ấy của tôi được được thỏa chí sống theo ý
thích của riêng chúng. Dù có thế thì chúng, vì mục đích sống còn của nhau (nghĩa
là của cả cái tôi duy nhất nữa!), không thể biệt lập hoàn toàn với nhau được mà
phải liên hệ với nhau, thỏa thuận với nhau, tự tung tự tác trong phạm vi phân
công, hợp tác đối với nhau. Nghĩa là hai cái tôi ấy, tuy hai mà một, tuy một mà
hai và như thế nên chúng cũng thường lẫn lộn, lấy tâm trạng của nhau để nói về
mình. Chính tình trạng sống đó của tôi đã dẫn đến hiện tượng tưởng chừng như
quá ư nghịch lý nhưng hóa ra lại chẳng nghịch lý tí nào: cái tôi Hoang Tưởng,
với mục đích tìm cho được đỉnh cao “Ngàn đời mơ ước”, đã lên đường chu du khắp
góc bể phương trời, thích thú ngắm nghía mọi kỳ hoa dị thảo trong tầm mắt rồi
đưa ra nhận xét, bình phẩm, truyền thông tin về cho cái tôi Hiện Thực theo đường
tâm linh, bằng thần giao cách cảm, còn cái tôi Hiện Thực thì ngồi chết dí trong
một xó khuất ở Trần Gian, quên cả ngày tháng, quên cả sinh nhai, cứ thế, vừa
nhả khói liên tục đến mịt mùng, vừa ghi lia chép lịa như một động cơ vĩnh cửu
những lời thì thầm vọng về của cái tôi Hoang Tưởng.
***
(còn tiếp)
Mời xem:
(còn tiếp)
Mời xem:
Nhận xét
Đăng nhận xét