CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ 2 - phần 6/6" địa ngục" (1944-1945)
Giải mật cuộc chiến điệp viên trong thế chiến thứ hai
Tháng 6/1941, cơ quan Tình báo Quân sự
Trung ương của Liên Xô đã tuyển dụng được 914 người ở nước ngoài, 316
trong số đó làm cộng tác viên với các mạng lưới điệp viên hợp pháp, còn
598 người là hoạt động bất hợp pháp.
Chiến sĩ Hồng quân Liên Xô báo cáo kết quả trinh sát tại mặt trận năm 1941. Ảnh: Corbis.
Kể từ khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, đã
có nhiều tài liệu về cuộc chiến khốc liệt này được giải mật và công bố.
Một trong số đó là bộ phim tài liệu Bão táp Xô-viết (Soviet Storm),
được công chiếu trên truyền hình Nga năm 2011. Không chỉ mô tả chân thực
chặng đường dài của quân và dân Liên Xô trong cuộc đấu tranh chống chủ
nghĩa phát-xít, bộ phim còn có một tập mô tả kỹ lưỡng một thế hệ điệp
viên Xô-viết dũng cảm và mưu trí -những người đã góp công không nhỏ vào
chiến thắng của “Cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại”. Kỳ 1: Vạn sự khởi đầu nan
Khi An-đóp Hít-le (Adolf Hitler) xua quân xâm lược Liên Xô vào tháng
6/1941, mạng lưới điệp viên Xô-viết ít nhiều bị xáo trộn. Thực tế cho
thấy, phát-xít Đức đã có bước khởi đầu lấn lướt hơn trên mặt trận tình
báo. Tuy nhiên, lực lượng tình báo Liên Xô đã nhanh chóng phản công. Chiếc va-li của Tùy viên hải quân Liên Xô
Ngày 21/6/1941, một đoàn tàu tốc hành từ Béc-lin cập ga Belorussia ở
Mát-xcơ-va. Trên tàu có Mi-khai-in Vô-rôn-xốp (Mikhail Vorontsov), Tùy
viên hải quân của Đại sứ quán Liên Xô ở Béc-lin, với một chiếc va-li cột
chặt vào tay. Hai ngày trước đó, M.Vô-rôn-xốp nhận được điện tín khẩn
lệnh cho anh phải trở về Mát-xcơ-va ngay lập tức. Một toán hộ tống đón
anh trên sân ga, gồm một cán bộ của Bộ Dân ủy nội vụ đi cùng hai sĩ quan
an ninh.
Bên ngoài sân ga, một chiếc ô tô đang đợi sẵn. M. Vô-rôn-xốp nhanh
chóng được đưa vào ghế sau ngồi giữa hai sĩ quan an ninh. Đó cũng là lần
đầu tiên M. Vô-rôn-xốp được thư giãn kể từ khi rời Béc-lin. Chiếc va-li
của anh giờ cũng đã thuộc trách nhiệm quản lý của người khác.
Sau khi tốt nghiệp Học viện Hải quân, M. Vô-rôn-xốp được điều động về
vùng Viễn Đông và tại đó anh phát triển lên làm Phó tham mưu trưởng Hạm
đội Thái Bình Dương. Năm 1939, anh được điều chuyển tới Béc-lin làm Tùy
viên hải quân Liên Xô.
Chiếc xe dừng lại bên ngoài lối vào Điện Crem-li. 10 phút sau,
M.Vô-rôn-xốp bước vào văn phòng của nhà lãnh đạo Xta-lin (Stalin). Trong
số các tài liệu anh đem về từ Béc-lin, có bản sao một điện tín mà anh
được Tùy viên hải quân Thụy Điển tại Béc-lin đưa cho. Điện tín có nội
dung: “Đề nghị chính thức của Béc-lin đề cập tới tuyến di chuyển của tàu
chiến và máy bay Thụy Điển ở biển Ban-tích sau ngày 22/61941, để tránh
va chạm trong trường hợp có chiến tranh với Liên Xô”.
Thời đó, công tác tình báo nước ngoài của Liên Xô được thực hiện bởi
mạng lưới các điệp viên nằm vùng. Hoạt động tình báo Xô-viết được tiến
hành cả kênh hợp pháp thông qua các điệp viên có hộ chiếu Xô-viết, làm
nhiệm vụ "kép" tại các cơ quan đại diện của Liên Xô ở nước ngoài với vỏ
bọc là một quan chức ngoại giao, lái xe hay chuyên viên kỹ thuật, lẫn
bất hợp pháp qua các điệp viên dùng giấy tờ giả.
Mỗi thành viên của một mạng lưới điệp viên nằm vùng đều có nhiệm vụ
riêng biệt. Một điệp viên chuyên tuyển dụng và điều hành các điệp viên
địa phương, một điệp viên khác chịu trách nhiệm về điện đài, một người
nữa làm liên lạc viên chuyển tài liệu và một người điều phối toàn bộ các
hoạt động của nhóm.
Sau khi Hít-le lên nắm quyền ở Đức, Liên bang Xô-viết đã thấy rõ
quốc gia nào là mối đe dọa lớn nhất với mình. Do đó, nhiều điệp viên
Xô-viết được đưa vào Đức để thu thập thông tin về tiềm năng quân sự và
mưu đồ của phát-xít Đức. Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra năm
1939, số mạng lưới điệp viên nằm vùng của Liên Xô ở Đức tăng tới 50%.
Những mạng lưới tương tự cũng hoạt động ở Bỉ, Anh, Hà Lan, Thụy Sĩ,
Pháp, Nhật, Bun-ga-ri và Nam Tư.
Tháng 6/1941, cơ quan Tình báo Quân sự Trung ương của Liên Xô đã
tuyển dụng được 914 người ở nước ngoài, 316 trong số đó làm cộng tác
viên với các mạng lưới điệp viên hợp pháp, còn 598 người là hoạt động
bất hợp pháp. Thậm chí, ngay cả nhà lãnh đạo Xta-lin cũng chỉ biết phần
lớn những người này qua mật danh. Bản thân ông cũng có quá đủ kinh
nghiệm về hoạt động bí mật để hiểu rằng, tên của một điệp viên bị đề cập
càng nhiều lần thì anh ta càng gặp nhiều nguy hiểm. Mất liên lạc
Kể từ mùa thu năm 1940, ngày càng có nhiều báo cáo cảnh báo về việc
phát-xít Đức tập trung quân dọc biên giới với Liên Xô. Tình báo quân sự
Xô-viết nỗ lực tìm câu trả lời cho câu hỏi: Liệu Hít-le có tấn công và
nếu có thì khi nào? Các báo cáo tới tấp cung cấp những thời điểm khác
nhau về cuộc xâm lược Liên Xô của phát-xít Đức. Ban đầu họ cho rằng, nó
sẽ diễn ra vào tháng 3 hay tháng 4/1941. Sau đó có báo cáo nói rằng,
cuộc tấn công được hoãn đến mùa hè và tùy thuộc vào việc nước Anh có đầu
hàng hay không. Rồi lại có tin mới toanh rằng sẽ hoãn đến năm 1942.
Tình hình còn phức tạp thêm bởi trên thực tế, người duy nhất biết chính
xác dự tính của Hít-le chỉ có… chính Hít-le. Ông ta chỉ ký lệnh thông
qua chiến dịch Barbarossa xâm lược Liên Xô ngày 10/6/1941, 12 ngày trước
giờ thực hiện. Đến ngày 18/6, Mát-xcơ-va mới bắt đầu nhận được báo cáo
từ điệp viên K: “Các đơn vị lục quân Đức đang chuẩn bị chuyện gì đó rất
lớn. Rõ ràng không phải chuyện vài tháng hay vài tuần mà là vài ngày nữa
thôi”.
Nhưng dù có cảnh báo, tình báo Xô-viết vẫn không thể khẳng định chính
xác điều gì, kể cả bức điện tín mà M.Vô-rôn-xốp mang về Mát-xcơ-va.
Chiến dịch Barbarossa đã bắt đầu, nhưng Liên Xô vẫn chưa thực sự chuẩn
bị sẵn sàng.
Trong những ngày đầu của chiến tranh, mọi mạng lưới điệp viên hợp
pháp của Liên Xô tại Đức, các đồng minh của Đức và tại những nước bị phe
Trục chiếm đóng đều bị chấm dứt hoạt động và tất cả nhân viên đại sứ
quán đều bị trục xuất về Liên Xô. Tình báo quân sự Xô-viết mất liên lạc
với các điệp viên ở 11 nước châu Âu. Số điệp viên còn lại không ít,
nhưng nếu không thể liên hệ được với Mát-xcơ-va, xem ra họ chẳng còn hữu
ích là mấy.
Các điệp viên Liên Xô hoạt động ở nước ngoài không có đủ điện đài hay
điện đài viên giỏi. Máy điện đài của họ cũng rất cồng kềnh và thiếu tin
cậy, thậm chí thiếu cả ắc quy. Tầm hoạt động của các điện đài này là
không quá 1000km, tức là tín hiệu chỉ truyền đến được miền Tây Liên Xô
và không đủ mạnh để truyền tới Mát-xcơ-va, chứ đừng nói tới Cui-bi-sép
(Kuibyshev), nơi Tổng hành dinh của Cơ quan tình báo quân sự trung ương
được sơ tán tới.
Hơn nữa, mật mã và bảng mã khóa tình báo Xô-viết sử dụng hồi đầu
chiến tranh rất phức tạp và khó dùng. Ngay cả những tin nhắn đơn giản
nhất cũng phải mất khá nhiều thời gian để mã hóa và giải mã. Tín hiệu
chuyển đi cũng dễ bị đối phương bắt được. Phản gián Đức tuần tiễu khắp
thành phố với thiết bị dò hướng để định vị điện đài. Ngay khi xác định
được nơi đặt điện đài, lực lượng mật vụ sẽ bao vây và xông vào bắt điện
đài viên.
Và thế là phản gián Đức đã khiến các điệp viên Xô-viết gần như không
thể liên lạc trực tiếp với Mát-xcơ-va. Nhưng tình thế đã dần thay đổi
nhờ sự đáp trả kịp thời của tình báo Xô-viết. (Còn tiếp)
Theo Quân Đội Nhân Dân
Những điệp viên huyền thoại của thế chiến
Việc liên lạc trực tiếp với phần lớn số
điệp viên Xô-viết trước chiến tranh chỉ được nối lại vào năm 1945 khi
Hồng quân tiến vào Đông Âu. Một trong những cách liên lạc mang tính đối
phó tạm thời là thông qua những người đưa tin để chuyển đi các thông tin
tối quan trọng.
Điệp viên huyền thoại Ri-chác Xo-gây. Ảnh: historynet.com
Bẻ mã
Nếu như ở thời bình, người đưa tin có thể đi lại khắp châu Âu, thì
trong thời chiến mọi chuyện lại khác hẳn. Họ không chỉ đối mặt với nguy
cơ bị Gestapo (Cơ quan Mật vụ của Đức Quốc xã) bắt giữ, mà còn có thể bị
thiệt mạng bởi "tên bay đạn lạc".
Trong khi đó, tại Trung Quốc và Nhật Bản, các điệp viên Xô-viết vẫn
hoạt động tích cực. Một vài điệp viên nằm vùng bất hợp pháp tiếp tục
hoạt động trong vùng tạm chiến ở Pháp, Bỉ và Hà Lan. Tình báo Xô-viết
cũng vẫn khá hiệu quả ở Mỹ, Anh và các quốc gia trung lập như Thụy Điển
và Thụy Sĩ.
Tháng 7/1941, tức là ba tuần sau khi phát-xít Đức tấn công Liên
Xô, nhìn bên ngoài, kho trữ cá gần bến cảng ở thủ đô Xtốc-khôm (Thụy
Điển) vẫn trông bình thường như những tòa nhà xung quanh. Nhưng bên
trong đó lại chứa đựng một bí mật. Đây là trụ sở của Ban Mã hóa và Giải
mã của Bộ Tổng tham mưu Lực lượng vũ trang Thụy Điển. A-lanh Ni-blát
(Allan Nyblad), một người đưa tin của Bộ Chiến tranh Thụy Điển đang cân
nhắc phải làm gì.
Ông được Bộ Tổng tham mưu tin tưởng giao cho nhiệm vụ chuyển đi
các giấy tờ khẩn cấp và quan trọng nhất. A-lanh Ni-blát là người tuân
thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc và chỉ trao "gói hàng" của mình tận tay
người nhận theo lệnh, điều đó đã gây được ấn tượng mạnh với Bộ trưởng
Chiến tranh Thụy Điển. Tuy nhiên, chính quyền Thụy Điển không biết rằng,
A-lanh Ni-blát làm việc cho tình báo Liên Xô.
Khi ấy, để thuận tiện cho việc đi lại, xe đạp của người đưa tin được
gắn biển số đặc biệt, tức là sẽ không bị cảnh sát địa phương chặn lại.
Một hôm, sau khi nhận được "gói hàng" phải gửi đến Bộ Tổng tham mưu,
A-lanh Ni-blát đạp xe qua một khu nhà kho yên tĩnh rồi đột ngột ngoặt
vào một ngõ vắng vẻ.
Sau khi chắc chắn không bị ai theo dõi, ông tháo biển số xe đặc biệt
ra và thay bằng biển xe thường. Ông đến một ngôi nhà hai tầng rồi bước
vào gặp Xê-mi-ôn Xta-rô-xtin (Semyon Starostin), điệp viên Xô-viết mật
danh “Kent". Vỏ bọc của X.Xta-rô-xtin bao gồm chức danh giám đốc một
công ty tổ chức du lịch tại Thụy Điển, Na Uy và Đan Mạch và trưởng đại
diện hãng hàng không quốc gia Liên Xô Aeroflot. Tháng 11/1941, ông quay
về Liên Xô khi một "chân rết" của ông bị bắt.
Khi tất cả các tài liệu do A-lanh Ni-blát mang đến đã được chụp xong,
X. Xta-rô-xtin bỏ hết giấy tờ vào một phong bì mới. Ông có trong tay
rất nhiều con dấu của các cơ quan Thụy Điển để gửi phong bì đi trót lọt.
Nhờ mạng lưới của điệp viên “Kent”, Mát-xcơ-va nhận được báo cáo hằng
ngày về hoạt động của địch dọc khắp tuyến mặt trận phía Đông do người
Thụy Điển vẫn theo dõi phía phát-xít Đức và đã “bẻ mã” được họ.
Năm 1940, Thụy Điển nghi ngờ phát-xít Đức có kế hoạch xâm lược nước
mình. Xtốc-khôm tìm cách phát hiện trước ý đồ của Hít-le. Chỉ trong vòng
2 tuần cặm cụi với độc bút chì và giấy, Giáo sư toán học người Thụy
Điển A-nơ Bơ-linh (Arne Beurling) đã bẻ được mật mã quân sự và ngoại
giao của phát-xít Đức. Điều này cho phép Thụy Điển giải được các liên
lạc đã mã hóa của phát-xít Đức và với điệp viên "Kent", tất cả những gì
người Thụy Điển biết thì Mát-xcơ-va cũng biết.
Tháng 1/1942, A-lanh Ni-blát bị phía Thụy Điển bắt và bị kết án 12
năm tù khổ sai. Nhưng đến lúc đó, Mát-xcơ-va đã có được thông tin làm
cách nào Thụy Điển bẻ được mật mã của Đức. Đến tháng 6 năm đó, khi Đức
phát hiện ra Thụy Điển đã bẻ được mật mã, phía Liên Xô cũng đã có thể tự
bẻ khóa được hệ mã mới của Đức. Nguồn tin vô giá về toan tính của Nhật Bản
Ngày 18/10/1941, quan hệ Nhật Bản và Liên Xô đang trong trạng thái
"hòa hoãn đầy căng thẳng". Rạng sáng hôm đó, cơ quan phản gián Nhật Bản
mở một chiến dịch vây bắt mạng lưới điệp viên Liên Xô. Một trong những
người bị bắt là Ri-hác Gioóc-gơ (Richard Sorge). Trong khi Ri-hác
Gioóc-gơ bị đưa đi, căn hộ của ông bị lục soát kỹ lưỡng. Tại đây, mật vụ
Nhật tìm thấy những tài liệu buộc tội ông như máy ảnh và một xấp ảnh
chụp tài liệu.
Ri-hác Gioóc-gơ sinh ra tại Đông Nam nước Nga, nhưng ngay từ bé ông
đã cùng gia đình chuyển tới sống ở Đức. Sau khi chiến đấu trong quân đội
Đức trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, Ri-hác Gioóc-gơ trở thành một
người Cộng sản nhiệt thành và đến Mát-xcơ-va. Tại đây, ông được tình báo
quân sự Xô-viết tuyển dụng rồi gửi trở lại Đức dưới vỏ bọc nhà báo và
cảm tình viên Quốc xã. Điều này đã đem lại nhiều thuận lợi cho ông cho
đến tận tháng 10/1941, khi ông bị người Nhật bắt. 3 năm sau đó, Ri-hác
Gioóc-gơ bị treo cổ. Đến năm 1964, ông được truy tặng phần thưởng Nhà
nước cao quý nhất là danh hiệu Anh hùng Liên Xô.
Mạng lưới của Ri-hác Gioóc-gơ bao gồm 32 điệp viên người Nhật Bản, 4
người Đức, 2 người Nam Tư và 1 người Anh, trong đó đáng chú ý có điện
đài viên người Đức Bru-nô Oen-tơ (Bruno Wendt), nhà báo người Nam Tư
Bran-cô Vu-kê-lích (Branko Vukelic) và nhà báo người Nhật Bản Hát-xu-mi
Ô-da-ki (Hatsumi Ozaki), một cố vấn của Thủ tướng Nhật Bản Cô-nô-ê
(Konoe). Một nguồn tin đáng giá khác của mạng lưới là Ơ-gơn Ốt (Eugen
Ott), Đại sứ Đức tại Nhật Bản và là một trong những người “đặt trọn niềm
tin” vào Ri-hác Gioóc-gơ.
Việc Ri-hác Gioóc-gơ bị bắt và nhóm của ông bị phát hiện là tổn thất
nặng đối với tình báo Liên Xô. Ông là một nguồn tin vô giá về các toan
tính của Nhật Bản và Đức tại Viễn Đông. Chiến công lớn nhất của Ri-hác
Gioóc-gơ là xác minh được việc Nhật Bản không có kế hoạch tấn công Liên
Xô trong năm 1941 như ban lãnh đạo Liên Xô lo ngại. Tháng 9/1941, từ
Tô-ki-ô, ông gửi về một điện tín với nội dung: “Theo lời Ô-da-ki
(Ozaki), Bí thư Nội các, Chính phủ Nhật Bản đã quyết định sẽ không có
hành động chống Liên Xô trong năm nay nhưng quân đội vẫn đóng ở Mãn Châu
để có thể tấn công vào mùa Xuân tới nếu Liên Xô bị Đức đánh bại. Sau
ngày 15/9, vùng Viễn Đông của Liên Xô có thể được xem là an toàn, không
bị Nhật tấn công”.
Thông tin vô cùng quan trọng này đến vào lúc quân Đức vừa tung đòn
tấn công tổng lực vào Mát-xcơ-va. Nó cho phép Bộ Tổng tham mưu quân đội
Xô-viết rút nhanh 32 sư đoàn từ Xi-bê-ri (Sibiri) và Viễn Đông về cứu
nguy cho thủ đô Liên Xô. Ngày 5/12/1941, các sư đoàn này dẫn đầu cuộc
tổng phản công đẩy quân Đức lùi xa khỏi cửa ngõ Mát-xcơ-va. Đó là một
chiến thắng quan trọng mang công lớn của Ri-hác Gioóc-gơ.
Theo Quân Đội Nhân Dân
Vụ hành quyết 4 điệp viên Đức trong Chiến tranh Thế giới lần II
07:30 07/09/2016
Trong Chiến tranh Thế giới thứ II, 4 điệp viên Đức Quốc xã đã
xâm nhập vào nước Anh để nghiên cứu thực địa chuẩn bị cho kế hoạch xâm
lược Anh của Hitler. Câu chuyện tình báo xảy ra với 4 người này đã từng
được báo chí nói đến, nhưng một khía cạnh khác của câu chuyện chỉ mới
được biết đến sau khi một số tài liệu, thư tín được Văn phòng lưu trữ
Quốc gia Anh giải mật.
Sáng sớm ngày 3-9-1940, hai chiếc thuyền đánh cá một cột buồm của
Pháp, La Mascotte và Rose du Carmet lượn qua eo biển Manche và áp sát bờ
biển Kent của Anh. Khi thuyền còn cách bờ vài chục mét, 4 thanh niên
trong độ tuổi 20-28 dùng thuyền con lặng lẽ bơi vào bờ.
Bốn người đó là Carl Meier, thành viên đảng Quốc xã, từng sống ở
Birmingham; Charles van den Kieboom, mang hai quốc tịch Đức-Nhật; Sjoerd
Pons, người Hà Lan; và một người tự xưng Jose Waldberg. Bốn người này
là điệp viên mật của cơ quan tình báo quân đội Abwehr của Đức. Nhiệm vụ
của họ khi xâm nhập vào Anh là tiền trạm, nghiên cứu thực địa để chuẩn
bị cho chiến dịch xâm lược Anh của quân đội phát xít Đức. Họ mang theo
thực phẩm khô (thịt bò khô, bánh bột đậu và sô cô la) đủ dùng cho 10
ngày làm nhiệm vụ. Họ cũng mang theo những chiếc máy truyền tin vô tuyến
để liên lạc với chỉ huy ở Đức.
Theo các tài liệu mật, 4 điệp viên Đức này thực hiện một chiến dịch
bí mật mang mật danh Operation Lena nằm trong kế hoạch xâm lược nước Anh
của Hitler. Chiến dịch được đánh giá là rất nguy hiểm, nên các chỉ huy
tình báo phát xít Đức đã chuẩn bị sẵn phương án xấu nhất. Cả 4 điệp viên
tham gia chiến dịch đều bị bắt và bị xử tử theo Luật Phản quốc của Anh.
Luật phản quốc của Anh thời đó được áp dụng để xử lý những kẻ tiếp tay
cho quân đội kẻ thù.
Luật chỉ có duy nhất một hình phạt là tử hình. Luật này được Thủ
tướng Anh Winston Churchill đề xuất và được Quốc hội thông qua vào ngày
23-5-1940. Ông Churchill cho rằng, quân đội Đức chẳng có gì vượt trội,
cả về khí tài lẫn chiến thuật. Vậy phải có một lực lượng ngầm đứng sau
hỗ trợ, đó là các điệp viên. Và ông xác định lực lượng ngầm này đang
hoạt động mạnh ở Anh.
Henri Lassudry, tức Jose Waldberg và Charles van den Kieboom.
Meier bị bắt đầu tiên khi anh ta đi lạc vào làng Lydd và tấp vào một
quán rượu. Người chủ quán tên Mabel Cole nghe giọng người nước ngoài nên
đã cảnh giác. Meier không hề biết ở Anh tất cả mọi người không được
phép mua rượu sau 9 giờ tối.
Cole gọi cảnh sát. Và chỉ trong vài giờ đặt chân lên đất Anh, cả 4
"điệp viên" của Đức đều bị hốt gọn. 4 điệp viên Đức được đưa về giam giữ
tại Trại 020 của cơ quan tình báo đối nội MI-5 ở ngoại ô Tây Nam
London. Ngày 24-10-1940, 4 người bị buộc tội theo Luật Phản quốc. Một
phiên tòa xét xử 4 người được mở tại Old Bailey vào ngày 19-11-1940.
Phiên tòa được xử kín, mọi thông tin về phiên tòa đều phải được giữ bí
mật.
Walberg khiến mọi người ngạc nhiên khi thành khẩn nhận tội. Còn
Meier, Kieboom và Pons đều chối tội. Pons bào chữa việc mình làm gián
điệp cho Abwehr là do bị bắt buộc, bị Abwehr dọa bắt bỏ tù do tội buôn
lậu súng từ Hà Lan sang Đức. Sau phiên tòa kéo dài 4 ngày, bồi thẩm đoàn
nhất trí mức án tử hình đối với Kieboom và Walberg.
Lời bào chữa của Pons đã thuyết phục được tòa và anh ta được tuyên vô
tội, được trả tự do tại tòa. Walberg và Meier được thông báo là sẽ bị
treo cổ tại phố Pentonville vào 9 giờ sáng ngày 10-12; Kieboom bị treo
cổ một tuần sau đó. Tuyệt nhiên báo chí không có lấy một lời nào về vụ
án 4 điệp viên này.
Chiến dịch vây bắt 4 điệp viên Đức, mang mật danh Double Cross, là
một trong những thành tích điển hình của MI-5 thời Chiến tranh Thế giới
lần II. Đây cũng là một phần trong chiến lược phản công quân địch bằng
chính các công cụ của địch. Các điệp viên sau khi bị bắt, bị "thay áo"
sẽ quay ngược lại chống Abwehr, sẽ gửi cho cơ quan tình báo phát xít Đức
những thông tin lẫn lộn vừa thật, vừa giả. Họ sẽ yêu cầu Abwehr gửi
thêm cho họ các sách mật mã và máy vô tuyến, tiền mặt.
Trong một thời gian khá lâu, Abwehr không hề hay biết mình đã tài trợ
cho chính kẻ thù của mình tiến hành chiến dịch chống lại mình. Sự thất
bại thảm hại của Chiến dịch Lena đã khiến một sử gia kết luận rằng chính
thành phần chống phát xít trong hàng ngũ lãnh đạo Abwehr đã phá hoại
chiến dịch. Giới chức lãnh đạo tình báo Anh xem Chiến dịch Double Cross
là một phần hết sức quan trọng của Anh trong chiến tranh. Đó là một
nhiệm vụ lớn, phối hợp giữa tình báo và phản gián.
Tuy nhiên, vào giờ phút chót trước khi bị hành quyết, một trong 3
điệp viên Đức đã kháng cáo. Walberg cho rằng mình không phải tên Jose
Walberg và cũng không phải là người Đức, mà tên thật là Henri Lassudry,
người Bỉ. Lúc đầu MI-5 không tin và gạt sang bên những lời biện bạch này
của Walberg vì cho rằng đó chẳng qua chỉ là lời mạo nhận của một người
sắp bị hành quyết. Tuy nhiên, trong quá trình khảo cung Walberg, tình
báo Anh phát hiện anh ta nói tiếng Đức không rành nhưng lại nói tiếng
Pháp rất sõi, như tiếng mẹ đẻ (người Bỉ không dùng tiếng Đức mà dùng
tiếng Pháp và Hà Lan).
Hơn nữa, khi được phép viết những lá thư cuối cùng cho người thân,
Walberg viết bằng tiếng Pháp và gửi cho cha mẹ là ông bà Lassudry ở
Brussels và bạn gái ở Ixelles, Bỉ. Những lá thư này là bằng chứng bổ
sung cho lời phản cung của Walberg khiến Tòa án Old Bailey ngạc nhiên.
Walberg phản cung rằng chính luật sư của anh ta đã "dụ" anh ta khai nhận
tội mà không nói cho anh ta biết là sẽ bị xử tử hình. Lassudry muốn có
cơ hội để nói với thẩm phán để được tự bào chữa giống như Pons đã làm,
nhưng không được.
Phiên xét hỏi anh ta chỉ diễn ra vỏn vẹn 3 phút. Vài ngày trước vụ
hành quyết, đại tá William Hinchley Cooke, một quan chức cấp cao của
MI-5, đến gặp chánh án Sir Donald Somervell và yêu cầu hoãn hành quyết
đối với Lassudry. Tuy nhiên, câu trả lời là "không", và vụ hành quyết
vẫn được tiến hành. An Tôn (tổng hợp)
(TT&VH) - Sau
nhiều thập kỷ nằm trong vòng bí mật, hàng loạt tài liệu của Cơ quan
Tình báo nội địa Anh (MI5) mới được tiết lộ đã cung cấp những thông tin
hết sức đặc sắc và thú vị về hoạt động của các điệp viên phá hoại phát
xít Đức trong Thế chiến thứ 2. Tập
tài liệu mật được Cơ quan Lưu trữ Quốc gia Anh công bố, bao gồm rất
nhiều biên bản ghi lại các cuộc thẩm vấn của Cơ quan Tình báo nội địa
(MI5) với những điệp viên phá hoại Đức bị quân Đồng Minh bắt giữ.
Những kế hoạch đầu độc tinh vi
Thuốc độc được các điệp viên phá hoại Đức mang theo khi xâm nhập vào lãnh thổ đối phương
Chúng
cho thấy lực lượng an ninh phát xít Đức (RSHA) đã có trong tay một đơn
vị chuyên lên kế hoạch tổ chức các hoạt động phá hoại ngầm ở nhiều quốc
gia Đồng Minh. Các điệp viên thuộc đơn vị này rất chuộng sử dụng chiến
thuật ám sát và đầu độc. Trong một vụ mang tính điển hình, quân Đồng
Minh đã bắt được một nhóm 4 điệp viên Đức, bao gồm một phụ nữ, khi họ
nhảy dù xuống vùng Ayon, gần St. Quentin ở Pháp vào tháng 3/1945, khoảng
2 tháng trước khi chiến tranh kết thúc. Những người này đã bay thẳng từ
Stuttgart qua Pháp trong một chiếc B17 Flying Fortress bị đánh cắp.
Chiếc máy bay đã thả họ vào sau chiến tuyến của quân Đồng Minh, trước
khi bị bắn hạ. Qua
cuộc thẩm vấn, các điệp viên khai rằng họ được cử đi thực hiện các
nhiệm vụ đầu độc và ám sát. Họ mang theo các lọ thủy tinh chứa thuốc
aspirin do công ty Bayer sản xuất, với 1 hoặc 2 viên bị tẩm độc và cái
chết sẽ diễn ra sau chừng 10 phút hoặc hơn nếu ai đó nuốt phải viên
thuốc tẩm độc này. Các điệp viên nói rằng họ sẽ tìm cách tiếp cận mục
tiêu dự định ám sát và mời hút một loại thuốc đặc biệt, khiến nạn nhân
đau đầu. Tiếp đó các điệp viên sẽ lấy thuốc aspirin tẩm độc và mời mục
tiêu uống. Bản thân họ cũng hút thuốc gây đau đầu và uống aspirin, nhưng
là loại không tẩm độc. Anna Marguerite Prelogar, nữ điệp viên nằm trong
nhóm bị bắt khai rằng phương thức ám sát này dành cho các mục tiêu đang
di chuyển trên tàu hỏa.
Ngoài
aspirin tẩm độc, các điệp viên còn được trang bị một loại bột độc có
thể được sử dụng để bôi lên các tay nắm cửa, sách vở và mặt bàn. Bột độc
này làm từ bột thủy tinh trộn lẫn với thuốc độc. Nếu nạn nhân vô tình
chạm vào bột, các mảnh thủy tinh có thể làm da họ bị xước và thuốc độc
theo đó đi sâu vào cơ thể, gây tử vong.
Một
loại bột khác chỉ được các điệp viên trong vai bồi bàn dùng để rắc vào
trong một căn phòng ăn của khách sạn hoặc nhà hàng. Nó có thể khiến
người ta mất mạng nếu chẳng may nuốt phải, nhưng sẽ không làm họ chết
khi tiếp xúc qua đường hô hấp. Ngoài ra còn phải kể tới loại vũ khí đặc
biệt khác là một khối cầu độc hình tròn, đường kính chừng 1mm. Khối cầu
độc này sẽ được đặt vào khay gạt tàn và nhiệt từ thuốc lá hoặc một điếu
xì gà tỏa ra có thể khiến nó bốc hơi độc, giết chết tất cả những người
ngồi xung quanh.
Nhóm
điệp viên còn mô tả về một chiếc bật lửa có một hốc chứa đặc biệt đặt
gần phần bấc, nơi khối độc được thả vào. Nếu ai đó vô tình sử dụng chiếc
bật lửa này, họ sẽ chắc chắn mất mạng.
Cà
phê hiệu “Nescafe”, đường, thuốc lá và sôcôla hiệu “Sarotti” của Đức
cũng được huy động vào cuộc chiến ngầm của phát xít Đức. Các loại đồ ăn
và uống này đều được pha với thuốc độc và một điệp viên đã đặc biệt nhấn
mạnh tới tính hiệu quả của vũ khí sôcôla độc, như thể anh ta đã tự tay
chế ra nó.
Khẩu súng ám sát giấu trong thắt lưng của điệp viên phá hoại Đức bị quân đội Mỹ thu được
Gieo gió gặt bão
MI5
đã rất quan ngại trước lời khai của các điệp viên trên, tới mức họ yêu
cầu phải tìm kiếm mọi loại thực phẩm, thuốc men, bật lửa và thuốc lá
nghi là phương tiện gây độc trên người các điệp viên Đức bị bắt. Lord
Rothschild, người khi đó đang lãnh đạo bộ phận phản gián của MI5 đã thu
được một thanh sôcôla và một hộp Nescafe từ điệp viên Đức và quyết định
đem chúng đi thử nghiệm tìm chất độc. Từ kết của kiểm tra, MI5 khuyến
cáo rằng “việc ăn đồ ăn và hút thuốc lá Đức bị cấm tuyệt đối, ai vi phạm
sẽ chịu sự trừng phạt nặng”.
Một
tài liệu khác đề dấu “mật” và chỉ dành riêng cho phòng phản gián thuộc
Bộ Chỉ huy Tối cao Lực lượng Viễn chinh Đồng Minh nằm ở London có chứa
nội dung nhấn mạnh tới “các phương thức khủng bố” của phát xít Đức. Nó
nói rằng năm 1943, lực lượng đặc vụ Đức Abwehr đã trình lên cấp trên ý
tưởng về một kế hoạch nhằm làm giảm nhuệ khí của lính Mỹ ở Bắc Phi bằng
cách “phân phối rộng rãi chất gây nghiện”. Tuy nhiên, kế hoạch này đã bị
hủy bỏ vì không khả thi.
Một
tài liệu khác của Đức gửi đi tháng 10/1944 có đề dấu “bí mật quốc gia”
và rơi vào tay quân Đồng Minh cho thấy tình báo Đức đã thảo luận về việc
bơm thuốc độc vào các chai rượu whisky, rượu mùi, rượu vang và rượu
schnapp của đối phương. Tài liệu cũng nói tới việc tiêm các liều thuốc
độc mạnh vào nhiều loại thực phẩm khác nhau như xúc xích. Các loại thuốc
độc này sẽ chỉ có tác dụng từ vài giờ hoặc vài ngày sau khi nạn nhân sử
dụng thực phẩm và như thế sẽ vừa tránh không làm lộ các điệp viên phá
hoại, vừa gây nhiều khó khăn và rối loạn cho đối phương.
Ngoài
thuốc độc, các điệp viên phá hoại Đức còn ưa chuộng sử dụng vũ khí ám
sát bí mật. Quân đoàn 20 của Mỹ báo rằng họ đã tìm thấy một khẩu súng ám
sát, được giấu kỹ trong phần mặt khóa của một chiếc thắt lưng bình
thường. Khi điệp viên nhấn một nút bí mật, một khẩu súng 2 nòng bắn đạn
cỡ 22mm sẽ xuất hiện. Điệp viên nhấn thêm nút nữa và khẩu súng sẽ khai
hỏa.
Tuy
nhiên trong khi âm mưu đi đầu độc quân Đồng Minh, người Đức cũng đã nếm
đòn đầu độc từ kẻ khác. Trong một tài liệu của Đức rơi vào tay đối
phương hồi tháng 2/1944 có nói rằng họ đang đối diện với một cuộc chiến
đầu độc, với đối thủ là lực lượng kháng chiến Ba Lan. Phương thức của
các du kích Ba Lan là trộn kem bôi dưỡng da Nivea với chất độc mù tạc và
có vẻ như hoạt động đầu độc này đã diễn ra hết sức hiệu quả.
Tường Linh
Những điệp viên hai mang lừng danh thế giới
Lịch sử tình báo thế giới đã biết đến nhiều điệp viên hai mang lừng danh
như: Mata Hari, Oleg Penkovsky, Kim Philby, Robert Hanssen, Aldrick
Ames...
Nữ điệp viên Mata Hari
1. Humam Khalil Abu Mulal al-Balawi
Vị bác sĩ làm việc cho tình báo Jordan từng thực hiện vụ đánh bom tự sát
khiến 7 điệp viên CIA thiệt mạng là người mới nhất trong số các điệp
viên hai mang nổi tiếng thế giới.
Humam Khalil Abu Mulal al-Balawi. Ảnh: ABC News
Tình báo Jordan thuê bác sĩ al-Balawi, 36 tuổi,
làm việc và cử anh ta đi tìm Ayman al-Zawahiri, phó tướng của trùm khủng
bố Osama bin Laden.
Ngày 30/12/2009, al-Malawi được mời tới căn cứ quân sự của Mỹ ở
Afghanistan để thuyết trình cho các điệp viên cục tình báo Mỹ (CIA) về
mạng lưới khủng bố al-Qaeda.
Giữa cuộc họp, al-Malawi kích hoạt khối thuốc nổ giấu trong áo vest
khiến 7 nhân viên CIA cùng người họ hàng của quốc vương Jordan Abdullah
II thiệt mạng.
Đây là vụ đánh bom tự sát gây thiệt hại về người nhiều nhất đối với CIA
kể từ cuộc chiến chống khủng bố phát động sau sự kiện ngày 11/9/2001.
2. Benedict Arnold
Benedict Arnold. Ảnh: Corbis
Arnold từng là một người hùng trong Cách mạng Mỹ. Ông từng giúp quân đội
nước này đánh thắng quân Anh trong trận chiến Saratoga (1777).
Tuy nhiên, cái tôi và tính hám lợi đã khiến Arnold phản bội lại lợi ích
của dân tộc. Ông ta chiếm lấy West Point, New York, định bán nó cho
người Anh với giá 6.000 bảng, 300 bảng mỗi năm tiền lương hưu và quyền
chỉ huy trong quân đội Anh.
3. Mata Hari hay Margaretha Geetruida Zelle
Mata Hari. Ảnh: Corbis
Hari nổi danh là một vũ nữ đầy khêu gợi những năm 1900. Cô đi khắp châu Âu và cặp kè với một loạt những quý ông quyền lực.
Trong suốt Thế chiến I, cô làm việc và ăn tiền của cả người Đức lẫn
người Pháp. Vụ việc bại lộ, Hari bị Pháp truy tố và xử bắn năm 1917 khi
41 tuổi.
4. Eddie Chapman
Eddie Chapman.Ảnh: Time
Chuyên gia mở két trộm và tống tiền Chapman đang ngồi tù khi người Đức
xâm chiếm quần đảo Channel thuộc Anh trong Thế chiến II. Đức quốc xã
thuê Chapman làm tình báo viên và moi thông tin từ chính quê nhà. Chúng
đưa ông trở về Anh song ông ngay lập tức trình báo nhà chức trách.
Sau một cuộc trò chuyện, cơ quan tình báo MI5 tuyển Chapman làm điệp
viên với biệt danh Zigzag. Họ còn thực hiện một vụ tấn công giả mạo nhằm
vào nhà máy sản xuất máy bay Havilland để hoàn tất nhiệm vụ vủa Chapman
với người Đức.
Sau khi trở lại Đức, Chapman được trao thưởng huy chương, tặng du thuyền
và 100.000 mark. Ông tiếp tục cung cấp thông tin sai lệch cho Đức quốc
xã trong khi thực hiện các sứ mệnh ở Oslo và London.
5. Dusko Popov
Dusko Popov. Ảnh: Time
Tiểu thuyết gia Ian Fleming từng thổ lộ trong hồi ký rằng Popov chính là cảm hứng khiến ông xây dựng nhân vật điệp viên 007.
Trong thời kỳ đầu của Thế chiến II, Popov được Mật vụ Đức tuyển mộ. Ông
nhận lời song ngay lập tức gia nhập quân Anh để chống Đức quốc xã.
Popov lấy thông tin tình báo giả mạo cung cấp cho người Đức trong khi đi khắp châu Âu và Mỹ trong vai một chàng hào hoa.
Năm 1974, ông xuất bản cuốn sách kể lại những trải nghiệm trong thời chiến với tên Spy/Counterspy: The Autobiography of Dusko Popov.
6. Oleg Penkovsky
Penkovsky tại phiên tòa. Ảnh: Time
Vốn là sĩ quan tình báo (đại tá) của Liên Xô, Penkovsky đã tìm cách bán thông tin cho Anh và Mỹ vào năm 1962.
Được đặt mật danh Agent Hero, Penkovsky thông báo chi tiết kho hạt nhân
của Liên Xô cho Mỹ và kế hoạch triển khai tên lửa đường đạn của Liên Xô ở
Cuba trước cuộc khủng hoảng tên lửa.
Một điệp viên hai mang khác ở Mỹ đã tố cáo Penkovsky và ông ta bị truy tố và bị xử tội phản quốc năm 1963.
7. Kim Philby
Kim Philby (ngoài cùng, bên phải). Ảnh: Corbis
Năm 1941, gia nhập lực lượng tình báo Anh dù đã làm việc cho tình báo Liên Xô kể từ năm 1933.
Trong vòng 20 năm, Philby thăng tiến trong tình báo Anh và chỉ bị lộ vào
năm 1963. Philby trốn tới Moskva và được coi là người hùng của Liên Xô.
Ông qua đời năm 1988.
8. Ashraf Marwan
Ashraf Marwan (phải). Ảnh: AP
Marwan là con rể của Tổng thống Ai Cập Gamal Nasser và làm việc cho
Israel. Hồi thập niên 60, Israel thuê Marwan cung cấp những thông tin
cho họ trước cuộc chiến Yom Kippur.
Mặc cho vụ này bị bại lộ, Ai Cập vẫn coi Marwan là nhà yêu nước và tổ
chức tang lễ cho ông như một người hùng sau một cái chết bí ẩn năm 2007 ở
London.
9. Denis Donaldson
Denis Donaldson (trái). Ảnh: EPA
Donaldson là thành viên của đảng Sinn Fein được lực lượng tình báo Anh MI5 và cảnh sát Bắc Ireland mua chuộc.
Hiện chưa rõ tại sao Donaldson lại phản bội đảng của mình song vào năm 2006, anh ta bị bắn chết trong một căn nhà gỗ.
Ba năm sau, phong trào ly khai The Real IRA tuyên bố họ đứng đằng sau cái chết này. .
10. Aldrick Ames
Aldrich Ames. Ảnh: Wikipedia
Cựu điệp viên CIA Mỹ này kiếm được khoảng 4,6 triệu USD nhờ bán thông tin cho Liên Xô.
Khi còn ở trung học, Ames làm việc vặt cho Cục Tình báo Trung ương Mỹ và
bắt đầu làm chính thức cho cơ quan này sau khi tốt nghiệp đại học.
Ames rơi vào cảnh túng thiếu và buộc phải làm cho Liên Xô sau một cuộc
ly dị tốn kém với người vợ đầu tiên. Ames bị lộ năm 1994 và hiện chịu án
tù chung thân.
11. Robert Hanssen
Robert Hanssen. Ảnh: Corbis
Chỉ 3 năm sau khi làm cho Cục Điều tra Liên bang Mỹ (FBI), Hanssen bắt
tay với Liên Xô năm 1979. Hanssen tiếp tục bán bí mật của Mỹ sau khi
Liên Xô sụp đổ.
Năm 2001, Hanssen bị bắt quả tang bán thông tin tình báo của Mỹ. Hiện Hanssen chịu án tù chung thân ở Mỹ.
Theo VND
Huyền thoại tình báo Xôviết Gevork Vartanian
16:15 27/01/2012
Ngày 10/1/2012, nhà tình báo huyền thoại của Liên Xô (cũ)
Gevork Vartanian đã qua đời tại Moskva ở tuổi 88. Ông từng là một trong
những thành viên của toán điệp viên Liên Xô tham gia phá vỡ âm mưu bắt
cóc lãnh đạo "Tam cường" vào năm 1943. Với bề dày thành tích sau nửa thế
kỷ hoạt động tình báo, ông được tặng thưởng nhiều huy chương cao quý và
được xem là một trong những điệp viên sáng chói nhất, một trong những
huyền thoại của tình báo Xôviết.
Điệp viên "con nhà nòi"
Có vẻ như Gevork Vartanian được sinh ra để làm tình báo. Ông
sinh năm 1924 tại nơi mà ngày nay gọi là Rostov trên sông Đông
(Rostov-on-Don), trong một gia đình tình báo nòi, giàu truyền thống yêu
nước. Cha ông là một điệp viên giàu kinh nghiệm, từng 23 năm làm điệp
viên tại Ba Tư (Iran ngày nay) dưới vỏ bọc là một thương gia giàu có.
Iran dường như đã là quê hương thứ 2 của ông khi cha ông được phái đến
Tehran công tác từ năm 1930 cho đến khi về hưu vào năm 1953.
Với nền tảng gia đình như thế, không có gì đáng ngạc nhiên khi
biết ông theo ngành tình báo từ khi còn rất trẻ, mới 16 tuổi. Và ngay
trong năm 1940, ông đã tham gia vào điệp vụ quan trọng đầu tiên. Đó là
điệp vụ phá mạng lưới gián điệp phát xít Đức tại Iran. Sẵn có điều kiện
cư trú tại Tehran là một thuận lợi rất lớn để Vartanian tham gia các
hoạt động tình báo tại đây. Thực ra thì Vartanian đã được chuẩn bị để
bước theo con đường của cha mình từ lâu và sau này, khi cha ông về hưu,
Vartanian đã sẵn sàng đảm nhiệm công việc thay cha.
Năm 1942, dưới vỏ bọc là một sinh viên tên Amir, Vartanian theo
học một khóa đào tạo tình báo tại Tehran do tình báo Anh tổ chức dưới
vỏ bọc là một câu lạc bộ vô tuyến nghiệp dư. Từ lớp học này, Vartanian
đã điểm danh một loạt điệp viên Anh tương lai, và chính nhờ danh sách
của Vartanian mà Cơ quan Phản gián Xôviết sau đó đã bắt giữ hàng loạt
điệp viên Anh đột nhập lãnh thổ Liên Xô. Vartanian vỡ lẽ (và sau này kể
lại) rằng cho dù là "đồng minh" thì người Anh (và có thể cả người Mỹ)
vẫn "làm điều bẩn thỉu đối với chúng tôi".
Cuộc đời tình báo của Vartanian kéo dài hơn 50 năm (1940-1992).
Mãi đến tháng 12/2000, hồ sơ mật về cuộc đời hoạt động tình báo của ông
mới được Cục Tình báo đối ngoại Nga (SVR) công khai. Theo các hồ sơ mật
thì ngoài Iran, ông còn được giao nhiệm vụ công tác tại rất nhiều quốc
gia khác nhau trên thế giới, trải khắp từ châu Âu, trong đó có Italia,
Pháp, Hy Lạp,… châu Á (Iran,…) và Mỹ.
Với nhiều công trạng to lớn, đặc biệt là công trạng khi tham
gia điệp vụ Tehran-43, Vartanian đã được tặng thưởng nhiều danh hiệu cao
quý của Nhà nước Xôviết và Nga sau này, trong đó có thể kể Huy chương
Sao vàng Anh hùng Liên Xô được trao năm 1984 vì công trạng trong Chiến
tranh Vệ quốc vĩ đại và trong Chiến tranh lạnh.
Với riêng Vartanian thì thành quả lớn nhất cuộc đời hoạt động
tình báo của ông chính là việc ông đã được cùng vợ, bà Goar, hoàn thành
nhiều nhiệm vụ được giao suốt chặng đường hoạt động tình báo của 2
người. Xin nói thêm về vợ chồng Vartanian. Đây là căp vợ chồng đặc biệt,
cả hai đều là điệp viên KGB và cùng hoạt động chung trong ngành tình
báo, được phân công làm nhiệm vụ cùng nhau.
Họ gặp nhau từ khi chưa là điệp viên, và khi trưởng thành,
chính Vartanian là người đã tuyển mộ Goar vào ngành. Tùy theo nhiệm vụ
được giao, Vartanian và vợ đã cưới nhau đến hàng chục lần tại các quốc
gia khác nhau để tạo vỏ bọc hoàn thành nhiệm vụ. Điều đáng khâm phục ở
căp vợ chồng tình báo Vartanian là suốt 45 năm hoạt động ròng rã, cả hai
đều trở về nhà bình yên và được sống bên nhau đến suối đời. Hai người
quay trở về Liên Xô vào năm 1986. Goar nghỉ hưu, còn Vartanian tiếp tục
công tác đến năm 1992.
Gevork Vartanyan và vợ là điệp viên Goar khi đã nghỉ hưu.
Điệp vụ Tehran-43 làm phá sản Chiến dịch "Long Jump"
Điệp vụ Tehran-43 là cách gọi của ông Vartanian khi kể lại vụ
việc với báo chí sau này. Mục tiêu của điệp vụ này là nhằm phá Chiến
dịch Cú nhảy xa (Long Jump) - một âm mưu vô cùng thâm độc của phát xít
Đức, có thể ảnh hưởng quyết định đến cục diện Chiến tranh thế giới lần
II.
Cũng cần biết thêm, vào thời Chiến tranh thế giới lần II, Iran
là mặt trận tình báo vô cùng quan trọng. Nơi đây không chỉ là đất hoạt
động của tình báo Xôviết mà còn là địa bàn "làm mưa làm gió" của tình
báo phát xít Đức. Vua Iran Mohammad Reza Pahlavi là người rất có cảm
tình với Hitler, vì thế ông ta đối đãi với người Đức rất trọng thị.
Chính vì thế mà Trưởng trạm tình báo Đức tại Tehran là Franz Meyer được
xem là một người rất quyền lực tại đây.
Theo lời kể của Vartanian, từ rất lâu trước Hội nghị
Teheran-43, cuộc chiến tình báo giữa quân đồng minh, cụ thể là KGB của
Liên Xô, với tình báo quân đội phát xít Đức tại Iran đã diễn ra rất
quyết liệt. Khoảng từ tháng 2/1940 đến tháng 8/1941, Vartanian tham gia
một nhóm sĩ quan tình báo KGB gồm 7 người được biệt phái đến Iran để làm
nhiệm vụ "điểm danh" các điệp viên Đức tại Iran, và nhóm của Vartanian
đã điểm danh tổng cộng hơn 400 tên mật vụ Đức. Nhờ danh sách này mà khi
quân đội Xôviết được điều đến Iran đã nhanh chóng bắt gọn toàn bộ số mật
vụ Đức tại đó.
Đó là chiến công đầu tiên trong đời hoạt động tình báo của
Vartanian. Sau vụ này, trùm tình báo Đức tại Iran Meyer đã rút vào hoạt
động bí mật hơn. Y để râu dài, giả làm người Iran làm việc trong một
nghĩa trang của người Armenia.
Nhóm 7 người của Vartanian tiếp tục ở lại Iran để làm nhiệm vụ
bảo vệ Hội nghị Tehran-43. Vào thời điểm đó, phe đồng minh đang cần mở
thêm mặt trận phía Tây nước Đức để sớm kết thúc chiến tranh và tiêu diệt
hoàn toàn quân phát xít. Hội nghị "Tam cường" tháng 11/1943 - giữa 3
nhà lãnh đạo 3 cường quốc hàng đầu thế giới lúc bấy giờ là Tổng thống Mỹ
Franklin D. Rooservelt, Tổng Bí thư kiêm Đại nguyên soái Liên Xô Josef
Stalin và Thủ tướng Anh Winston Churchill - chính là nhằm mục đích đạt
được thỏa thuận mở mặt trận phía Tây nhằm chia lửa với "mặt trận phía
Đông" do Liên Xô đảm trách. Việc mở thêm mặt trận phía Tây sẽ buộc phát
xít Đức phải chia quân ra đối phó, nhờ đó phe Đồng minh có thể dễ dàng
tiêu diệt các lữ đoàn xe tăng khét tiếng của Đức.
Ba nhà lãnh đạo "Tam cường" tại Hội nghị Tehran
1943 (từ trái sang): Lãnh tụ Liên Xô Josef Stalin, Tổng thống Mỹ
Frankllin D. Rooservelt và Thủ tướng Anh Winston Churchill.
Thời chiến tranh thế giới, việc tổ chức một hội nghị cấp cao
của 3 nhà lãnh đạo hàng đầu thế giới tại một địa điểm thông thường như
khách sạn hay dinh thự là vô cùng nguy hiểm. Cho nên Đại sứ quán Liên Xô
tại Tehran được chọn là địa điểm lý tưởng cho một hội nghị bí mật kiểu
này. Cũng vì lý do an ninh mà Tổng thống Mỹ Rooservelt đành phải chấp
nhận lưu trú ngay bên trong Đại sứ quán Liên Xô, còn Thủ tướng Anh thì ở
trong Đại sứ quán Anh ở bên kia con phố, đối diện Đại sứ quán Liên Xô.
Theo lời kể của ông Vartanian trên báo chí vào năm 2007, nhờ
cách bố trí chỗ ở như thế này, nên khi cuộc họp diễn ra, con phố đi
ngang qua các đại sứ quán Anh và Liên Xô đã bị chặn bít, xây tường rào
chắn ngang để tạo hành lang an toàn cho việc đi lại từ Đại sứ quán Anh
sang Đại sứ quán Liên Xô.
Thế nhưng kế hoạch tổ chức Hội nghị đã bị lộ mà không ai hay
biết. Số là khoảng giữa tháng 10/1943, tình báo phát xít Đức đã bắt và
giải mã được điện tín mã hóa của Hải quân Mỹ với nội dung trao đổi về kế
hoạch tổ chức "Hội nghị Tam cường", thường gọi là Hội nghị Tehran 1943,
nhờ đó mà Berlin nắm được cả thời gian và địa điểm tổ chức Hội nghị là
ngày 28/11/1943 tại thủ đô Tehran của Iran.
Từ thông tin này, ban lãnh đạo Đức đã giao nhiệm vụ cho Cơ quan
Tình báo quân đội Đức (Abwehr) bằng mọi cách phải bắt cóc và ám sát cho
bằng được 3 nhà lãnh đạo quân Đồng minh là Rooservelt, Stalin và
Churchill. Otto Skorzeny, một trong những điệp viên xuất sắc nhất của
Đức Quốc xã được chọn giao nhiệm vụ tuyệt mật này.
Trong khi đó, việc bảo đảm an ninh cho 3 nhà lãnh đạo tại Hội
nghị Tehran-43 được giao hoàn toàn cho phía Liên Xô đảm trách, vì vào
thời điểm đó quan hệ giữa Liên Xô và Iran còn có một Hiệp ước Hữu nghị
Nga-Ba Tư ký vào năm 1921 vẫn còn hiệu lực. Phía Liên Xô cũng có các nhà
tình báo kiệt xuất, có khả năng đảm bảo an ninh tuyệt đối cho Hội nghị.
Trong số các sĩ quan tình báo Liên Xô thời đó phải kể đến huyền
thoại tình báo Nikolai Kuznetsov, một đàn anh bậc thầy mà Vartanian rất
ngưỡng mộ. Kuznetsov là một điệp viên ngầm của KGB hoạt động tại Đức
dưới vỏ bọc là một thượng úy quân đội tên Paul Siebert. Kuznetsov đã lân
la làm quen với đám lính hầu cận của các sĩ quan tình báo quân đội Đức
nhằm tìm kiếm thông tin rò rỉ, trong số đó có Ulrich von Ortel, một chỉ
huy tác chiến SS. Chính Ulrich von Ortel vì quá tự phụ nên đã vô tình
làm lộ âm mưu thâm độc của nước Đức.
Vào một buổi chiều cùng với Kuznetsov uống rượu say, Ulrich von
Ortel đã khoe với Kuznetsov về Chiến dịch Long Jump, nói rằng y sắp
được phái đến Iran để thực thi một sứ mệnh trọng đại. Ulrich von Ortel
khoe khoang với Kuznetsov rằng, tình báo quân đội Đức đã phái vài toán
biệt kích đến Iran để thực thi nhiệm vụ, và hiện còn nhiều toán nữa đang
được huấn luyện tại Copenhagen, Đan Mạch. "Chúng tôi sẽ tái hiện điệp
vụ Abruzzi (điệp vụ giải cứu Moussolini). Chúng tôi sẽ xóa sổ Stalin và
Churchill và lật ngược tình thế chiến tranh".
Thông tin vô cùng quý giá về âm mưu phá hoại Hội nghị Tehran-43
của phát xít Đức ngay lập tức được truyền về trung tâm chỉ huy của KGB
và một kế hoạch khẩn cấp nhằm phá vỡ âm mưu này cũng được triển khai
ngay sau đó. Tuy nhiên, việc tìm ra manh mối và phát hiện điệp viên Đức
tại Iran là vấn đề không đơn giản, bởi vào thời điểm Chiến tranh thế
giới lần II lên cao trào, Iran tràn ngập người châu Âu chạy tị nạn,
trong đó có khoảng 20.000 người Đức. Các điệp viên phát xít Đức đã hòa
lẫn vào trong những người Đức tị nạn này.
Theo lời kể của Vartanian, nỗ lực phá âm mưu của người Đức của
nhóm 7 điệp viên KGB tưởng chừng rơi vào ngõ cụt. Cho đến gần ngày tổ
chức Hội nghị mà họ vẫn chưa thể lần ra manh mối nào của bọn điệp viên
Đức. Và giữa lúc tưởng chừng vô vọng ấy, nhóm 7 điệp viên của Vartanian
đã phát hiện được 6 đài vô tuyến của điệp viên Đức. Bọn điệp viên sát
thủ này đã nhảy dù xuống thị trấn Qom nằm cách thủ đô Tehran khoảng 60
km. Từ đây, nhóm của Vartanian đã âm thầm theo chân 6 điệp viên vô tuyến
điện đến Tehran, nơi Meyer đã chuẩn bị sẵn một bãi đáp cho chúng là một
ngôi biệt thự sang trọng.
Vartanian kể, bọn điệp viên Đức di chuyển bằng lạc đà, mang đầy
vũ khí. Trong lúc theo dõi nhóm điệp viên Đức, Vartanian quan sát thấy
bọn chúng thường liên lạc với Berlin bằng máy vô tuyến truyền tin, và đã
ghi âm lại hoạt động thông tin liên lạc đó. Vartanian kể, "sau khi giải
mã thông tin ghi âm, chúng tôi biết được bọn Đức đang chuẩn bị cho đổ
bộ một nhóm gián điệp thứ 2 (do đích thân Skorzeny chỉ huy) nhằm thực
hiện âm mưu khủng bố: bắt cóc hoặc ám sát lãnh đạo Tam cường". Ngay lập
tức, toàn bộ thành viên nhóm thứ nhất đã bị bắt và bị buộc phải tiếp tục
liên lạc với đồng bọn theo sự giám sát của tình báo Xôviết.
Rốt cuộc, được sự đồng ý của tình báo Xôviết, nhóm gián điệp
thứ nhất đã thông báo về "tổng hành dinh" về việc kế hoạch bị bại lộ và
thất bại. Từ đó, tình báo Đức đã quyết định không cử nhóm thứ 2 (do
Skorzeny chỉ huy) sang Iran và hủy luôn kế hoạch phá hoại Hội nghị
Tehran-43 An Tôn - Nguyên Khang (tổng hợp)
Nữ điệp viên bậc thầy của thế chiến 2
Trong Chiến tranh Thế giới lần thứ 2, nữ điệp viên bậc thầy Vera Atkins
đã trực tiếp cử 39 nữ điệp viên hoạt động cho cơ quan tình báo Anh sang
những vùng quân Đức chiếm đóng ở châu Âu.
Vera Atkins
Chiều ngày 16/6/1943, hai chiếc Cabriolet mầu đen từ London chạy ra
sân bay Tangmere. Vera Atkins ngồi trên xe cùng 3 điệp viên dưới quyền
là Cécily Lefort, Diana Rowden và Noor Inayat Khan - một công chúa Ấn
Độ.
Sau khi đến sân bay, 3 người nhận đồ ăn tối. Máy bay đã đợi sẵn và sẽ
chở 3 nữ điệp viên đến nước Pháp đang bị quân Đức chiếm đóng. Các phi
công thông báo dưới ghế ngồi của mỗi người đều có sẵn .... một chai
Whyski dẹt – để trấn tĩnh nếu cần, vì đây là một trong những chiến dịch
bí mật nhất và nguy hiểm nhất trong cuộc chiến tranh thế giới lần thứ
hai.
Dạy mật mã cho điệp viên của SOE
Mệnh lệnh "đốt cháy châu Âu!"
Atkins sinh năm 1908 trong một gia đình Do Thái ở Rumani. Năm 1933 bà
cùng gia đình sang sống ở Anh và năm 1935 đến Pháp. Sau khi học xong
trung học, bà học trường Đại học Sorbonne nổi tiếng ở Paris. Tháng
5/1940, Atkins quay lại Anh và tháng 2/1941, bà ra nhập “phòng Pháp” của
cơ quan tình báo Anh mới thành lập mang tên Special Operations
Executive (SOE), mà theo lời của Thủ tướng Anh Winston Churchill thì, vì
những hoạt động sau lưng quân địch SOE sẽ trở thành một "Bộ chiến tranh
ngầm".
Nhiệm vụ Churchiull trao cho SOE rất đơn giản và cũng rất rõ ràng:
“Hãy đốt cháy châu Âu!". Các điệp viên phải đánh sập cầu cống, phá hoại
nhà máy, làm tàu hỏa trật ray và dùng mọi biện pháp để quấy rối quân
Đức.
Phụ nữ đóng một vai trò quan trọng trong phương án của SOE. Khác với
nam giới, họ có thể đi lại trong vùng địch chiếm mà không gây sự chú ý.
Điều kiện quan trọng nhất là những nữ điệp viên được cử sang Pháp phải
nói thành thạo tiếng Pháp. Ngoài ra, họ phải tập nhảy dù, học võ thuật
để hạ gục kẻ thù mà không gây tiếng động.
Các điệp viên trong vùng địch chiếm mạo hiểm tính mạng mình vì những
lý do khác nhau. Trong số họ có Violette Szabo là người đã từng làm việc
trong ngành ... nước hoa của tập đoàn kinh doanh Woolworth's ở London.
Chồng Violette Szabo hy sinh ở Bắc Phi. Để trả thù cho chồng, Violette
Szabo tình nguyện ra nhập toán điệp viên, để lại ở nhà đứa con gái mới 2
tuổi. Những người khác, như nữ bá tước người Ba Lan Krystyna Skarbek
hoặc Công chúa Ấn Độ Noor Inayat Khan... đều không muốn khoanh tay đứng
nhìn quân Đức cai trị châu Âu.
Điệp viên nhảy dù thâm nhập địa bàn Pháp
Bí mật của chocolate vị tỏi
Lãnh đạo họ là Vera Atkins, một trong những phụ nữ đầu tiên leo lên
được một vị trí gần gũi với ban lãnh đạo cơ quan tình báo Anh. Vera
Atkins được tiếp cận hồ sơ mật và bắt đầu sự nghiệp tình báo trong vị
trí trợ lý một sĩ quan điều khiển một mạng lưới điệp viên. Tháng 8/1944
Vera Atkins được phong hàm thiếu tá và cùng với đại tá Maurice
Buckmaster chỉ huy phòng Pháp của SOE. Trong thời gian làm việc tại đây,
Vera Atkins đã chỉ huy và chuẩn bị cho 400 điệp viên hoạt động trong
vùng quân Đức chiếm đóng, trong đó có 39 nữ điệp viên. Vera Atkins đã
trực tiếp tuyển chọn và đào tạo nhiều người trong số họ.
Phương
tiện kỹ thuật các điệp viên của SOE sử dụng khi làm nhiệm vụ là rất đa
dạng, từ tàu ngầm 1 người đến chuột mang thuốc nổ hoặc súng ngắn mini
dưới dạng một chiếc bút máy. Các điệp viên còn mang theo chocolate có vị
tỏi, vì theo nhận thức của cơ quan tình báo Anh, tỏi là hương vị đặc
trưng của dân Pháp nên họ sẽ dễ hòa mình vào người Pháp !
Trong chiến tranh, Atkins đã cử 39 nữ điệp viên ra trận bằng nhiều
cách khác nhau, ví dụ như nữ điệp viên Krystyna Skarbek đã dùng bàn
trượt tuyết trong mùa đông lạnh giá từ Slôvakia vượt qua vùng núi Tatra
để đến Ba Lan.
Những điệp viên nữ trong SOE
Lần theo dấu tích đồng đội
Sau chiến tranh, không phải tất cả đều trở về Anh nguyên vẹn, như
trường hợp nữ điệp viên Odette Sansom, người đã để lại 3 cô con gái nhỏ ở
Anh. Khi bắt được chị, quân Đức đã dùng gậy sắt nung đỏ đập gãy lưng
Odette Sansom và dùng kìm rút tất cả móng chân. Hàng năm sau Odette
Sansom vẫn không đi giày dép được mà phải đi bằng gót chân. Sau này phải
qua nhiều cuộc phẫu thuật tình trạng của Odette Sansom mới khá hơn.
Một số nữ điệp viên bị quân Đức bắt rất nhanh chóng, vì hồi đó trong
SOE có một điệp viên hai mang cũng làm việc cho quân Đức. Tuy vậy, Công
chúa Ấn Độ Noor Inayat Khan vẫn đánh được điện tín từ Paris đi London
trong nhiều tuần lễ mà không lọt vào nanh vuốt của bọn Gestapo. Noor
Inayat Khan đã phải họat động hoàn toàn một mình, vì mạng lưới điệp viên
nằm vùng lẽ ra phải giúp đỡ cô đã bị lộ. Cuối cùng cô cũng bị điệp viên
hai mang phát hiện, bị bắt và giết hại trong trại tập trung Dachau.
Sau khi chiến tranh kết thúc, Atkins đến Đức để tìm kiếm 118 điệp
viên của phòng Pháp bị mất tích trong chiến tranh. Nhiệm vụ cuối cùng
của Atkins khi cuộc chiến kết thúc là chắp nối những dấu vết của các
điệp viên này và tìm kiếm họ. Bà đã coi đó là nhiệm vụ của đời mình.
Atkins đã thành công và nữ điệp viên bậc thầy này đã tìm ra số phận các
điệp viên bị mất tích của mình. Kết quả, Atkins đã tìm được 117 người;
39 người trong số các điệp viên là nữ; 13 người đã không sống được đến
ngày chiến thắng
Trong khi truy tìm dấu vết tại Đức, Atkins đã phải đối mặt với sự
khủng khiếp trong các trại tập trung. Bà cũng là người đã trực tiếp hỏi
cung Rudolf Hoess, kẻ đã từng là chỉ huy trưởng trại tập trung
Auschwitz. Nữ điệp viên bậc thầy này đã xoay đến cùng tên tội phạm chiến
tranh khét tiếng này, cho đến khi lấy được những thông tin bà cần để
tìm ra đồng đội của mình. "Người phụ nữ này biết cách đối xử với bất cứ
ai mặc quần", một đồng nghiệp của Atkins đã nêu bật tính cách của bà.
Tuy cuối cùng, cuộc truy tìm đã mang lại kết quả nhưng thật đau buồn,
vì tất cả các đồng đội mà Atkins tìm kiếm đều đã bị quân Đức giết hại
trong các trại tập trung.
Hiện nay, một bộ phim mang tên "Đêm tối và sương mù" về cuộc đời của
nữ điệp viên bậc thầy này đang được khởi quay với ngôi sao Hollywood Uma
Thurman trong vai Vera Atkins và dự kiến sẽ ra mắt người xem vào năm
2016.
Phan Trọng Hùng (Tổng hợp)
Chân dung nữ gián điệp kỳ bí nhất Thế chiến II
Là
hình mẫu của vai nữ chính trong loạt tiểu thuyết tình báo James Bond,
Christine Granville được cho là nữ gián điệp dũng cảm, kiên cường và kỳ
bí nhất Thế chiến II.
Christine Granville năm 1950. Ảnh: NYTimes
Christine Granville là gián điệp được thủ tướng Anh khi đó, ngài
Winston Churchill, đánh giá cao nhất và từng được trao tặng huân chương
anh dũng của cả chính phủ Anh và Pháp. Bà cũng là nguyên mẫu nhân vật nữ
gián điệp Vesper Lynd trong tập đầu tiên của tiểu thuyết tình báo James
Bond.
Tên thật của Granville là Maria Krystyna Janina Skarbek, người gốc Ba
Lan. Cha của bà là một nhà quý tộc, mẹ bà là một người thừa kế gốc Do
Thái giàu có. Trước chiến tranh, Granville hưởng thụ cuộc sống của một
tiểu thư con nhà quyền quý, từng đạt giải á hậu trong cuộc thi người đẹp
Ba Lan năm 1930. Nhưng, Thế chiến thứ hai đã thay đổi hoàn toàn cuộc
sống của bà.
Tháng 9/1939, quân đội Đức Quốc xã xâm chiếm Ba Lan. Khi đó, Granville
đang ở Nam Phi với chồng, một quan chức ngoại giao. Trước biến cố quốc
gia, bà nhanh chóng quyết định đi sang London và đăng ký trở thành nhân
viên tình báo của Anh.
Trong đơn đăng ký, Granville đề nghị thâm nhập vào lãnh thổ Ba Lan bằng
cách trượt tuyết vượt qua dãy núi Carpathian, từ đó giúp chính phủ Anh
tiến hành tuyên truyền chính trị tại thủ đô Vacsava của Ba Lan. “Bà ấy
không sợ gì cả, là một người Ba Lan yêu nước đầy nhiệt huyết, một người
trượt tuyết chuyên nghiệp, một nhà mạo hiểm nữ vĩ đại”, báo cáo của Cơ
quan đặc công Anh đánh giá về nữ gián điệp này viết.
Bà được nhận vào Phòng tình báo D, đơn vị sau này phát triển thành
Phòng hành động đặc biệt (SOE). Đây là nhóm tình báo được đích thân Thủ
tướng Churchill quyết định thành lập, với nhiệm vụ tiến hành các hoạt
động phá hoại, lật đổ, gián điệp tại hậu phương địch. Sau khi vào nghề,
nữ gián điệp này được nhận hộ chiếu Anh với tên mới là Christine
Granville và bí danh hoạt động là Willing.
Trạm đầu tiên trong nghiệp tình báo của Granville là Hungary, nước láng
giềng với Ba Lan. Nhiệm vụ của bà là đưa các nhân sĩ phản kháng và binh
sĩ Ba Lan thoát ra khỏi vùng chiếm đóng, để tiếp tục chiến đấu cho quân
Đồng minh. Người thường xuyên phối hợp với Granville là ông Andrzej
Kowerski, một người Ba Lan yêu nước mất một chân. Ông này cũng là người
tình lâu năm nhất của bà.
Theo nhà sử học Clare Mulley, người từng viết sách về cuộc đời
Granville, có rất nhiều câu truyện truyền kỳ về phong cách làm việc bình
tĩnh, lạnh lùng của nữ điệp viên này. Bà từng trượt tuyết vượt qua đoạn
đường núi chất đầy thi thể đóng băng của người tị nạn. Bà cũng từng
chạy tránh đạn của không quân phát xít Đức tại những vùng núi rộng lớn,
hay phải tự cắn lưỡi để lừa tình báo địch tưởng là bà mắc bệnh phổi để
thoát thân.
Tương truyền, Granville còn có khả năng điều khiển động vật. Theo đó,
có lần Granville và một số chiến binh du kích khi đang ẩn nấp trong lùm
cây, thì bị một con chó berger hung dữ đánh hơi phát hiện, bà liền vòng
tay ôm lấy con chó. “Con chó liền nằm ngày xuống cạnh bà ấy, không để ý
gì đến tiếng huýt sáo của chủ”, học giả Mulley cho biết.
Tuy nhiên, nhà nghiên cứu Mulley cũng cho hay Granville là một người
rất biết cách tạo dựng nên các câu chuyện để “thần thoại hóa bản thân”,
vì vậy không phải câu chuyện nào về cuộc đời truyền kỳ của nữ gián điệp
này cũng đúng với sự thực lịch sử. “Gặp ai bà ấy cũng kể về câu chuyện
thuần phục con chó của địch trên”, Mulley nói.
Nữ điệp viên đa tình
Granville là một phụ nữ rất hấp dẫn và đa tình. Trong quá trình hoạt
động, bà có rất nhiều người tình và cũng bỏ rơi rất nhiều người đàn ông.
Không ít người trong số họ không chịu nổi điều đó. Theo hồ sơ của cơ
quan tình báo Anh, một người tình của Granville tại Budapest đã cố ý tự
làm thương để níu kéo bà.
Mặc dù sự nghiệp tình báo và đời sống tư của bà đầy phức tạp, Granville
là một người rất “ngây thơ về chính trị”. “Bất kể người nào chỉ cần
giao cho bà ấy nhiệm vụ có ích trong việc giải phóng tổ quốc, bà ấy đều
không từ chối”, học giả Mulley cho biết.
Năm 1944, Granville được gửi đến miền nam nước Pháp hỗ trợ cho điệp
viên Francis Cammaerts thuộc SOE, người sau này cũng trở thành người
tình của bà. Nhiệm vụ của bà là truyền thông tin tình báo và vũ khí giữa
các tổ chức chống phát xít, cũng như thuyết phục các binh sĩ gốc Ba Lan
trong quân đội Đức đầu hàng quân Đồng minh.
Thành công lớn nhất của Granville là đã cứu thoát Cammaerts và hai điệp
viên khác bị lực lượng mật vụ Đức Quốc xã Gestapo bắt giữ khỏi khám tử
tù. Nữ gián điệp này hối lộ giám ngục để được vào nhà giam. Tại đây, bà
tự xưng là cháu gái của Thống chế Montgomery của nước Anh, rồi cảnh cáo
kẻ cầm đầu của mạng lưới chỉ điểm Pháp rằng, nếu họ xử tử ba nhân viên
tình báo trên thì sẽ bị quân Đồng minh trả thù. Người này tin lời của
Granville và đã bỏ trốn cùng các điệp viên.
Sau chiến tranh, nhóm tình báo của Granville bị giải thể. Nhưng ngay
sau đó, Chiến tranh Lạnh nổ ra, cũng như rất nhiều người Ba Lan lưu vong
khác, Granville không thể trở về tổ quốc. Trong thời bình, nữ gián điệp
lừng danh một thời này trải qua nhiều công việc, như nhân viên nhận
điện thoại, trợ lý bán hàng và công việc cuối cùng của bà là nhân viên
phục vụ của một công ty vận tải.
“Granville trở nên thất thường, yêu cầu rất cao, không chịu nổi cảnh
làm thuê, chí ít là không tìm được công việc mà bà ấy thích. Bà ấy không
muốn trở thành nhân viên đánh máy, làm vợ hay làm mẹ, chỉ muốn làm gián
điệp”, học giả Mulley cho hay.
Tháng 6/1952, Granville bị đồng nghiệp, người cũng là tình nhân cũ của
bà, Dennis Muldowney, đâm chết tại đại sảnh một khách sạn ở London.
Muldowney bị kết án tử hình. Nhưng cho đến tận lúc thi hành án, người
đàn ông này vẫn khẳng định ông rất yêu Granville và không chịu nổi cảnh
bị bà bỏ rơi.
Đức Long (theo New York Times)
Chân dung điệp viên đào hoa giúp Liên Xô đánh bại phát xít Đức
VOV.VN - Một điệp viên Xô
viết mang 2 dòng máu Nga và Đức đã lập chiến công lớn trong Thế chiến 2:
Thông báo chính xác việc Đức sẽ tấn công Liên Xô.
LTS:Trong
Cuộc Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại của mình, Liên Xô đã giành chiến thắng
không chỉ nhờ vào nhân dân anh hùng và quân đội quả cảm, mà còn cả mạng
lưới tình báo hết sức hiệu quả. Nhân kỷ niệm 71 năm Ngày Chiến thắng phát xít Đức,
VOV.VN xin giới thiệu với độc giả loạt bài về một điệp viên tầm cỡ của
Liên Xô đã có đóng góp lớn vào chiến công chung của Liên Xô trong việc
đánh bại chủ nghĩa phát xít.
Vào
các năm 1939-1940, Liên Xô đã nhận định phát xít Đức sớm muộn gì cũng
sẽ tấn công mình. Nhưng họ không biết chính xác thời điểm. Và ban đầu họ
còn phán đoán lầm rằng thời điểm tấn công sẽ chưa đến ngay. Thế nhưng
một điệp viên Liên Xô đã phát hiện sớm kế hoạch tấn công của Đức. Đáng
tiếc ban đầu ban lãnh đạo Liên Xô không tin vào thông tin do điệp viên
đó cung cấp. Và quân đội Xô viết đã thực sự bị bất ngờ và chịu nhiều tổn
thất trong giai đoạn đầu của cuộc chiến chống phát xít Đức.
*****
Richard
Sorge vừa quay trở lại Tokyo (Nhật Bản) vào ngày 22/6/1941. Lúc đó anh
nghe thấy các cậu bé bán báo trên phố rao tin tức nước Đức đã xâm lược Liên Xô.
Richard
Sorge – nguồn cảm hứng cho tác giả Ian Flemming sáng tạo ra nhân vật
James Bond trong loạt tiểu thuyết lừng danh của mình. Ảnh: Ullstein
Bild.
Sorge
vốn là một nhà báo có tiếng của Đức, đồng thời là một người nghiện rượu
nặng nổi tiếng với tính trăng hoa. Trước khi nghe được tin tức mới này,
anh đang lái ô tô ở vùng nông thôn bên người tình mới nhất của mình -
một nhạc công piano xinh đẹp người Đức.
Giờ đây, ngồi tại quán bar trong khách sạn Imperial, anh đắm chìm vào tâm trạng u ám và liên tục nốc rượu.
Anh ta hét to lên
và chửi thề bằng tiếng Anh: “Hitler đúng là tên tội phạm. Một kẻ sát
nhân. Rồi Stalin sẽ dạy cho gã khốn đó một bài học. Các vị cứ đợi đó!”.
Cả nhân viên
người Nhật của quán bar và bạn rượu của Sorge đều không thể làm cho anh
bình tâm lại được. Nhấc máy điện thoại đặt tại sảnh, anh quay số cho đại
sứ Đức. “Cuộc chiến này nhất định sẽ thất bại đó!” anh ta hét vào tai
vị đại sứ [Đức] – một người bạn lâu năm của Sorge.
Sĩ quan tình báo quân đội Liên Xô
Cơn thịnh nộ của
Sorge một phần là do anh rất căm ghét chiến tranh. Anh từng phục vụ
trong lục quân Đức trong Thế chiến thứ 1 và bị thương nặng. Anh tin rằng
cuộc tấn công do Hitler phát động sẽ dẫn tới thảm họa.
Nhưng còn một lý
do nữa, quan trọng hơn, khiến Sorge nổi đóa. Đó là vì Richard Sorge, bên
cạnh việc là nhà báo Đức, đảng viên Quốc xã, và nhân viên báo chí bán
thời gian cho Đại sứ quán Đức, anh còn là một sĩ quan trong cơ quan tình
báo quân sự Xô viết
(GRU). Sorge chính là điệp viên quan trọng nhất của Liên Xô ở châu Á.
Mà chỉ vài tuần trước đó, Moscow đã phớt lờ những cảnh báo mà anh gửi về
trung tâm liên quan đến cuộc tấn công sắp tới của Đức!
Bức điện anh gửi
về tổng hành dinh GRU vào ngày 1/6 có đoạn: “Cuộc chiến Đức-Xô dự kiến
diễn ra bắt đầu vào tầm ngày 15/6 – điều này dựa trên thông tin mà Trung
tá Scholl mang từ Berlin đến cho Đại sứ Ott”. Thế nhưng các thượng cấp
của Sorge ở Moscow đã phê vào bức điện như sau: “Nghi ngờ. Liệt bức điện
này vào nhóm các bức điện mang tính khiêu khích”.
Cảnh báo sớm này của Sorge đã bị lãnh tụ Liên Xô khi đó là Stalin coi là thứ vớ vẩn “đến từ một gã hay vào nhà thổ ở Nhật Bản”.
VOV.VN - Nguyên soái
Tukhachevsky là một nhà chỉ huy thiên tài, một lý luận gia xuất chúng có
đóng góp to lớn vào nền quân sự Liên Xô và thế giới.
Bất chấp điều đó,
Sorge vẫn tiếp tục công tác tình báo. Sau khi bị sốc từ cuộc tấn công
do Đức thực hiện, Moscow bắt đầu chú ý đến các báo cáo do Sorge gửi về.
Trong vài tháng sau đó, các hoạt động tích cực của viên sĩ quan tình báo
này đã mang lại các thông tin quý báu giúp Liên Xô chặn đứng cuộc chiến
chớp nhoáng của Đức ở cửa ngõ thủ đô Moscow và đảo ngược tình thế chiến
tranh Xô-Đức.
Dường như ông
trời sinh ra Sorge là để thực hiện vai trò này. Sorge được nhiều người
coi là điệp viên quan trọng nhất trong Thế chiến thứ 2.
Richard Sorge
chào đời vào năm 1895 ở miền nam nước Nga. Mẹ Sorge là người Nga, còn
cha là một kỹ sư Đức. Gia đình Sorge chuyển về Đức một vài năm sau đó.
Tại đây cậu bé Sorge được nuôi dưỡng trong môi trường của một gia đình
trung-thượng lưu. Thế nhưng gốc gác Nga của Sorge đã ảnh hưởng đến anh
ta suốt cuộc đời.
Học giỏi, đẹp trai, đa tình
Năm 1914 Sorge
nhập ngũ vào lục quân Đức. Sau đó anh bị thương nặng với di chứng là đi
cà nhắc. Trong thời gian dưỡng thương, anh ta đã cưa cẩm (và bị cưa cẩm
bởi) một y tá chăm sóc cho mình.
Cô y tá này cùng
với cha mình – một thầy thuốc theo chủ nghĩa Marx, đã giác ngộ anh bằng
các tư tưởng cấp tiến. Vài năm sau đó, anh dành thời gian chuyên tâm
nghiên cứu về kinh tế học và chính trị học, đặc biệt là chủ nghĩa Marx.
Vào cuối cuộc
Chiến tranh Thế giới thứ 1, tư tưởng cấp tiến thuộc đủ màu sắc ngập tràn
trong đất nước Đức. Trong bối cảnh ấy, Sorge nghiêng dần về phái tả.
Anh có được học vị tiến sĩ vào năm 1919. Cùng năm này, anh gia nhập Đảng
Cộng sản Đức.
Sorge lao vào
hoạt động tuyên truyền cánh tả trong các công nhân mỏ ở Đức. Và đồng
thời, anh lại sa vào chuyện tình ái với vợ của một trong các giáo sư
từng dạy mình trước đây.
Sorge vừa điển trai vừa toát lên vẻ lôi cuốn khó cưỡng đối với phụ nữ. Cánh đàn ông cũng rất ngưỡng mộ Sorge.
Christiane
Gerlach - một người làm nội trợ, đã vướng vào lưới tình của Sorge. Những
năm sau này, Gerlach kể lại ấn tượng của mình khi lần đầu thấy Sorge:
“Cứ như có một tia sét chạy dọc người tôi vậy. Chỉ trong giây lát, nó
xuất hiện rồi cứ theo tôi suốt đến tận bây giờ. Một thứ gì đó thật u mê,
khó thoát được...”
Sorge cũng giành
được cảm tình của chồng Gerlach – một vị giáo sư đã nhất trí ly dị vợ
một cách nhẹ nhàng. Sau đó Sorge và Gerlach kết hôn vào năm 1922. Nhưng
cuộc hôn nhân này cũng chỉ kéo dài được vài năm.
Sĩ quan lục quân Đức Eugen Ott năm 1934. Ảnh: Ullstein Bild.
Các
tuyên truyền cánh tả của Sorge khiến anh gặp rắc rối với cảnh sát. Năm
1924 anh rời bỏ nước Đức để sang miền đất hứa mới – nước Nga Xô viết.
Tại đó, anh gia nhập tổ chức quốc tế mới của những người Xô viết – tổ
chức Quốc tế Cộng sản. Anh phụ trách công tác liên lạc với các đảng cộng sản nước ngoài.
VOV.VN - Mật vụ KGB đã tỉ mỉ tìm
ra các dấu hiệu này và dựa vào đó để “nhổ” hàng loạt điệp viên của cơ
quan tình báo CIA (Mỹ) cài cắm ở Liên Xô.
Đến năm 1929, anh
trở thành sĩ quan tình báo quân sự của Liên Xô (viết tắt là GRU). Cơ
quan này cử anh đi làm nhiệm vụ ở Trung Quốc. Người ta đã dạy anh các kỹ
thuật căn bản của nghề tình báo và trang bị cho anh kiến thức về chính
trị và quân sự.
Vốn là “thỏi nam
châm” thu hút phái đẹp, Sorge đã nhanh chóng chiếm được tình cảm của một
sinh viên ngành kịch trẻ đẹp, tên là Katya Maximova. Sau ba năm làm
công tác tình báo đầy hiệu quả ở Trung Quốc, Sorge quay trở lại Moscow
vào năm 1933. Tại đây, anh cưới Maximova làm vợ.
Sau khi Nhật Bản
xâm chiếm Mãn Châu trong các năm 1931-1932, Moscow lo ngại đòn xâm lược
của Nhật có thể sẽ quay sang cả vùng Viễn Đông của Liên Xô.
Để tạo vỏ bọc nhà
báo, Sorge tới Nhật thông qua ngả Đức - ở đây một chủ bút nhận các bài
viết của anh đã trao cho anh một bức thư giới thiệu gửi tới một viên sĩ
quan lục quân Đức, Đại tá Eugen Ott – tùy viên quân sự mới của Đức ở
Tokyo.
Sorge tới Tokyo
vào tháng 9/1933. Các bài báo của Sorge giúp anh tạo dựng uy tín của một
chuyên gia về Nhật Bản. Anh cũng đã gia nhập Đảng Quốc xã. Bằng cách
này, anh tiếp cận được Đại sứ quán Đức, nơi các nhà ngoại giao (gồm cả
Đại sứ Đức tại Nhật Herbert von Dirksen) đánh giá cao các nhận định và
phân tích của anh./.
VOV.VN - Đam mê tửu sắc nhưng am
hiểu chính trị khu vực, điệp viên Liên Xô Sorge đã lấy được nhiều thông
tin cơ mật về quan hệ Đức-Nhật rồi gửi về trung tâm.
VOV.VN - Năm 1941 Hồng quân chưa
thực sự mạnh, lại bị Đức tấn công bất ngờ. Lúc đó nếu bị Nhật Bản tấn
công từ phía đông, Liên Xô sẽ khó bề trụ được.
Trung Hiếu/VOV.VN Dịch từ History.net
Điệp viên siêu hạng “quan trọng nhất” của Liên Xô trong Thế chiến 2
VOV.VN - Đam mê tửu sắc
nhưng am hiểu chính trị khu vực, điệp viên Liên Xô Sorge đã lấy được
nhiều thông tin cơ mật về quan hệ Đức-Nhật rồi gửi về trung tâm.
VOV.VN
tiếp tục giới thiệu với độc giả kỳ 2 trong loạt bài của nhà nghiên cứu
Stuart D. Goldman về nhân vật lịch sử - sĩ quan tình báo quân đội Liên
Xô Richard Sorge:
Tiến sĩ Sorge
không giả vờ làm một gã Đức Quốc xã cuồng tín. Anh thường bày tỏ sự
khinh miệt đối với những hành vi thái quá của bọn Quốc xã cũng như sự
ngu xuẩn của một số lãnh đạo đảng này. Bất ngờ là điều này lại càng làm
gia tăng thay vì hủy hoại uy tín của Sorge. Chắc chắn, một người dám nói
lên suy nghĩ của mình chỉ có thể là một học giả tâm huyết, một người
yêu nước nói thẳng nói thật, hay một cựu chiến binh với thương tích trận
mạc đầy mình.
Chân dung Tiến sĩ Sorge thời trẻ. Điệp viên này sinh ra ở Baku (thời còn thuộc Đế chế Nga) vào năm 1895. Ảnh: spymuseum.com.
Một khía cạnh
“thật” khác giúp tạo nên vỏ bọc hiệu quả cho Sorge: Anh ta đam mê cả tửu
lẫn sắc. Từng đi nhậu nhẹt với Sorge, một nhà báo Mỹ sau này viết rằng
Sorge “tạo cho người khác ấn tượng về một khách làng chơi, một gã vô
công rồi nghề - hình ảnh hoàn toàn đối lập với một gián điệp sắc sảo và
nguy hiểm”.
Cố vấn tin cẩn
Vào tháng
10/1934, Đại tá Ott – tùy viên quân sự Đức, mời Sorge hộ tống ông ta
trong chuyến thăm Mãn Châu. Sorge viết báo cáo về chuyến đi. Bản báo cáo
này được Ott gửi về bộ tư lệnh tối cao ở Berlin và nhận được sự khen
ngợi ở đây.
Sorge trở thành
cố vấn tin cẩn nhất của Ott về chính trị Nhật Bản và hay được mời về nhà
Ott chơi. Chả mấy chốc Sorge... leo luôn lên giường với vợ của viên Đại
tá Đức – cô Helma Ott.
Những chuyện khó
tin nhất đã xảy ra. Sorge dám mạo hiểm phá hỏng quan hệ tốt đẹp của mình
với Đại tá Ott. Đến lượt mình, viên tùy viên quân sự này lại sẵn sàng
lờ qua chuyện dan díu giữa vợ và Sorge chỉ vì ông đánh giá quá cao trình
độ am hiểu Nhật Bản của Sorge cũng như yêu mến viên cố vấn. Đại tá Ott
tin rằng mọi chuyện rồi sẽ sớm qua đi (sự thực cũng đúng như vậy).
Mạng lưới tình
báo của Sorge ở Tokyo bao gồm 2 điệp viên nữa do Moscow cử đến. Đó là
Branko Vukelic, một đảng viên cộng sản Nam Tư, trong vai trò nhà báo cho
một hãng thông tấn Pháp và xử lý vi phim cho Sorge. Người thứ 2 là Max
Clausen, đảng viên cộng sản Đức, phụ trách liên lạc điện đài cho cả cụm
tình báo này.
Clausen gửi các
bức điện sử dụng bộ mã số đặc biệt – một hệ thống mã hóa tuy cồng kềnh
nhưng gần như không thể phá được vì dựa vào duy nhất một khóa mật mã
hoàn toàn ngẫu nhiên. Giới chức Nhật Bản phát hiện ra tín hiệu điện đài
trái phép nhưng không định vị được nơi phát sóng cũng như không tài nào
giải mã được các bức điện mật mà họ bắt được qua làn sóng điện.
Thành viên quan trọng nhất của cụm tình báo này, ngoài bản thân Sorge, chính là Hotsumi Ozaki, một nhà báo Nhật Bản thiên tả. Ozaki là một chuyên gia uy tín về Trung Quốc. Anh có mối quan hệ với các nhân vật chính trị đầy ảnh hưởng.
Điệp viên người Nhật Ozaki trong lưới tình báo của Sorge. Ảnh: history.net.
Một trong những
người bạn của Ozaki là chánh văn phòng Thủ tướng Nhật Bản, Hoàng tử
Fumimaro Konoye. Vị hoàng tử này về sau đã dùng Ozaki làm tư vấn viên
cho nội các. Ozaki chuyển sang làm tại một văn phòng trong khu nhà công
vụ của Thủ tướng. Tại đây anh được tiếp cận các tài liệu mật và chuẩn bị
các báo cáo chính sách đối ngoại cùng khuyến nghị cho chính phủ. Các
thông tin và đánh giá của Ozaki trở thành các yếu tố chủ chốt trong các
báo cáo mà Sorge gửi về Moscow. Trong các cuộc thảo luận với cán bộ của
Đại sứ quán Đức, Sorge đều khôn khéo trình bày các ý kiến của Ozaki như
thể là ý tưởng của riêng mình – điều này càng làm tôn thêm vị thế
“chuyên gia” của Sorge.
Khéo léo che giấu thân phận
Sorge thuê một
ngôi nhà nhỏ trong một khu dân cư yên tĩnh nằm trong tầm quan sát của
đồn cảnh sát địa phương. Đây có thể là cách của Sorge – “ trú ẩn ở chính
mắt bão”. Anh không hề tỏ vẻ giấu giếm. Anh thường phóng xe máy qua các
con phố đông đúc của Tokyo trong tình trạng “tây tây say say”.
Mùa hè năm 1936,
Sorge lại ve vãn một cô gái Nhật xinh đẹp 26 tuổi tên là Hanako Iishi.
Cô này làm phục vụ tại một trong những nơi Sorge thường lui tới. Chẳng
bao lâu, Iishi dọn sang sống trong nhà của Sorge. Mối tình với Iishi là
mối quan hệ bền vững nhất trong đời Sorge.
Mùa xuân năm 1936, quá trình công tác của Sorge trong 3 năm ở Tokyo bắt đầu mang lại kết quả.
Thông qua các mối
liên hệ với quân đội Nhật Bản, Eugen Ott biết được các cuộc đàm phán bí
mật giữa Đức và Nhật về một hiệp ước chống Quốc tế Cộng sản
– thực chất là hiệp ước chống Liên Xô. Các cuộc thương thảo này được
thực hiện ở Berlin, và người ta chủ định giấu Đại sứ quán Đức ở Tokyo
các thông tin liên quan đến vụ này. Nhờ tiết lộ của Ott mà Sorge và tất
nhiên cả GRU ở Moscow được cập nhật thông tin về tiến trình thương
lượng. Moscow lo lắng liên minh Nhật-Đức có thể sẽ tạo thế 2 gọng kìm
tiến đánh Liên Xô từ hai hướng.
Lính phát xít Nhật thời Thế chiến 2. Ảnh: pinterest.
Năm 1938, Ott
được thăng lên hàm thiếu tướng, trở thành Đại sứ Đức ở Nhật Bản. Điều
này củng cố thêm thế đứng của Sorge trong Đại sứ quán Đức. Ott cho Sorge
xem bản thảo các bức điện và báo cáo, đồng thời hỏi ý kiến Sorge về
việc gửi điện về Berlin.
Các nhân viên
trong sứ quán thường tìm đến Sorge để nắm ý đồ của vị Đại sứ. Sorge
viết: “Họ thường đến gặp tôi và nói - chúng tôi nghe có chuyện này
chuyện này, thế anh đã biết chuyện đó chưa và ý kiến anh thế nào?”
Tùy viên cảnh sát
của Đại sứ quán Đức tại Nhật, Đại tá mật vụ Gestapo Joseph Meisinger,
xác nhận mối quan hệ giữa Ott và Sorge “gần gũi đến mức mà mọi báo cáo
bình thường từ các vị tùy viên gửi về Berlin đều trở thành các phụ lục
gắn vào bản báo cáo tổng thể do Sorge viết và Đại sứ ký tên”.
Nắm rõ ý đồ của Nhật muốn cấu kết với Đức
Tháng 6/1938,
Tướng Genrikh Lyushkov - trưởng bộ phận NKVD (tức Bộ Dân ủy Nội vụ -
tiền thân của cơ quan tình báo KGB sau này) ở vùng Viễn Đông Liên Xô, đã
vượt biên sang Mãn Châu và xin tị nạn chính trị ở Nhật Bản để tránh một
cuộc thanh trừng do NKVD tiến hành nhằm vào ban lãnh đạo Hồng quân khi
đó. Moscow rất lo lắng muốn biết viên tướng đào tẩu này sẽ nói những gì
với phía Nhật Bản.
Berlin đã phái
một sĩ quan tình báo tới Tokyo để hỗ trợ việc thẩm vấn viên tướng
Lyushkov. Sorge nhận được bản sao báo cáo tuyệt mật của Đại sứ quán Đức
về vụ này. Theo đó, Lyushkov cho biết trong Liên Xô khi ấy có sự bất mãn
với Stalin và nếu Nhật Bản tấn công, Hồng quân sẽ “sụp đổ chỉ trong một
ngày”. Ngoài ra có dấu hiệu Lyushkov đã tiết lộ cho Nhật Bản các khóa
mật mã và thông tin về thế bố trí các đơn vị quân đội Liên Xô. Tất
nhiên, Moscow đã thay đổi mật mã để phòng hậu họa.
Sáu tuần sau đó,
một cuộc đụng độ biên giới giữa Liên Xô và Nhật Bản đã bùng phát ở đúng
địa điểm Lyushkov đào tẩu. Thông tin tình báo từ mạng lưới của Sorge góp
phần hình thành cách phản ứng cứng rắn của Liên Xô.
Hotsumi Ozaki
nhận thấy các lãnh đạo Nhật Bản, do bận bịu với cuộc chiến ở Trung Quốc,
quyết tâm không để cho đụng độ này trở thành một xung đột trên quy mô
lớn. Thế là Moscow tung liền vài ngàn binh sĩ cùng xe tăng và phi cơ yểm
trợ vào trận chiến này. Sau 2 tuần giao tranh, trận đánh Hồ Khasan kết
thúc với việc Nhật Bản chấp nhận các điều khoản của Moscow.
Mô típ tương tự
diễn ra một năm sau đó trong một cuộc chiến tranh không tuyên bố trên
tuyến biên giới Mông Cổ-Mãn Châu. Quy mô trận chiến này lớn hơn nhiều
nhưng kết quả không thay đổi so với trước.
VOV.VN - Chiến thuật phi công
cảm tử Thần Phong (kamikaze) của người Nhật vào cuối Thế chiến 2 đã
khiến quân đội Anh phải căng óc đối phó.
Một lần nữa,
Sorge lại có điều kiện thông báo với độ chắc chắn cao rằng chính phủ
Nhật Bản quyết không để xung đột này leo thang thành một cuộc chiến
tranh toàn diện. Điều đó giúp Stalin hạ quyết tâm tung đòn dứt điểm nhằm
vào Nhật Bản vào tháng 8/1939 trong trận đánh Khalkhin Gol.
Đồng thời, Sorge
tiếp tục thông tin cho Moscow về nỗ lực của Nhật Bản lôi kéo Đức vào
liên minh quân sự chống Liên Xô. Chính thông tin này tạo cơ sở quan
trọng để lãnh tụ Stalin quyết định sử dụng đòn “tương kế tựu kế” bằng
việc ký với Hitler vào cuối tháng 8 năm đó Hiệp ước Không Xâm lược lẫn
nhau giữa Đức và Liên Xô. Chỉ một tuần sau khi hiệp ước này được ký kết,
Thế chiến thứ 2 bùng nổ.
Như vậy, chỉ bằng
một mũi tên, Stalin đã bắn trúng nhiều đích: Vừa tạo xung đột giữa Đức,
Anh và Pháp, vừa đẩy Nhật ra khỏi liên minh chống Quốc tế Cộng sản với
Đức.
Nhờ thắng lợi ngoại giao ngoạn
mục này, Liên Xô có thể rảnh tay xử lý mối đe dọa quân sự từ phía Nhật
Bản. Chúng ta phải nhớ rằng các báo cáo tình báo của Sorge đóng vai trò
quan trọng trong việc hình thành nên chiến lược nói trên của Liên Xô.
Thế nhưng, đấy vẫn chưa phải là chiến công vĩ đại nhất của Sorge đối với
Liên Xô./.
VOV.VN - Một điệp viên Xô viết
mang 2 dòng máu Nga và Đức đã lập chiến công lớn trong Thế chiến 2:
Thông báo chính xác việc Đức sẽ tấn công Liên Xô.
VOV.VN - Năm 1941 Hồng quân chưa
thực sự mạnh, lại bị Đức tấn công bất ngờ. Lúc đó nếu bị Nhật Bản tấn
công từ phía đông, Liên Xô sẽ khó bề trụ được.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét