Nguồn: Joseph S. Nye (2007). “Balance of Power and World War I” (Chapter 3), in Joseph S. Nye,
Understanding International Conflicts (New York: Longman), pp. 59-86.
Biên dịch & Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
Cân bằng quyền lực
Người ta thường cho rằng nguyên nhân dẫn đến Chiến tranh thế giới lần
thứ nhất là do vấn đề “cân bằng quyền lực”, một trong những khái niệm
thường xuyên được sử dụng trong chính trị quốc tế, song đồng thời cũng
là một trong những khái niệm gây nhiều tranh cãi. Khái niệm này thường
được sử dụng một cách lỏng lẻo nhằm miêu tả và biện minh đủ loại vấn đề.
Nhà triết học người Anh thế kỷ 18 David Hume đã miêu tả cân bằng quyền
lực như một nguyên tắc cơ bản của chính trị thực dụng, nhưng Richard
Cobden, một người theo chủ nghĩa tự do của Anh vào thế kỷ 19 đã gọi đó
là “một điều không thực tế, không thể miêu tả được và không thể hiểu
được.”
[1]
Còn Woodrow Wilson, tổng thống Mỹ trong Chiến tranh thế giới lần thứ
nhất cho rằng cân bằng quyền lực chính là một nguyên tắc xấu xa
bởi
nó khuyến khích các chính khách coi các quốc gia như những miếng phô
mai được cắt ra từng miếng vì lợi ích chính trị mà không đếm xỉa tới lợi
ích người dân.
Wilson cũng không hứng thú với vấn đề cân bằng quyền lực vì ông tin
rằng đó là nguyên nhân của các cuộc chiến. Phe ủng hộ chính sách cân
bằng quyền lực thì lập luận rằng cân bằng quyền lực tạo ra sự ổn định.
Tuy nhiên hoà bình và ổn định không phải là những khái niệm giống nhau.
Trong hơn năm thế kỷ tồn tại của hệ thống nhà nước Châu Âu, các cường
quốc đã tham gia vào 119 cuộc chiến tranh. Hiếm khi có được hoà bình vì
trong ¾ thời gian đó luôn có ít nhất một cuộc chiến liên quan đến các
cường quốc. Mười trong số các cuộc chiến tranh đó đã diễn ra với quy mô
lớn với sự tham gia của nhiều cường quốc mà người ta vẫn thường gọi là
chiến tranh thế giới hay các cuộc chiến giành bá quyền. Như vậy, nếu
chúng ta đưa ra câu hỏi rằng liệu cân bằng quyền lực có bảo tồn được hoà
bình trong hệ thống các quốc gia hiện đại năm thế kỷ đã qua hay không
thì câu trả lời sẽ là không.
Không có gì đáng ngạc nhiên với câu trả lời trên vì các quốc gia cân
bằng quyền lực nhằm duy trì độc lập chứ không phải duy trì hoà bình. Cân
bằng quyền lực giúp bảo tồn hệ thống vô chính phủ các quốc gia riêng lẻ
chứ không phải bảo tồn từng quốc gia. Ví dụ, vào cuối thế kỷ 18 Ba Lan
đã thực sự bị coi là miếng phô mai và bị chia cắt thành từng mảnh bởi
các quốc gia láng giềng như Áo, Phổ và Nga – mỗi bên đều cố giành lấy
miếng lớn nhất. Gần đây hơn, năm 1939, Stalin và Hitler lại cùng nhau
thỏa thuận cắt đất của Ba Lan một lần nữa và cho các quốc gia vùng
Baltic sáp nhập vào Liên Xô. Vì vậy các nước Litva, Latvia và Estonia đã
trở thành những nước cộng hòa thuộc Liên Xô trong hơn nửa thế kỷ cho
đến tận năm 1991. Cân bằng quyền lực không duy trì được hoà bình và đôi
khi cũng không duy trì được độc lập của mỗi quốc gia nhưng lại giúp duy
trì hệ thống vô chính phủ của các nhà nước.
Quyền lực
Để hiểu được về cân bằng quyền lực chúng ta cần phải bắt đầu từ định
nghĩa về quyền lực. Quyền lực được ví như tình yêu, dễ trải nghiệm qua
nhưng khó có thể đo đếm hay đưa ra định nghĩa chính xác. Quyền lực là
khả năng để đạt tới những mục tiêu, mục đích đã đề ra. Cụ thể hơn, quyền
lực là khả năng tác động đến người khác để đạt được những gì mình mong
muốn. Robert Dahl, một nhà khoa học chính trị tại Đại học Yale, đã định
nghĩa quyền lực là khả năng sai khiến người khác làm những việc mà nếu
không bị sai khiến họ sẽ không làm. Nhưng khi chúng ta xem xét quyền lực
dưới phương diện thay đổi hành vi
của người khác thì chúng ta
cần phải biết những sở thích của họ. Nếu không, chúng ta sẽ tự huyễn
hoặc về quyền lực của mình. Tuy nhiên việc biết trước cách người khác
hay các quốc gia khác hành xử như thế nào nếu không có sự can thiệp của
chúng ta là một điều không hề dễ dàng.
Định nghĩa quyền lực theo hành vi có thể hữu ích đối với các nhà
thống kê và sử gia, những người đã dành nhiều thời gian tái hiện lại quá
khứ, song với các chính khách và nhà lãnh đạo có tư tưởng thực dụng thì
dạng định nghĩa quyền lực này có vẻ không ổn thỏa. Các nhà lãnh đạo
chính trị thường quan niệm rằng khả năng sai khiến, điều khiển người
khác liên quan tới việc sở hữu một số nguồn lực nào đó. Những nguồn lực
này bao gồm: dân số, đất đai, tài nguyên thiên nhiên, quy mô của nền
kinh tế, tiềm lực quân sự và sự ổn định chính trị cùng vô số những yếu
tố khác. Bản chất của định nghĩa này là nhằm khiến cho quyền lực được
xác định một cách cụ thể hơn, có thể đo lường được và dễ đoán biết hơn
là định nghĩa quyền lực theo hành vi. Theo cách hiểu này, quyền lực
nghĩa là việc nắm giữ được nhiều quân bài tốt hơn các đối thủ khác trong
một ván bài xì tố (poker) quốc tế. Nguyên tắc cơ bản của trò xì tố là
nếu đối thủ của bạn để lộ các quân bài đủ sức đánh bại tất cả các quân
bài mà bạn đang có thì đó là lúc bạn nên dừng cuộc chơi. Nói cách khác,
nếu bạn biết chắc nếu xảy ra chiến tranh bạn sẽ nhận phần thua thì bạn
không nên bắt đầu cuộc chiến tranh đó làm gì.
Tuy nhiên, đã có một vài cuộc chiến tranh được khơi mào bởi những kẻ
rốt cuộc bại trận. Điều này cho thấy các nhà lãnh đạo chính trị đôi khi
chấp nhận mạo hiểm hoặc phạm sai lầm. Nhật Bản vào năm 1941 hay Iraq vào
năm 1990 là những ví dụ tiêu biểu. Thông thường, trong cuộc chơi của
chính trường quốc tế, không phải tất cả các đối thủ đều để ‘lộ bài”.
Cũng như trong trò xì tố, hù dọa hay lừa bịp cũng có thể tạo được một sự
khác biệt lớn. Thậm chí ngay cả khi không gian dối thì sai lầm vẫn có
thể xuất hiện trong việc xác định nguồn lực nào là phù hợp nhất trong
những tình huống nhất định. Ví dụ, Anh và Pháp có nhiều xe tăng hơn
Hitler vào năm 1940 nhưng xe tăng của Hitler lại có khả năng tác chiến
cao hơn và quan đội phát xít cũng có những chiến lược quân sự tốt hơn.
Sự chuyển đổi nguồn lực thành quyền lực là vấn đề cơ bản nảy sinh khi
xem xét quyền lực dưới dạng các nguồn lực. Một vài quốc gia sẽ thành
công hơn các quốc gia khác trong việc biến các nguồn lực thành sức mạnh
ảnh hưởng hiệu quả tới hành vi của các quốc gia khác, giống như các tay
bài giỏi có thể giành phần thắng dù được chia những quân bài yếu. Sự
chuyển đổi quyền lực là khả năng biến đổi sức mạnh tiềm năng, được đo
lường bằng các nguồn lực, thành sức mạnh thực tế, được xác định bởi
những thay đổi trong hành vi của người khác. Do vậy, để dự đoán kết quả
của quá trình này một cách chính xác chúng ta cần biết được kỹ năng
chuyển đổi quyền lực của một quốc gia cũng như những nguồn lực mà quốc
gia đó sở hữu.
Một vấn đề khác là việc xác định xem những nguồn lực nào cung cấp nền
tảng tốt nhất cho quyền lực trong các tình huống cụ thể. Nguồn lực luôn
phụ thuộc vào bối cảnh. Xe tăng không thực sự hữu ích ở khu vực đầm
lầy, uranium cũng không phải là một nguồn lực vào thế kỷ 19. Trước kia,
việc đánh giá các nguồn lực dễ dàng hơn. Ví dụ, trong nền kinh tế nông
nghiệp ở Châu Âu thế kỷ 18, dân số là nguồn lực then chốt bởi đó là nền
tảng cho việc thu thuế đồng thời tạo điều kiện tốt cho việc tuyển mộ
binh lính. Xét về dân số, Pháp là quốc gia áp đảo ở Tây Âu. Do vậy, sau
khi cuộc chiến tranh Napoleon (1799-1815) kết thúc, nước Phổ trình lên
các nước đồng minh thắng trận tại Hội nghị Viên một kế hoạch cụ thể phục
vụ tái thiết nước Phổ và nhằm giúp duy trì cân bằng quyền lực. Kế hoạch
của Phổ liệt kê toàn bộ lãnh thổ và dân số mà Phổ đã bị mất từ năm 1805
đồng thời đòi lại số lượng đất đai và dân số tương đương. Thời kỳ trước
khi xuất hiện các quốc gia dân tộc, việc nhiều người dân ở các vùng đó
không nói tiếng Đức hay không tự nhận mình là người Phổ không phải là
điều gì quan trọng lắm. Song trong vòng nửa thế kỷ, chủ nghĩa dân tộc đã
trở thành một vấn đề hệ trọng.
Một sự thay đổi khác về bối cảnh diễn ra vào thế kỷ 19 chính là vai
trò ngày càng quan trọng của công nghiệp và hệ thống đường ray xe lửa
giúp tăng nhanh tốc độ huy động binh sĩ. Trong những năm 1860, nước Đức
của Bismark là nơi tiên phong sử dụng hệ thống đường sắt để di chuyển
quân đội góp phần đẩy nhanh tốc độ giành chiến thắng. Dù nước Nga luôn
có dân số đông hơn tất cả các nước Châu Âu còn lại song Nga vẫn gặp khó
khăn để huy động và di chuyển quân đội. Sự phát triển hệ thống đường sắt
phía tây nước Nga trong những năm đầu thế kỷ 20 là một trong những lý
do khiến người Đức lo sợ một nước Nga đang trỗi dậy vào năm 1914. Hơn
nữa, sự mở rộng hệ thống đường sắt trên khắp lục địa già làm nước Anh
không thể chỉ chăm chút lo cho sức mạnh hải quân được nữa. Những thay
đổi này khiến cho các quốc gia ít có thời gian để đưa quân ngăn chặn một
siêu cường nào đó nhanh chóng thống trị Châu Âu.
Việc áp dụng kỹ thuật công nghiệp vào chiến tranh đã nhanh chóng tạo
ra những ảnh hưởng to lớn. Những tiến bộ của khoa học và công nghệ thực
sự đã tạo ra nguồn sức mạnh ghê gớm, nhất là từ khi vũ khí nguyên tử
chính thức ra đời năm 1945. Thế nhưng sức mạnh của vũ khí nguyên tử đã
trở nên quá đỗi khủng khiếp đến nỗi việc sử dụng chúng trở nên khó khả
thi. Đơn giản là vì chiến tranh hạt nhân quá tốn kém. Thực tế, có rất
nhiều trường hợp mà khi đó bất cứ việc sử dụng vũ lực nào cũng trở nên
không phù hợp hoặc quá tốn kém.
Tuy nhiên, kể cả khi cấm sử dụng vũ lực trong quan hệ giữa một nhóm
các quốc gia thì sức mạnh quân sự vẫn gián tiếp đóng vai trò rất quan
trọng. Ví dụ, khi quân đội Mỹ thực hiện vai trò ngăn chặn các mối đe doạ
đối với các nước đồng minh hoặc bảo đảm việc tiếp cận một số nguồn tài
nguyên quan trọng như dầu lửa ở vùng vịnh Ba Tư chẳng hạn, khả năng cung
cấp các lực lượng bảo vệ có thể được sử dụng như một quân bài trên bàn
đàm phán. Đôi khi mối liên hệ này là rõ ràng và trực tiếp, nhưng thông
thường, như chúng ta sẽ thấy trong Chương 7, đây là một nhân tố không
được đề cập một cách công khai nhưng luôn hiện hữu trong tính toán của
các nhà lãnh đạo chính trị.
Ép buộc các nước khác thay đổi là một phương thức trực tiếp nhằm thực thi quyền lực.
Quyền lực cứng
có thể dựa trên phương thức đe doạ (“cây gậy”) hoặc dụ dỗ (“củ cà
rốt”). Tuy nhiên cũng có cách mềm mỏng hoặc gián tiếp thực thi quyền
lực. Một quốc gia có thể đạt được những mục tiêu của mình trên trường
quốc tế do các quốc gia khác muốn sao chép hoặc chấp thuận cùng sử dụng
một hệ thống nhằm mang lại những mục tiêu như vậy. Theo nghĩa này, việc
thiết lập chương trình nghị sự và lôi kéo các nước khác cùng tham gia
cũng có tầm quan trọng như việc buộc các nước đó thay đổi trong những
tình huống cụ thể. Khía cạnh này của quyền lực, theo nghĩa khiến những
nước khác muốn những gì mình muốn, được gọi là hành vi quyền lực hấp
dẫn, hay
quyền lực mềm. Quyền lực mềm có thể dựa vào những nguồn
lực như sự hấp dẫn của một ý tưởng nào đó, hoặc khả năng thiết lập một
chương trình nghị sự phù hợp với mong muốn của số đông. Cha mẹ có con ở
lứa tuổi thanh thiếu niên biết rằng nếu định hình được lòng tin và sở
thích của con cái thì uy quyền của họ sẽ lớn hơn nhiều so với việc chỉ
đưa ra luật lệ và kiểm soát. Tương tự như vậy, các chính khách và nhà
nghiên cứu theo chủ nghĩa kiến tạo từ lâu đã hiểu rõ thứ quyền lực xuất
phát từ việc thiết lập chương trình nghị sự cuốn hút người khác và việc
quyết định khuôn khổ của một cuộc tranh luận. Khả năng định hình mong
muốn của người khác dường như gắn liền với các nguồn lực vô hình như văn
hóa, hệ tư tưởng và các thể chế.
Quyền lực mềm không tự động trở nên hiệu quả hay hợp đạo đức hơn so
với quyền lực cứng. Sức mạnh trí tuệ không nhất thiết lúc nào cũng tốt
hơn sức mạnh cơ bắp. Các phán xét về đạo đức còn tùy thuộc vào mục đích
sử dụng quyền lực của các quốc gia. Ví dụ, trùm khủng bố Osama bin Laden
có trong tay quyền lực mềm theo quan điểm của những đồng đảng đã thực
hiện các cuộc tấn công năm 2001. Quyền lực mềm cũng không hẳn gắn liền
với chủ nghĩa tự do hơn là với chủ nghĩa hiện thực. Quyền lực là khả
năng tác động tới những người khác nhằm đạt được những kết quả mà bạn
muốn bất chấp các nguồn lực mà bạn có là hữu hình hay vô hình. Quyền lực
mềm thường khó nắm bắt, chậm mang lại kết quả và nhiều khi thậm chí vô
tác dụng. Nhưng sẽ nguy hiểm nếu người ta tảng lờ nó. Ví dụ như vào năm
1762, khi Fredererick Đại Đế của nước Phổ sắp sửa bị liên minh Pháp, Áo,
Nga đánh bại, ông đã được cứu sống vì Peter (1728-1762), Sa hoàng mới
của nước Nga, rất thần tượng vương triều Phổ và quyết định thoái lui
khỏi liên minh chống Phổ. Năm 1917, trong mắt người Mỹ, nước Anh có
quyền lực mềm lớn hơn so với nước Đức, và điều đó tác động tới việc nước
Mỹ quyết định tham gia Chiến tranh thế giới lần thứ nhất với tư cách
đồng minh của Anh. Những ví dụ gần đây hơn bao gồm “Bốn quyền Tự do” do
Franklin Roosevelt đề xuất và được Châu Âu ủng hộ trong Chiến tranh thế
giới lần thứ nhất; thanh niên nghe nhạc và tin tức từ Mỹ trên đài Châu
Âu Tự do đằng sau bức mành sắt trong thời kỳ Chiến tranh lạnh; hay khả
năng của Liên minh Châu Âu trong việc thu hút các thành viên mới trong
thời gian gần đây.
BẢNG 3.1 Các cường quốc và những nguồn lực chính
Thời kỳ |
Quốc da dẫn đầu |
Nguồn lực chính |
Thế kỷ 16 |
Tây Ban Nha |
Vàng ròng, thương mại thuộc địa, lính đánh thuê, quan hệ của triều đình |
Thế kỷ 17 |
Hà Lan |
Thương mại, thị trường vốn, hải quân |
Thế kỷ 18 |
Pháp |
Dân số, nông nghiệp, quản lý công, quân đội, văn hóa (quyền lực mềm) |
Thế kỷ 19 |
Anh |
Công nghiệp, hệ thống chính trị vững chắc,
tài chính – tín dụng, hải quân, giá trị tự do (quyền lực mềm), địa thế
đảo (dễ phòng thủ) |
Thế kỷ 20 |
Mỹ |
Quy mô kinh tế, ưu thế khoa học – kỹ thuật,
vị trí địa lý, tiềm lực và liên minh quân sự, các chế độ quốc tế tự do
và văn hóa phổ quát (quyền lực mềm) |
Thế kỷ 21 |
Mỹ |
Ưu thế công nghệ, quy mô kinh tế và quân sự, trung tâm thông tin xuyên quốc gia (quyền lực mềm) |
Quyền lực cứng và quyền lực mềm có liên quan nhưng không phải là một.
Các thành công về vật chất khiến cho văn hóa và hệ tư tưởng trở nên hấp
dẫn hơn, trong khi sự xuống cấp về kinh tế và quân sự dẫn tới sự tự ngờ
vực
và
khủng hoảng bản sắc. Nhưng quyền lực mềm không phụ thuộc hoàn toàn vào
quyền lực cứng (Bảng 3.1). Quyền lực mềm của tòa thánh Vatican không suy
giảm dù quy mô càng ngày càng thu hẹp trong thế kỷ 19. Canađa, Thụy
Điển và Hà Lan ngày nay dường như có nhiều ảnh hưởng hơn so với những
quốc gia cùng sức mạnh kinh tế và quân sự. Liên Xô có quyền lực mềm
tương đối lớn ở Châu Âu thời điểm sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất
nhưng đã hoang phí nguồn sức mạnh này sau khi đưa quân vào Hungary năm
1956 và Tiệp Khắc năm 1968.
Ngày nay, đâu là những yếu tố mang lại nhiều quyền lực nhất? Năm thế
kỷ tồn tại của hệ thống quan hệ quốc tế hiện đại cho thấy những nguồn
lực khác nhau đã đóng những vai trò then chốt trong từng thời kỳ khác
nhau. Nguồn gốc của quyền lực không bao giờ là cố định và nó tiếp tục
thay đổi trong thế giới ngày nay. Hơn nữa, các nguồn lực này biến đổi ở
những khu vực khác nhau trên thế giới. Quyền lực mềm trở nên quan trọng
hơn đối với các xã hội hậu công nghiệp trong kỷ nguyên thông tin khi mà
nền hòa bình dựa trên giá trị dân chủ thắng thế, trong khi quyền lực
cứng thường quan trọng hơn đối với những quốc gia đang trong thời kỳ
công nghiệp hóa hay tiền công nghiệp hóa trên thế giới.
Trong giai đoạn thông tin là nền tảng của kinh tế và sự phụ thuộc lẫn
nhau giữa các quốc gia ngày càng lớn, quyền lực trở nên khó san sẻ hơn,
ít mang tính chất ép buộc hơn và cũng vô hình hơn, như những gì chúng
ta sẽ thấy trong Chương 7 và Chương 8. Các nhà phân tích truyền thống sẽ
dự báo kết cục của các cuộc xung đột chủ yếu dựa vào việc quân đội của
ai giành phần thắng. Ngày nay, trong các cuộc xung đột như cuộc chiến
chống khủng bố xuyên quốc gia, câu chuyện của ai thuyết phục hơn cũng có
vai trò không kém phần quan trọng. Quyền lực cứng là cần thiết để đối
đầu những tên khủng bố đầu sỏ, nhưng quyền lực mềm cũng rất quan trọng
trong việc giành được sự ủng hộ của những người dân vốn nếu không được
tranh thủ sẽ quay sang ủng hộ chủ nghĩa khủng bố.
Sự biến đổi của quyền lực cũng không giống nhau trên khắp thế giới.
Thế kỷ 21 sẽ chứng kiến vai trò ngày càng lớn hơn của quyền lực của
thông tin và các thể chế. Song như cuộc chiến tranh Vùng Vịnh 1991 cho
thấy, sức mạnh quân sự vẫn là yếu tố quan trọng. Quy mô kinh tế, bao gồm
cả quy mô thị trường và mức độ dồi dào về tài nguyên thiên nhiên, vẫn
giữ vai trò quan trọng. Lĩnh vực dịch vụ ngày càng phát triển trong các
nền kinh tế hiện đại, và sự khác biệt giữa lĩnh vực dịch vụ và sản xuất
ngày càng bị xóa nhòa. Thông tin càng ngày càng trở nên dồi dào, và khả
năng tổ chức nhằm có được phản ứng lanh lẹ và mềm dẻo sẽ trở thành một
nguồn lực cốt yếu. Sự liên kết của hệ thống chính trị cũng sẽ giữ vai
trò quan trọng tương tự như việc nuôi dưỡng một nền văn hoá đại chúng
hấp dẫn có thể “xuất khẩu” được ra bên ngoài.
Một vấn đề lớn đối với các chính khách khi nỗ lực đánh giá trạng thái
cân bằng quyền lực là đo lường các nguồn lực thường xuyên thay đổi. Đối
với các nhà phân tích chính trị quốc tế, một khái niệm được sử dụng để
chỉ nhiều đối tượng khác nhau sẽ dễ gây hiểu nhầm. Chúng ta phải cố gắng
tách biệt và làm rõ những nội hàm cơ bản của một khái niệm thường được
sử dụng một cách lỏng lẻo này. Thuật ngữ
cân bằng quyền lực thường liên quan ít nhất tới 3 trường hợp khác nhau.
Cân bằng như một cách phân bổ quyền lực
Đầu tiên,
cân bằng quyền lực có thể được hiểu là bất cứ sự
phân bổ quyền lực nào đó. Nhưng ai là người sở hữu các nguồn lực? Đôi
khi người ta sử dụng thuật ngữ cân bằng quyền lực chỉ để nói về hiện
trạng, sự phân bổ quyền lực hiện tại. Do vậy, vào năm 1980, một số người
Mỹ cho rằng nếu Nicargua trở thành một quốc gia cộng sản thì cân bằng
quyền lực sẽ bị thay đổi. Việc dùng thuật ngữ cân bằng quyền lực theo
cách này không hợp lý. Nếu một quốc gia nhỏ có thay đổi phe phái cũng có
thể tác động ít nhiều đến sự phân bổ quyền lực hiện thời, nhưng đó chỉ
là một thay đổi nhỏ không giúp chúng ta hiểu nhiều về những chuyển biến
lớn và sâu sắc hơn trong nền chính trị thế giới.
Thuật ngữ “cân bằng quyền lực” cũng có thể được dùng để chỉ một tập
hợp các tình huống đặc biệt (và hiếm gặp hơn) mà trong đó quyền lực được
phân bổ một cách đồng đều. Cách sử dụng này gợi nhắc tới một chiếc
thước đo hay một chiếc cân với tỉ lệ chia đều nhau. Phái theo chủ nghĩa
hiện thực lập luận rằng sự ổn định đó xảy ra khi có sự cân bằng, song
nhiều người cho rằng sự ổn định chỉ có được khi có một chủ thế với quyền
lực vượt trội khiến cho các chủ thể khác không dám tấn công chủ thể đó.
Thuyết ổn định nhờ bá quyền cho rằng mất cân bằng quyền lực sẽ
tạo ra hoà bình. Sự hiện diện một cường quốc vượt trội sẽ giúp đảm bảo
ổn định, nhưng khi cường quốc đó bắt đầu suy yếu và xuất hiện những
cường quốc mới trỗi dậy thách thích địa vị bá quyền của cường quốc cũ
thì chiến tranh lại nhiều khả năng xảy ra. Quay lại giải thích của
Thucydides về cuộc chiến tranh Peloponnese chúng ta có thể thấy: sự lớn
mạnh của Athens và những nỗi sợ hãi được gieo rắc ở Sparta phù hợp với
thuyết chuyển giao quyền lực bá quyền mà chúng ta vừa nêu. Như phần sau
của chương này cho thấy, điều tương tự được lặp lại trong Chiến tranh
thế giới lần thứ nhất.
Tuy nhiên, cũng cần thận trọng khi áp dụng những lý thuyết như vậy vì
chúng có xu hướng dự báo xung đột chắc chắn xảy ra. Những năm 1880, Mỹ
đã vượt qua Anh, trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới. Năm 1895 xảy
ra một tranh chấp giữa Anh và Mỹ liên quan đến đường biên giới ở Nam Mỹ,
chiến tranh tưởng chừng đã sắp nổ ra. Lúc đó, Anh là bá quyền cũ, Mỹ là
cường quốc mới nổi, và nguyên nhân xung đột đã hiển hiện, song người ta
không có dịp nghiên cứu cuộc chiến Anh – Mỹ 1895 vì nó không xảy ra
trên thực tế. Thám tử Shelock Holmes đã từng chỉ ra rằng: chúng ta có
thể tìm ra những manh mối quan trọng từ chú chó chưa bao giờ sủa. Trong
trường hợp này, việc chiến tranh không nổ ra buộc chúng ta phải truy tìm
những nguyên nhân khác. Những người theo chủ nghĩa hiện thực cho rằng
sự nổi lên của nước Đức là mối đe doạ cận kề hơn đối với Anh và Anh sẽ
quan tâm hơn đến việc kiềm chế Đức chứ không phải Mỹ. Còn chủ nghĩa tự
do thì giải thích rằng bản chất dân chủ ngày càng tăng của Anh và Mỹ
cũng như sự giao thoa văn hoá gần gũi giữa hai nước khiến chiến tranh
không nổ ra. Tóm lại, kết luận đầu tiên về cân bằng quyền lực theo cách
hiểu đầu tiên này là: những thay đổi trong quá trình phân bổ quyền lực
giữa các cường quốc hàng đầu có thể là một yếu tố quan trọng, song không
phải là yếu tố duy nhất để giải thích nguồn gốc của chiến tranh và bất
ổn.
Cân bằng quyền lực như là một chính sách
Cách sử dụng thứ hai đề cập đến cân bằng quyền lực như một chính sách
giữ cân bằng. Cân bằng quyền lực dự đoán rằng các quốc gia sẽ hành động
nhằm ngăn chặn bất cứ một quốc gia nào nổi lên áp đảo. Dự báo này đã có
nguồn gốc lâu đời. Năm 1848, huân tước Palmerston – thư ký đối ngoại
Anh – đã nói rằng nước Anh không có kẻ thù hay đồng minh vĩnh viễn, Anh
chỉ nghĩ về lợi ích quốc gia của chính mình. Năm 1914, Bộ trưởng ngoại
giao Anh Edward Grey đã không muốn tham chiến, nhưng cuối cùng cũng đã
tham chiến vì ông lo sợ Đức sẽ chiếm được ưu thế ở Châu Âu nhờ kiểm soát
được lục địa này. Năm 1941, khi Hitler xâm lược Liên Xô, thủ tướng Anh
Wilson Churchill đã nói rằng Anh sẽ tạo một sự liên minh với Stalin,
người mà vài năm trước đó ông đã công kích kịch liệt, để chống lại
Hitler. Churchill nói “Nếu Hitler xâm lược Địa ngục,
[2] thì ít nhất tôi cũng nhắc đến Ác quỷ
[3] một cách ưu ái ở Hạ viện này.”
[4] Đây là những ví dụ tốt minh chứng rằng cân bằng quyền lực là một chính sách mà các chính trị gia theo đuổi.
Dự báo những cách hành xử như vậy dựa trên hai giả định cơ bản: (1)
Cấu trúc của chính trị quốc tế là một hệ thống vô chính phủ gồm nhiều
quốc gia, và (2) các quốc gia coi sự độc lập là mục tiêu tối thượng.
Chính sách cân bằng quyền lực không nhất thiết giả định rằng các quốc
gia hành động nhằm tối đa hoá quyền lực. Trong thực tế, một nước có thể
chọn một cách làm khác nếu họ muốn tối đa hoá sức mạnh. Ví dụ, họ có thể
là chọn cách
nhảy tàu (bandwagoning), nghĩa là đi theo bất cứ phe nào được cho là mạnh hơn và cùng chia sẻ thành quả của kẻ chiến thắng. Chiến thuật
nhảy tàu
này thường gặp trong chính trị nội bộ của các quốc gia khi các nhà
chính trị tập trung ủng hộ cho người có nhiều khả năng chiến thắng. Tuy
nhiên, cân bằng quyền lực lại dự đoán rằng, một quốc gia có thể sẽ hợp
tác với bất cứ quốc gia nào được xem là yếu hơn bởi họ sẽ cùng nhau hành
động nhằm ngăn chặn bất cứ một quốc gia nào vươn lên giành thế áp đảo.
Chiến thuật
nhảy tàu trong chính trị quốc tế sẽ mang đến nguy cơ
mất độc lập. Vào năm 1939 và 1940, Mussolini đã liên kết với Hitler để
tấn công nước Pháp với mục đích cùng phân chia chiến lợi phẩm, nhưng rốt
cuộc Ý ngày càng trở lên phụ thuộc vào Đức. Đó là lý do tại sao chính
sách cân bằng quyền lực đề xuất việc liên minh với phe yếu hơn. Cân bằng
quyền lực là chính sách giúp đỡ cho kẻ yếu, bởi nếu giúp đỡ kẻ mạnh thì
kẻ đó sau này có thể quay lại và làm thịt bạn.
Các quốc gia có thể đơn phương cân bằng quyền lực bằng cách phát
triển vũ trang hoặc thiết lập các khối liên minh với các quốc gia khác
mà nguồn lực của họ giúp cân bằng với quốc gia đứng đầu. Đây là một
trong những dự đoán đáng quan tâm và có tác động mạnh trong chính trị
quốc tế. Trung Đông hiện tại là một ví dụ điển hình. Như chúng ta thấy
trong Chương 6, khi Iran và Iraq đi đến chiến tranh trong những năm đầu
thập kỷ 1980, một vài nhà quan sát nghĩ rằng tất cả các nước Ảrập sẽ ủng
hộ Saddam Hussein của Iraq, người đại diện cho Đảng Ba’ath và thế giới
Ảrập, chống lại Giáo chủ Ayatollah Khomeini của Iran, người đại diện cho
nền văn hoá Ba Tư và thiểu số người Shi’ite theo đạo Hồi. Nhưng Syria,
mặc dù có một lãnh tụ tối cao theo đường lối thế tục của Đảng Ba’ath,
lại trở thành đồng minh của Iran. Tại sao? Bởi Syria đã lo ngại về việc
người láng giềng Iraq nổi lên trở thành một cường quốc khu vực. Syria
lựa chọn như vậy là để cân bằng quyền lực với Iraq, bất chấp ý thức hệ
của mình. Những nỗ lực sử dụng hệ tư tưởng để dự báo cách hành xử của
các quốc gia thường là không đúng trong khi những dự báo trái với trực
giác dựa trên cân bằng quyền lực lại thường mang lại câu trả lời đúng.
Tất nhiên, cũng có trường hợp ngoại lệ. Hành vi của con người khó có
thể đoán định chính xác. Con người thường có nhiều sự lựa chọn và họ
không luôn luôn hành động theo như dự đoán. Những tình huống cụ thể sẽ
dẫn đến những cách hành xử cụ thể của con người, nhưng chúng ta không
thể luôn dự đoán chi tiết được. Nếu một ai đó hô lên rằng “Cháy!” trong
giảng đường đông người, chúng ta có thể đoán rằng sinh viên sẽ chạy tứ
tung tìm các nối thoát, nhưng không đoán được là lối thoát nào. Nếu tất
cả cùng chọn một lối thoát thì việc chạy toán loạn có thể ngăn một số
không thoát được ra ngoài. Các lý thuyết trong chính trị quốc tế thường
có rất nhiều ngoại lệ. Mặc dù cân bằng quyền lực theo nghĩa là một chính
sách là một trong những công cụ dự báo chính trị quốc tế mạnh nhất
nhưng kết quả lại khó có thể hoàn hảo.
Tại sao các nước đôi khi lại né tránh cân bằng quyền lực và muốn liên
minh với những nước mạnh hơn là những nước yếu hoặc tọa sơn quan hổ đấu
từ xa, do đó phớt lờ những nguy cơ ảnh hưởng đến nền độc lập của họ?
Một vài quốc gia có thể thấy không còn sự lựa chọn nào khác hoặc tin
rằng họ không thể tác động đến sự cân bằng. Nếu vậy, một quốc gia nhỏ có
thể quyết định buộc phải nằm trong phạm vi ảnh hưởng của một nước mạnh
nhưng hy vọng thái độ trung lập sẽ đem lại cho họ một mức độ tự do hành
động nhất định. Ví dụ, sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai Phần Lan bị
Liên Xô đánh bại và nằm cách xa trung tâm Châu Âu. Người Phần Lan cảm
thấy rằng trung lập sẽ an toàn hơn là cố gắng trở thành một phần trong
chính sách cân bằng quyền lực của Châu Âu. Họ đã nằm trong phạm vi ảnh
hưởng của Liên Xô, và điều tốt nhất họ có thể làm là chấp nhận hi sinh
một phần sự độc lập trong chính sách đối ngoại nhằm được tự chủ lớn hơn
trong các công việc nội bộ của mình.
Một lý do khác giải thích cho việc dự báo dựa trên cân bằng quyền lực
đôi khi sai liên quan đến nhận thức về mối đe doạ. Ví dụ, một sự tính
toán máy móc về những nguồn lực của các quốc gia năm 1917 sẽ dẫn tới
nhận định rằng Mỹ tham gia Chiến tranh thế giới lần thứ nhất với tư cách
là đồng minh với Đức bởi vì Anh, Phá
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét