DƯ LUẬN XÃ HỘI 23
NÊN LÀM? CHƯA, NẾU THỰC SỰ VÌ DÂN!!!
-------------------------------
(ĐCsưu tầm trên NET)
Nợ chính phủ, còn gọi là
Nợ công hoặc
Nợ quốc gia, là tổng giá trị các khoản tiền mà chính phủ thuộc mọi cấp từ trung ương đến địa phương đi vay.
Việc đi vay này là nhằm tài trợ cho các khoản thâm hụt ngân sách nên
nói cách khác, nợ chính phủ là thâm hụt ngân sách luỹ kế đến một thời
điểm nào đó. Để dễ hình dung quy mô của nợ chính phủ, người ta thường đo
xem khoản nợ này bằng bao nhiêu phần trăm so với Tổng sản phẩm quốc nội
(GDP).
Nợ chính phủ thường được phân loại như sau:
_ Nợ trong nước (các khoản vay từ người cho vay trong nước) và nợ nước ngoài (các khoản vay từ người cho vay ngoài nước).
_ Nợ ngắn hạn (từ 1 năm trở xuống), nợ trung hạn (từ trên 1 năm đến 10 năm) và nợ dài hạn (trên 10 năm).
Các hình thức vay nợ của chính phủ
Phát hành trái phiếu chính phủ
Chính phủ có thể phát hành Trái phiếu chính phủ để vay từ các tổ chức,
cá nhân. Trái phiếu chính phủ phát hành bằng nội tệ được coi là không có
rủi ro tín dụng vì Chính phủ có thể tăng thuế thậm chí in thêm tiền để
thanh toán cả gốc lẫn lãi khi đáo hạn. Trái phiếu chính phủ phát hành
bằng ngoại tệ (thường là các ngoại tệ mạnh có cầu lớn) có rủi ro tín
dụng cao hơn so với khi phát hành bằng nội tệ vì chính phủ có thể không
có đủ ngoại tệ để thanh toán và ngoài ra còn có rủi ro về tỷ giá hối
đoái.
Vay trực tiếp
Chính phủ cũng có thể vay tiền trực tiếp từ các ngân hàng thương mại,
các thể chế siêu quốc gia (ví dụ: Quỹ Tiền tệ Quốc tế)… Hình thức này
thường được Chính phủ của các nước có độ tin cậy tín dụng thấp áp dụng
vì khi đó khả năng vay nợ bằng hình thức phát hành trái phiếu chính phủ
của họ không cao.
Các vấn đề gặp phải khi tính toán nợ chính phủ
Lạm phát
Chỉ tiêu thâm hụt ngân sách khi tính toán thường không điều chỉnh ảnh
hưởng của lạm phát vì trong tính toán chi tiêu của Chính phủ, người ta
tính toán các khoản trả lãi vay theo lãi suất danh nghĩa trong khi đáng
lẽ chỉ tiêu này chỉ nên tính theo lãi suất thực tế. Do lãi suất danh
nghĩa bằng lãi suất thực tế cộng với tỷ lệ lạm phát, nên thâm hụt ngân
sách đã bị phóng đại. Trong những thời kỳ lạm phát ở mức cao và nợ chính
phủ lớn thì ảnh hưởng của yếu tố này rất lớn.
Tài sản đầu tư
Nhiều nhà kinh tế cho rằng tính toán nợ chính phủ cần phải trừ đi tổng
giá trị của tài sản chính phủ. Điều này cũng đơn giản như khi xử lý tài
sản của cá nhân: khi một cá nhân vay tiền để mua nhà thì không thể tính
anh ta đã thâm hụt ngân sách bằng số tiền đã vay mà phải trừ đi giá trị
của căn nhà. Tuy nhiên khi tính toán theo phương pháp này lại gặp phải
vấn đề những gì nên coi là tài sản của chính phủ và tính toán giá trị
của chúng như thế nào, ví dụ: đường quốc lộ, kho vũ khí hay chi tiêu cho
giáo dục…
Các khoản nợ tiềm tàng
Nhiều nhà kinh tế lập luận rằng tính toán nợ chính phủ đã bỏ qua các
khoản nợ tiềm tàng như tiền trợ cấp hưu trí, các khoản bảo hiểm xã hội
mà chính phủ sẽ phải chi trả cho người lao động hay các khoản mà chính
phủ sẽ phải chi trả khi đứng ra bảo đảm cho các khoản vay của người có
thu nhập thấp mà trong tương lai họ không có khả năng thanh toán…
Tác động của nợ chính phủ
Về tính trung lập của nợ chính phủ
Có hai quan điểm chính về việc nợ chính phủ có tác động đến nền kinh tế hay không.
Quan điểm truyền thống cho rằng biện pháp cắt giảm thuế được bù đắp
bằng nợ chính phủ kích thích tiêu dùng và làm giảm tiết kiệm quốc dân.
Sự gia tăng tiêu dùng làm tăng tổng cầu và thu nhập quốc dân trong ngắn
hạn nhưng dẫn đến khối lượng tư bản ít hơn (do đầu tư giảm) và thu nhập
quốc dân thấp hơn trong dài hạn.
Quan điểm Barro-Ricardo lại cho rằng biện pháp cắt giảm thuế được bù
đắp bằng nợ chính phủ không kích thích chi tiêu ngay cả trong ngắn hạn
vì không làm tăng thu nhập thường xuyên của các cá nhân mà nó chỉ làm
dịch chuyển thuế từ hiện tại sang tương lai. Các cá nhân dự tính rằng,
hiện giờ chính phủ giảm thuế và phát hành trái phiếu bù đắp thâm hụt,
thì đến một thời điểm trong tương lai chính phủ sẽ lại tăng thuế để có
tiền trả nợ hoặc in tiền để trả nợ (mà hậu quả là lạm phát tăng tốc); do
đó, người ta tiết kiệm hiện tại để có tiền đóng thuế trong tương lai
hoặc mua hàng hóa và dịch vụ sẽ lên giá.
Hai quan điểm nói trên tuy khác nhau nhưng cùng xuất phát từ hành vi
của người tiêu dùng và do vậy khi áp dụng cần nghiên cứu hành vi của
người tiêu dùng.
Về hiệu suất của tác động từ nợ chính phủ tới tăng trưởng kinh tế
Trong những năm gần đây, hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng trong dài
hạn một khoản nợ chính phủ lớn (tỷ lệ của nó so với GDP cao) làm cho sự
tăng trưởng của sản lượng tiềm năng chậm lại vì những lý do sau:
_ Nếu một quốc gia có nợ nước ngoài lớn thì quốc gia đó buộc phải tăng
cường xuất khẩu để trả nợ nước ngoài và do đó khả năng tiêu dùng giảm
sút.
_ Một khoản nợ công cộng lớn gây ra hiệu ứng thế chỗ cho vốn tư nhân:
thay vì sở hữu cổ phiếu, trái phiếu công ty, dân chúng sở hữu nợ chính
phủ (trái phiếu chính phủ). Điều này làm cho cung về vốn cạn kiệt vì
tiết kiệm của dân cư đã chuyển thành nợ chính phủ dẫn đến lãi suất tăng
và các doanh nghiệp hạn chế đầu tư.
_ Nợ trong nước tuy được coi là ít tác động hơn vì trên góc độ nền kinh
tế là một tổng thể thì chính chủ chỉ nợ công dân của chính nước mình,
tuy vậy nếu nợ trong nước lớn thì chính phủ buộc phải tăng thuế để trả
lãi nợ vay. Thuế làm méo mó nền kinh tế, gây ra tổn thất vô ích về phúc
lợi xã hội.
Ngoài ra, còn có một số quan điểm cho rằng việc chính phủ sử dụng công
cụ nợ để điều tiết kinh tế vĩ mô sẽ không có hiệu suất cao vì có hiện
tượng crowding out (đầu tư cho chi tiêu của chính phủ tăng lên).
_ Chính phủ muốn tăng chi tiêu công cộng để kích cầu thì phát hành trái
phiếu chính phủ. Phát hành thêm trái phiếu chính phủ thì giá trái phiếu
chính phủ giảm, thể hiện qua việc chính phủ phải nâng lãi suất trái
phiếu thì mới huy động được người mua. Lãi suất trái phiếu tăng thì lãi
suất chung của nền kinh tế cũng tăng. Điều này tác động tiêu cực đến
động cơ đầu tư của khu vực tư nhân, khiến họ giảm đầu tư. Nó còn tác
động tích cực đến động cơ tiết kiệm của người tiêu dùng, dẫn tới giảm
tiêu dùng. Nó còn làm cho lãi suất trong nước tăng tương đối so với lãi
suất nước ngoài, dẫn tới luồng tiền từ nước ngoài đổ vào trong nước
khiến cho tỷ giá hối đoái tăng làm giảm xuất khẩu ròng. Tóm lại, phát
hành trái phiếu tuy có làm tăng tổng cầu, song mức tăng không lớn vì có
những tác động phụ làm giảm tổng cầu.
_ Nếu coi việc nắm giữ trái phiếu chính phủ là một hình thức nắm giữ
tài sản thì khi chính phủ tăng phát hành trái phiếu sẽ đồng thời phải
tăng lãi suất, người nắm giữ tài sản thấy mình trở nên giàu có hơn và
tiêu dùng nhiều hơn. Tổng cầu nhận được tác động tích cực từ việc tăng
chi tiêu chính phủ (nhờ phát hành công trái) và tăng tiêu dùng nói trên.
Tuy nhiên, tăng tiêu dùng dẫn tới tăng lượng cầu tiền. Điều này gây ra
áp lực lạm phát, vì thế tác động tiêu cực tới tốc độ tăng trưởng thực
(bằng tốc độ tăng trưởng danh nghĩa trừ tỷ lệ lạm phát).
Nợ công và "Thực chất" của nợ công
Nợ công vượt quá cao so với mức an toàn ở những nền
kinh tế phát triển, đang trở thành chủ đề nóng hiện nay bởi đó là yếu tố
có nguy cơ đe dọa những dấu hiệu phục hồi của nền kinh tế toàn cầu, làm
người ta lo ngại tới viễn cảnh nền kinh tế một lần nữa lại rơi vào tình
trạng suy giảm. Vậy nợ công là gì, hậu quả của nó ra sao, và cần nhìn
nhận xem xét vấn đề này như thế nào?
Nợ công là gì?
Một
cách khái quát nhất, có thể hiểu nợ chính phủ, nợ công hoặc nợ quốc gia
là tổng giá trị các khoản tiền mà chính phủ thuộc mọi cấp từ trung ương
đến địa phương đi vay nhằm tài trợ cho các khoản thâm hụt ngân sách, vì
thế, nợ chính phủ, nói cách khác, là thâm hụt ngân sách luỹ kế tính đến
một thời điểm nào đó. Để dễ hình dung quy mô của nợ chính phủ, người ta
thường đo xem khoản nợ này bằng bao nhiêu phần trăm so với tổng sản
phẩm quốc nội (GDP).
.
Nợ
chính phủ thường được phân thành: Nợ trong nước (các khoản vay từ người
cho vay trong nước) và nợ nước ngoài (các khoản vay từ người cho vay
ngoài nước). Việc đi vay của chính phủ có thể được thực hiện thông qua
phát hành trái phiếu chính phủ để vay từ các tổ chức, cá nhân. Trái
phiếu chính phủ phát hành bằng nội tệ được coi là không có rủi ro tín
dụng vì chính phủ vì có thể tăng thuế thậm chí in thêm tiền để thanh
toán cả gốc lẫn lãi khi đáo hạn. So với trái phiếu chính phủ phát hành
bằng nội tệ, trái phiếu chính phủ phát hành bằng ngoại tệ (thường là các
ngoại tệ mạnh có cầu lớn) có rủi ro tín dụng cao hơn vì chính phủ có
thể không có đủ ngoại tệ để thanh toán, thêm vào đó còn có thể xảy ra
rủi ro về tỷ giá hối đoái.
Ngoài
việc vay bằng cách phát hành trái phiếu nói trên, chính phủ cũng có thể
vay tiền trực tiếp từ các ngân hàng thương mại, các thể chế tài chính
quốc tế, chẳng hạn Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF)… Hình thức vay này thường
được chính phủ của các nước có độ tín cậy tín dụng thấp áp dụng vì khi
đó khả năng vay nợ bằng hình thức phát hành trái phiếu chính phủ của họ
không cao.
Thấy gì từ cuộc khủng hoảng nợ công hiện nay?
Khi
nợ công tăng cao, vượt quá xa giới hạn được coi là an toàn, nền kinh tế
rất dễ bị tổn thương và chịu nhiều sức ép cả bên trong và bên ngoài.
Xung quanh diễn biến về cuộc khủng hoảng nợ công hiện nay với tâm chấn
là Hy Lạp và hiện đang có nguy cơ lan tỏa sang nhiều nền kinh tế khác,
có thể rút ra một số điều:
Thứ nhất,
nợ công không chỉ là vấn đề của những nước chậm hoặc đang phát triển.
So khoản nợ công với GDP, hiện nay, gánh trên vai gánh nặng nợ công lớn
nhất là các nền kinh tế phát triển, trong đó, khu vực đồng ơ-rô đang
đứng trước những thử thách to lớn khi Hy Lạp phải viện đến gói cứu trợ
của EU và IMF để tránh rơi vào tình trạng vỡ nợ.
Trong
báo cáo được công bố ngày 9-6 "Hậu quả do khủng hoảng tài chính toàn
cầu gây ra trên phương diện thuế khóa", các chuyên gia của IMF khẳng
định rằng, vào đầu năm 2010 tổng nợ công của 10 nước giàu nhất thế giới
sẽ đạt mức 106% GDP (tương đương mỗi người dân nợ 50 nghìn USD). Vào đầu
năm 2007 con số này là 78%. Như vậy, trong vòng 3 năm, nợ công của "10
nước giàu nhất” đã tăng hơn 9 nghìn tỉ USD.
Các
chuyên gia của IMF cho rằng, theo kịch bản tương đối lạc quan, trong
năm 2014, nợ của "10 nước giàu nhất" sẽ lên trên mức 114% GDP, còn theo
kịch bản bi quan, con số này là 150% GDP.
Ở
những nền kinh tế đầu tàu khác của thế giới, nợ công cũng đang trong
tình trạng báo động. Ngày 19-5, IMF và sau đó, ngày 26-5, OECD đã lần
lượt cảnh báo, với mức nợ công hiện nay lên tới 190% GDP và chưa có dấu
hiệu dừng lại, Nhật Bản có mức nợ công lớn nhất trong số các nước phát
triển. Cảnh báo này làm mọi người lo ngại rằng, Nhật Bản có thể sẽ “trở
thành một Hy Lạp thứ hai”. Ngày 2-6-2010 vừa qua, Bộ Tài chính Mỹ thông
báo nợ công của Hoa Kỳ tính đến đầu tháng sáu năm nay đã vượt quá kỷ lục
13 ngàn tỉ USD. Khoản công nợ này đã tăng khoảng 1.600 tỉ USD so với
năm ngoái, tăng hơn gấp đôi trong vòng 10 năm qua và chiếm tới 90% tổng
sản phẩm quốc nội (GDP) hàng năm của Mỹ.
Thứ hai,
khi nợ công quá lớn, việc thắt chặt chi tiêu, thực hiện chính sách
"thắt lưng buộc bụng" để giảm thâm hụt ngân sách là điều kiện phải đáp
ứng để được nhận sự hỗ trợ cần thiết từ các tổ chức tín dụng quốc tế,
thế nhưng, "thắt lưng buộc bụng" lại dẫn tới những cuộc biểu tình phản
đối của quần chúng, gây căng thẳng, bất ổn chính trị, xã hội, bởi những
người nghèo, những người yếu thế trong xã hội là những người bị tác động
mạnh nhất từ chính sách cắt giảm phúc lợi, cắt giảm chi tiêu của chính
phủ. Chẳng hạn, để được nhận gói cứu trợ nhằm giải quyết khủng hoảng nợ,
Chính phủ Hy Lạp đã phải quyết định tăng nhiều loại thuế, từ thuế giá
trị gia tăng đến thuế thu nhập, thuế bất động sản; và đánh thuế vào
nhiều sản phẩm như rượu, thuốc lá…, đồng thời chấp nhận áp dụng các biện
pháp cắt giảm chi tiêu mạnh tay. Để phản đối chính sách này của chính
phủ, các cuộc tổng đình công đã diễn ra, hàng chục ngàn người đã tham
gia biểu tình trên khắp đất nước Hy Lạp, nhất là tại thủ đô A-ten.
Trong
một phát biểu tại một cuộc họp ở thủ đô Bu-ê-nốt Ai-rét hồi đầu tháng
5-2010, Tổng thống Ác-hen-ti-na đã nói, ngày nay, chúng ta đang phải
chứng kiến những hình ảnh đau buồn tại Hy Lạp. Tình trạng rối loạn đang
xảy ra ở nước này gợi chúng ta nhớ về những gì mà Ác-hen-ti-na đã phải
trải qua hồi năm 2001. Những công thức tương tự từ các tổ chức tín dụng
đa phương yêu cầu cải cách, trong đó có việc cắt giảm mạnh tay chi tiêu
ngân sách, là nguyên nhân then chốt gây ra rối loạn. Các tổ chức tín
dụng đa phương này không hiểu được những gì đang diễn ra trên thế giới
nói chung và trong xã hội Ác-hen-ti-na hay Hy Lạp nói riêng.
Cách
đây 9 năm, năm 2001, Ác-hen-ti-na đã phải đối mặt với tình trạng rối
loạn nghiêm trọng do các làn sóng biểu tình khắp nơi phản ứng các biện
pháp "thắt lưng buộc bụng", để rồi Tổng thống Ác-hen-ti-na khi đó là ông
Féc-nan-đô đơ la Rua đã phải từ chức, và 4 ngày sau đó, người kế nhiệm
là A-đôn-phơ Rô-ri-get Saa phải tuyên bố tình trạng vỡ nợ quốc gia, với
khoản nợ 90 tỉ USD – mức nợ lớn nhất trong lịch sử đất nước này.
Thứ ba,
trong thời điểm hiện nay, khi nền kinh tế toàn cầu mới thoát khỏi khủng
hoảng, bắt đầu có dấu hiệu phục hồi do kết quả của các gói kích thích
kinh tế mà chính phủ các nước đã chi ra trong những năm trước đây, thì
việc cắt giảm chi tiêu, tăng thuế sẽ làm giảm đầu tư, kìm hãm sự phục hồi của nền kinh tế, làm chậm tốc độ tăng trưởng, thậm chí có thể đẩy nền kinh tế vào "khủng hoảng kép". Nghiêm trọng hơn, việc tung ra các gói kích thích kinh tế chính là một trong
những nguyên nhân làm tăng nợ công của các chính phủ, vậy nếu như khủng
hoảng “tái xuất” thì liệu các chính phủ có còn đủ khả năng xoay xở, cứu
vãn nền kinh tế của mình? Vấn đề đặt ra cho các chính phủ là phải chèo
lái để giải quyết được thâm hụt ngân sách nhưng không đẩy nền kinh tế
trở lại tình trạng suy thoái, trong khi các biện pháp để giải quyết hai
vấn đề này lại có tác động không thuận chiều.
Thứ tư,
khi nợ công liên tục tăng cao, nền kinh tế bị hạ bậc tín nhiệm theo báo
cáo của các tổ chức chuyên đi đánh giá tín nhiệm các công ty và quốc
gia khác, niềm tin của người dân và giới đầu tư bị lung lay, khi đó nền
kinh tế dễ trở thành mục tiêu tấn công của các thế lực đầu cơ quốc tế.
Thí dụ, đối với Hy Lạp, khi tổ chức xếp hạng tín dụng Standard &
Poor’s hạ bậc tín nhiệm đối với trái phiếu chính phủ của A-ten, các quỹ
đầu tư lớn lập tức bán ra loại trái phiếu này, đồng thời từ chối mua vào
trong các đợt phát hành tiếp theo. Nếu chính phủ muốn huy động tiền từ
thị trường tài chính sẽ phải chấp nhận chi phí vốn cao hơn và sau đó,
rơi vào vòng xoáy: tiếp tục bị tụt bậc tín nhiệm. Việc đưa ra xếp hạng
tín nhiệm trong thời điểm nhạy cảm, dễ tổn thương của nền kinh tế có
nguy cơ làm cho cuộc khủng hoảng thêm trầm trọng, có tác dụng như một
"cú huých", đẩy nền kinh tế lún sâu thêm vào khó khăn, bế tắc.
Thứ năm,
việc căn cứ vào mức nợ công trên GDP để xác định tình trạng nợ công là
hết sức quan trọng, tuy nhiên, điều quan trọng không kém là phân tích
"thực chất" nợ công. Đó là: nợ chính phủ là vay nợ trong nước hay vay nợ
nước ngoài; tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, hay tình trạng "sức
khỏe" nói chung của nền kinh tế; lượng dự trữ quốc gia… Chẳng hạn, hiện
nay, dư luận đang lo ngại liệu Nhật Bản có thể trở thành “một Hy Lạp thứ
hai”, thế nhưng, một số nhà phân tích, khi phân tích nợ công của Nhật
Bản đã cho thấy có sự khác biệt khá lớn giữa nợ công của nước này với nợ
công của Hy Lạp, thể hiện ở chỗ, 95% trái phiếu chính phủ của Nhật Bản
do người dân nước này nắm giữ, trong khi 70% nợ chính phủ Hy Lạp do
người nước ngoài nắm giữ. Bên cạnh đó, Nhật còn tự chủ về tỷ giá hối
đoái, dự trữ ngoại tệ của Nhật cũng ở mức rất cao (theo con số mà Bộ Tài
chính Nhật Bản công bố ngày 12-5, tính đến cuối tháng 4-2010, dự trữ
quốc gia của Nhật là 1.046,873 tỉ USD). Do vậy, nền kinh tế Nhật Bản,
mặc dù ngoài nợ công cao còn đứng trước nhiều khó khăn khác nữa, nhưng
vẫn được dự báo là khó có thể trở thành mục tiêu tấn công của giới đầu
cơ quốc tế.
Như
vậy, việc đánh giá đúng nợ công và “thực chất” nợ công của một nền kinh
tế, một quốc gia là vô cùng quan trọng, đặc biệt trong những thời điểm
nhạy cảm. Bởi lẽ, nếu chỉ chú trọng vào con số tỷ lệ nợ công cao một
cách thuần túy sẽ gây nên hiệu ứng tâm lý hoang mang, kích động, thiếu
tin tưởng, làm gia tăng căng thẳng xã hội, bị giới đầu cơ lợi dụng tấn
công, dễ gây rối loạn nền kinh tế, thậm chí dẫn nền kinh tế đến bên bờ
vực phá sản. Ngược lại, nếu yên tâm với tỷ lệ nợ công còn trong giới hạn
an toàn, mà không phân tích cẩn trọng, chú ý đúng mức đến khoản nợ đó
được hình thành như thế nào, bằng cách nào, thực trạng nền kinh tế ra
sao và khả năng trả nợ thế nào…, cũng sẽ dễ đẩy nền kinh tế rơi vào vòng
xoáy thâm hụt ngân sách – "thắt lưng buộc bụng" – tác động tiêu cực đến
tăng trưởng…/.
SOURCE: TẠP CHÍ CỘNG SẢN ĐIỆN TỬ SỐ 11 (203) NĂM 2010 - ANH NGUYỄN
(
MKLAW FIRM:
Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền
pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục
đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo vì vậy Quý
khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến luật sư, chuyên gia tư
vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)(tu luatminhkhue.vn)
Thủ tướng: 'Nợ công tăng nhanh'
- Tính
cả vay để đảo nợ và trả nợ vay về cho vay lại thì tỷ lệ trả nợ từ ngân
sách Nhà nước hiện ở mức 26,2%, cao hơn so với mức 25% cho phép.
Đây là thông tin được đưa ra trong báo cáo tình hình kinh tế -
xã hội năm 2014 và nhiệm vụ 2015 được Thủ tướng Chính phủ trình bày
trước QH sáng 20/10.
Theo báo cáo, ngân sách nhà nước 9 tháng tăng 17,2% so với
cùng kỳ. Ước thu cả năm vượt 10,6% dự toán. Bảo đảm chi theo kế hoạch và nhu cầu
cấp bách phát sinh. Bội chi ngân sách 5,3% GDP.
Dù "nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước
ngoài của quốc gia vẫn trong giới hạn cho phép tại Nghị quyết số 10 của QH", nhưng báo cáo của Chính phủ do Thủ tướng trình bày cho biết bội chi ngân sách còn cao. Nợ công tăng nhanh.
Tỷ lệ trả nợ trực tiếp của Chính phủ so với tổng thu ngân sách năm
2014 khoảng 14,2% (theo quy định của chiến lược nợ công là không quá
25%) nhưng nếu tính cả vay để đảo nợ và trả nợ vay về cho vay lại thì
khoảng 26,2%.
|
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng: "nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài của quốc gia vẫn trong giới hạn cho phép". Ảnh: VGP |
Dư nợ công cuối năm 2013 bằng 54,2%; dư nợ chính phủ bằng 42,3%; dư
nợ nước ngoài của quốc gia bằng 37,3% GDP. Dự kiến đến hết năm 2014, dư
nợ công bằng 60,3% (tăng 6,1%); dư nợ chính phủ 46,9%; dư nợ nước ngoài
của quốc gia 39,9% GDP.
Chính phủ cho biết cần tăng cường quản lý ngân sách nhà nước; tập
trung chống thất thu, nợ đọng thuế, chuyển giá; triệt để tiết kiệm chi
ngân sách, không tăng chi thường xuyên ngoài lương; bảo đảm bội chi theo
kế hoạch (5% GDP).
Kiểm soát chặt chẽ, nâng cao hiệu quả sử dụng và bảo đảm nợ công, nợ
Chính phủ, nợ nước ngoài của quốc gia trong giới hạn an toàn.
Trong
9 tháng đầu năm, mặc dù có ảnh hưởng của tình hình bất ổn trên biển
Đông và một số hành động gây rối, phá hoại tài sản của DN, nhưng tình
hình chung của nền kinh tế, cũng như trong các ngành, sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp tiếp tục phục hồi và phát triển khá ổn định.
Theo đó, GDP 9 tháng đầu năm 2014 ước tăng 5,62%, cao hơn nhiều so
với mức tăng cùng kỳ của hai năm trước (năm 2013: 5,14%, năm 2012:
5,1%).
Thương mại với TQ ‘không bị ảnh hưởng’
Về ảnh hưởng của tình hình Biển Đông đến xuất nhập khẩu, báo cáo
của Chính phủ cho thấy 9 tháng đầu năm 2014, TQ tiếp tục là đối tác
thương mại lớn nhất của VN. Xuất khẩu của VN sang TQ tăng khoảng 16,6%
so với cùng kỳ năm 2013, mhập khẩu từ TQ tăng trưởng 16,1%.
‘Tính đến nay quan hệ thương mại nói chung với thị trường TQ có thể
nói không bị ảnh hưởng bởi diễn biến tình hình biển Đông, với mức tăng
trưởng cả xuất khẩu và nhập khẩu đều cao hơn tốc độ tăng trưởng chung
của cả nước’ – báo cáo của Chính phủ nêu rõ.
|
Ảnh: Phạm Hải |
Chính phủ cho biết tác động của việc TQ hạ đặt giàn khoan 981
có ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của một số doanh nghiệp
trong đó có cả doanh nghiệp FDI. Tuy nhiên, ảnh hưởng của sự cố này
không nhiều do Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương đã kịp thời thực
hiện các biện pháp xử lý.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thực hiện liên tục tăng so
với cùng kỳ, ước đạt 8,9 tỷ USD, tăng 3,2% so với cùng kỳ năm trước. Số
dự án cấp mới và tăng vốn tiếp tục tăng so với cùng kỳ năm trước với
1.152 dự án cấp mới, tăng 32,1% và 417 dự án tăng vốn, tăng 22,6%...
Kiến nghị thu hồi 30 nghìn tỷ đồng tham nhũng
Báo cáo Chính phủ nhận định công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng đã đáp ứng tốt hơn công tác phòng, ngừa vi phạm pháp luật, phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
Đã 6.877 cuộc thanh tra hành chính, 150.932 cuộc thanh tra, kiểm
tra chuyên ngành, phát hiện vi phạm 31,5 nghìn tỷ đồng, 3.740 ha đất;
kiến nghị thu hồi về ngân sách nhà nước 30 nghìn tỷ đồng và 2.690 ha
đất; kiến nghị xử lý trách nhiệm đối với 1.552 tập thể, 2.735 cá nhân...9 tháng đầu năm đã thụ lý 415 vụ án, 1.031 bị can phạm tội về tham nhũng.
Công tác tiếp công dân tiếp tục được quan tâm hơn, công tác giải
quyết khiếu nại, tố cáo tiếp tục được tăng cường và đạt được kết quả
tích cực.Hầu hết lãnh đạo Bộ ngành, địa phương đã trực tiếp đối thoại,
giải quyết khiếu nại của công dân. Đã xử lý khoảng 85% số vụ khiếu nại
tố cáo mới phát sinh và giải quyết 494/528 vụ khiếu nại tồn đọng kéo dài
.
Cẩm Quyên
Thắt lưng buộc bụng để giảm nợ công
Nếu tính trong một nhiệm kỳ (2011-2015), Chính phủ phải vay khoảng 872.000 tỉ đồng để bù bội chi ngân sách
và phát hành 395.000 tỉ đồng trái phiếu chính phủ để đầu tư xây dựng cơ
bản (tổng cộng hai khoản khoảng 60 tỉ USD) sẽ khiến không ít người giật
mình.
Đó là khuyến cáo của ông BÙI ĐỨC THỤ, ủy viên thường trực Ủy ban Tài chính - ngân sách, khi trao đổi riêng vớiTuổi Trẻvề câu chuyện nợ công hiện nay.
Các chuyên gia cho rằng phải cân nhắc kỹ hiệu quả các dự án sử dụng vốn
ngân sách vốn vay trước khi quyết định đầu tư. Trong ảnh: đại diện các
cơ quan chức năng giới thiệu vị trí dự kiến xây dựng nhà ga sân bay quốc
tế Long Thành tại tỉnh Đồng Nai chiều 16-10 - Ảnh: Q.Định
Ông Thụ phân tích rất khó cảm nhận tình trạng nợ công nếu nhìn vào tỉ lệ 64% hay 65% GDP.
Nhưng
nếu tính trong một nhiệm kỳ (2011-2015), Chính phủ phải vay khoảng
872.000 tỉ đồng để bù bội chi ngân sách và phát hành 395.000 tỉ đồng
trái phiếu chính phủ để đầu tư xây dựng cơ bản (tổng cộng hai khoản
khoảng 60 tỉ USD) sẽ khiến không ít người giật mình.
Đặc biệt,
năm 2014 chúng ta đã phải vay 70.000 tỉ đồng để đảo nợ. Năm 2015, nợ đến
hạn phải trả của VN là 280.000 tỉ nhưng chỉ cân đối được 150.000 tỉ để
trả nợ (so với tổng thu ngân sách là 15,1%), nên phải vay 130.000 tỉ để
đảo nợ.
Tức là số nợ phải trả năm 2015 chiếm khoảng 28,3% tổng thu ngân sách, vượt qua ngưỡng được cho là an toàn 25%.
Đối
với nợ công, cho dù đó là đồng tiền vay của dân hay vay ODA ngoài nước
thì nghĩa vụ trả nợ đều thuộc về ngân sách, Nhà nước phải trả và nguồn
vẫn là thu thuế và bán tài nguyên
Ông BÙI ĐỨC THỤ
|
-------------------
>> Nợ công của Việt Nam chiếm 49,3% GDP
>> Nợ công của Việt Nam chưa được đánh giá đúng
------------------------
* Quốc hội đặt ra trần nợ công 65% GDP, nhưng nhiều chuyên gia cho rằng Quốc hội không đủ dữ liệu để đánh giá về tình trạng nợ công
hiện nay là an toàn hay không an toàn bởi thiếu số liệu về cơ cấu nợ,
đặc biệt là việc sử dụng các khoản vay và hiệu quả của nó?
-
Trước hết nói về giới hạn an toàn của nợ công, tôi đồng ý là nó phụ
thuộc vào rất nhiều yếu tố. Có những quốc gia nợ trên 100% GDP nhưng
không vỡ, trong khi có những quốc gia nợ dưới 65% GDP lại có nguy cơ vỡ
nợ.
Khủng hoảng nợ công không phụ thuộc vào tỉ lệ nợ mà phụ thuộc
khả năng trả nợ. Nợ nhiều nhưng khả năng sử dụng vốn có hiệu quả, thu
ngân sách tốt, xuất khẩu tốt... thì khả năng trả nợ cao.
Theo
thông lệ và tính toán phổ biến của các nước, nghĩa vụ trả nợ hằng năm
không được vượt quá 25% kim ngạch xuất khẩu và không vượt quá 25% tổng
thu ngân sách nhà nước được coi là an toàn.
Quốc hội ban hành
luật, trong đó có Luật quản lý nợ công, nghị quyết thường niên về dự
toán thu chi, phân bổ ngân sách, các chính sách tài chính... tất cả
thuộc thẩm quyền của Quốc hội và Quốc hội phải có trách nhiệm giám sát.
Chính
phủ là cơ quan phải báo cáo hằng năm trước Quốc hội. Nếu Quốc hội còn
băn khoăn hoặc nghi ngờ các số liệu nợ công thì có thể yêu cầu Kiểm toán
Nhà nước thẩm định số liệu đó.
Cá
nhân tôi cho rằng số liệu nợ công được báo cáo cho đến thời điểm này,
hay là con số ước tính năm 2015 bằng 64% GDP là có cơ sở.
Ông BÙI ĐỨC THỤ - Ảnh: Lê Kiên
*
Nhưng đó chỉ là tỉ lệ nợ trong tương quan với GDP, như ông nói phải có
nhiều thông số khác để đánh giá mức độ an toàn, chẳng hạn như từng khoản
nợ thế nào và hiệu quả sử dụng ra sao. Vậy hiện nay Quốc hội có đánh
giá được không?
- Theo Luật quản lý nợ công, Chính phủ phải
báo cáo Quốc hội như là tổng nợ, cơ cấu nợ, mức trả nợ hằng năm... Nhưng
chi tiết ra từng khoản lại chưa thực hiện được.
Ví dụ như trong
tổng nợ như vậy thì vay đa phương bao nhiêu, song phương bao nhiêu, từng
nước một thế nào, vay đồng USD hay đồng yen...
Vấn đề còn lại là
sử dụng nợ công làm gì? Nợ công có ba phần: một là nợ Chính phủ, hai là
nợ Chính phủ bảo lãnh và ba là nợ của chính quyền địa phương.
Nợ
Chính phủ lại có mấy cơ chế: một là phần vay ODA nước ngoài và vay
trong nước để bù đắp bội chi thì không thể biết tiền vay này làm cụ thể
những gì (ví dụ năm 2015 tổng chi hơn 1,1 triệu tỉ đồng, trong đó có
226.000 tỉ bội chi phải vay và khoản vay này hòa vào tổng chi để Quốc
hội phân bổ cho nhiều hạng mục chi).
Với phần vay về cho vay lại
thì hoàn toàn có thể biết được là đồng tiền này đi đâu, sử dụng có hiệu
quả không vì có danh mục cụ thể (phần này để ngoài cân đối ngân sách).
Với
phần vay Chính phủ bảo lãnh, nói chung là các doanh nghiệp nhà nước
chiếm tỉ trọng nhiều. Doanh nghiệp nhà nước là pháp nhân độc lập, có
nghĩa vụ bảo toàn vốn, trả nợ.
Trường hợp rủi ro thì tùy mức độ,
ví dụ rủi ro chủ quan sẽ xử lý theo các quy định của luật, còn bất khả
kháng thì ngân sách nhà nước phải trả.
Đối với nợ của chính quyền
địa phương, theo quy định của Luật ngân sách nhà nước, ngân sách chính
quyền địa phương không được bội chi.
Trường hợp để đẩy mạnh đầu
tư xây dựng cơ bản với các dự án quan trọng được HĐND phê chuẩn thì được
vay để đẩy nhanh tiến độ đầu tư, nhưng mức vay không vượt quá 30% tổng
vốn đầu tư trong nước (riêng Hà Nội, TP.HCM được 100%).
Cũng giống như ngân sách trung ương, không thể biết từng đồng vay được rót cụ thể vào những việc gì.
--------------------
>> Chính phủ và cách “ứng xử” mới với nợ công
>> Quản lý nợ công ở Việt Nam: Không giống ai?
---------------------
*
Thời gian qua chúng ta đang phải vay “nóng”, vay đảo nợ, thậm chí là
“giật” tạm các quỹ tài chính, nói dân dã là “giật gấu vá vai”, đặc điểm
này ảnh hưởng gì đến mức độ an toàn nợ công?
- Cho đến thời
điểm này chúng ta vẫn trả đủ, trả đúng hạn. VN đang trả nợ từ hai nguồn:
một là từ khoản thu của ngân sách nhà nước; hai là phải đảo nợ, tức vay
mới để trả nợ cũ.
Nhiều năm chúng ta bội chi ngân sách từ 4,5-5,3% nên phải vay rất lớn.
Ngoài
ra còn một khoản phải vay nữa là trái phiếu chính phủ (Quốc hội quyết
định trong năm năm 2011-2016 mỗi năm phát hành 45.000 tỉ đồng và kỳ họp
vừa rồi Quốc hội quyết định cho phát hành thêm 170.000 tỉ nữa để đầu tư
quốc lộ 1 và quốc lộ 14).
Có năm, cộng khoản vay bội chi, vay đảo
nợ và phát hành trái phiếu chính phủ, tổng số vay lên đến 400.000 tỉ
đồng. Với số tiền lớn như vậy, có những thời điểm không thể vay được nên
trong tình thế đó phải ứng các quỹ, thậm chí phải vay nóng để chi.
Tôi
kiến nghị trong thời gian tới, ngoài việc cơ cấu lại thu chi, từng bước
lập lại cơ cấu ngân sách nhà nước theo hướng giảm dần bội chi, tăng trả
nợ thì ngay cả cơ cấu vay cũng phải tính lại, không chỉ vay lãi suất
thấp mà còn vay dài hạn hơn.
* Nếu tính số tuyệt đối, bội chi
trong năm năm (2011-2015) khoảng 872.000 tỉ đồng, cộng với 395.000 tỉ
phát hành trái phiếu chính phủ thì trong giai đoạn này Chính phủ phải đi
vay khoảng 60 tỉ USD...
- Với con số tuyệt đối lớn như vậy,
nợ công tăng nhanh và áp lực trả nợ ngày càng lớn. Để giải quyết vấn đề
này chỉ có cách là giảm chi, tăng thu.
Cái khó là hiện tại nền
kinh tế đang rất khó khăn, chín tháng đầu năm có 47.000 doanh nghiệp
ngừng hoạt động, 2/3 số doanh nghiệp báo không có lãi thì lấy gì để tăng
thu ngân sách?
Trong
khi đó, tình trạng hạ tầng của chúng ta vẫn đang rất thấp kém, nhu cầu
đầu tư cho hạ tầng là rất lớn. Thêm nữa, nước ta số lượng người hưởng
chính sách và hưởng lương là 8 triệu người. Đó là những gánh nặng.
Đối
với nợ công, cho dù đó là đồng tiền vay của dân hay vay ODA ngoài nước
thì nghĩa vụ trả nợ đều thuộc về ngân sách, Nhà nước phải trả và nguồn
vẫn là thu thuế và bán tài nguyên
Ông BÙI ĐỨC THỤ
Ông MAI XUÂN HÙNG (phó chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế):
Cần giảm bội chi xuống mức 3%
Có người nói rằng nợ công chưa đến 65% GDP nên cứ yên tâm.
Tôi
nói là không thể yên tâm được, vì năm 2015 nợ công đã ở mức khoảng 64%
và nếu năm 2016 mà vay nữa chắc chắn nợ công trên 65%, đặc biệt là trong
hoàn cảnh VN thâm hụt ngân sách lớn, nhiều năm liền bội chi ở mức trên
dưới 5%.
Trong khi đó, chúng ta
đang dành 70% trong tổng số chi hằng năm cho chi thường xuyên, chỉ
khoảng 30% là chi cho đầu tư phát triển và chi trả nợ. Nếu cứ để tình
trạng này kéo dài, nợ công chắc chắn sẽ gia tăng.
Đó
là chúng ta còn chưa tính nợ của doanh nghiệp nhà nước (đã trừ khoản
Chính phủ bảo lãnh), tôi tính sơ sơ đến thời điểm này là khoảng
1.400.000 tỉ đồng, tương đương 65 tỉ USD.
Nên
nhớ rằng nhiều nước người ta tính cả khoản này vào nợ công. Rõ ràng,
nếu không thắt chặt kỷ cương thu - chi ngân sách, thắt lưng buộc bụng,
giảm bội chi xuống mức 3% trong thời gian tới thì bài toán nợ công rất
khó giải. |
“Chúng chí thành thành”
được sử chép là lời khuyên của Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Đại vương
Trần Quốc Tuấn nói với các bậc hoàng tộc trong vương triều Trần ngay sau
khi cuộc kháng chiến chống giặc xâm lược Nguyên-Mông toàn thắng cách
nay đã 725 năm (1288).
Bãi cọc sông Bạch Đằng.
Kinh
thành Thăng Long hoang tàn vì đã ba lần bị giặc vào phá nát cùng với
chính sách vườn không nhà trống - tự tiêu thổ để kháng chiến (1258,
1285, 1288). Sau ngày toàn thắng, trở lại kinh sư, đến Thượng hoàng Trần
Thánh Tông cũng phải trú tạm nơi hành lang của đám thị vệ, nên có người
trong triều chủ trương dồn sức để xây lại cung điện thành quách.
Vị tổng tư lệnh cầm quân đánh giặc can rằng, lúc này phải lo lắng cho
cuộc sống của người dân và phải năng vun đắp cho lòng người thì nền móng
xã tắc mới mong bền vững .
Đó cũng là lời tổng kết sâu sắc từ
trải nghiệm của ba thập kỷ bền bỉ chống chọi với ba lần quân xâm lược
Nguyên-Mông kéo sang đánh chiếm Đại Việt. Quốc công Tiết chế Hưng Đạo
Đại vương không chỉ bằng tài dụng binh cùng quân dân cả nước để lại
những chiến công hiển hách, mà còn trao truyền cho đời sau những tư
tưởng sáng suốt về kế sách giữ nước như “khoan thư sức dân để làm kế sâu
rễ bền gốc, coi đó là thượng sách giữ nước” hay “Vua tôi đồng lòng, anh
em hòa thuận, nước nhà chung sức”...
Người anh hùng trong
chiến tranh giữ nước đã viết hai bộ binh thư (Binh thư yếu lược và Vạn
Kiếp tông bí truyền thư) và để lại một áng hùng văn về cuộc kháng chiến
cứu quốc (Hịch tướng sĩ văn); cái còn, cái đã thất truyền, nhưng ngài
luôn dạy rằng để học hỏi người xưa, người đời sau này phải “sáng suốt mà
thi hành, bày xếp, không được ngu dốt mà trao chữ truyền lời”. Có nghĩa
là phải sáng tạo, chớ có giáo điều.
Vì thế mà sau ngày ngài
mất, Vua Trần Anh Tông còn truy phong Hưng Đạo Đại vương thêm hai chữ
“Nhân vũ” (nhân tướng, có tài cầm quân lại cố kết được lòng người). Và
vị đại vương họ Trần đã hiển thánh trong lòng dân ta muôn đời như một
trong “tứ bất tử” của Thần điện Việt Nam.
Tuần này nhắc tới tên
ngài là vì tại Quảng Yên, một cuộc hội thảo vừa được tổ chức nhân kỷ
niệm 725 năm Chiến thắng Bạch Đằng (1288-2013) lại đúng vào dịp Thủ
tướng Chính phủ vừa xếp hạng Di tích quốc gia đặc biệt cho quần thể các
di tích liên quan đến trận chiến lịch sử này trên địa bàn thị xã Quảng
Yên và huyện Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh.
Trong một cuộc hội thảo
khoa học về một trận đánh lớn tầm vóc của một trận quyết chiến chiến
lược không chỉ tiêu diệt và bắt sống toàn bộ đạo binh 4 vạn quân cùng
sáu trăm chiến thuyền do tướng Ô Mã Nhi chỉ huy tại cửa sông Bạch Đằng,
mà còn đánh bại hoàn toàn ý chí xâm lược của đế chế Nguyên-Mông, thế nào
cũng phải bàn đến những nội dung của chiến tranh. Những phân tích về
bối cảnh, thời cơ, về chiến lược chiến thuật, về tương quan lực lượng,
về thời tiết, thủy văn cho một trận đánh trên sông nước và về các di sản
vật thể hay phi vật thể còn lại đã hóa thân vào đời sống văn hóa, nghệ
thuật và đời sống tâm linh v.v...
Nhưng cái tâm điểm của hội
thảo đều quy về yếu tố con người. Con người Việt Nam cách đây đã hơn bảy
thế kỷ và thể chế chính trị xã hội của nó như thế nào mà làm nên cái kỳ
tích hiển hách ấy. Và câu kết của cả hai áng thơ và phú nổi tiếng đương
thời viết về Bạch Đằng Giang đều có chung môt ý tứ: “Tại đâu đất hiểm,
cốt người đức cao” (Trương Hán Siêu) hay “Bán tại quan hà, bán tại nhân”
(một nửa nhờ địa thế núi sông, một nửa do con người - Nguyễn Sưởng).
Ngoài vị đại tướng đã hiển thánh, không thể không nhắc tới các đấng
quân vương đã làm nên triều đại nhà Trần. Trần Thái Tông- vị vua đầu
ngôi của triều Trần lên ngôi khi mới 7 tuổi mà ở ngôi có 20 năm
(1225-1258)- đã đủ sức trưởng thành trực tiếp thống lĩnh quân dân cả
nước đánh tan cuộc xâm lăng đầu tiên của giặc phương Bắc, khẳng định
vương hiệu nhà Trần của quốc gia Đại Việt, được sử sách khen “tính khoan
hậu, chuộng văn học, đặt khoa mục, dùng hiền tài, dụng lễ nghi, đặt
hình luật, điển chương chế độ rõ rệt.”.
Chính Thái Tông- ngay
sau khi thắng giặc- đã tự mình rời bỏ ngai báu trao lại cho con trai,
người cũng đã từng tham gia chiến trận, đặt ra chế độ “Thái thượng
hoàng” để lo kế sách đại sự quốc gia, tự mình dành hơn một thập kỷ cuối
đời (1258-1277) để mài dùi kinh sách, Phật pháp (viết Khóa hư lục) và
chăm sóc vua con Trần Thánh Tông giữ gìn chính sự.
Nối nghiệp
vua cha, Trần Thánh Tông ngồi trên ngai báu cai quản quốc gia đến lúc
vua cha vừa băng hà (1277) đã rời ngôi trao lại cho con mang vương hiệu
Trần Nhân Tông, để làm Thái thượng hoàng rồi cả hai cha con tiến hành
liên tục hai cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên-Mông sang xâm lăng cho
đến thắng lợi hoàn toàn. Sử sách khen: “Tính vua trung hiếu, nhân từ,
nhân với người thân, hòa mục với họ hàng, tôn hiền, trọng đạo, thực là
một vị vua hiền”.
Đến Trần Nhân Tông không chỉ vang danh là một
vị anh hùng cứu nước khi cùng vua cha đánh hai trận giặc rồi cũng noi
theo tiền nhân, khi vua cha qua đời lại trao ngôi báu cho con làm Thái
thượng hoàng,rồi lên núi Yên Tử tu thiền sáng lập ra cả một Thiền phái
Trúc Lâm lấy nhân nghĩa, yêu thương, hòa giải làm hồn cốt xứng đáng với
ngôi vị Phật hoàng trong dân chúng và tín đồ đạo Phật Việt Nam. Sử sách
khen là “vua nhân từ, cố kết lòng dân, sự nghiệp trùng hưng sáng ngời
thuở trước” cũng được gọi là “vua hiền của nhà Trần”, lại thêm lời bình
“biết dùng người giỏi, lập nên võ công, nếu không có tư chất nhân,
chính, anh, võ thì sao được như thế”...
Lại nói tổ tiên của họ
Trần chỉ là những người đánh cá, nên buổi đầu Thái sư Trần Thủ Độ tuy là
người mưu lược biết xoay chuyển chính trị để dựng nghiệp nhà Trần từ
cuộc hôn nhân với Chiêu Hoàng của tiên triều Nhà Lý. Sách sử có chê là
“ít học”, nhưng lại ngợi ca hành xử hào hùng và tiết tháo bằng câu nói
để đời cũng trong sử sách: Nếu bệ hạ đầu hàng hãy chém đầu thần đã. Và
triều đại nhà Trần đã thể hiện trong lịch sử không chỉ nổi tiếng với
nhiều chiến tướng, chiến công trong trận mạc, mà còn đạt tới nhiều đỉnh
cao trí tuệ của thời đại Đông A mà bác học Lê Quý Đôn đánh giá là một
trong những triều đại “có tiếng văn hiến”...
Đây cũng là triều
đại để lại nhiều tên tuổi trong lịch sử và cho hậu thế bên cạnh các đấng
quân vương anh hùng cái thế của nhà Trần cùng Hưng Đạo Đại vương còn có
Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật, Trần Khánh Dư hay Yết Kiêu, Dã Tượng,
Phạm Ngũ Lão, Trương Hán Siêu...
Đó là những danh nhân được
ghi trong quốc sử; nhưng còn trong pho sử hoành tráng của dân gian thì
có biết bao nhiêu ngôi đền thờ không chỉ Đức thánh Trần, mà còn của rất
nhiều nhân vật có tên hay không có tên trong một hệ thống truyền thuyết
dân gian rất phong phú gắn với các ngôi đền hay các lễ hội, không chỉ
được dân gìn giữ bảo tồn mà còn được người đứng đầu mọi triều đại nối
nhau công nhận và phong sắc như một truyền thống văn hiến...
Do vậy không lấy gì làm ngạc nhiên, ngay sau khi nước ta giành được độc
lập, vào vào dịp “tháng tám giỗ Cha” theo tập quán dân gian, truyền
thống vẫn không bị đứt đoạn như một tờ báo đương thời mô tả: “Từ năm này
sang năm khác, cái sóng người làm ngập đền Kiếp Bạc đã giữ vững cho
chúng ta cái kỷ niệm của bậc danh tướng đời Trần, đã luôn luôn bắt chúng
ta không được quên chiến công oanh liệt trên sông Bạch Đằng.
Năm nay, lần thứ nhất chúng ta được tự do làm giỗ Đức Trần Hưng Đạo có
tính cách quốc gia. Cái quyền yêu nước, cái quyền sùng kính danh nhân
Việt Nam chúng ta lấy được lại rồi... Dựa vào những tầng lớp thanh niên
quả cảm, dân tộc Việt Nam lại thắng một lần nữa cũng như các vị anh hùng
cứu quốc khi xưa” (Báo Dân Quốc).
Nhưng vào năm đầu của nền
dân quốc ấy, lễ giỗ Đức thánh Trần được tổ chức ngay trung tâm thủ đô
của nước Việt Nam vừa độc lập. Hàng vạn người dân đã đến dự một cách
thành kính và nghiêm trang. Thể theo lời kêu gọi của chính quyền mới,
không ai mang vàng mã đến đốt mà chỉ mang theo vật phẩm dâng lễ để sau
đó mang đến cứu giúp đồng bào bị đói, trẻ em mồ côi hay các đơn vị quân
đội mới thành lập còn đang thiếu thốn mọi bề. Báo chí mô tả, lễ diễn ra
suốt một ngay và số lễ vật thu được đến 5 tấn nhu yếu phẩm được dùng vào
đúng những mục đích thiết thực.
Ôn lại sử sách, xem chuyện
người xưa anh hùng quả cảm trong sự nghiệp lại biết cách gìn giữ truyền
thống không khỏi chạnh nghĩ đến chuyện nay. Vẫn non sông ấy, nhưng cái
nửa con người (bán tại nhân) thì mỗi thời mỗi khác. Đọc lại ý thơ xưa
“Tại đâu đất hiểm, bởi người đức cao” mà thấy lo, để đọc lại lời răn
xưa: “Vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, nước nhà chung sức”.
Đọc lại tư tưởng xưa coi khoan thư sức dân là thượng sách để làm kế sâu
rễ bền gốc... Soi vào phẩm cách của các đấng quân vương xưa dám nhường
ngôi để mưu tính lâu dài cho cơ đồ quốc gia, biết dùng người hiền, biết
tạo người tài, biết nghe lời ngay thẳng và biết dựa vào dân...; hay biết
học người xưa bằng sáng tạo mà không giáo điều như lời dặn của Đức
thánh Trần... thì không thể không nghĩ về lời răn của người xưa về
“Chúng chí thành thành”.
Vẫn diễn ra cái người ta đến với ngôi
đền biểu tượng cho hào khí Đông A của người xưa trong cảnh chen chúc, xô
đẩy hay “ra luồn vào cúi” chỉ để có được miếng lá ấn hão huyền cầu xin
thăng quan tiến chức thì thật đáng hổ thẹn với người xưa...
( ĐC chéptừ blogger.com)
Ông Phùng Quang Thanh: 'Nên lập dự án khả thi sân bay Long Thành'
Giải
thích việc làm sân golf cạnh phi trường, như tại Tân Sơn Nhất, không
ảnh hưởng tới an toàn bay, Bộ trưởng Quốc phòng cũng ủng hộ việc đẩy
nhanh nghiên cứu, xây dựng sân bay Long Thành.
|
Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng Phùng Quang Thanh: Nếu không làm, e sẽ chậm. Ảnh: Chí Hiếu |
Câu
chuyện về dự án Sân bay Long Thành tiếp tục làm nóng bàn nghị sự của
Quốc hội trong các phiên thảo luận tổ chiều 4/11. Theo nghị trình, các
đại biểu có 3 nội dung cần thảo luận, nhưng không ít đoàn đã dành toàn
bộ thời lượng để nói về dự án trị giá 18,7 tỷ USD.
Còn tồn tại nhiều ý kiến trái chiều
xung quanh chủ trương dự án, đoàn TP. HCM là một trong những nơi thảo
luận sôi nổi nhất về vấn đề này. Trong khi đại biểu Phạm Văn Gòn cho
rằng dù có nợ cũng phải xây dựng công trình này thì ý kiến của các vị
như Võ Thị Dung, Nguyễn Văn Minh... lại nghi ngờ con số 140.000 dân phải
di dời nếu mở rộng Tân Sơn Nhất.
Đại biểu Dung cũng không đồng tình với
đánh giá sân bay của TP HCM quá tải trong khi ông Huỳnh Minh Thiện cho
rằng việc dành 150ha làm sân golf là không hợp lý, ảnh hưởng đến quốc
phòng trong bối cảnh Tân Sơn Nhất thiếu diện tích mở rộng.
Thắc mắc của đại biểu Thiện được Bộ
trưởng Quốc phòng - Phùng Quang Thanh làm rõ khi tham gia ý kiến tại
đoàn Hưng Yên. Theo đó, đất làm sân golf ở Tân Sơn Nhất và ngay cả sân
bay Gia Lâm (Hà Nội) là tận dụng phần lưu không, không dùng vào mục đích
phục vụ xây dựng hạ tầng bên dưới.
Đại tướng cho biết 2 dự án nêu trên
đều do một doanh nghiệp thuộc ngành Quốc phòng làm chủ đầu tư, đã được
các cơ quan chức năng chấp thuận. Ông cũng khẳng định việc làm sân golf
không ảnh hưởng đến hoạt động, an toàn bay mà thậm chí là ngược lại.
Thêm vào đó, khi có nhu cầu dùng cho quốc phòng an ninh, cần thu hồi,
chủ đầu tư sẽ hoàn trả mà Nhà nước không phải đền bù.
Tham gia ý kiến về dự án Long Thành,
Bộ trưởng thông báo tập thể Chính phủ đã nhiều lần thảo luận, trình xin ý
kiến Bộ Chính trị và được chấp thuận báo cáo ra Quốc hội tại kỳ họp
này.
Theo Bộ trưởng, nhiều phương án đã
được nghiên cứu song song với Long Thành, song việc mở rộng sân bay Tân
Sơn Nhất sẽ phải di dời hàng nghìn hộ dân, gây ô nhiễm tiếng ồn... nên
ít khả thi. “Tôi đồng ý Quốc hội thông qua chủ trương để Chính phủ lập
báo khả thi. Từ lập dự án qua thẩm định, đến khi triển khai còn nhiều
bước nữa, nếu không làm, e sẽ chậm”, Đại tướng bày tỏ.
Chia sẻ việc nhận được nhiều ý kiến,
tâm tư của cử tri, chuyên gia lo ngại, song theo đại biểu Thân Đức Nam
(Đà Nẵng), cá nhân ông ủng hộ việc thông qua chủ trương, để Bộ Giao
thông vận tải tiến hành lập báo cáo khả thi. Là người có kinh nghiệm
trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng, nguyên Chủ tịch Tổng công ty Xây
dựng giao thông 5 cho biết báo cáo này mới đề cập sâu về vấn đề vốn.
“Lúc này, nếu thấy không khả thi, Quốc hội có thể không cho đầu tư”, ông
Nam nói.
Vị này nhấn mạnh, nếu chỉ vì lo bội
chi ngân sách cao mà không làm thì không theo kịp các nước trong khu
vực. Sau giải phóng đến nay, các sân bay quốc tế như Nội Bài, Tân Sơn
Nhất đều được xây dựng theo kiểu chắp nối, cơi nới. Do đó, ông cho rằng
xây dựng sân bay Long Thành chính là một chiến lược có chiều sâu.
Không khí thảo luận nảy lửa cũng diễn
ra tại nhóm thảo luận của các tổ Bà Rịa - Vũng Tàu và Lâm Đồng. Trong
khi đại biểu Nguyễn Bá Thuyền dẫn ví dụ dự án đường dây 500KV Bắc Nam để
nói rằng dù từng bị phản đối, nhưng dự án sau này đã chứng minh sự cần
thiết. Ông cho rằng Long Thành cũng là một công trình như vậy.
Trong khi đó, đại biểu Nguyễn Văn Hiến
lại dẫn câu chuyện Bộ Giao thông "đính chính" nhầm lẫn về nguồn tài trợ
2 tỷ USD và lo rằng dường như có một "sự vận động" để Quốc hội thông
qua dự án. Ông Hiến cho biết đã dành nhiều thời gian tìm hiểu và kết
luận "chưa cần dự án bây giờ dù cá nhân mong đất nước có nhiều công
trình tầm vóc". “Sân bay quốc tế Cần Thơ đó, đầu tư 3.000 tỷ nhưng có
khách quốc tế đâu !”, ông này dẫn chứng.
Trước khi kết thúc buổi thảo luận, Chủ
nhiệm Ủy ban Các vấn đề xã hội Trương Thị Mai nhấn mạnh: “Chính phủ
phải trả lời thỏa đáng những băn khoăn mà Ủy ban Kinh tế cũng như qua
thảo luận các đại biểu đã đặt ra, nếu không rất khó để Quốc hội bấm
nút”.
Trước đó, theo nghị trình, Quốc hội
mới cho ý kiến chứ chưa biểu quyết về chủ trương xây dựng sân bay Long
Thành. Đến ngày 14/11 tới, các đại biểu sẽ tiếp tục thảo luận tại hội
trường về siêu dự án này.
Theo Chí Hiếu - Đoàn Loan (Vnexpress)
Công trình tỉ đô, có gì phải sợ?
Tôi lấy làm tiếc vì mỗi lần Chính phủ
trình dự án có vốn đầu tư lớn, tính bằng tỉ đô la Mỹ thì lại xuất hiện
nhiều ý kiến. Vì sao lại phải như thế?
Phối cảnh sân bay Long Thành - Ảnh: ACV
|
Tôi nghĩ, với vai trò điều hành nền kinh tế quốc gia thì tất nhiên
Chính phủ đã có tính toán cụ thể mỗi khi đưa ra quyết định đầu tư những
công trình, dự án có tính đột phá, cần có cho chiến lược phát triển.
Tôi thật sự mừng thầm khi vào thời điểm năm 2010 Chính phủ đề xuất thực hiện dự án tuyến
đường sắt cao tốc Bắc - Nam.
Lý do mừng của tôi cũng “vi mô” thôi. Đó là con đường từ Sài Gòn nơi
tôi đang sống trở về quê ở Huế sẽ rút ngắn được thời gian rất đáng kể.
Bao năm đi tàu Thống Nhất, tôi thật sự ngán ngẩm khi phải vật vờ trên
tàu 1 ngày 1 đêm mới về được quê.
Với đoạn đường dài khoảng 1.000 km từ Sài Gòn ra Huế, nếu có đường
sắt cao tốc với tốc độ chạy 250 km/giờ thì thời gian đi chỉ mất 4 tiếng
đồng hồ. Lợi ích kinh tế về mặt xã hội có thể thấy là vô cùng lớn và rất
rõ ràng. Những người có quê ở các tỉnh, thành phía Bắc cũng sẽ hình
dung được lợi ích, sự sung sướng của đường sắt cao tốc khi nó hiện hữu
trên thực tế. Tiếc là cho đến nay Quốc hội chưa thông qua chủ trương đầu
tư cũng chỉ vì lo ngại kinh phí xây dựng được cho là quá lớn, khoảng 60
tỉ đô la Mỹ.
Thời điểm năm 2010, có ý kiến cho rằng việc bác dự án đường sắt cao
tốc Bắc - Nam là một quyết định lịch sử. Suy nghĩ của tôi thì khác. Tôi
nghĩ sẽ là một chuyện mang tính lịch sử khi chúng ta quyết định đầu tư
ngay dự án này.
Bây giờ ngồi nghĩ lại, cá nhân tôi thấy số tiền đầu tư đường sắt cao
tốc Bắc - Nam chẳng có gì là quá lớn cả. 60 tỉ đô la Mỹ, theo lộ trình
đầu tư 20 năm của Chính phủ, thì bình quân mỗi năm chỉ phải bỏ ra 3 tỉ
đô la Mỹ. Nhìn vào thực tế Việt Nam hiện tại, chỉ riêng việc uống bia
thôi cũng đã tiêu thụ 3 tỉ lít bia mỗi năm, tương đương giá trị 3 tỉ đô
la Mỹ rồi. Cho nên, nếu đặt ra bài toán kinh tế, chúng ta có thể kỳ vọng
được về một đáp án khả thi.
Dự án cảng hàng không quốc tế Long Thành đang được đặt ra với tổng kinh phí đầu tư hơn 18 tỉ đô la Mỹ cũng có nhiều ý kiến.
Chúng ta giải phóng, thống nhất đất nước đã gần 40 năm. Thiết nghĩ
cũng cần phải có những công trình thật sự lớn. Những công trình mang tầm
vóc thế kỷ không chỉ để cho oai, mà thực ra đó là cơ hội cho người dân
được quyền sung sướng, được thụ hưởng thành quả của sự phát triển. Chưa
kể đó cũng là cơ hội rộng mở cho đất nước vươn ra được biển lớn trong
thời kỳ hội nhập.
Nếu như chúng ta cứ chờ cho đến lúc đất nước giàu lên, phát triển
mạnh hơn nữa mới làm nhiều công trình tỉ đô, thì bây giờ lấy gì làm đòn
bẩy cho sự phát triển và rất có thể nhiều cơ hội lớn sẽ bị vuột mất. Tại
sao chúng ta không dám, hoặc không nghĩ được cách khả thi để làm ngay
từ bây giờ, bất kể là đang trong điều kiện khó khăn, để tạo nền tảng,
tạo cơ hội có thể nhìn thấy được cho sự phát triển?
Tôi vẫn hay tự hỏi rằng đất nước mình có giàu không? Về điều kiện
khách quan, tôi nghĩ đất nước mình giàu thiệt. Dường như tài nguyên
thiên nhiên không thiếu món gì. Chúng ta có một cửa ngõ rộng lớn ngút
ngàn là biển Đông, có dân số 90 triệu người mà phần lớn là trẻ trung,
giàu sức lao động…
Nhưng nghĩ về điều kiện chủ quan thì đúng là chúng ta đang “nghèo”
thiệt. Cái nghèo đó có lẽ xuất phát từ chính cách làm chưa thật sự hiệu
quả của chúng ta, nên đã không phát huy những cái giàu được gọi là tiềm
năng.
Điều dễ nhận thấy nhất là chúng ta đã vay hàng chục tỉ đô la Mỹ, dành
hơn 98% cho đầu tư phát triển nhưng hiệu quả mang lại không đủ để trả
nợ vay. Ngân sách vẫn phải bội chi gần vượt ngưỡng an toàn, và để “cầm
cự”, chúng ta lại phải đi vay để đảo nợ.
Tôi nghĩ, rất may là các đại biểu Quốc hội đã thẳng thắn chỉ ra được
nguyên do khiến chúng ta cứ mãi loay hoay trong vòng vây nợ công: nền
kinh tế chạy trên “đường ray cũ” với 3 cái hao rất bất lợi là hao vốn,
hao ngoại tệ và hao tài nguyên môi trường. Các địa phương luôn mắc một
“bệnh thèm”: thèm ngân sách để xây lên những trụ sở công vụ hoành tráng.
Tham nhũng, lãng phí cả trong chi thường xuyên lẫn chi phát triển…
Tôi nghĩ có lẽ vì những “điều kiện chủ quan” ấy cứ tồn tại dai dẳng
nên làm chúng ta luôn sợ những công trình tỉ đô, mà thực ra cũng chẳng
có gì đáng phải sợ cả!
Đình Nguyên (*)
(*) Bài viết thể hiện văn phong và góc nhìn của tác giả, một người dân TP.HCM
Tại phiên họp sáng 29.10, Ủy ban Kinh tế (UBKT) của QH trình bày báo cáo thẩm tra về dự án Cảng hàng không quốc tế (CHKQT) Long Thành.
Chủ nhiệm UBKT Nguyễn Văn Giàu cho biết tổng mức đầu tư dự án khoảng
164.589 tỉ đồng (tương đương 7,8 tỉ USD) mới là vốn đầu tư của giai đoạn
1.
Mô hình đồ họa sân bay Long Thành - Nguồn: Báo cáo của Bộ GTVT
|
Nếu tính cả 3 giai đoạn thì tổng mức đầu tư sẽ rất lớn, khoảng 18,7
tỉ USD. Theo UBKT, dự toán mức đầu tư cho giai đoạn 1 là ước tính, mức
độ chính xác chưa cao, đồng thời dự án sử dụng nguồn vốn nhà nước, vốn
vay trong bối cảnh nợ công tăng nhanh và ngân sách nhà nước khó khăn thì
chưa bảo đảm tính khả thi. Mặt khác, nếu khả năng vay được từ nguồn của
các tổ chức tài chính quốc tế thì cũng phải có sự bảo lãnh của Chính
phủ.
UBKT đánh giá báo cáo đầu tư đã dự báo lạc quan về lượng hành khách
đạt được. Thực tế lợi ích kinh tế của dự án trong quá trình khai thác
còn phụ thuộc nhiều yếu tố như: vấn đề tiết giảm các chi phí khai thác,
vận hành tại cảng hàng không, mức độ thu hút du lịch, hệ thống hạ tầng
đồng bộ... UBKT đề nghị, trong bối cảnh quốc tế và khu vực cũng như tình
hình kinh tế của đất nước, cần làm rõ hơn nữa sự cần thiết, tính cấp
thiết, xác định thời điểm phải xây dựng CHKQT Long Thành.
UBKT cũng đề nghị cần làm rõ về tính hợp lý, hiệu quả, khả thi về
nguồn vốn đầu tư của toàn bộ dự án, phương thức huy động vốn và phân kỳ
đầu tư; xác định rõ phần vốn đầu tư của nhà nước, khả năng tham gia của
các nhà đầu tư tư nhân, nhà đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó là việc đánh
giá toàn diện các mặt tác động của dự án đối với vấn đề nợ công; tác
động của dự án đối với sự phát triển kinh tế - xã hội và phát triển của
ngành hàng không VN; đề xuất các cơ chế, chính sách đặc thù trình QH xem
xét, quyết định.
Trước đó, Bộ trưởng Bộ GTVT Đinh La Thăng, thừa ủy quyền của Thủ
tướng Chính phủ, trình bày trước QH tờ trình về chủ trương đầu tư xây
dựng dự án CHKQT Long Thành. Theo tờ trình, việc đầu tư xây dựng CHKQT
Long Thành là cần thiết để đáp ứng hình thành và phát triển một CHKQT
trung chuyển có quy mô tầm cỡ trong khu vực, phục vụ Chiến lược phát
triển vận tải hàng không VN. Dự án đồng thời cũng để đáp ứng nhu cầu vận
tải hàng không khi CHKQT Tân Sơn Nhất đạt công suất thiết kế và trở nên
quá tải. Phân kỳ đầu tư toàn bộ dự án sân bay Long Thành dự kiến chia
thành 3 giai đoạn. Khái toán tổng mức đầu tư giai đoạn 1 khoảng 7,837 tỉ
USD (tương đương 164.589 tỉ đồng); trong đó vốn nhà nước (vốn ngân
sách, trái phiếu Chính phủ, ODA...) là 84.624 tỉ đồng, vốn huy động khu
vực ngoài nhà nước (vốn doanh nghiệp, cổ phần, liên doanh liên kết, hợp
tác công tư (PPP) là 79.965 tỉ đồng. Dự án sẽ huy động vốn các phương án
huy động từ nguồn vốn ODA (từ Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển
châu Á hoặc từ Nhật Bản, Mỹ, Pháp, Hàn Quốc) và nguồn vốn thông qua các
dự án PPP, BOT.
Bộ trưởng Thăng cũng cho biết hiện có nhiều nhà đầu tư nước ngoài
quan tâm và bày tỏ sẵn sàng hợp tác đầu tư vào các hạng mục của dự án
dưới nhiều hình thức khác nhau như PPP, BOT... như Tập đoàn ADPi của
Pháp, các Tập đoàn Samsung, Công ty cảng hàng không Incheon của Hàn
Quốc, các tập đoàn của Nhật Bản... Bên cạnh đó là nguồn vốn đầu tư từ
khu vực tư nhân thông qua việc tiến hành cổ phần hóa Tổng công ty cảng
hàng không VN, vốn đầu tư từ các hãng hàng không và các nhà đầu tư tư
nhân...
Trường Sơn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét