Nằm
cách trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 70 km về hướng Tây Bắc, Địa
đạo Củ Chi là nơi thu nhỏ trận đồ biến hóa và sáng tạo của quân và dân
Củ Chi trong cuộc kháng chiến lâu dài, ác liệt suốt 30 năm chống kẻ thù
xâm lược, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc.
Với
tầm vóc chiến công của mình, địa đạo Củ Chi đã đi vào lịch sử đấu tranh
anh hùng của nhân dân Việt Nam như một huyền thoại của thế kỷ 20 và trở
thành một địa danh nổi tiếng trên thế giới. Đây là một kỳ quan đánh
giặc độc đáo có một không hai với khoảng 250 km đường hầm tỏa rộng như
mạng nhện trong lòng đất, có các công trình liên hoàn với địa đạo như:
Chiến hào, ụ, ổ chiến đấu, hầm ăn, ngủ, hội họp, sinh hoạt, quân y, kho
cất dấu lương thực, giếng nước, bếp Hoàng Cầm …
Tổng thống Argentina - Cristina Fernández de Kirchner tham quan Địa Đạo Củ Chi
Những
sự tích có thật từ địa đạo đã vượt quá sức tưởng tượng của con người.
Chỉ cần chui xuống một đoạn đường hầm, bạn sẽ hiểu vì sao nước Việt Nam
nhỏ bé lại chiến thắng kẻ thù là một nước lớn và giàu có bậc nhất thế
giới. Vì sao Củ Chi, mảnh đất nghèo khó lại đương đầu ròng rã suốt 21
năm với một đạo quân đông hơn gấp bội, thiện chiến, được trang bị vũ
khí, phương tiện chiến tranh hiện đại, tối tân. Trong cuộc đọ sức này,
quân và dân Củ Chi đã chiến thắng oanh liệt.
Dựa
vào hệ thống đường ngầm, công sự, chiến hào, chiến sĩ và nhân dân Củ
Chi đã chiến đấu vô cùng anh dũng, lập nên những chiến công thần kỳ.
Quân đội Mỹ lần đầu vào đất Củ Chi gặp phải sự kháng cự quyết liệt từ
các địa đạo trong vùng căn cứ hiểm yếu, đã phải thốt lên: “Làng ngầm”,
“Mật khu nguy hiểm”…
Phòng họp Bộ tư lệnh Quân Khu Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định
LÀNG NGẦM TRONG LÒNG ĐẤT CỦ CHI Xuất xứ của địa đạo
Trong
những năm kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954). Các chiến sĩ
cách mạng ẩn náo dưới những căn hầm bí mật trong vùng địch hậu, được
nhân dân che chở, bảo vệ. Hầm bí mật cấu tạo theo nhiều cách, nhưng chủ
yếu là trong lòng đất, chỉ có một miệng lên xuống vừa lọt vai người và
có lỗ thông hơi để thở. Khi đóng nắp miệng hầm lại, kẻ thù đi trên mặt
đất khó phát hiện được căn hầm.
Người cán bộ sống trong vùng địch, ban ngày náu mình dưới hầm bí mật, ban đêm mới lên khỏi mặt đất, đi hoạt động.
Nhưng hầm bí mật có nhược điểm là khi bị phát hiện, dễ bị địch khống
chế vây bắt hoặc tiêu diệt, bởi địch đông và lợi thế hơn nhiều. Từ đó
người ta nghĩ rằng cần phải kéo dài căn hầm bí mật thành những đường hầm
và trổ lên mặt đất bằng nhiều cửa bí mật để vừa trú ẩn vừa đánh lại
quân địch, và khi cần, sẽ thoát khỏi chỗ nguy hiểm đến một nơi khác.
Từ
đó, địa đạo ra đời mang một ý nghĩa quan trọng đặc biệt trong hoạt động
chiến đấu, công tác đối với cán bộ, chiến sĩ và đồng bào vùng ven Sài
Gòn - Chợ Lớn - Gia Định.
Hầm nghỉ, làm việc của Tư lệnh
Ở
Củ Chi, địa đạo có sớm nhất vào năm 1948 ở hai xã: Tân Phú Trung và
Phước Vĩnh An. Lúc đầu chỉ có những đoạn ngắn cấu trúc đơn giản dùng để
cất giấu tài liệu, vũ khí, trú ém cán bộ hoạt động trong vùng địch hậu.
Về sau lan rộng ra nhiều xã. Từ năm 1961 đến năm 1965 cuộc chiến tranh
du kích của dân nhân ở Củ Chi đã phát triển mạnh, gây cho địch những tổn
thất lớn, góp phần đánh bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ.
Sáu xã phía bắc huyện Củ Chi đã hoàn chỉnh đường địa đạo “xương sống”.
Sau đó, các cơ quan, đơn vị phát triển địa đạo nhánh ăn thông với đường
“xương sống”, thành hệ thống địa đạo liên hoàn.
Lối xuống tầng hai địa đạo
Bước
sang thời kì chống đế quốc Mỹ xâm lược Việt Nam, địa đạo Củ Chi phát
triển mạnh, nhất là đầu năm 1966, khi Mỹ dùng Sư đoàn đoàn bộ binh Số 1
“Anh cả đỏ” thực hiện cuộc hành quân lớn mang tên Crimp, càn quét, đánh
phá vùng căn cứ, và tiếp theo, đưa Sư đoàn 25 “Tia chớp nhiệt đới” đến
lập căn cứ Đồng Dù, liên tiếp mở các cuộc càn quét, đánh phá ác liệt lực
lượng cách mạng nơi đây.
Trước sức tấn công
ác liệt của Mỹ - ngụy bằng cuộc chiến tranh hủy diệt dã man, Khu ủy Sài
Gòn - Chợ Lớn - Gia Định và Huyện ủy Củ Chi đã lãnh đạo nhân dân và lực
lượng võ trang quyết tâm bám trụ chiến đấu, tiêu diệt quân địch bảo vệ
quê hương, bảo vệ vùng căn cứ cách mạng mang tính chiến lược quan trọng,
là hướng tiếp cận và tiến công hiểm yếu đối với thủ đô ngụy Sài Gòn.
Với khẩu hiệu “một tấc không đi, một ly không rời”, bộ đội, dân quân du
kích, cơ quan dân chính đảng cùng với nhân dân ra sức thi đua đào địa
đạo, chiến hào, công sự suốt ngày đêm, bất chấp đạn bom, mưa nắng, tích
cực xây dựng “xã ấp chiến đấu” thiết lập “vành đai diệt Mỹ” thành thế
trận vững chắc bao vây, tiến công tiêu hao, tiêu diệt kẻ thù.
Hầm giải phẩu
Phong
trào đào địa đạo ngày càng phát triển rầm rộ, mạnh mẽ khắp nơi, trẻ
già, trai gái nô nức tham gia kiến tạo đường hầm đánh giặc. Sức mạnh ý
chí của con người đã chiến thắng khó khăn. Chỉ bằng phương tiện dụng cụ
hết sức thô sơ là lưỡi cuốc và chiếc ki xúc đất bằng tre, quân và dân Củ
Chi đã tạo nên công trình đồ sộ với hàng trăm km đường ngầm dọc ngang
trong lòng đất, nối liền các xã ấp với nhau như một “làng ngầm” kỳ diệu.
Chỉ riêng việc chuyển tải hàng vạn mét khối đất đem đi phi tang ở một
nơi khác để giữ bí mật địa đạo, đã là chuyện vô cùng gian khổ, công phu.
Có người hỏi khối lượng đất lớn đó giấu vào đâu cho hết? Xin thưa, có
nhiều cách: đổ xuống vô số những hố bom ngập nước, đắp thành ụ mối, đổ
ra đồng ruộng cày bừa, trồng hoa màu lên trên…chỉ một thời gian là mất
dấu vết. Các gia đình ở khu vực “vành đai”, nhà nào cũng đào hầm, hào
nối liền vào địa đạo, tạo thế liên hoàn để vừa bám trụ sản xuất, vừa
đánh giặc giữ làng. Mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi địa đạo là một
pháo đài đánh giặc.
Khách tham quan địa đạo
Đúng một năm sau cuộc càn Crimp, ngày 08/01/1967, quân Mỹ mở cuộc hành
quân Cedar Falls vào vùng “Tam giác sắt”, nhằm triệt phá căn cứ và tiêu
diệt lực lượng cách mạng. Thời gian này hệ thống địa đạo đã đạt đến độ
dài với tổng số khoảng 250 km. Địa đạo Củ Chi không mang tính thụ động
mà mang tính chủ động chiến đấu kết hợp với trận địa mìn trái dày đặt
trên mặt đất, đã trở thành mối nguy hiểm thường nhật đối với địch trong
suốt cuộc chiến tranh.
Cấu trúc địa đạo
Hệ thống địa đạo chạy ngoắt ngoéo trong lòng đất, từ đường “xương sống”
(đường chính) tỏa ra vô số nhánh dài ngắn, ăn thông với nhau, hoặc độc
lập chấm dứt tùy theo địa hình. Có nhiều nhánh trổ ra sông Sài Gòn, để
khi bị tình thế nguy kịch, có thể vượt qua sông sang vùng căn cứ Bến Cát
(Bình Dương).
Đường hầm không sâu lắm nhưng chống được đạn pháo và
sức nặng của xe tăng, xe bọc thép, những đoạn nằm sâu chống được bom cỡ
nhỏ. Có những đoạn được cấu trúc từ hai đến ba tầng (tầng trên gọi là
“thượng”, tầng dưới gọi là “trầm”). Chỗ lên xuống giữa các tầng, có nắp
hầm bí mật. Trong địa đạo có những nút chặn những điểm cần thiết để ngăn
chặn địch hoặc chất độc hóa học do địch phun vào. Có những đoạn hẹp,
phải thật gọn nhẹ mới chui qua được. Dọc theo đường hầm có lỗ thông hơi
bên trên được ngụy trang kín đáo và trổ lên mặt đất bằng nhiều cửa bí
mật. Vô số cửa được cấu trúc thành ổ chiến đấu, ụ súng bắn tỉa rất linh
hoạt. Đây chính là chỗ bất ngờ với quân địch. Dưới những khúc địa đạo ở
khu vực hiểm yếu, có đặt hầm chông, hố đinh, cạm bẫy…
Chung quanh
cửa hầm lên xuống được bố trí nhiều hầm chông, hố đinh, mìn trái (gọi là
tử địa), có cả mìn lớn chống tăng và mâm phóng bom bi chống máy bay
trực thăng đổ chụp, nhằm tiêu diệt ngăn chặn quân địch tới gần.
Hầm nghỉ ngơi
Liên
hoàn với địa đạo có các hầm rộng để nghỉ ngơi sau khi chiến đấu, mắc
võng được. Có các nơi dự trữ vũ khí, lương thực, thực phẩm, nước uống,
có giếng nước, bếp Hoàng Cầm (bếp giấu khói trong đất), hầm làm việc của
các vị lãnh đạo, chỉ huy, hầm giải phẫu, nuôi dưỡng thương binh, hầm
chữ A vững chắc cho phụ nữ, người già, trẻ em trú ẩn. Có những hầm lớn,
mái lợp thoáng mát, bên trên ngụy trang khéo léo để hội họp, chiếu phim,
biểu diễn văn nghệ…
Vào thời kỳ đánh phá ác
liệt, mọi hoạt động của lực lượng chiến đấu và sinh hoạt của nhân dân
đều “âm” xuống lòng đất. Trong điều kiện gian khổ vẫn cố gắng tạo ra
cuộc sống bình thường, mặc cho trên mặt đất không ngớt bom đạn cày xới,
lửa khói mịt mù…nhưng thực tế ở trong địa đạo hết sức gian khổ, là
chuyện vạn bất đắc dĩ.
Do cần bảo tồn lực
lượng để chiến đấu lâu dài nên phải chấp nhận mọi sự khắc nghiệt vượt
quá sự chịu đựng của con người. Bởi trong lòng đất đen tối, chật hẹp đi
lại rất khó khăn, phần lớn đi khom hoặc bò. Đường hầm có nơi ẩm ướt và
ngột ngạt do thiếu dưỡng khí, ánh sáng (ánh sáng chủ yếu là đèn cầy hoặc
đèn pin). Mỗi khi có người ngất xỉu, phải đưa ra cửa hầm để hô hấp nhân
tạo mới tỉnh lại. Vào mùa mưa, lòng đất phát sinh nhiều thứ côn trùng
độc hại, nhiều nơi có cả rắn rết…Đối với phụ nữ, sinh hoạt càng khó khăn
hơn. Có chị sinh con và nuôi con trong hầm địa đạo phải chịu biết bao
cực khổ.
Đã thế, hàng trăm người lên xuống
hằng ngày qua miệng hầm mà vẫn giữ bí mật cho địa đạo là chuyện hết sức
phức tạp. Một cọng cỏ bị gãy, bị dính đất, một chiếc lá bị rách khác
thường cũng phải sửa sang lại nếu không muốn bị địch phát hiện, tấn
công. CUỘC CHIẾN TỪ TRONG LÒNG ĐẤT
Ngay từ những ngày đầu, khi quân xâm lược Mỹ đổ vào đất Củ Chi, đã vấp
phải sức kháng cự quyết liệt của chiến sĩ và đồng bào nơi đây. Địch bị
thiệt hại về người và phương tiện chiến tranh trong các cuộc càn quét
vùng giải phóng. Sau những bất ngờ, chúng nhận ra được các lực lượng
chiến đấu đều xuất phát từ dưới đường hầm, các công sự và quyết tâm phá
hủy hệ thống địa đạo lợi hại này. Kết hợp với hủy diệt đường hầm, triệt
hạ căn cứ nhằm tiêu diệt và đánh bật lực lượng cách mạng ra xa, tạo vành
đai an toàn để bảo vệ Sài Gòn, trung tâm đầu não guồng máy chiến tranh
Mỹ - ngụy, đồng thời là thủ đô của chính phủ tay sai “Việt Nam Cộng
hòa”.
Suốt trong một thời gian dài, địch liên tục tấn công đánh phá
vùng căn cứ và hệ thống địa đạo hết sức khốc kiệt. Chủ yếu là năm thủ
đoạn sau đây:
1. Dùng nước phá địa đạo:
Trong một cuộc hành quân mang tên Crimp (Cái bẫy), từ ngày 08 tháng 01
đến ngày 19 tháng 01 năm 1966, Mỹ huy động tới 12.000 quân bộ kết hợp
với không quân, xe tăng, báo binh tấn công vùng giải phóng phía bắc Củ
Chi. Địch dùng máy bơm nước vào lòng địa đạo, tưởng rằng đối phương sẽ
bị ngợp nước phải trồi lên mặt đất. Khi phát hiện được miệng hầm ở những
nơi xa sông Sài Gòn, chúng dùng trực thăng cẩu từng sitẹt nước đến dội
vào địa đạo. Với thủ đoạn ấu trĩ này, địch không đạt được ý đồ do không
đủ khả năng làm ngập địa đạo với lượng nước quá ít chỉ đủ thấm vào lòng
đất. Theo tài liệu của địch, chúng chỉ phá hủy được 70m địa đạo, một số
quá ít ỏi so với hệ thống đường hầm hàng trăm km. Ngược lại, trong suốt
cuộc càn, quân Mỹ bị bộ đội, du kích đánh từ mọi phía cả ngày lẫn đêm,
khiến cho 1.600 tên bị thương vong, 77 xe tăng và thiết giáp bị phá hủy,
84 máy bay bị bắn rơi. Đây là tổn thất lớn đối với quân Mỹ trong cuộc
hành quân “Cái bẫy”. Nó chứng tỏ chiến tranh du kích nhân dân có khả
năng đánh bại chiến tranh hiện đại của Mỹ.
Mặc dù bị thất bại, địch
vẫn tiếp tục ý đồ phá hủy địa đạo. Chúng cho một số chuyên gia quân sự
trực tiếp điều tra nghiên cứu hệ thống địa đạo Củ Chi, nhưng không đảm
bảo điều kiện để điều tra kĩ lưỡng, cộng với đầu óc chủ quan, ỷ vào vũ
khí hiện đại, nên không đem lại kết quả; các thủ đoạn tiếp theo, lần
lược bị phá sản và chúng càng chuốc lấy thất bại nặng nề hơn.
2. Dùng đội quân “chuột cống” đánh địa đạo:
Trong cuộc hành quân Cedar Falls mệnh danh là “Bóc vỏ trái đất” mở màn
từ 08/01/1967, địch huy động 30.000 quân được yểm trợ tối đa xe tăng,
thiếp giáp, pháo binh, không quân, đánh phá khốc liệt vào vùng “Tam giác
sắt”, trong đó chúng đã san bằng thị tứ Bến Súc (Bến Cát) và triệt hạ
nặng nề 6 xã phía bắc huyện Củ Chi nằm trên hệ thống địa đạo dày đặc.
Thực hiện cuộc hành quân lớn này, địch có tham vọng tiêu diệt Bộ Chỉ
huy Quân khu Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định, cơ quan lãnh đạo của Khu ủy,
tiêu diệt các đơn vị chủ lực của Quân khu, phá hủy vùng căn cứ và hệ
thống địa đạo, xúc dân đi nơi khác, biến vùng này thành “Khu tự do hủy
diệt”. Trên thực tế, Mỹ - ngụy đã làm thương vong 1000 người dân, gom
15.000 người dân khác vào các “ấp chiến lược”, đốt cháy, ủi phá 6000 căn
nhà, cướp đi 5700 tấn lúa gạo…
Trong cuộc càn, địch sử dụng đội
quân “chuột cống” gồm 600 tên lính công binh được tuyển chọn những tên
“nhỏ người” đặc trách phá hủy địa đạo.
Trước lúc mở cuộc càn quét,
địch dùng “pháo đài bay” B.52 và máy bay phản lực dội bom kết hợp với
pháo binh đánh phá liên tục cả tháng, nhằm “dọn bãi” cho trực thăng đổ
quân và xe tăng, bộ binh tiến công vào vùng căn cứ. Chúng dùng cả bom
Napalm đốt cháy hàng trăm ha rừng, vườn tược. Xe ủi sạch các khu rừng
rồi dồn cây lại, tưới xăng đặc đốt cháy.
Bọn “chuột cống” mỗi tốp 4
tên, 2 tên ở trên, 2 tên chui xuống địa đạo (nơi chúng phát hiện được do
đối phương đã chuyển sang vị trí khác) trang bị mặt nạ phòng độc, súng
tiểu liên cực nhanh, dao găm, cây thuốn sắt, máy thổi lùa chất độc, đèn
pin....Gặp các ngã ba đường hầm, chúng đặt mìn vào đấy, đưa dây điện lên
trên mặt đất rồi “điểm hỏa” cho mìn nổ phá tung địa đạo.
Bằng
phương pháp này, địch phá sập một số đoạn ngắn địa đạo, nhưng không thấm
vào đâu so với hàng trăm km đường hầm chằng chịt nhiều tầng, nhiều ngõ
ngách liên hoàn với nhau.
Thủ đoạn dùng công binh đánh phá địa đạo bị thất bại.
Trong cuộc phá càn này, các lực lượng chiến đấu và nhân dân đã bám trụ
kiên cường, đánh trả quyết liệt, bảo vệ được Bộ Chỉ huy, các đồng chí
lãnh đạo Khu ủy và phần lớn vùng căn cứ. Địch đi tới đâu cũng bị các
chiến sĩ từ các ụ chiến đấu và giao thông hào đánh tới tấp bằng mọi hình
thức, mọi thứ vũ khí. Tại khu ngã ba Bến Dược (khu di tích hiện nay),
chỉ một đội du kích với 9 chiến sĩ, trong đó có 1 nữ y tá, đã bám địa
đạo liên tục nhiều ngày, diệt 107 tên địch, bắn cháy xe tăng của chúng.
Cuộc hành quân Cedar Falls bị tổn thất nặng hơn gấp đôi cuộc càn Crimp
và phải chấm dứt sớm hơn dự tính (chỉ diễn ra có 19 ngày). Những quả
“mìn gạt” do anh hùng Tô Văn Đực sáng chế được sử dụng khắp các trận
địa, đã góp phần tiêu diệt hàng trăm xe cơ giới và nhiều trực thăng, bộ
binh Mỹ, đẩy lùi bước chân tội ác của quân thù.
Tính chung toàn bộ
cuộc càng Cedar Falls, địch tổn thất 3500 tên, 130 xe tăng, xe bọc thép,
28 máy bay. Mục tiêu của Mỹ không đạt được, như Tướng A. Nasen thú nhận
một phần: “Cuộc điều tra cho biết ngay sau khi quân của chúng ta chưa
rút khỏi vùng “Tam giác sắt” thì Việt Cộng đã đột nhập vào từ trước
rồi”. Rốt cuộc Mỹ phải chua chát thú nhận: “…không thể phá hủy được địa
đạo vì nó không những quá sâu mà còn vô cùng ngoắt ngoéo, ít chỗ nào
thẳng…Đánh bằng công binh không hiệu quả…và rất khó tìm cửa hầm để xuống
địa đạo…”.
3. Dùng chó Bẹcgiê đánh phá địa đạo: Trong
các cuộc càn quét, lính Mỹ sử dụng chó Bẹcgiê dẫn đường săn lùng phát
hiện địa đạo. Khoảng 3000 con được huy động vào chiến trường Củ Chi, Bến
Cát. Giống chó này của Tây Đức, đánh hơi người rất giỏi và được huấn
luyện “nghiệp vụ” trước khi sang Việt Nam.
Thủ đoạn dùng quân khuyển
gây khó khăn nguy hiểm cho bộ đội và du kích, vì hơi người bốc lên các
lỗ thông hơi và miệng hầm khiến chó rất dễ tìm ra. Thời gian đầu, du
kích bắn chết chó, làm địch phát hiện, tập trung đánh phá. Về sau, các
chiến sĩ tán nhuyễn ớt khô trộn với bột tiêu rắc vào các lỗ thông hơi,
nhưng không ổn vì chó hít phải tiêu ớt ho sặc sụa khiến địch phát hiện
được địa đạo. Công việc chóng chó trở nên phức tạp. Các đơn vị phát động
nhân dân hiến kế trừ chó, cuối cùng đã tìm ra cách vô hiệu hóa đội quân
khuyển đông đảo, lợi hại này. Theo tài liệu công bố, trong các chiến
dịch dùng chó đánh địa đạo Củ Chi, 300 con chó bị chết bệnh và bị du
kích bắn chết. Như vậy thủ đoạn dùng chó Bẹcgiê để phát hiện đánh địa
đạo của quân Mỹ bị thất bại.
4. Dùng xe cơ giới ủi phá địa đạo:
Đây là thủ đoạn hết sức ác liệt, chúng huy động hàng trăm xe tăng và xe
cơ giới có mã lực lớn xúc đứt từng khúc địa đạo. Xe ủi tới đâu quân Mỹ
thổi chất độc hóa học vào lòng hầm, đồng thời dùng loa phóng thanh kêu
gọi đối phương ra hàng. Có trường hợp hi hữu, chúng xúc nguyên cả căn
hầm bí mật hất lên mặt đất mà không biết bên trong có người trú ẩn. Đến
tối, người chiến sĩ trong hầm bí mật thoát ra…
Trong những ngày này,
mặc cho quân Mỹ phối hợp với các binh chủng tấn công dữ dội, các lực
lượng cách mạng vẫn trụ trong đường hầm, sinh hoạt chiến đấu, tiêu hao
nhiều binh hỏa lực của chúng.
Không đạt được kết quả như mong muốn,
địch phải bỏ chiến thuật này, bởi vì không thể nào đủ khả năng ủi phá
hết địa đạo trong điều kiện bị bộ đội và du kích đánh trả cả ngày lẫn
đêm.
5. Gieo cỏ phá địa hình:Địch còn dùng nhiều thủ đoạn phá đường hầm và căn cứ, nhưng đáng kể nhất là thủ đoạn gieo cỏ phá địa hình.
Chúng dùng máy bay rải xuống một giống cỏ kỳ lạ, nhân dân Củ Chi quen
gọi là “cỏ Mỹ”. Loại cỏ này gieo xuống, gặp mưa phát triển nhanh không
tưởng, chỉ một tháng sau đã cao tới 2 - 3 mét, thân to bằng chiếc đũa và
sắc. Các cây cỏ khác bị chúng lấn át không lên nổi. Cỏ Mỹ mọc thành
rừng gây khó khăn cho việc đi lại, cơ động chiến đấu, nhưng lại rất dễ
cho địch phát hiện mục tiêu từ trên máy bay, để bắn phá.
Đến
mùa khô, cỏ Mỹ úa vàng rồi khô hết như rơm. Máy bay phóng hỏa tiễn hoặc
ném bom, bắn pháo khiến rừng cỏ khô rừng rực bốc cháy, đất trơ ra, các
bãi mìn của du kích bị phát nổ, hầm chông bị cháy…Các đơn vị, cơ quan
không còn địa hình để ẩn náu, lúc đi để lại dấu chân trên lớp tro than.
Địch theo dấu vết vào tận cửa hầm để đánh phá. Tuy nhiên, thủ đoạn gieo
cỏ phá địa hình cùng chịu chung số phận với các thủ đoạn nêu trên. Bởi
vì màu xanh bất tử của ruộng vườn Việt Nam vẫn vượt lên bao trùm các
vùng căn cứ. Các lực lượng cách mạng vẫn bám vào lòng đất Củ Chi. Và từ
hệ thống địa đạo, lại xông lên hợp lực với nhân dân đồng loạt tấn công
vào hang ổ kẻ thù tại Sài Gòn trong mùa Xuân năm 1968, đánh chiếm hầu
hết các mục tiêu trọng yếu của Mỹ - ngụy như Dinh Độc Lập, Đại Sứ quán
Mỹ, Đài phát thanh, Bộ Tổng Tham mưu, Bộ Tư lệnh Hải quân ngụy, sân bay
Tân Sơn Nhất…
Từ sau cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân,
hình thái chiến trường có nhiều thay đổi. Địch thực hiện chiến thuật
“quét và giữ”, liên tục mở các cuộc hành quân phản kích ác liệt càn quét
đánh phá vùng giải phóng Củ Chi, hòng đánh bật lực lượng cách mạng ra
xa, tạo vành đai an toàn bảo vệ Sài Gòn. Địa đạo được cũng cố và phát
triển tạo thế bám trụ vững vàng cho các lực lượng áp sát vùng ven đô,
giữ vững địa bàn, lập thế trận mới chuẩn bị cho thời cơ giải phóng Sài
Gòn sau này.
Cho tới mùa Xuân 1975, nhiều cánh quân lớn của Quân
đoàn 3 và nhiều đơn vị chủ lực, địa phương tập kết từ đây tiến vào giải
phóng thị trấn Củ Chi và dinh lũy cuối cùng của địch tại Sài Gòn, kết
thúc toàn thắng cuộc kháng chiến chống Mỹ, vào lúc 11 giờ ngày
30/4/1975.
CUỘC CHIẾN VÀ TỔN THẤT
Bằng cuộc chiến tranh dân nhân vô cùng phong phú và sáng tạo, qua hai
mươi mốt năm chiến đấu kiên cường, quân và dân Củ Chi đánh 4.269 trận
lớn nhỏ, thu 8.581 súng các loại, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 22.582
tên địch (có hơn 10.000 tên Mỹ, 710 tên bị bắt), phá hủy trên 5.168 xe
quân sự (phần lớn là xe tăng và xe bọc thép); bắn rơi và đánh hỏng 256
máy bay (chủ yếu là trực thăng), bắn chìm và cháy 22 tàu xuồng chiến
đấu, phá hủy và bức rút 270 lượt đồn bót.
Được Mặt Trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tặng danh hiệu: CỦ CHI ĐẤT THÉP THÀNH ĐỒNG.
Được Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam hai lần tuyên dương danh hiệu: ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN.
Tính đến nay, toàn huyện Củ Chi được tuyên dương: 19 xã Anh hùng, 39
Anh hùng LLVT nhân dân, 1277 bà mẹ Việt nam Anh hùng, 1800 người được
phong dũng sĩ. Được tặng thưởng hai Huân chương Thành đồng Tổ quốc và
trên 500 Huân chương Quân công, Chiến công các hạng cho các tập thể và
cá nhân.
Lập nên những chiến tích vinh quang, Củ Chi đã chịu nhiều
hy sinh to lớn: Sơ bộ thống kê trong toàn huyện đã phải chịu: 50.454
trận càn quét; có 10.101 dân thường bị chết; trên 10.000 cán bộ, chiến
sĩ đã hy sinh cho sự nghiệp giải phóng quê hương; có 28.421 nóc nhà bị
cháy; 20.000 ha ruộng rẫy và rừng bị phá…
Chiến
tranh đã để lại hậu quả nặng nề đối với Củ Chi, nhất là những mất mát
đau thương về người và tình trạng đói nghèo trong nhiều năm sau ngày
giải phóng.
Ngày nay, những “Vùng Trắng” đã hồi sinh mãnh liệt. Trên
sống lưng Địa đạo năm xưa là ruộng đồng xanh tươi và những xóm làng sầm
uất đông vui. Những công trình phục vụ đời sống dân sinh đang mọc lên
khỏa lấp những thương tích chiến tranh.
Củ Chi đang đổi mới, đi lên
Chủ nghĩa xã hội, với cơ cấu nông nghiệp vững chắc, là một trong những
vùng lúa, thực phẩm trọng điểm của Thành phố Hồ Chí Minh, đồng thời là
pháo đài quân sự bảo vệ vững chắc Thành phố ở vùng cửa ngõ phía Tây bắc.
ĐỊA ĐẠO CỦ CHI: ĐIỂM HẸN TRUYỀN THỐNG CỦA MỌI THẾ HỆ VÀ NIỀM KÍNH PHỤC CỦA BẠN BÈ THẾ GIỚI
Với giá trị và tầm vóc chiến công được đúc kết bằng xương máu, công sức
của hàng vạn chiến sĩ, đồng bào, khu căn cứ địa đạo Củ Chi đã được Bộ
Văn hóa công nhận là Di tích Lịch sử Văn hóa quốc gia.
Địa đạo Củ
Chi nhanh chóng thu hút sự chú ý của mọi người. Khách trong nước, ngoài
nước tới tham quan, tìm hiểu ngày càng đông. Địa đạo Củ Chi trở thành
điểm hẹn truyền thống của các thế hệ Việt Nam và niềm kính phục của bạn
bè thế giới.
Từ ngày hòa bình trở lại, đã có hàng chục ngàn đoàn du
khách với hàng triệu người đủ màu da, sắc tộc trên thế giới đến viếng
thăm địa đạo Củ Chi. Từ các vị Tổng Bí thư Đảng Cộng Sản, Nguyên thủ
Quốc gia, đến các chính khách, tướng lĩnh, nhà khoa học, triết học, nhà
văn, nhà báo, cựu chiến binh Mỹ...đã đặt chân xuống địa đạo với tất cả
niềm xúc động và kính phục đối với vùng đất anh hùng. Một chính khách ở
Cộng hòa Liên Bang Đức đã phát biểu: “Đã nhiều năm tôi nghi ngờ về cuộc
chiến đấu của nhân dân Việt Nam. Làm sao một nước nhỏ và nghèo lại có
thể đánh thắng một nước lớn và giàu có như nước Mỹ. Nhưng khi tới đây,
chui qua 70m đường hầm, tôi đã tự trả lời được câu hỏi đó”.
Hiện nay, Địa đạo Củ Chi được bảo tồn ở hai địa điểm:
- Địa đạo Bến Dược (căn cứ Khu ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu Sài Gòn – Chợ
Lớn – Gia Định) tại ấp Phú Hiệp, xã Phú Mỹ Hưng, huyện Củ Chi, Thành phố
Hồ Chí Minh, được Bộ Văn hóa công nhận Di tích Lịch sử Văn hóa quốc gia
theo Quyết định số 54/VHQĐ ngày 29 tháng 4 năm 1979.
- Địa đạo Bến
Đình (căn cứ Huyện ủy Củ Chi) tại ấp Bến Đình, xã Nhuận Đức, huyện Củ
Chi, Thành phố Hồ Chí Minh, được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận Di
tích lịch sử quốc gia theo Quyết định số 101/2004/QĐ-BVHTT ngày 15 tháng
12 năm 2004.
Địa đạo Củ Chi sau 40 năm thống nhất
11:47 24/04/2015
Hệ thống địa đạo dài hơn 200 km, chống được bom hạng nặng là một kỳ tích
của quân dân vùng đất thép Củ Chi. Sau hơn 40 năm, nơi đây trở thành
địa danh lịch sử thu hút du khách.
Cách trung tâm TP HCM khoảng 70 km về hướng
Tây Bắc, địa đạo Củ Chi vừa là căn cứ địa vững chắc của Khu ủy Quân
khu, Bộ tư lệnh Sài Gòn - Gia Định vừa là thế trận biến hóa, góp phần
không nhỏ vào công cuộc thống nhất đất nước. Di tích hiện được bảo tồn ở
hai khu vực Bến Dược và Bến Đình.
Nằm trong hệ thống, địa đạo Bến Dược là căn
cứ của khu ủy quân khu, Bộ tư lệnh Sài Gòn - Gia Định được xếp hạng di
tích cấp quốc gia năm 1979. Đây là một công trình kiến trúc độc đáo với
hệ thống đường hầm nằm sâu dưới lòng đất, có nhiều tầng, ngõ ngách như
mạng nhện, dài hơn 200 km. Các tầng có hầm ở và làm việc của lãnh đạo,
hầm y tế, ăn uống, chứa lương thực và vũ khí, ổ chiến đấu, giếng nước,
bếp, công binh xưởng, nhà may quân trang...
Mô phỏng hệ thống và hoạt động của địa đạo Củ Chi. Ảnh: Tech.edu.
Để đào được hệ thống địa đạo Củ Chi hoàn
chỉnh là công sức hơn 20 năm của nhiều thế hệ. Mỗi tổ đào hầm có từ 3
đến 4 người. Một người đào và một người kéo đất từ trong hầm ra và đem
đi đổ. Hệ thống này được xây dựng từ cuối những năm 1940 và được Mặt
trận Dân tộc Giải phóng miền Nam sử dụng trong dịp Tết Mậu Thân 1968.
Địa đạo đào trên một khu vực đất sét pha đá ong nên có độ bền cao, ít bị
sụt lở. Hệ thống địa đạo nằm sâu dưới lòng đất, có thể chịu được sức
công phá từ các loại bom tấn lớn nhất của quân đội Mỹ.
Địa đạo thể hiện sự kiên cường, trí thông
minh, niềm tự hào của người dân Củ Chi. Quân đội Mỹ và Việt Nam Cộng hòa
mở rất nhiều cuộc ném bom, càn quét quy mô lớn, kéo dài nhiều năm nhưng
đều gặp phải sự kháng cự quyết liệt từ vùng căn cứ hiểm yếu này. Lính
Mỹ sau đó cũng phải khiếp sợ bởi Củ Chi trở thành vùng đất chết cho lính
thủy đánh bộ Mỹ và các thiết đoàn Sài Gòn.
Đường lên xuống giữa các tầng hầm được bố
trí bằng các nắp hầm bí mật. Thiết kế cửa hầm địa đạo kiểu nhỏ và hẹp
này chỉ phù hợp với người Việt Nam. Lính Mỹ có vóc dáng cao to xuống
thường gặp rất nhiều khó khăn. Hệ thống này có đầy đủ các phòng chức
năng từ phòng chỉ huy, phòng nghỉ ngơi, kho vũ khí, bệnh xá...
Hệ thống địa đạo gồm 3 tầng, từ đường xương
sống tỏa ra nhánh dài, nhánh ngắn ăn thông nhau, có nhánh trổ ra tận
sông Sài Gòn. Tầng 1 cách mặt đất 3 m, chống được đạn pháo và sức nặng
của xe tăng, xe bọc thép. Tầng 2 cách mặt đất 5 m, có thể chống được bom
cỡ nhỏ, còn tầng dưới cùng cách mặt đất 8-10 m hết sức an toàn, các
loại bom lớn cũng không thể với tới. Các đường hầm ngầm sâu dưới đất có
chiều cao chỉ đủ cho một người đi lom khom. Quân đội Mỹ và Việt Nam Cộng
hòa liên tục tấn công vào hệ thống địa đạo bằng đủ phương tiện: bom,
bơm nước vào địa đạo, hơi ngạt... nhưng do hệ thống được thiết kế có thể
cô lập từng phần nên bị hư hại không nhiều.
Không khí được lấy vào địa đạo thông qua
các lỗ thông hơi. Dọc theo đó, cứ khoảng 10 - 15 m đều có khoét những lỗ
thông hơi và thông gió bí mật lên trên mặt đất, trông giống như ụ mối
đùn. Một phần những cửa thông gió bí mật được các chiến sĩ sử dụng như
hỏa điểm bí mật để tấn công. Nhiều trường hợp lính Mỹ phát hiện ra địa
đạo nhờ sử dụng chó săn. Các chiến sĩ du kích Củ Chi thông minh và khéo
léo đối phó lại bằng cách sử dụng quần áo, xà phòng Mỹ hay hạt tiêu xay
nhỏ đặt ở cửa hầm và cửa thông gió để vô hiệu hóa khứu giác của chó.
Một sáng kiến của quân dân Củ Chi trong
việc giấu khói của bếp Hoàng Cầm là làm hệ thống nhiều ống thông khói
giúp tỏa ra lượng khói rất ít và lẫn vào bụi cây, lá rừng.
Trên mặt đất và trong địa đạo còn có rất
nhiều ụ chiến đấu, bãi mìn, hố đinh, hầm chông, bẫy... được bố trí thành
các cụm liên hoàn tạo ra trận địa vững chắc trong thế trận chiến tranh
du kích, gọi là xã chiến đấu. Trong ảnh: cạm bẫy Việt Nam bằng những vũ
khí thô sơ là những hầm chông gây ra nỗi khiếp đảm kinh hoàng với lính
Mỹ và quân đội Việt Nam Cộng hòa.
Một du khách người Mỹ ngạc nhiên trước sự
tinh vi, kỳ công của hệ thống địa đạo ở Củ Chi. Hệ thống địa đạo này là
một trong những đường hầm vĩ đại nhất thế giới do con người xây dựng do
kênh truyền hình National Geographic bầu chọn.
Bên cạnh đó, quân dân địa đạo còn chế ra các loại vũ khí đơn giản để giăng bẫy khắp mọi nơi nhằm tiêu diệt địch.
Công binh xưởng, nơi lấy thuốc nổ, mảnh bom để chế tạo các loại vũ khí.
Mô hình một hầm cứu thương dưới địa đạo tại khu di tích.
Hầm nhà may quân trang, quân dụng.
Hàng ngày, đông nhất là vào các ngày cuối
tuần và ngày lễ, di tích Địa đạo Củ Chi đón rất nhiều khách trong và
ngoài nước tới tham quan, tìm hiểu về cuộc chiến đấu trường kỳ, gian khổ
nhưng đầy vẻ vang của quân dân Củ Chi nói riêng và của dân tộc Việt Nam
nói chung.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét