Chuyển đến nội dung chính

KIẾP GIANG HỒ 2 (Thế giới du đãng Sài Gòn trước 75)

(ĐC sưu tầm trên NET)

Thế giới du đãng Sài Gòn trước75 : Đại Cathay, “bố già” của Sài Gòn

    Sài Gòn trước năm 1975

    Trước năm 1975, Sài Gòn có 4 trùm du đãng khét tiếng nhất, trong giới gọi là “tứ đại thiên vương”, đó là: Nhất Đại, nhì Tỳ, tam Cái, tứ Thế (tức Đại Cathay, Huỳnh Tỳ, Ngô Văn Cái và Ba Thế). Đại Cathay được xếp đầu bảng, còn được giới du đãng Sài Gòn gọi là “vua của các đại ca giới giang hồ”.

    Dưới mái hiên rạp chiếu bóng Cathay
    Trước năm 1975, ở Sài Gòn, hình ảnh của Đại Cathay thường xuyên xuất hiện trên các báo, được nhiều nhà văn khai thác viết tiểu thuyết, được dựng thành phim, chiếu cả ở nước ngoài…
    Theo hồ sơ của cảnh sát Sài Gòn, Đại Cathay tên thật là Lê Văn Đại, sinh năm 1940, con của ông Lê Văn Cự (Hai Cự) và bà Sáu (không rõ họ). Cha của Đại cũng từng là một tay giang hồ hảo hớn ở khu vực chợ Cầu Muối.
    Sau năm 1945, Hai Cự rời Sài Gòn đi vào chiến khu rừng Sác gia nhập quân đội Bình Xuyên, bị Pháp bắt đày Côn Đảo và chết ngoài hải đảo. Vì vậy mà ngay từ nhỏ Đại đã xa cha, sống với mẹ ở đường Đỗ Thành Nhân (nay là đường Đoàn Văn Bơ, quận 4).
    Quận 4 là vùng đô thị mới ven Sài Gòn, là nơi tập hợp của người dân tứ xứ, vì vậy mà rất phức tạp, là nơi giới giang hồ Sài Gòn chọn làm “thánh địa”.
    Sống trong môi trường đó, lại thừa hưởng gien “anh chị” của người cha, Đại sớm bỏ học, được đám trẻ lêu lỏng trong xóm tôn là “đại ca”.
    Chưa tới 10 tuổi đầu, Đại đã có thể luồn lách vào các chợ, sạp hàng ở chợ Vân Đồn, chợ Tôn Thất Thuyết để ăn trộm dưa, chuối về chia cho những đứa trẻ đồng cảnh ngộ.
    Sau khi cha chết, mẹ của Đại lấy chồng khác. Người cha ghẻ nghiện ngập thường hành hạ vợ và đứa con ghẻ. Một lần, Đại không kiềm chế được đã đánh lại ông ta rồi bỏ nhà đi bụi, sống lang thang bằng nghề đánh giày, bán báo.
    Khu vực ngã tư Công Lý (nay là Nam Kỳ Khởi Nghĩa) – Nguyễn Công Trứ (Q.1, Sài Gòn) có 1 rạp chiếu bóng tên là Cathay là nơi tụ tập của đám trẻ bụi đời, trong đó có Đại. Bọn trẻ bụi đời đánh nhau giành khách, đứa nào gan lỳ, có sức khỏe thì chiến thắng.
    Với bản tính liều lĩnh, Đại cứ lao vào đối thủ, buộc đối phương phải đánh “cận chiến”, nhờ vậy mà Đại phát huy được những cú đấm của mình, kết quả là Đại luôn thắng trong các cuộc “tỉ thí”. Đại nghiễm nhiên trở thành thủ lĩnh của đám nhóc tì du thủ du thực với cái tên Đại Cathay.
    Đó là vào khoảng năm 1954, lúc Đại mới 14 tuổi, để rồi suốt gần 20 năm sau đó, cái tên Đại Cathay luôn làm cho giới du đãng Sài Gòn và cả những người dân lương thiện mỗi lần nghe tới phải sợ mất vía.
    Liều lĩnh và nghĩa hiệp
    Hàng chục trẻ bụi đời dưới trướng của Đại mỗi sáng nhận thùng đánh giày, nhận báo, túa đi làm nhiều nơi, chiều đem tiền về nộp cho “đại ca” Đại. Mới chút tuổi đầu mà Đại đã biết cách thu phục “nhân tâm” bằng cách rất hào phóng - không bao giờ giữ tiền làm của riêng cho mình, mà chia hết tiền cho đàn em.
    Nhiều đứa trẻ bụi đời trong nhóm chẳng may bị ế báo hoặc bị mưa ướt hết báo, Đại chẳng những không bắt đền tiền, cũng không chửi bới, đánh đập như những tay anh chị khác, mà còn lấy tiền lời chung để bù đắp, chia phần cho những đứa trẻ không may. Tiếng “lành” đồn xa, trẻ bụi đời các nơi rủ nhau về tề tựu dưới trướng của Đại ngày càng đông.
    Năm 1955, khu vực rạp hát Cathay được xây dựng chỉnh trang lại, Đại chuyển sang “hoạt động” tại khu vực Hãng phân bón Khánh Hội ở quận 4.
    Một lần nữa, sự liều lĩnh và lì đòn của Đại đã khuất phục được đám trẻ bụi đời ở khu vực Khánh Hội, quanh cầu Ông Lãnh, là khu vực nổi tiếng về giang hồ, dao búa. Lúc ấy, khu vực cầu Mống - Dân Sinh - cầu Ông Lãnh được dân giang hồ gọi là khu Da Heo, do một tay giang hồ nổi tiếng tên là Tám Lâu cai quản. Tất cả người buôn bán đều phải “đóng xâu” cho Tám Lâu để được yên ổn làm ăn.
    Một lần chứng kiến thằng nhóc đánh giày từ đâu mới tới đánh đấm ra trò, Tám Lâu thấy có cảm tình, kêu Đại đi nhậu và kết nghĩa anh em. Lúc ấy Tám Lâu phải sợ một tay giang hồ uy thế hơn, tên là Bé Bún, được xem là trùm du đãng quận 4. Bé Bún cậy đông quân, thường kéo qua "thu thuế" bà con tiểu thương chợ vựa Cầu Muối, Tám Lâu phải làm ngơ cho băng của Bé Bún cướp bóc ngay trên lãnh địa của mình.
    Một ngày cuối năm 1957, thấy đại ca Tám Lâu thở ngắn than dài chuyện băng đảng của Bé Bún ngày càng lộng hành, Đại Cathay nốc cạn ly rượu và nói: “Anh Tám để đó em lo”. Xong Đại dắt mấy du đãng nhí vác dao qua bến Vân Đồn khiêu khích băng Bé Bún.
    Bị xúc phạm, Bé Bún huy động toàn bộ lực lượng tấn công sang khu Da Heo để hỏi tội Tám Lâu, làm Tám Lâu và đám đàn em hoảng sợ bỏ chạy. Trong khi Đại Cathay đã âm thầm cùng các đàn em giăng bẫy, đợi cho băng Bé Bún lọt vào thế trận là đánh tới tấp.
    Băng du đãng “người lớn” bị bất ngờ, không kịp trở tay. Đám giang hồ tuổi 16 - 17 tả xung hữu đột, lăn xả vào chém quân Bé Bún, xong xộc thẳng sang cả bên kia cầu, tràn vào cả “thánh địa” của Bé Bún, “tặng” cho tay giang hồ lừng danh này mấy nhát dao. Sau khi ra viện, Bé Bún và đám đồ đệ không dám bén mảng sang giành mối ở khu Da Heo nữa.
    Từ đó “đàn anh” Tám Lâu đâm ớn tài nghệ và sự lì lợm của Đại Cathay. Để rồi chỉ cần thêm một vài “phi vụ” nữa, Tám Lâu phải tự giác “nhường ngôi” trùm du đãng khu Da Heo cho Đại Cathay, còn mình thì lui về làm “thái thượng hoàng”. Vậy là, chưa đầy 20 tuổi, Đại Cathay đã trở thành trùm du đãng của khu vực Da Heo, một trong những địa bàn phức tạp nhất Sài Gòn khi ấy.

      Đại Cathay
    Trở thành trùm du đãng Sài Gòn
    Cả quyền lực và tiền bạc đều đến với Đại Cathay dồn dập trong những năm đầu thập niên 1960. Đến năm 1963, Đại Cathay đã trở thành một ông trùm khét tiếng cả Sài Gòn. Hầu hết các nhà hàng khách sạn, động mại dâm, tiệm hút chích, sàn nhảy ở khu vực quận 1, quận 2, quận 3 đều chịu sự bảo kê của Đại. Các vũ trường nổi tiếng như Olympic, Queen Bee, Barcara, Paramouth đều có phần hùn của Đại dù trên thực tế hắn chẳng cần bỏ ra một đồng nào.
    Dù vậy, nguồn lợi lớn hơn cả của Đại Cathay không phải là tiền bảo kê, mà chính giới doanh nghiệp làm ăn lớn mới là những “nhà tài trợ” tình nguyện để Đại nuôi quân. Bù lại, họ nhờ Đại Cathay làm hậu thuẫn khi cần gây sức ép hay giành giật trên thương trường với kẻ khác, hoặc cần thiết phải đòi một món nợ khó đòi nào đó.
    Những “khách hàng” của Đại Cathay lúc đó có cả anh em tỉ phú Hoàng Kim Qui (vua kẽm gai), Xí Ngàn mặt rỗ (vua thuốc Bắc), La Thành Nghệ (vua thuốc đỏ) và hơn chục ông vua các ngành nghề khác của người Hoa là những người đều đặn chu cấp cho Đại.
    Tuy nhiên, lúc ấy ở Sài Gòn – Chợ Lớn đã có 3 tên tuổi lớn khác trong giới giang hồ, đó đó là Huỳnh Tỳ, Ngô Văn Cái và Ba Thế.
    Thấy Đại Cathay nhỏ mà chơi hỗn, nhiều lần xâm phạm lãnh địa của các đàn anh, Huỳnh Tỳ và Ngô Văn Cái quyết định phối hợp để dằn mặt “thằng nhỏ chưa sạch nước mũi” đã dám “vuốt râu hùm”. Hai tên giang hồ cộm cán này họp nhau tại vũ trường Aristo (sau này là khách sạn Lê Lai, cạnh khách sạn New World).
    Được sự hậu thuẫn của một tay giang hồ gộc khác là Ba Thế - chủ vũ trường Aristo – Huỳnh Tỳ và Ngô Văn Cái mời Đại đến vũ trường Aristo để "bàn công chuyện".
    Với tính tình lỳ lợm, Đại một mình đến “hang hùm”. Vừa bước vào vũ trường Aristo, Đại bất ngờ bị Ba Thế đá lộn cổ xuống cầu thang, xong 4 đàn em của Thế xông vào chém. Đại vừa đỡ đòn vừa tìm đường thoát thân, mình mẩy đầy thương tích...
    Hơn 1 tháng sau, khi những vết thương chưa kịp kéo da non, Đại Cathay đã âm thầm giắt dao đi “đòi nợ”. Cả Huỳnh Tỳ, Ngô Văn Cái và Ba Thế đều lần lượt bị Đại chém trọng thương. Điều kinh khủng là sau khi chém Huỳnh Tỳ (cố ý chém trọng thương chứ không để chết), Đại “nhắn” với Ngô Văn Cái là tuần sau sẽ tới lượt hắn vì cái tội “chơi bẩn”.
    Đúng một tuần sau, Ngô Văn Cái phải ôm đầu máu đi bệnh viện vì những nhát chém rất nghề của Đại cùng với lời nhắn cho Ba Thế... Sau khi cả 3 “đại ca” trong giới giang hồ đều “trả nợ” bằng những nhát dao vừa đủ để thẹo cả đời, những “người lớn” đã biết khiếp sợ, gửi lời xin lỗi Đại Cathay.
    Từ đó, danh xưng "Tứ đại thiên vương ĐẠI -TỲ - CÁI -THẾ” trong giới du đãng Sài Gòn đã xuất hiện, chính thức xác nhận Đại Cathay đứng đầu trong giới du đãng Sài Gòn.
    Xã hội miền Nam khi ấy với bộ máy quan chức được mua bán bằng tiền, đã dung túng Đại Cathay và đám du đãng, để mặc kệ cho chúng làm mưa làm gió. Thuở ấy Cò Ly, quận trưởng quận 1, đã công khai bảo kê cho Đại. Hàng tháng, Đại đều có những khoản riêng béo bở tuồn vào cửa sau cho vợ ông Cò. Mỗi chiều thứ bảy, cò Ly và Đại Cathay lại sánh vai nhau bước vào các vũ trường, nhà hàng sang trọng ăn chơi, đập phá thâu đêm. Thế giới giang hồ cả Sài Gòn – Chợ Lớn đã về thuần phục với trướng của Đại Cathay. Thằng nhỏ bụi đời thất học ngày nào giờ có thể làm thay đổi cả xã hội Sài Gòn nếu nó muốn.
    Mới chút tuổi đầu mà Đại đã biết cách thu phục “nhân tâm” bằng cách rất hào phóng - không bao giờ giữ tiền làm của riêng cho mình, mà chia hết tiền cho đàn em. Nhiều đứa trẻ bụi đời trong nhóm chẳng may bị ế báo hoặc bị mưa ướt hết báo, Đại chẳng những không bắt đền tiền, cũng không chửi bới, đánh đập như những tay anh chị khác, mà còn lấy tiền lời chung để bù đắp, chia phần cho những đứa trẻ không may.











    Thế giới du đãng Sài Gòn trước 1975 (kỳ 2): Ngày tàn của Đại Cathay


    Sài Gòn thập niên 1960.

    Sau này, khi nhắc về trùm du đãng Đại Cathay, có ý kiến cho rằng, nếu Đại bớt một chút “giang hồ”, thêm một chút trí tuệ, có lẽ y đã trở thành một “bố già”, một dạng mafia theo kiểu Ý. Cứ ngỡ mình là nhất thiên hạ, xem thường mọi thứ trên đời, sống bạt mạng theo bản năng…, Đại Cathay trở thành cái gai trong mắt của một số người, họ buộc phải nhổ bỏ. Cái chết của Đại Cathay từng làm tốn không biết bao nhiêu giấy mực ở Sài Gòn…

    Từ chuyện coi trời bằng vung
    “Thời ấy, nhiều tướng lĩnh quân đội, cảnh sát vì bất lực cũng có mà vì “đi đêm” với thế giới giang hồ cũng có, họ sẵn sàng dựa vào bọn du đãng để làm hậu thuẫn cho mình. Nhưng chuyện gì cũng có cái ngưỡng của nó.
    Sự ngang ngược coi thường luật pháp của Đại Cathay và băng du đãng của hắn ngày càng làm cho những quan chức và cảnh sát ngụy mang tiếng, cảm thấy bối rối.
    Với cá tính “cao bồi” của mình, thay vì trị Đại về tội ngông nghênh coi thường pháp luật, tướng Nguyễn Cao Kỳ đã tìm cách chinh phục Đại.
    Một lần, tướng Nguyễn Cao Kỳ cho gọi Đại đến gặp và nói giọng bề trên: “Tôi biết anh là người có chí, nhưng luật là luật, anh không thể trốn quân dịch mãi được. Về làm vệ sĩ cho tôi, anh vừa khỏi đăng lính, lại vẫn có quyền hành. Anh cứ suy nghĩ cho kỹ, ba ngày nữa trả lời tôi cũng được”.
    Tướng Kỳ vừa dứt lời, Đại Cathay đã trả lời ngay: “Dạ, cảm ơn thiếu tướng đã có thịnh tình chiếu cố. Phiền nỗi tôi đi đâu cũng có cả chục gạc-đờ-co hộ tống, giờ tôi lại làm gạc-đờ-co cho người khác, không lẽ để cho tụi nó thất nghiệp?”.
    Tướng Kỳ bị chạm tự ái nhưng vẫn kiềm chế, thuyết phục: “Làm vệ sĩ của tôi, anh là nhân viên công lực của quốc gia, danh giá đâu kém cạnh gì ai? Là quí anh tôi mới bảo thế, chứ nếu cần vệ sĩ tôi đâu thiếu người giỏi”.
    Đại Cathay dứt khoát: “Dạ, xin lỗi, tôi không hầu thiếu tướng được…”.
    Tướng Kỳ thất bại, đến lượt tướng Sáu Lèo Nguyễn Ngọc Loan - Giám đốc Nha cảnh sát Đô Thành thử thu phục Đại.
    Tướng Loan cho mở “Trung tâm bài trừ du đãng” và lập “Biệt đội hình cảnh” được bắn bỏ bất cứ tên du đãng nào nếu chúng gây án và chống lại cảnh sát.
    Vừa giương oai, Nguyễn Ngọc Loan vừa muốn thu phục Đại, để qua Đại mà dẹp yên nạn du đãng trên đất Sài Gòn.
    Nguyễn Ngọc Loan cho mời Đại Cathay đến Nha Cảnh sát Đô thành và nói: “Tôi sẽ nhận anh vào chức vụ đại úy Phó ty cảnh sát quận 7. Anh được toàn quyền hành động, nhưng phải giúp tôi tiêu diệt hết đám lưu manh du đãng”.
    Đại Cathay thẳng thừng từ chối: “Tôi xuất thân du đãng, làm sao có thể quay lưng diệt du đãng được? Nếu tôi nhận lời, du đãng không chém, tôi cũng chết vì thân bại danh liệt”.
    Nguyễn Ngọc Loan tiếp tục dằn mặt: “Tôi không ép, nhưng anh phải giải tán băng nhóm, không được lộng hành. Tôi không thể để anh muốn làm gì thì làm!”.
    Đại Cathay trả lời: “Giang hồ không có vua, tôi đâu có ra lệnh cho các băng khác được”.
    Cuộc gặp kết thúc. Nội dung các cuộc gặp nói trên đã nhanh chóng lan truyền trong giới du đãng và tiếng tăm Đại Cathay càng nổi như cồn trong giới giang hồ vì “dám vuốt râu hùm” Nguyễn Cao Kỳ và Nguyễn Ngọc Loan.
    Đến cái chết của đại uý Trần Kim Chi
    Một buổi tối, Đại và đàn em đến vũ trường Olympic để “đập phá”. Như lệ thường, đám cave ùa tới vây lấy Đại và bọn du đãng, vì sợ cũng có mà vì Đại rất hào phóng cũng có.
    Một lúc sau, đám lính của tướng Nguyễn Ngọc Loan trong những bộ đồ rằn ri xộc vào, kéo ghế ngồi, nhưng không thấy cô cave nào đến phục vụ. Một tay thiếu úy tên Hải rời khỏi bàn, đến đứng đối diện với Đại Cathay, hất hàm nói: “Sang bớt cho tụi này mấy em chứ, để bên này ngồi không, coi sao đặng?”.
    Một cận thần của Đại là Hải “súng” hất mặt nói: “Đâu có được, trâu chậm phải uống nước đục, trách gì?”.
    Tay thiếu úy đưa tay vào bụng cố ý làm lộ khẩu súng và nói: “Đừng chơi quê tụi này chớ!”.
    “Thịt người tanh không ăn được, đừng doạ nhau, tụi này không thích!”, Hải “súng” trả lời.
    Bị khiêu khích, tên thiếu úy Hải xấn tới chụp lấy tay cô cave kéo về phía mình, tuyên bố: “Không thích cũng bắt!”.
    Hải “súng” chụp chai Black and White trên bàn ném mạnh vào mặt đối thủ.
    Thiếu úy Hải buông cô cave, tránh đòn và móc súng. Đại Cathay hét lên: “Tụi nó chơi súng, rút, tụi bây”.
    Một viên đạn trúng vào đầu gối làm Đại gục xuống. Hải “súng” xốc Đại lên bỏ chạy khỏi vũ trường, trong lúc một đàn em khác là Lâm “chín ngón” có giắt súng theo đã đọ súng cầm chân đám lính, hai bên bắn loạn xạ, nhưng vì đèn trong vũ trường vụt tắt, nên không gây thương vong gì thêm. Nhiều đàn em của Đại Cathay bị cảnh sát truy bắt, tống giam.
    Thoát chết trước họng súng của cảnh sát, nhiều “chiến hữu” lại bị cảnh sát bắt giam, Đại Cathay như biết điều hơn. Một buổi tối, Đại bao nguyên nhà hàng Paramouth mời đại úy cảnh sát Trần Kim Chi đến dự tiệc.
    Đại mở lời: “Nếu đại úy chịu tha một số anh em của tôi vừa bị bắt, chúng tôi sẽ không quên ơn anh…”.
    Viên đội trưởng “Biệt đội hình cảnh” cũng thuộc loại ngang tàng, từ chối thẳng thừng: “Ăn nhậu là ăn nhậu, bắt là bắt. Nếu anh mời tôi đến đây là để mặc cả thì coi như tàn tiệc, tôi xin kiếu!”.
    Bình thường thì có lẽ máu côn đồ của Đại Cathay sẽ nổi lên, nhưng do đang yếu thế nên Đại vẫn nhỏ nhẹ: “Ồ không không. Nếu đại úy không ưng thuận thì thôi”.
    Sau buổi tiệc đó không lâu, đại úy Trần Kim Chi đã bị một chiếc xe chở gỗ bất ngờ đụng ngang qua chiếc xe hơi CV2 của ông ta khi viên đại úy này đang đi công vụ trên xa lộ, làm ông ta chết tại chỗ, chiếc xe gây tai nạn bỏ chạy mất. Cả giới du đãng Sài Gòn và lực lượng cảnh sát ngụy đều cho rằng chính Đại Cathay đã sát hại đại úy Trần Kim Chi.

    Ngày tàn của Đại Cathay
    Tháng 8.1966, Đại bị mời tới Tổng nha cảnh sát. Đại vẫn nghĩ rằng như bao lần khác, tướng Loan mời hắn đến để thuyết phục, cộng tác. Thế nhưng, tên trùm du đãng đã không thể lường trước tình huống xấu nhất, hắn bị bắt giam.
    Ngày 28.11.1966, Đại bị đưa ra giam giữ tại đảo Phú Quốc. Cùng bị lưu đày hải đảo với Đại Cathay có một số giang hồ cộm cán như Bảy “si” (anh vợ Năm Cam sau này), Lâm “chín ngón”, Hải “súng”...
    Trên đảo Phú Quốc, Đại và băng nhóm bị nhốt trong “Trung tâm hướng nghiệp” do Nguyễn Ngọc Loan thành lập nhằm bài trừ du đãng.
    Gọi là “hướng nghiệp”, nhưng kỳ thực đám du đãng suốt ngày chỉ ngồi đánh mạt chược. Một hôm, đang đánh mạt chược, Đại Cathay bảo: “Gọi “hướng nghiệp” nghe chán thấy mẹ, đặt lại tên cho nó đi!”.
    Bác sĩ Nghiệp, một du đãng có học đề xuất: “Bốc đại một con mạt chược, trúng con gì, đặt tên đó”. Đại Cathay quơ được con Cửu Sừng, vậy là “Trung tâm hướng nghiệp Phú Quốc” nghiễm nhiên trở thành “Trại Cửu Sừng”.
    Vô tình, “Trại Cửu Sừng" trở thành nơi làm cho bọn du đãng kết tình “huynh đệ” sâu nặng hơn, để sau này khi được thả về đất liền, chúng tiếp tục trở thành những băng nhóm du đãng còn dữ dội hơn trước lúc ra đảo.
    “Trại Cửu Sừng” như một con dấu để xác nhận “đẳng cấp giang hồ”, tên nào từng ngồi ở “Trại Cửu Sừng” sau này nghiễm nhiên trở thành đàn anh, được những tên du đãng trong đất liền nể phục, tôn làm đại ca.
    Từ khi trở thành trùm du đãng Sài Gòn với cuộc sống đế vương, Đại có nhiều mối tình, nhưng cuộc tình sâu nặng nhất của Đại là với cô gái tên Nhân - con gái chủ tiệm đồ gỗ Đồng Nhân nổi tiếng ở Sài Gòn.
    Khi Đại và đám đàn em bị tống ra đảo Phú Quốc, Nhân treo số tiền 1,5 triệu đồng, là số tiền cực lớn lúc đó, cho ai có cách cứu Đại Cathay đem về đất liền.
    Món hời này đã được đại tá Long - một sĩ quan thuộc lực lượng Hải quân chỉ huy tàu tuần lưu - nhận giúp đỡ. Kế hoạch vượt ngục được triển khai, theo đó, đám lính gác sẽ làm ngơ cho Đại Cathay và một số đàn em trốn ra khỏi trại. Một xuồng máy chờ sẵn dưới bãi biển để đưa đám tù ra khơi, rồi có tàu hải quân rước Đại về đất liền.
    Theo đúng kế hoạch, Đại Cathay và khoảng một chục đàn em vượt ngục. Nửa đêm 7.1.1967, Đại Cathay dẫn cả bọn đàn em đào thoát ra ngoài. Theo sự phân công của Đại Cathay, đám tù trốn trại chia làm hai tốp. Tốp thứ nhất gồm năm tên đi trước để nghi binh. Tốp thứ hai, có Đại Cathay và Hải “súng” chạy theo hướng bờ biển.
    Thế nhưng, khi cả hai tốp vừa vọt ra khỏi vòng rào thì phía trại báo động inh ỏi. Tốp thứ nhất bị bắt lại ngay. Đại Cathay và Hải “súng” vội đổi kế hoạch, không xuống bờ biển mà chạy vào khu núi Tượng.
    Cùng lúc, có tiếng của nhiều chiếc máy bay trực thăng trên đầu, cùng ánh sáng của hỏa châu. Nhiều loạt đạn từ máy bay bắn xuống, người ta còn nghe nhiều tiếng la hét vọng ra từ rừng sâu. Kể từ đó không ai còn gặp đại Cathay nữa.
    Lúc đó, dư luận ở Sài Gòn đặt ra nhiều khả năng về sự biến mất của Đại Cathay, như: Đại đã bỏ mạng vì những loạt đạn lúc nửa đêm trên núi Tượng, rồi rơi xuống vực sâu mất xác; Đại đã trốn thoát rồi vượt biển qua Campuchia, đi luôn ra nước ngoài lánh nạn. Cũng có tin đồn là Đại đã lần về được Sài Gòn và sống ẩn dật với cô vợ tên Nhân…
    Sau đó, cái chết của Đại Cathay cũng dần sáng tỏ: Biết không trị nổi Đại Cathay, nhất là sau cái chết của đại úy Trần Kim Chi, tướng Nguyễn Ngọc Loan tìm cách loại trừ Đại. Biết cô Nhân - vợ Đại đang tìm cách tổ chức cho chồng vượt ngục, Nguyễn Ngọc Loan đã chỉ đạo dàn dựng một cuộc vượt ngục như thật, qua đó hạ sát Đại.
    Một tiểu đội biệt kích do thiếu úy Trần Tử Thanh chỉ huy, được trực thăng chở từ Sài Gòn ra Phú Quốc thực thi nhiệm vụ. Diệt xong Đại, toán biệt kích dù đắp mộ chôn không để lại dấu vết.
    Chính thiếu úy Trần Tử Thanh sau này đã từng huênh hoang khoe với nhiều phóng viên của một số tờ báo ở Sài Gòn trước 1975 rằng chính tay y đã nổ súng hạ gục Đại Cathay

    Thế giới du đãng Sài Gòn trước 1975 (kỳ 3): Huỳnh Tỳ và những ân oán giang hồ với Năm Cam

    Huỳnh Tỳ vào thập niên 1960.

    Trùm xã hội đen Năm Cam từng làm mưa làm gió ở Sài Gòn và kết thúc bằng vụ án “Năm Cam và đồng bọn” năm 2003. Năm Cam cũng xuất thân từ du đãng Sài Gòn trước năm 1975. Người “dìu dắt” Năm Cam vào thế giới tội ác chính là “nhị ca” Huỳnh Tỳ trong “Tứ đại thiên vương” thống lĩnh giang hồ Sài Gòn khi ấy là Đại - Tỳ - Cái - Thế (Đại Cathay - Huỳnh Tỳ - Ngô Văn Cái - Nguyễn Kế Thế).


    Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, trong khi nhiều “anh chị” đã chết, thân tàn ma dại vì ma túy và bệnh tật, thì Huỳnh Tỳ vẫn “gượng” lại được, trở thành “đồ đệ” của Nam Cam, mặc dù trước giải phóng là đàn anh của “ông trùm” này.
    Trùm du đãng có học thức
    Huỳnh Tỳ là trường hợp trùm du đãng hiếm hoi không xuất thân từ trẻ bụi đời, thất học. Huỳnh Tỳ tên thật là Nguyễn Thuận Lai, sinh năm 1944 tại quận 1, Sài Gòn, trong 1 gia đình yên ấm, được cha mẹ cho học hành đàng hoàng, đến hết lớp đệ tam (lớp 10).
    Cậu học sinh Thuận Lai hiền lành, chăm chỉ, học giỏi đều các môn, đặc biệt yêu thích thơ văn. Năm 1960, khi học hết đệ tam, để nhường sự học cho các em, Thuận Lai rời mái trường lao vào cuộc mưu sinh phụ giúp gia đình. Lúc ấy cha của Thuận Lai làm nghề lái xe đò đường dài tuyến Sài Gòn - Pleiku, Thuận Lai theo cha học nghề lơ xe.
    Nghề lơ xe tiếp xúc với đủ mọi thành phần trong xã hội, đã sớm làm cho cậu thư sinh hiền lành trở thành tay “anh chị” trên tuyến đường.
    Tiếp thu nhanh ngõ ngách nghề đi xe đường dài từ cha, cộng với trình độ học vấn khá, Thuận Lai dần trở thành tay lơ xe bản lĩnh.
    Đi xe đò đường dài, chuyện tranh giành khách giữa các xe, rồi “câu giờ” để rước thêm khách... xảy ra như cơm bữa. Các tài xế và lơ xe thường giải quyết nhau theo luật giang hồ, ai mạnh thì thắng, ai yếu phải chịu lép vế. Thuận Lai sẵn sàng tỉ thí với các lơ xe khác để giành khách.
    Do cha bị bệnh không tiếp tục lái xe đường dài, Thuận Lai cũng chấm dứt 2 năm rong ruổi trên đường, trở về quận 1 tìm kế mưu sinh.
    Thời ấy ở đường Lê Lai, quận 1 có một rạp hát nổi tiếng tên là Aristo. Năm 1955, gánh hát Kim Chung của ông bầu Long từ Hà Nội vào Sài Gòn đã lấy rạp Aristo làm “hậu cứ”.
    Ăn theo gánh hát, nhiều quán ăn, quán nước trên đường Lê Lai mọc lên như nấm. Khu vực này trở nên náo nhiệt, đồng thời cũng kéo theo không ít dân trộm cắp, móc túi, trẻ bán báo, đánh giày từ các nơi tìm đến làm ăn.
    Khu vực này lại nằm giữa một bên là chợ Bến Thành, một bên là ga xe lửa Sài Gòn, vì vậy mà sự náo nhiệt, phức tạp càng tăng lên theo đà sôi động của khu chợ và nhà ga. Nơi đây cũng ra đời các loại dịch vụ cho giới lưu manh trộm cắp như sòng bài, động chích, tiệm hút, đĩ điếm...
    Thuận Lai nhờ có 2 năm “chinh chiến” bằng nghề lơ xe, đã tỏ rõ sự hơn trội so với các băng “tép riu”. Thuận Lai cùng với 2 tay anh chị khác tên Ngô Văn Cái và Nguyễn Kế Thế đứng ra nhận bảo kê toàn bộ các dịch vụ nhám nhúa này.
    Lúc mới từ Hà Nội vào, bầu Long và gánh hát Kim Chung đã thu dụng một loạt các tay đao búa từng nổi tiếng một thời ngoài Hà Nội để làm chân bảo vệ.
    Thời ấy, gánh hát nào cũng có lực lượng bảo vệ “đầu gấu” để đối phó với nạn côn đồ. Đám bảo vệ đầu gấu của gánh hát Kim Chung không chỉ giữ yên cho gánh hát, mà còn hay tụ tập tại quán Kiều Chánh cạnh rạp Aristo để giương oai. Nhiều trận hỗn chiến tóe lửa giữa nhóm của Thuận Lai với đám bảo vệ này đã xảy ra, cuối cùng phần thắng đã thuộc về Thuận Lai.
    “Làm gỏi” được nhóm bảo vệ của bầu Long, Thuận Lai và đám chiến hữu kéo đến đập phá gánh hát Kim Chung. Để yên thân, bầu Long đã hạ mình đến gặp Thuận Lai xin lỗi về chuyện “thất lễ” đã qua, rồi mời băng của Thuận Lai làm bảo kê cho gánh hát Kim Chung.
    Cứ thế, băng du đãng “Tam đầu chế” Thuận Lai, Ngô Văn Cái và Nguyễn Kế Thế nổi lên khắp khu vực trung tâm Sài Gòn, lan ra cả quận 1, chúng thường tụ tập nhậu tại rạp hát Aristo, nên được giang hồ gọi luôn là băng Aristo.
    Cách thức hoạt động của băng Aristo do Thuận Lai cầm đầu là cho đàn em đi quậy phá nhà hàng, quán ăn, doanh nghiệp nào đó trên địa bàn. Xong Thuận Lai tới đặt vấn đề bảo kê để không bị quấy phá. Cứ vậy, dần dần hầu hết giới làm ăn, buôn bán trong khu vực đều trở thành “tá điền”, hàng tuần phải “nộp tô” cho băng nhóm Thuận Lai.
    Lúc này, để trốn không đi lính, Thuận Lai phải làm giấy cho nhỏ tuổi, thay đổi họ tên, từ Nguyễn Thuận Lai thành Huỳnh Tỳ. Cái tên Huỳnh Tỳ bắt đầu xuất hiện khoảng năm 1963 và nhanh chóng trở thành nỗi khiếp sợ đối với những người làm ăn lương thiện ở quận 1.
    Bị Đại Cathay thu phục
    Khoảng năm 1964, băng du đãng Đại Cathay sau khi thống lĩnh cả giới giang hồ quận 4, bắt đầu chồm sang quận 1, khu vực của Thuận Lai. Lãnh địa của 2 băng du đãng khét tiếng ở Sài Gòn bắt đầu “chồng lấn” lên nhau, đã xảy ra một vài vụ đụng chạm giữa đàn em của Huỳnh Tỳ và Đại Cathay.
    Vừa bực tức vừa lo sợ, Huỳnh Tỳ bàn với hai phó tướng là Ngô Văn Cái và Nguyễn Kế Thế tìm cách loại Đại Cathay ra khỏi thế giới giang hồ Sài Gòn. Một buổi tối, Huỳnh Tỳ bày tiệc trên lầu rạp hát Aristo, mời Đại Cathay tới gặp gỡ để thông cảm cho những va chạm đã qua của bọn đàn em.
    Lúc ấy, giới giang hồ Sài Gòn vẫn đánh giá cao trình độ học vấn của Huỳnh Tỳ, so với Đại Cathay không viết nổi tên mình. Thế nhưng, từ sau cuộc đụng độ giữa Huỳnh Tỳ và Đại Cathay, cách nhìn của giới giang hồ đã thay đổi, khi mà kẻ có học lại cư xử khá “vô học”, còn kẻ thất học lại rất “quân tử”.
    Được Huỳnh Tỳ gửi thư mời tới dự tiệc giảng hòa, Đại Cathay không mảy may nghi ngờ, một mình từ quận 4 sang quận 1, vào rạp hát Aristo. Chỉ có sự may mắn và khả năng chịu đựng dao búa mới giúp cho Đại thoát chết. Chưa lên hết cầu thang, Đại cảm thấy chột dạ khi mà nụ cười đón khách của Huỳnh Tỳ có cái gì đó thâm hiểm chứ không đường hoàng, trong sáng của kẻ có học.
    Chưa kịp chào hỏi, Đại bất ngờ bị Nguyễn Kế Thế đá lộn cổ xuống thang lầu. Cùng lúc 4 tên đàn em của Huỳnh Tỳ xông ra chém Đại tới tấp. Vừa đỡ đòn, Đại vừa đánh trả để mở đường máu. Khi lao được ra ngoài đường, mình mẩy máu me đầm đìa, Đại được đàn em cõng chạy về phía chợ cầu Ông Lãnh...
    Khi những vết thương còn chưa kéo da non, Đại Cathay đã một mình lặng lẽ giắt dao đi sang quận 1 để giải quyết ân oán giang hồ. Đàn em đòi đi theo, Đại kiên quyết không cho, vì đây là chuyện cá nhân của Đại, để một mình Đại giải quyết.
    Chính cách cư xử đầy bản lĩnh và anh hùng của Đại Cathay, so với cách đánh lén hèn hạ của Huỳnh Tỳ trước đó, đã làm cho Đại Cathay nổi lên như cồn sau vụ đụng độ này. Không biết bằng cách nào, mà cả Huỳnh Tỳ, Ngô Văn Cái và Nguyễn Kế Thế đều lần lượt nhận đúng 1 nhát dao của Đại vừa đủ để thẹo suốt đời.
    Nhắm thế không thể đối đầu Đại Cathay, mà cũng thấy nhục trong giới giang hồ sau vụ đụng độ đầy tai tiếng này, Huỳnh Tỳ đành bắn tiếng cầu hòa, xin gia nhập vào băng của Đại Cathay. Để rồi sau đó, băng Aristo vĩnh viễn bị xóa sổ, quân tướng của Aristo về qui phục dưới quyền của một đại ca duy nhất là Đại Cathay.
    Cuộc hợp nhất giang hồ vào cuối năm 1964 đã xóa sổ cái tên Aristo, đẻ ra danh xưng “Tứ đại thiên vương” Đại-Tỳ-Cái-Thế, cùng với việc danh tiếng của Đại Cathay càng lừng danh gấp bội khắp Sài Gòn.
    Ân oán giang hồ với Năm Cam
    Huỳnh Tỳ lớn hơn Năm Cam 3 tuổi. Vào đầu thập niên 1960, khi đã nổi danh trong “Tứ đại thiên vương”, Huỳnh Tỳ có thu nhận 1 đàn em tên là Năm Cam, cho làm bảo vệ trong các vũ trường.
    Đàn em Năm Cam không giỏi về đánh đấm nhưng tỏ ra “mưu lược” nên được Huỳnh Tỳ tin dùng. Chính Huỳnh Tỳ đã cứu Năm Cam thoát nạn trong một vụ thanh toán bằng súng ngay trong vũ trường.
    Sau ngày giải phóng, cả Huỳnh Tỳ và Năm Cam đều không từ bỏ “nghề” du đãng, nhiều lần vào tù ra khám. Năm Cam dần dần củng cố thế lực, đến đầu thập niên 1990 trở thành ông trùm của xã hội đen ở TPHCM.
    Huỳnh Tỳ vốn nghiện nặng, thường xuyên đói thuốc, hoàn cảnh gia đình khó khăn khi vợ mất để lại cho 2 đứa con nhỏ dại. Không băng nhóm, không nghề nghiệp, Huỳnh Tỳ phải xoay sang mánh mung cò con như lắc bầu cua, chích dạo ma túy...
    Đầu năm 1992, Huỳnh Tỳ lén lút mở sòng bạc tại một con hẻm trên đường Lê Lai. Biết chuyện, Năm Cam ra lệnh dẹp, vì chỉ có Năm Cam mới có cái quyền mở sòng bạc ở Sài Gòn. Huỳnh Tỳ không nghe, ngay lập tức, sòng bạc này liên tục bị khám xét. Biết là Năm Cam ra tay, Huỳnh Tỳ phải đến mời Năm Cam hùn vốn danh nghĩa, sòng bạc tiếp tục hoạt động. Đến cuối 1992 thì chấm dứt, tên tuổi của Năm Cam bị đưa lên một tờ báo ở Sài Gòn vì những hoạt động bảo kê.
    Cho rằng Năm Cam sắp hết thời, Huỳnh Tỳ không chịu cống nộp tiếp. Đầu năm 1993, sòng bạc của Huỳnh Tỳ bị bắt quả tang, nhiều nhân viên của sòng phải tra tay vào còng. Huỳnh Tỳ may mắn thoát được, bị truy nã. Huỳnh Tỳ phải đến tạ tội với Năm Cam xin nghĩ tới ân tình cũ mà cứu giúp. Năm Cam dang tay đón nhận Huỳnh Tỳ, giao quản lý các sòng bạc khác ở quận 4, quận 8 và Biên Hòa.
    Tháng 9.1995, Năm Cam lại bị báo chí phanh phui. Lần này, Huỳnh Tỳ lại trở mặt không cung phụng cho Năm Cam. Không lâu sau đó, Năm Cam bị bắt đi cải tạo. Khi đi cải tạo về, Năm Cam rất giận Huỳnh Tỳ là người có học mà cư xử “vô học”. Từ đó giữa Năm Cam và Huỳnh Tỳ không còn ân nghĩa anh em gì nữa.
    Bị thất sủng, nhưng đó lại là điều may mắn cho Huỳnh Tỳ. Bởi nếu được Năm Cam tha thứ, thu nạp lại một lần nữa, chắc hẳn sau đó Huỳnh Tỳ không thoát khỏi là bị cáo trong chuyên án “Năm Cam và đồng bọn” gây xôn xao cả nước.




    Nhận xét

    Bài đăng phổ biến từ blog này

    MIỀN TÂY HOANG DẠI

    MUÔN MẶT ĐỜI THƯỜNG III/153

    VẪN THẾ MÀ!