Chuyển đến nội dung chính

CÂU CHUYỆN LỊCH SỬ 25/f (W W II)

 (ĐC sưu tầm trên NET)

                            CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ 2 - phần 6/6" địa ngục" (1944-1945)

Giải mật cuộc chiến điệp viên trong thế chiến thứ hai

Tháng 6/1941, cơ quan Tình báo Quân sự Trung ương của Liên Xô đã tuyển dụng được 914 người ở nước ngoài, 316 trong số đó làm cộng tác viên với các mạng lưới điệp viên hợp pháp, còn 598 người là hoạt động bất hợp pháp.
Chiến sĩ Hồng quân Liên Xô báo cáo kết quả trinh sát tại mặt trận năm 1941. Ảnh: Corbis. Chiến sĩ Hồng quân Liên Xô báo cáo kết quả trinh sát tại mặt trận năm 1941. Ảnh: Corbis.
Kể từ khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, đã có nhiều tài liệu về cuộc chiến khốc liệt này được giải mật và công bố. Một trong số đó là bộ phim tài liệu Bão táp Xô-viết (Soviet Storm), được công chiếu trên truyền hình Nga năm 2011. Không chỉ mô tả chân thực chặng đường dài của quân và dân Liên Xô trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát-xít, bộ phim còn có một tập mô tả kỹ lưỡng một thế hệ điệp viên Xô-viết dũng cảm và mưu trí -những người đã góp công không nhỏ vào chiến thắng của “Cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại”.
Kỳ 1: Vạn sự khởi đầu nan
Khi An-đóp Hít-le (Adolf Hitler) xua quân xâm lược Liên Xô vào tháng 6/1941, mạng lưới điệp viên Xô-viết ít nhiều bị xáo trộn. Thực tế cho thấy, phát-xít Đức đã có bước khởi đầu lấn lướt hơn trên mặt trận tình báo. Tuy nhiên, lực lượng tình báo Liên Xô đã nhanh chóng phản công.
Chiếc va-li của Tùy viên hải quân Liên Xô
Ngày 21/6/1941, một đoàn tàu tốc hành từ Béc-lin cập ga Belorussia ở Mát-xcơ-va. Trên tàu có Mi-khai-in Vô-rôn-xốp (Mikhail Vorontsov), Tùy viên hải quân của Đại sứ quán Liên Xô ở Béc-lin, với một chiếc va-li cột chặt vào tay. Hai ngày trước đó, M.Vô-rôn-xốp nhận được điện tín khẩn lệnh cho anh phải trở về Mát-xcơ-va ngay lập tức. Một toán hộ tống đón anh trên sân ga, gồm một cán bộ của Bộ Dân ủy nội vụ đi cùng hai sĩ quan an ninh.
Bên ngoài sân ga, một chiếc ô tô đang đợi sẵn. M. Vô-rôn-xốp nhanh chóng được đưa vào ghế sau ngồi giữa hai sĩ quan an ninh. Đó cũng là lần đầu tiên M. Vô-rôn-xốp được thư giãn kể từ khi rời Béc-lin. Chiếc va-li của anh giờ cũng đã thuộc trách nhiệm quản lý của người khác.
Sau khi tốt nghiệp Học viện Hải quân, M. Vô-rôn-xốp được điều động về vùng Viễn Đông và tại đó anh phát triển lên làm Phó tham mưu trưởng Hạm đội Thái Bình Dương. Năm 1939, anh được điều chuyển tới Béc-lin làm Tùy viên hải quân Liên Xô.
Chiếc xe dừng lại bên ngoài lối vào Điện Crem-li. 10 phút sau, M.Vô-rôn-xốp bước vào văn phòng của nhà lãnh đạo Xta-lin (Stalin). Trong số các tài liệu anh đem về từ Béc-lin, có bản sao một điện tín mà anh được Tùy viên hải quân Thụy Điển tại Béc-lin đưa cho. Điện tín có nội dung: “Đề nghị chính thức của Béc-lin đề cập tới tuyến di chuyển của tàu chiến và máy bay Thụy Điển ở biển Ban-tích sau ngày 22/61941, để tránh va chạm trong trường hợp có chiến tranh với Liên Xô”.
Thời đó, công tác tình báo nước ngoài của Liên Xô được thực hiện bởi mạng lưới các điệp viên nằm vùng. Hoạt động tình báo Xô-viết được tiến hành cả kênh hợp pháp thông qua các điệp viên có hộ chiếu Xô-viết, làm nhiệm vụ "kép" tại các cơ quan đại diện của Liên Xô ở nước ngoài với vỏ bọc là một quan chức ngoại giao, lái xe hay chuyên viên kỹ thuật, lẫn bất hợp pháp qua các điệp viên dùng giấy tờ giả.
Mỗi thành viên của một mạng lưới điệp viên nằm vùng đều có nhiệm vụ riêng biệt. Một điệp viên chuyên tuyển dụng và điều hành các điệp viên địa phương, một điệp viên khác chịu trách nhiệm về điện đài, một người nữa làm liên lạc viên chuyển tài liệu và một người điều phối toàn bộ các hoạt động của nhóm.
Sau khi  Hít-le lên nắm quyền ở Đức, Liên bang Xô-viết đã thấy rõ quốc gia nào là mối đe dọa lớn nhất với mình. Do đó, nhiều điệp viên Xô-viết được đưa vào Đức để thu thập thông tin về tiềm năng quân sự và mưu đồ của phát-xít Đức. Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra năm 1939, số mạng lưới điệp viên nằm vùng của Liên Xô ở Đức tăng tới 50%. Những mạng lưới tương tự cũng hoạt động ở Bỉ, Anh, Hà Lan, Thụy Sĩ, Pháp, Nhật, Bun-ga-ri và Nam Tư.
Tháng 6/1941, cơ quan Tình báo Quân sự Trung ương của Liên Xô đã tuyển dụng được 914 người ở nước ngoài, 316 trong số đó làm cộng tác viên với các mạng lưới điệp viên hợp pháp, còn 598 người là hoạt động bất hợp pháp. Thậm chí, ngay cả nhà lãnh đạo Xta-lin cũng chỉ biết phần lớn những người này qua mật danh. Bản thân ông cũng có quá đủ kinh nghiệm về hoạt động bí mật để hiểu rằng, tên của một điệp viên bị đề cập càng nhiều lần thì anh ta càng gặp nhiều nguy hiểm.
Mất liên lạc
Kể từ mùa thu năm 1940, ngày càng có nhiều báo cáo cảnh báo về việc phát-xít Đức tập trung quân dọc biên giới với Liên Xô. Tình báo quân sự Xô-viết nỗ lực tìm câu trả lời cho câu hỏi: Liệu Hít-le có tấn công và nếu có thì khi nào? Các báo cáo tới tấp cung cấp những thời điểm khác nhau về cuộc xâm lược Liên Xô của phát-xít Đức. Ban đầu họ cho rằng, nó sẽ diễn ra vào tháng 3 hay tháng 4/1941. Sau đó có báo cáo nói rằng, cuộc tấn công được hoãn đến mùa hè và tùy thuộc vào việc nước Anh có đầu hàng hay không. Rồi lại có tin mới toanh rằng sẽ hoãn đến năm 1942. Tình hình còn phức tạp thêm bởi trên thực tế, người duy nhất biết chính xác dự tính của Hít-le chỉ có… chính Hít-le. Ông ta chỉ ký lệnh thông qua chiến dịch Barbarossa xâm lược Liên Xô ngày 10/6/1941, 12 ngày trước giờ thực hiện. Đến ngày 18/6, Mát-xcơ-va mới bắt đầu nhận được báo cáo từ điệp viên K: “Các đơn vị lục quân Đức đang chuẩn bị chuyện gì đó rất lớn. Rõ ràng không phải chuyện vài tháng hay vài tuần mà là vài ngày nữa thôi”.
Nhưng dù có cảnh báo, tình báo Xô-viết vẫn không thể khẳng định chính xác điều gì, kể cả bức điện tín mà M.Vô-rôn-xốp mang về Mát-xcơ-va. Chiến dịch Barbarossa đã bắt đầu, nhưng Liên Xô vẫn chưa thực sự chuẩn bị sẵn sàng.
Trong những ngày đầu của chiến tranh, mọi mạng lưới điệp viên hợp pháp của Liên Xô tại Đức, các đồng minh của Đức và tại những nước bị phe Trục chiếm đóng đều bị chấm dứt hoạt động và tất cả nhân viên đại sứ quán đều bị trục xuất về Liên Xô. Tình báo quân sự Xô-viết mất liên lạc với các điệp viên ở 11 nước châu Âu. Số điệp viên còn lại không ít, nhưng nếu không thể liên hệ được với Mát-xcơ-va, xem ra họ chẳng còn hữu ích là mấy.
Các điệp viên Liên Xô hoạt động ở nước ngoài không có đủ điện đài hay điện đài viên giỏi. Máy điện đài của họ cũng rất cồng kềnh và thiếu tin cậy, thậm chí thiếu cả ắc quy. Tầm hoạt động của các điện đài này là không quá 1000km, tức là tín hiệu chỉ truyền đến được miền Tây Liên Xô và không đủ mạnh để truyền tới Mát-xcơ-va, chứ đừng nói tới Cui-bi-sép (Kuibyshev), nơi Tổng hành dinh của Cơ quan tình báo quân sự trung ương được sơ tán tới.
Hơn nữa, mật mã và bảng mã khóa tình báo Xô-viết sử dụng hồi đầu chiến tranh rất phức tạp và khó dùng. Ngay cả những tin nhắn đơn giản nhất cũng phải mất khá nhiều thời gian để mã hóa và giải mã. Tín hiệu chuyển đi cũng dễ bị đối phương bắt được. Phản gián Đức tuần tiễu khắp thành phố với thiết bị dò hướng để định vị điện đài. Ngay khi xác định được nơi đặt điện đài, lực lượng mật vụ sẽ bao vây và xông vào bắt điện đài viên.
Và thế là phản gián Đức đã khiến các điệp viên Xô-viết gần như không thể liên lạc trực tiếp với Mát-xcơ-va. Nhưng tình thế đã dần thay đổi nhờ sự đáp trả kịp thời của tình báo Xô-viết.
(Còn tiếp)
Theo Quân Đội Nhân Dân

Những điệp viên huyền thoại của thế chiến

Việc liên lạc trực tiếp với phần lớn số điệp viên Xô-viết trước chiến tranh chỉ được nối lại vào năm 1945 khi Hồng quân tiến vào Đông Âu. Một trong những cách liên lạc mang tính đối phó tạm thời là thông qua những người đưa tin để chuyển đi các thông tin tối quan trọng.
Điệp viên huyền thoại Ri-chác Xo-gây. Ảnh: historynet.com Điệp viên huyền thoại Ri-chác Xo-gây. Ảnh: historynet.com
Bẻ mã
Nếu như ở thời bình, người đưa tin có thể đi lại khắp châu Âu, thì trong thời chiến mọi chuyện lại khác hẳn. Họ không chỉ đối mặt với nguy cơ bị Gestapo (Cơ quan Mật vụ của Đức Quốc xã) bắt giữ, mà còn có thể bị thiệt mạng bởi "tên bay đạn lạc".
Trong khi đó, tại Trung Quốc và Nhật Bản, các điệp viên Xô-viết vẫn hoạt động tích cực. Một vài điệp viên nằm vùng bất hợp pháp tiếp tục hoạt động trong vùng tạm chiến ở Pháp, Bỉ và Hà Lan. Tình báo Xô-viết cũng vẫn khá hiệu quả ở Mỹ, Anh và các quốc gia trung lập như Thụy Điển và Thụy Sĩ.
Tháng 7/1941, tức là ba tuần sau khi phát-xít Đức tấn công Liên Xô, nhìn bên ngoài, kho trữ cá gần bến cảng ở thủ đô Xtốc-khôm (Thụy Điển) vẫn trông bình thường như những tòa nhà xung quanh. Nhưng bên trong đó lại chứa đựng một bí mật. Đây là trụ sở của Ban Mã hóa và Giải mã của Bộ Tổng tham mưu Lực lượng vũ trang Thụy Điển. A-lanh Ni-blát (Allan Nyblad), một người đưa tin của Bộ Chiến tranh Thụy Điển đang cân nhắc phải làm gì.
Ông được Bộ Tổng tham mưu tin tưởng giao cho nhiệm vụ chuyển đi các giấy tờ khẩn cấp và quan trọng nhất. A-lanh Ni-blát là người tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc và chỉ trao "gói hàng" của mình tận tay người nhận theo lệnh, điều đó đã gây được ấn tượng mạnh với Bộ trưởng Chiến tranh Thụy Điển. Tuy nhiên, chính quyền Thụy Điển không biết rằng, A-lanh Ni-blát làm việc cho tình báo Liên Xô.
Khi ấy, để thuận tiện cho việc đi lại, xe đạp của người đưa tin được gắn biển số đặc biệt, tức là sẽ không bị cảnh sát địa phương chặn lại. Một hôm, sau khi nhận được "gói hàng" phải gửi đến Bộ Tổng tham mưu, A-lanh Ni-blát đạp xe qua một khu nhà kho yên tĩnh rồi đột ngột ngoặt vào một ngõ vắng vẻ.
Sau khi chắc chắn không bị ai theo dõi, ông tháo biển số xe đặc biệt ra và thay bằng biển xe thường. Ông đến một ngôi nhà hai tầng rồi bước vào gặp Xê-mi-ôn Xta-rô-xtin (Semyon Starostin), điệp viên Xô-viết mật danh “Kent". Vỏ bọc của X.Xta-rô-xtin bao gồm chức danh giám đốc một công ty tổ chức du lịch tại Thụy Điển, Na Uy và Đan Mạch và trưởng đại diện hãng hàng không quốc gia Liên Xô Aeroflot. Tháng 11/1941, ông quay về Liên Xô khi một "chân rết" của ông bị bắt.
Khi tất cả các tài liệu do A-lanh Ni-blát mang đến đã được chụp xong, X. Xta-rô-xtin bỏ hết giấy tờ vào một phong bì mới. Ông có trong tay rất nhiều con dấu của các cơ quan Thụy Điển để gửi phong bì đi trót lọt. Nhờ mạng lưới của điệp viên “Kent”, Mát-xcơ-va nhận được báo cáo hằng ngày về hoạt động của địch dọc khắp tuyến mặt trận phía Đông do người Thụy Điển vẫn theo dõi phía phát-xít Đức và đã “bẻ mã” được họ.
Năm 1940, Thụy Điển nghi ngờ phát-xít Đức có kế hoạch xâm lược nước mình. Xtốc-khôm tìm cách phát hiện trước ý đồ của Hít-le. Chỉ trong vòng 2 tuần cặm cụi với độc bút chì và giấy, Giáo sư toán học người Thụy Điển A-nơ Bơ-linh (Arne Beurling) đã bẻ được mật mã quân sự và ngoại giao của phát-xít Đức. Điều này cho phép Thụy Điển giải được các liên lạc đã mã hóa của phát-xít Đức và với điệp viên "Kent", tất cả những gì người Thụy Điển biết thì Mát-xcơ-va cũng biết.
Tháng 1/1942, A-lanh Ni-blát bị phía Thụy Điển bắt và bị kết án 12 năm tù khổ sai. Nhưng đến lúc đó, Mát-xcơ-va đã có được thông tin làm cách nào Thụy Điển bẻ được mật mã của Đức. Đến tháng 6 năm đó, khi Đức phát hiện ra Thụy Điển đã bẻ được mật mã, phía Liên Xô cũng đã có thể tự bẻ khóa được hệ mã mới của Đức.
Nguồn tin vô giá về toan tính của Nhật Bản
Ngày 18/10/1941, quan hệ Nhật Bản và Liên Xô đang trong trạng thái "hòa hoãn đầy căng thẳng". Rạng sáng hôm đó, cơ quan phản gián Nhật Bản mở một chiến dịch vây bắt mạng lưới điệp viên Liên Xô. Một trong những người bị bắt là Ri-hác Gioóc-gơ (Richard Sorge). Trong khi Ri-hác Gioóc-gơ bị đưa đi, căn hộ của ông bị lục soát kỹ lưỡng. Tại đây, mật vụ Nhật tìm thấy những tài liệu buộc tội ông như máy ảnh và một xấp ảnh chụp tài liệu.
Ri-hác Gioóc-gơ sinh ra tại Đông Nam nước Nga, nhưng ngay từ bé ông đã cùng gia đình chuyển tới sống ở Đức. Sau khi chiến đấu trong quân đội Đức trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, Ri-hác Gioóc-gơ trở thành một người Cộng sản nhiệt thành và đến Mát-xcơ-va. Tại đây, ông được tình báo quân sự Xô-viết tuyển dụng rồi gửi trở lại Đức dưới vỏ bọc nhà báo và cảm tình viên Quốc xã. Điều này đã đem lại nhiều thuận lợi cho ông cho đến tận tháng 10/1941, khi ông bị người Nhật bắt. 3 năm sau đó, Ri-hác Gioóc-gơ bị treo cổ. Đến năm 1964, ông được truy tặng phần thưởng Nhà nước cao quý nhất là danh hiệu Anh hùng Liên Xô.
Mạng lưới của Ri-hác Gioóc-gơ bao gồm 32 điệp viên người Nhật Bản, 4 người Đức, 2 người Nam Tư và 1 người Anh, trong đó đáng chú ý có điện đài viên người Đức Bru-nô Oen-tơ (Bruno Wendt), nhà báo người Nam Tư Bran-cô Vu-kê-lích (Branko Vukelic) và nhà báo người Nhật Bản Hát-xu-mi Ô-da-ki (Hatsumi Ozaki), một cố vấn của Thủ tướng Nhật Bản Cô-nô-ê (Konoe). Một nguồn tin đáng giá khác của mạng lưới là Ơ-gơn Ốt (Eugen Ott), Đại sứ Đức tại Nhật Bản và là một trong những người “đặt trọn niềm tin” vào Ri-hác Gioóc-gơ.
Việc Ri-hác Gioóc-gơ bị bắt và nhóm của ông bị phát hiện là tổn thất nặng đối với tình báo Liên Xô. Ông là một nguồn tin vô giá về các toan tính của Nhật Bản và Đức tại Viễn Đông. Chiến công lớn nhất của Ri-hác Gioóc-gơ là xác minh được việc Nhật Bản không có kế hoạch tấn công Liên Xô trong năm 1941 như ban lãnh đạo Liên Xô lo ngại. Tháng 9/1941, từ Tô-ki-ô, ông gửi về một điện tín với nội dung: “Theo lời Ô-da-ki (Ozaki), Bí thư Nội các, Chính phủ Nhật Bản đã quyết định sẽ không có hành động chống Liên Xô trong năm nay nhưng quân đội vẫn đóng ở Mãn Châu để có thể tấn công vào mùa Xuân tới nếu Liên Xô bị Đức đánh bại. Sau ngày 15/9, vùng Viễn Đông của Liên Xô có thể được xem là an toàn, không bị Nhật tấn công”.
Thông tin vô cùng quan trọng này đến vào lúc quân Đức vừa tung đòn tấn công tổng lực vào Mát-xcơ-va. Nó cho phép Bộ Tổng tham mưu quân đội Xô-viết rút nhanh 32 sư đoàn từ Xi-bê-ri (Sibiri) và Viễn Đông về cứu nguy cho thủ đô Liên Xô. Ngày 5/12/1941, các sư đoàn này dẫn đầu cuộc tổng phản công đẩy quân Đức lùi xa khỏi cửa ngõ Mát-xcơ-va. Đó là một chiến thắng quan trọng mang công lớn của Ri-hác Gioóc-gơ. 
Theo Quân Đội Nhân Dân

Vụ hành quyết 4 điệp viên Đức trong Chiến tranh Thế giới lần II

07:30 07/09/2016

Trong Chiến tranh Thế giới thứ II, 4 điệp viên Đức Quốc xã đã xâm nhập vào nước Anh để nghiên cứu thực địa chuẩn bị cho kế hoạch xâm lược Anh của Hitler. Câu chuyện tình báo xảy ra với 4 người này đã từng được báo chí nói đến, nhưng một khía cạnh khác của câu chuyện chỉ mới được biết đến sau khi một số tài liệu, thư tín được Văn phòng lưu trữ Quốc gia Anh giải mật.

Anh giải mật hồ sơ về các điệp viên phát xít

Thứ Ba, 19/04/2011 14:34
(TT&VH) - Sau nhiều thập kỷ nằm trong vòng bí mật, hàng loạt tài liệu của Cơ quan Tình báo nội địa Anh (MI5) mới được tiết lộ đã cung cấp những thông tin hết sức đặc sắc và thú vị về hoạt động của các điệp viên phá hoại phát xít Đức trong Thế chiến thứ 2.
Tập tài liệu mật được Cơ quan Lưu trữ Quốc gia Anh công bố, bao gồm rất nhiều biên bản ghi lại các cuộc thẩm vấn của Cơ quan Tình báo nội địa (MI5) với những điệp viên phá hoại Đức bị quân Đồng Minh bắt giữ.

Những kế hoạch đầu độc tinh vi


Thuốc độc được các điệp viên phá hoại Đức mang theo khi xâm nhập vào lãnh thổ đối phương
Chúng cho thấy lực lượng an ninh phát xít Đức (RSHA) đã có trong tay một đơn vị chuyên lên kế hoạch tổ chức các hoạt động phá hoại ngầm ở nhiều quốc gia Đồng Minh. Các điệp viên thuộc đơn vị này rất chuộng sử dụng chiến thuật ám sát và đầu độc. Trong một vụ mang tính điển hình, quân Đồng Minh đã bắt được một nhóm 4 điệp viên Đức, bao gồm một phụ nữ, khi họ nhảy dù xuống vùng Ayon, gần St. Quentin ở Pháp vào tháng 3/1945, khoảng 2 tháng trước khi chiến tranh kết thúc. Những người này đã bay thẳng từ Stuttgart qua Pháp trong một chiếc B17 Flying Fortress bị đánh cắp. Chiếc máy bay đã thả họ vào sau chiến tuyến của quân Đồng Minh, trước khi bị bắn hạ.
Qua cuộc thẩm vấn, các điệp viên khai rằng họ được cử đi thực hiện các nhiệm vụ đầu độc và ám sát. Họ mang theo các lọ thủy tinh chứa thuốc aspirin do công ty Bayer sản xuất, với 1 hoặc 2 viên bị tẩm độc và cái chết sẽ diễn ra sau chừng 10 phút hoặc hơn nếu ai đó nuốt phải viên thuốc tẩm độc này. Các điệp viên nói rằng họ sẽ tìm cách tiếp cận mục tiêu dự định ám sát và mời hút một loại thuốc đặc biệt, khiến nạn nhân đau đầu. Tiếp đó các điệp viên sẽ lấy thuốc aspirin tẩm độc và mời mục tiêu uống. Bản thân họ cũng hút thuốc gây đau đầu và uống aspirin, nhưng là loại không tẩm độc. Anna Marguerite Prelogar, nữ điệp viên nằm trong nhóm bị bắt khai rằng phương thức ám sát này dành cho các mục tiêu đang di chuyển trên tàu hỏa.

Ngoài aspirin tẩm độc, các điệp viên còn được trang bị một loại bột độc có thể được sử dụng để bôi lên các tay nắm cửa, sách vở và mặt bàn. Bột độc này làm từ bột thủy tinh trộn lẫn với thuốc độc. Nếu nạn nhân vô tình chạm vào bột, các mảnh thủy tinh có thể làm da họ bị xước và thuốc độc theo đó đi sâu vào cơ thể, gây tử vong.

Một loại bột khác chỉ được các điệp viên trong vai bồi bàn dùng để rắc vào trong một căn phòng ăn của khách sạn hoặc nhà hàng. Nó có thể khiến người ta mất mạng nếu chẳng may nuốt phải, nhưng sẽ không làm họ chết khi tiếp xúc qua đường hô hấp. Ngoài ra còn phải kể tới loại vũ khí đặc biệt khác là một khối cầu độc hình tròn, đường kính chừng 1mm. Khối cầu độc này sẽ được đặt vào khay gạt tàn và nhiệt từ thuốc lá hoặc một điếu xì gà tỏa ra có thể khiến nó bốc hơi độc, giết chết tất cả những người ngồi xung quanh.

Nhóm điệp viên còn mô tả về một chiếc bật lửa có một hốc chứa đặc biệt đặt gần phần bấc, nơi khối độc được thả vào. Nếu ai đó vô tình sử dụng chiếc bật lửa này, họ sẽ chắc chắn mất mạng.

Cà phê hiệu “Nescafe”, đường, thuốc lá và sôcôla hiệu “Sarotti” của Đức cũng được huy động vào cuộc chiến ngầm của phát xít Đức. Các loại đồ ăn và uống này đều được pha với thuốc độc và một điệp viên đã đặc biệt nhấn mạnh tới tính hiệu quả của vũ khí sôcôla độc, như thể anh ta đã tự tay chế ra nó.

Khẩu súng ám sát giấu trong thắt lưng của điệp viên phá hoại Đức bị quân đội Mỹ thu được
Gieo gió gặt bão
MI5 đã rất quan ngại trước lời khai của các điệp viên trên, tới mức họ yêu cầu phải tìm kiếm mọi loại thực phẩm, thuốc men, bật lửa và thuốc lá nghi là phương tiện gây độc trên người các điệp viên Đức bị bắt. Lord Rothschild, người khi đó đang lãnh đạo bộ phận phản gián của MI5 đã thu được một thanh sôcôla và một hộp Nescafe từ điệp viên Đức và quyết định đem chúng đi thử nghiệm tìm chất độc. Từ kết của kiểm tra, MI5 khuyến cáo rằng “việc ăn đồ ăn và hút thuốc lá Đức bị cấm tuyệt đối, ai vi phạm sẽ chịu sự trừng phạt nặng”.
Một tài liệu khác đề dấu “mật” và chỉ dành riêng cho phòng phản gián thuộc Bộ Chỉ huy Tối cao Lực lượng Viễn chinh Đồng Minh nằm ở London có chứa nội dung nhấn mạnh tới “các phương thức khủng bố” của phát xít Đức. Nó nói rằng năm 1943, lực lượng đặc vụ Đức Abwehr đã trình lên cấp trên ý tưởng về một kế hoạch nhằm làm giảm nhuệ khí của lính Mỹ ở Bắc Phi bằng cách “phân phối rộng rãi chất gây nghiện”. Tuy nhiên, kế hoạch này đã bị hủy bỏ vì không khả thi.

Một tài liệu khác của Đức gửi đi tháng 10/1944 có đề dấu “bí mật quốc gia” và rơi vào tay quân Đồng Minh cho thấy tình báo Đức đã thảo luận về việc bơm thuốc độc vào các chai rượu whisky, rượu mùi, rượu vang và rượu schnapp của đối phương. Tài liệu cũng nói tới việc tiêm các liều thuốc độc mạnh vào nhiều loại thực phẩm khác nhau như xúc xích. Các loại thuốc độc này sẽ chỉ có tác dụng từ vài giờ hoặc vài ngày sau khi nạn nhân sử dụng thực phẩm và như thế sẽ vừa tránh không làm lộ các điệp viên phá hoại, vừa gây nhiều khó khăn và rối loạn cho đối phương.

Ngoài thuốc độc, các điệp viên phá hoại Đức còn ưa chuộng sử dụng vũ khí ám sát bí mật. Quân đoàn 20 của Mỹ báo rằng họ đã tìm thấy một khẩu súng ám sát, được giấu kỹ trong phần mặt khóa của một chiếc thắt lưng bình thường. Khi điệp viên nhấn một nút bí mật, một khẩu súng 2 nòng bắn đạn cỡ 22mm sẽ xuất hiện. Điệp viên nhấn thêm nút nữa và khẩu súng sẽ khai hỏa.

Tuy nhiên trong khi âm mưu đi đầu độc quân Đồng Minh, người Đức cũng đã nếm đòn đầu độc từ kẻ khác. Trong một tài liệu của Đức rơi vào tay đối phương hồi tháng 2/1944 có nói rằng họ đang đối diện với một cuộc chiến đầu độc, với đối thủ là lực lượng kháng chiến Ba Lan. Phương thức của các du kích Ba Lan là trộn kem bôi dưỡng da Nivea với chất độc mù tạc và có vẻ như hoạt động đầu độc này đã diễn ra hết sức hiệu quả.

Tường Linh



Những điệp viên hai mang lừng danh thế giới

Lịch sử tình báo thế giới đã biết đến nhiều điệp viên hai mang lừng danh như: Mata Hari, Oleg Penkovsky, Kim Philby, Robert Hanssen, Aldrick Ames...

Nữ điệp viên Mata HariNữ điệp viên Mata Hari
1. Humam Khalil Abu Mulal al-Balawi
Vị bác sĩ làm việc cho tình báo Jordan từng thực hiện vụ đánh bom tự sát khiến 7 điệp viên CIA thiệt mạng là người mới nhất trong số các điệp viên hai mang nổi tiếng thế giới.
Humam Khalil Abu Mulal al-Balawi. Ảnh: ABC News
Tình báo Jordan thuê bác sĩ al-Balawi, 36 tuổi, làm việc và cử anh ta đi tìm Ayman al-Zawahiri, phó tướng của trùm khủng bố Osama bin Laden.

Ngày 30/12/2009, al-Malawi được mời tới căn cứ quân sự của Mỹ ở Afghanistan để thuyết trình cho các điệp viên cục tình báo Mỹ (CIA) về mạng lưới khủng bố al-Qaeda.

Giữa cuộc họp, al-Malawi kích hoạt khối thuốc nổ giấu trong áo vest khiến 7 nhân viên CIA cùng người họ hàng của quốc vương Jordan Abdullah II thiệt mạng.

Đây là vụ đánh bom tự sát gây thiệt hại về người nhiều nhất đối với CIA kể từ cuộc chiến chống khủng bố phát động sau sự kiện ngày 11/9/2001.

2. Benedict Arnold
Benedict Arnold. Ảnh: Corbis
Arnold từng là một người hùng trong Cách mạng Mỹ. Ông từng giúp quân đội nước này đánh thắng quân Anh trong trận chiến Saratoga (1777).

Tuy nhiên, cái tôi và tính hám lợi đã khiến Arnold phản bội lại lợi ích của dân tộc. Ông ta chiếm lấy West Point, New York, định bán nó cho người Anh với giá 6.000 bảng, 300 bảng mỗi năm tiền lương hưu và quyền chỉ huy trong quân đội Anh.

3. Mata Hari hay Margaretha Geetruida Zelle

Mata Hari. Ảnh: Corbis
Hari nổi danh là một vũ nữ đầy khêu gợi những năm 1900. Cô đi khắp châu Âu và cặp kè với một loạt những quý ông quyền lực.

Trong suốt Thế chiến I, cô làm việc và ăn tiền của cả người Đức lẫn người Pháp. Vụ việc bại lộ, Hari bị Pháp truy tố và xử bắn năm 1917 khi 41 tuổi.  
4. Eddie Chapman
Eddie Chapman.Ảnh: Time
Chuyên gia mở két trộm và tống tiền Chapman đang ngồi tù khi người Đức xâm chiếm quần đảo Channel thuộc Anh trong Thế chiến II. Đức quốc xã thuê Chapman làm tình báo viên và moi thông tin từ chính quê nhà. Chúng đưa ông trở về Anh song ông ngay lập tức trình báo nhà chức trách.

Sau một cuộc trò chuyện, cơ quan tình báo MI5 tuyển Chapman làm điệp viên với biệt danh Zigzag. Họ còn thực hiện một vụ tấn công giả mạo nhằm vào nhà máy sản xuất máy bay Havilland để hoàn tất nhiệm vụ vủa Chapman với người Đức.

Sau khi trở lại Đức, Chapman được trao thưởng huy chương, tặng du thuyền và 100.000 mark. Ông tiếp tục cung cấp thông tin sai lệch cho Đức quốc xã trong khi thực hiện các sứ mệnh ở Oslo và London.

5. Dusko Popov
Dusko Popov. Ảnh: Time
  Tiểu thuyết gia Ian Fleming từng thổ lộ trong hồi ký rằng Popov chính là cảm hứng khiến ông xây dựng nhân vật điệp viên 007.

Trong thời kỳ đầu của Thế chiến II, Popov được Mật vụ Đức tuyển mộ. Ông nhận lời song ngay lập tức gia nhập quân Anh để chống Đức quốc xã.

Popov lấy thông tin tình báo giả mạo cung cấp cho người Đức trong khi đi khắp châu Âu và Mỹ trong vai một chàng hào hoa.

Năm 1974, ông xuất bản cuốn sách kể lại những trải nghiệm trong thời chiến với tên Spy/Counterspy: The Autobiography of Dusko Popov.

6. Oleg Penkovsky
Penkovsky tại phiên tòa. Ảnh: Time
 
Vốn là sĩ quan tình báo (đại tá) của Liên Xô, Penkovsky đã tìm cách bán thông tin cho Anh và Mỹ vào năm 1962.

Được đặt mật danh Agent Hero, Penkovsky thông báo chi tiết kho hạt nhân của Liên Xô cho Mỹ và kế hoạch triển khai tên lửa đường đạn của Liên Xô ở Cuba trước cuộc khủng hoảng tên lửa.

Một điệp viên hai mang khác ở Mỹ đã tố cáo Penkovsky và ông ta bị truy tố và bị xử tội phản quốc năm 1963.

7. Kim Philby

Kim Philby (ngoài cùng, bên phải). Ảnh: Corbis
Năm 1941, gia nhập lực lượng tình báo Anh dù đã làm việc cho tình báo Liên Xô kể từ năm 1933.

Trong vòng 20 năm, Philby thăng tiến trong tình báo Anh và chỉ bị lộ vào năm 1963. Philby trốn tới Moskva và được coi là người hùng của Liên Xô. Ông qua đời năm 1988.

8. Ashraf Marwan

Ashraf Marwan (phải). Ảnh: AP
Marwan là con rể của Tổng thống Ai Cập Gamal Nasser và làm việc cho Israel. Hồi thập niên 60, Israel thuê Marwan cung cấp những thông tin cho họ trước cuộc chiến Yom Kippur.

Mặc cho vụ này bị bại lộ, Ai Cập vẫn coi Marwan là nhà yêu nước và tổ chức tang lễ cho ông như một người hùng sau một cái chết bí ẩn năm 2007 ở London.

9. Denis Donaldson

Denis Donaldson (trái). Ảnh: EPA
Donaldson là thành viên của đảng Sinn Fein được lực lượng tình báo Anh MI5 và cảnh sát Bắc Ireland mua chuộc.

Hiện chưa rõ tại sao Donaldson lại phản bội đảng của mình song vào năm 2006, anh ta bị bắn chết trong một căn nhà gỗ.

Ba năm sau, phong trào ly khai The Real IRA tuyên bố họ đứng đằng sau cái chết này. .

10. Aldrick Ames

Aldrich Ames. Ảnh: Wikipedia
Cựu điệp viên CIA Mỹ này kiếm được khoảng 4,6 triệu USD nhờ bán thông tin cho Liên Xô.

Khi còn ở trung học, Ames làm việc vặt cho Cục Tình báo Trung ương Mỹ và bắt đầu làm chính thức cho cơ quan này sau khi tốt nghiệp đại học.

Ames rơi vào cảnh túng thiếu và buộc phải làm cho Liên Xô sau một cuộc ly dị tốn kém với người vợ đầu tiên. Ames bị lộ năm 1994 và hiện chịu án tù chung thân.  
11. Robert Hanssen
Robert Hanssen. Ảnh: Corbis
Chỉ 3 năm sau khi làm cho Cục Điều tra Liên bang Mỹ (FBI), Hanssen bắt tay với Liên Xô năm 1979. Hanssen tiếp tục bán bí mật của Mỹ sau khi Liên Xô sụp đổ.

Năm 2001, Hanssen bị bắt quả tang bán thông tin tình báo của Mỹ. Hiện Hanssen chịu án tù chung thân ở Mỹ. Theo VND

Huyền thoại tình báo Xôviết Gevork Vartanian

16:15 27/01/2012

Ngày 10/1/2012, nhà tình báo huyền thoại của Liên Xô (cũ) Gevork Vartanian đã qua đời tại Moskva ở tuổi 88. Ông từng là một trong những thành viên của toán điệp viên Liên Xô tham gia phá vỡ âm mưu bắt cóc lãnh đạo "Tam cường" vào năm 1943. Với bề dày thành tích sau nửa thế kỷ hoạt động tình báo, ông được tặng thưởng nhiều huy chương cao quý và được xem là một trong những điệp viên sáng chói nhất, một trong những huyền thoại của tình báo Xôviết.

Nữ điệp viên bậc thầy của thế chiến 2

 



Trong Chiến tranh Thế giới lần thứ 2, nữ điệp viên bậc thầy Vera Atkins đã trực tiếp cử 39 nữ điệp viên hoạt động cho cơ quan tình báo Anh sang những vùng quân Đức chiếm đóng ở châu Âu.
nu-diep-vien-bac-thay-3.jpg
Vera Atkins
Chiều ngày 16/6/1943, hai chiếc Cabriolet mầu đen từ London chạy ra sân bay Tangmere. Vera Atkins ngồi trên xe cùng 3 điệp viên dưới quyền là Cécily Lefort, Diana Rowden và Noor Inayat Khan - một công chúa Ấn Độ.
Sau khi đến sân bay, 3 người nhận đồ ăn tối. Máy bay đã đợi sẵn và sẽ chở 3 nữ điệp viên đến nước Pháp đang bị quân Đức chiếm đóng. Các phi công thông báo dưới ghế ngồi của mỗi người đều có sẵn .... một chai Whyski dẹt – để trấn tĩnh nếu cần, vì đây là một trong những chiến dịch bí mật nhất và nguy hiểm nhất trong cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai.
soe-mat-ma.jpg
Dạy mật mã cho điệp viên của SOE 
Mệnh lệnh "đốt cháy châu Âu!"
Atkins sinh năm 1908 trong một gia đình Do Thái ở Rumani. Năm 1933 bà cùng gia đình sang sống ở Anh và năm 1935 đến Pháp. Sau khi học xong trung học, bà học trường Đại học Sorbonne nổi tiếng ở Paris. Tháng 5/1940, Atkins quay lại Anh và tháng 2/1941, bà ra nhập “phòng Pháp” của cơ quan tình báo Anh mới thành lập mang tên Special Operations Executive (SOE), mà theo lời của Thủ tướng Anh Winston Churchill thì, vì những hoạt động sau lưng quân địch SOE sẽ trở thành một "Bộ chiến tranh ngầm".
Nhiệm vụ Churchiull trao cho SOE rất đơn giản và cũng rất rõ ràng: “Hãy đốt cháy châu Âu!". Các điệp viên phải đánh sập cầu cống, phá hoại nhà máy, làm tàu hỏa trật ray và dùng mọi biện pháp để quấy rối quân Đức.
Phụ nữ đóng một vai trò quan trọng trong phương án của SOE. Khác với nam giới, họ có thể đi lại trong vùng địch chiếm mà không gây sự chú ý. Điều kiện quan trọng nhất là những nữ điệp viên được cử sang Pháp phải nói thành thạo tiếng Pháp.  Ngoài ra, họ phải tập nhảy dù, học võ thuật để hạ gục kẻ thù mà không gây tiếng động.
Các điệp viên trong vùng địch chiếm mạo hiểm tính mạng mình vì những lý do khác nhau. Trong số họ có Violette Szabo là người đã từng làm việc trong ngành ... nước hoa của tập đoàn kinh doanh Woolworth's ở London. Chồng Violette Szabo hy sinh ở Bắc Phi. Để trả thù cho chồng, Violette Szabo tình nguyện ra nhập toán điệp viên, để lại ở nhà đứa con gái mới 2 tuổi. Những người khác, như nữ bá tước người Ba Lan Krystyna Skarbek hoặc Công chúa Ấn Độ Noor Inayat Khan... đều không muốn khoanh tay đứng nhìn quân Đức cai trị châu Âu.
soe-nhay-du.jpg
 Điệp viên nhảy dù thâm nhập địa bàn Pháp
Bí mật của chocolate vị tỏi
Lãnh đạo họ là Vera Atkins, một trong những phụ nữ đầu tiên leo lên được một vị trí gần gũi với ban lãnh đạo cơ quan tình báo Anh. Vera Atkins được tiếp cận hồ sơ mật và bắt đầu sự nghiệp tình báo trong vị trí trợ lý một sĩ quan điều khiển một mạng lưới điệp viên. Tháng 8/1944 Vera Atkins được phong hàm thiếu tá và cùng với đại tá Maurice Buckmaster chỉ huy phòng Pháp của SOE. Trong thời gian làm việc tại đây, Vera Atkins đã chỉ huy và chuẩn bị cho 400 điệp viên hoạt động trong vùng quân Đức chiếm đóng, trong đó có 39 nữ điệp viên. Vera Atkins đã trực tiếp tuyển chọn và đào tạo nhiều người trong số họ.

Phương tiện kỹ thuật các điệp viên của SOE sử dụng khi làm nhiệm vụ là rất đa dạng, từ tàu ngầm 1 người đến chuột mang thuốc nổ hoặc súng ngắn mini dưới dạng một chiếc bút máy. Các điệp viên còn mang theo chocolate có vị tỏi, vì theo nhận thức của cơ quan tình báo Anh, tỏi là hương vị đặc trưng của dân Pháp nên họ sẽ dễ  hòa mình vào người Pháp !
Trong chiến tranh, Atkins đã cử 39 nữ điệp viên ra trận bằng nhiều cách khác nhau, ví dụ như nữ điệp viên Krystyna Skarbek đã dùng bàn trượt tuyết trong mùa đông lạnh giá từ Slôvakia vượt qua vùng núi Tatra để đến Ba Lan.
soe-nu.jpg
Những điệp viên nữ trong SOE 
Lần theo dấu tích đồng đội
Sau chiến tranh, không phải tất cả đều trở về Anh nguyên vẹn, như trường hợp nữ điệp viên Odette Sansom, người đã để lại 3 cô con gái nhỏ ở Anh. Khi bắt được chị, quân Đức đã dùng gậy sắt nung đỏ đập gãy lưng Odette Sansom và dùng kìm rút tất cả móng chân. Hàng năm sau Odette Sansom vẫn không đi giày dép được mà phải đi bằng gót chân. Sau này phải qua nhiều cuộc phẫu thuật tình trạng của Odette Sansom mới khá hơn.
Một số nữ điệp viên bị quân Đức bắt rất nhanh chóng, vì hồi đó trong SOE có một điệp viên hai mang cũng làm việc cho quân Đức. Tuy vậy, Công chúa Ấn Độ Noor Inayat Khan vẫn đánh được điện tín từ Paris đi London trong nhiều tuần lễ mà không lọt vào nanh vuốt của bọn Gestapo. Noor Inayat Khan đã phải họat động hoàn toàn một mình, vì mạng lưới điệp viên nằm vùng lẽ ra phải giúp đỡ cô đã bị lộ. Cuối cùng cô cũng bị điệp viên hai mang phát hiện, bị bắt và giết hại trong trại tập trung Dachau.
Sau khi chiến tranh kết thúc, Atkins đến Đức để tìm kiếm 118 điệp viên của phòng Pháp bị mất tích trong chiến tranh. Nhiệm vụ cuối cùng của Atkins khi cuộc chiến kết thúc là chắp nối những dấu vết của các điệp viên này và tìm kiếm họ. Bà đã coi đó là nhiệm vụ của đời mình. Atkins đã thành công và nữ điệp viên bậc thầy này đã tìm ra số phận các điệp viên bị mất tích của mình. Kết quả, Atkins đã tìm được 117 người; 39 người trong số các điệp viên là nữ; 13 người đã không sống được đến ngày chiến thắng
Trong khi truy tìm dấu vết tại Đức, Atkins đã phải đối mặt với sự khủng khiếp trong các trại tập trung. Bà cũng là người đã trực tiếp hỏi cung Rudolf Hoess, kẻ đã từng là chỉ huy trưởng trại tập trung Auschwitz. Nữ điệp viên bậc thầy này đã xoay đến cùng tên tội phạm chiến tranh khét tiếng này, cho đến khi lấy được những thông tin bà cần để tìm ra đồng đội của mình. "Người phụ nữ này biết cách đối xử với bất cứ ai mặc quần", một đồng nghiệp của Atkins đã nêu bật tính cách của bà.
Tuy cuối cùng, cuộc truy tìm đã mang lại kết quả nhưng thật đau buồn, vì tất cả các đồng đội mà Atkins tìm kiếm đều đã bị quân Đức giết hại trong các trại tập trung.
soe.jpg
Hiện nay, một bộ phim mang tên "Đêm tối và sương mù" về cuộc đời của nữ điệp viên bậc thầy này đang được khởi quay với ngôi sao Hollywood Uma Thurman trong vai Vera Atkins và dự kiến sẽ ra mắt người xem vào năm 2016.
Phan Trọng Hùng (Tổng hợp)

Chân dung nữ gián điệp kỳ bí nhất Thế chiến II

Là hình mẫu của vai nữ chính trong loạt tiểu thuyết tình báo James Bond, Christine Granville được cho là nữ gián điệp dũng cảm, kiên cường và kỳ bí nhất Thế chiến II.

0-4372-1431010600.jpg
Christine Granville năm 1950. Ảnh: NYTimes
Christine Granville là gián điệp được thủ tướng Anh khi đó, ngài Winston Churchill, đánh giá cao nhất và từng được trao tặng huân chương anh dũng của cả chính phủ Anh và Pháp. Bà cũng là nguyên mẫu nhân vật nữ gián điệp Vesper Lynd trong tập đầu tiên của tiểu thuyết tình báo James Bond.
Tên thật của Granville là Maria Krystyna Janina Skarbek, người gốc Ba Lan. Cha của bà là một nhà quý tộc, mẹ bà là một người thừa kế gốc Do Thái giàu có. Trước chiến tranh, Granville hưởng thụ cuộc sống của một tiểu thư con nhà quyền quý, từng đạt giải á hậu trong cuộc thi người đẹp Ba Lan năm 1930. Nhưng, Thế chiến thứ hai đã thay đổi hoàn toàn cuộc sống của bà.
Tháng 9/1939, quân đội Đức Quốc xã xâm chiếm Ba Lan. Khi đó, Granville đang ở Nam Phi với chồng, một quan chức ngoại giao. Trước biến cố quốc gia, bà nhanh chóng quyết định đi sang London và đăng ký trở thành nhân viên tình báo của Anh.
Trong đơn đăng ký, Granville đề nghị thâm nhập vào lãnh thổ Ba Lan bằng cách trượt tuyết vượt qua dãy núi Carpathian, từ đó giúp chính phủ Anh tiến hành tuyên truyền chính trị tại thủ đô Vacsava của Ba Lan. “Bà ấy không sợ gì cả, là một người Ba Lan yêu nước đầy nhiệt huyết, một người trượt tuyết chuyên nghiệp, một nhà mạo hiểm nữ vĩ đại”, báo cáo của Cơ quan đặc công Anh đánh giá về nữ gián điệp này viết.
Bà được nhận vào Phòng tình báo D, đơn vị sau này phát triển thành Phòng hành động đặc biệt (SOE). Đây là nhóm tình báo được đích thân Thủ tướng Churchill quyết định thành lập, với nhiệm vụ tiến hành các hoạt động phá hoại, lật đổ, gián điệp tại hậu phương địch. Sau khi vào nghề, nữ gián điệp này được nhận hộ chiếu Anh với tên mới là Christine Granville và bí danh hoạt động là Willing.
Trạm đầu tiên trong nghiệp tình báo của Granville là Hungary, nước láng giềng với Ba Lan. Nhiệm vụ của bà là đưa các nhân sĩ phản kháng và binh sĩ Ba Lan thoát ra khỏi vùng chiếm đóng, để tiếp tục chiến đấu cho quân Đồng minh. Người thường xuyên phối hợp với Granville là ông Andrzej Kowerski, một người Ba Lan yêu nước mất một chân. Ông này cũng là người tình lâu năm nhất của bà.
Theo nhà sử học Clare Mulley, người từng viết sách về cuộc đời Granville, có rất nhiều câu truyện truyền kỳ về phong cách làm việc bình tĩnh, lạnh lùng của nữ điệp viên này. Bà từng trượt tuyết vượt qua đoạn đường núi chất đầy thi thể đóng băng của người tị nạn. Bà cũng từng chạy tránh đạn của không quân phát xít Đức tại những vùng núi rộng lớn, hay phải tự cắn lưỡi để lừa tình báo địch tưởng là bà mắc bệnh phổi để thoát thân.
Tương truyền, Granville còn có khả năng điều khiển động vật. Theo đó, có lần Granville và một số chiến binh du kích khi đang ẩn nấp trong lùm cây, thì bị một con chó berger hung dữ đánh hơi phát hiện, bà liền vòng tay ôm lấy con chó. “Con chó liền nằm ngày xuống cạnh bà ấy, không để ý gì đến tiếng huýt sáo của chủ”, học giả Mulley cho biết.
Tuy nhiên, nhà nghiên cứu Mulley cũng cho hay Granville là một người rất biết cách tạo dựng nên các câu chuyện để “thần thoại hóa bản thân”, vì vậy không phải câu chuyện nào về cuộc đời truyền kỳ của nữ gián điệp này cũng đúng với sự thực lịch sử. “Gặp ai bà ấy cũng kể về câu chuyện thuần phục con chó của địch trên”, Mulley nói.
Nữ điệp viên đa tình
Granville là một phụ nữ rất hấp dẫn và đa tình. Trong quá trình hoạt động, bà có rất nhiều người tình và cũng bỏ rơi rất nhiều người đàn ông. Không ít người trong số họ không chịu nổi điều đó. Theo hồ sơ của cơ quan tình báo Anh, một người tình của Granville tại Budapest đã cố ý tự làm thương để níu kéo bà.
Mặc dù sự nghiệp tình báo và đời sống tư của bà đầy phức tạp, Granville là một người rất “ngây thơ về chính trị”. “Bất kể người nào chỉ cần giao cho bà ấy nhiệm vụ có ích trong việc giải phóng tổ quốc, bà ấy đều không từ chối”, học giả Mulley cho biết.
Năm 1944, Granville được gửi đến miền nam nước Pháp hỗ trợ cho điệp viên Francis Cammaerts thuộc SOE, người sau này cũng trở thành người tình của bà. Nhiệm vụ của bà là truyền thông tin tình báo và vũ khí giữa các tổ chức chống phát xít, cũng như thuyết phục các binh sĩ gốc Ba Lan trong quân đội Đức đầu hàng quân Đồng minh.
Thành công lớn nhất của Granville là đã cứu thoát Cammaerts và hai điệp viên khác bị lực lượng mật vụ Đức Quốc xã Gestapo bắt giữ khỏi khám tử tù. Nữ gián điệp này hối lộ giám ngục để được vào nhà giam. Tại đây, bà tự xưng là cháu gái của Thống chế Montgomery của nước Anh, rồi cảnh cáo kẻ cầm đầu của mạng lưới chỉ điểm Pháp rằng, nếu họ xử tử ba nhân viên tình báo trên thì sẽ bị quân Đồng minh trả thù. Người này tin lời của Granville và đã bỏ trốn cùng các điệp viên.
Sau chiến tranh, nhóm tình báo của Granville bị giải thể. Nhưng ngay sau đó, Chiến tranh Lạnh nổ ra, cũng như rất nhiều người Ba Lan lưu vong khác, Granville không thể trở về tổ quốc. Trong thời bình, nữ gián điệp lừng danh một thời này trải qua nhiều công việc, như nhân viên nhận điện thoại, trợ lý bán hàng và công việc cuối cùng của bà là nhân viên phục vụ của một công ty vận tải.
“Granville trở nên thất thường, yêu cầu rất cao, không chịu nổi cảnh làm thuê, chí ít là không tìm được công việc mà bà ấy thích. Bà ấy không muốn trở thành nhân viên đánh máy, làm vợ hay làm mẹ, chỉ muốn làm gián điệp”, học giả Mulley cho hay.
Tháng 6/1952, Granville bị đồng nghiệp, người cũng là tình nhân cũ của bà, Dennis Muldowney, đâm chết tại đại sảnh một khách sạn ở London. Muldowney bị kết án tử hình. Nhưng cho đến tận lúc thi hành án, người đàn ông này vẫn khẳng định ông rất yêu Granville và không chịu nổi cảnh bị bà bỏ rơi.
Đức Long (theo New York Times)

Chân dung điệp viên đào hoa giúp Liên Xô đánh bại phát xít Đức

VOV.VN - Một điệp viên Xô viết mang 2 dòng máu Nga và Đức đã lập chiến công lớn trong Thế chiến 2: Thông báo chính xác việc Đức sẽ tấn công Liên Xô.
LTS: Trong Cuộc Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại của mình, Liên Xô đã giành chiến thắng không chỉ nhờ vào nhân dân anh hùng và quân đội quả cảm, mà còn cả mạng lưới tình báo hết sức hiệu quả. Nhân kỷ niệm 71 năm Ngày Chiến thắng phát xít Đức, VOV.VN xin giới thiệu với độc giả loạt bài về một điệp viên tầm cỡ của Liên Xô đã có đóng góp lớn vào chiến công chung của Liên Xô trong việc đánh bại chủ nghĩa phát xít.
Vào các năm 1939-1940, Liên Xô đã nhận định phát xít Đức sớm muộn gì cũng sẽ tấn công mình. Nhưng họ không biết chính xác thời điểm. Và ban đầu họ còn phán đoán lầm rằng thời điểm tấn công sẽ chưa đến ngay. Thế nhưng một điệp viên Liên Xô đã phát hiện sớm kế hoạch tấn công của Đức. Đáng tiếc ban đầu ban lãnh đạo Liên Xô không tin vào thông tin do điệp viên đó cung cấp. Và quân đội Xô viết đã thực sự bị bất ngờ và chịu nhiều tổn thất  trong giai đoạn đầu của cuộc chiến chống phát xít Đức.
*****
Richard Sorge vừa quay trở lại Tokyo (Nhật Bản) vào ngày 22/6/1941. Lúc đó anh nghe thấy các cậu bé bán báo trên phố rao tin tức nước Đức đã xâm lược Liên Xô.
chan dung diep vien dao hoa giup lien xo danh bai phat xit duc hinh 1
Richard Sorge – nguồn cảm hứng cho tác giả Ian Flemming sáng tạo ra nhân vật James Bond trong loạt tiểu thuyết lừng danh của mình. Ảnh: Ullstein Bild.
Sorge vốn là một nhà báo có tiếng của Đức, đồng thời là một người nghiện rượu nặng nổi tiếng với tính trăng hoa. Trước khi nghe được tin tức mới này, anh đang lái ô tô ở vùng nông thôn bên người tình mới nhất của mình - một nhạc công piano xinh đẹp người Đức.
Giờ đây, ngồi tại quán bar trong khách sạn Imperial, anh đắm chìm vào tâm trạng u ám và liên tục nốc rượu.
Anh ta hét to lên và chửi thề bằng tiếng Anh: “Hitler đúng là tên tội phạm. Một kẻ sát nhân. Rồi Stalin sẽ dạy cho gã khốn đó một bài học. Các vị cứ đợi đó!”.
Cả nhân viên người Nhật của quán bar và bạn rượu của Sorge đều không thể làm cho anh bình tâm lại được. Nhấc máy điện thoại đặt tại sảnh, anh quay số cho đại sứ Đức. “Cuộc chiến này nhất định sẽ thất bại đó!” anh ta hét vào tai vị đại sứ [Đức] – một người bạn lâu năm của Sorge.
Sĩ quan tình báo quân đội Liên Xô
Cơn thịnh nộ của Sorge một phần là do anh rất căm ghét chiến tranh. Anh từng phục vụ trong lục quân Đức trong Thế chiến thứ 1 và bị thương nặng. Anh tin rằng cuộc tấn công do Hitler phát động sẽ dẫn tới thảm họa.
Nhưng còn một lý do nữa, quan trọng hơn, khiến Sorge nổi đóa. Đó là vì Richard Sorge, bên cạnh việc là nhà báo Đức, đảng viên Quốc xã, và nhân viên báo chí bán thời gian cho Đại sứ quán Đức, anh còn là một sĩ quan trong cơ quan tình báo quân sự Xô viết (GRU). Sorge chính là điệp viên quan trọng nhất của Liên Xô ở châu Á. Mà chỉ vài tuần trước đó, Moscow đã phớt lờ những cảnh báo mà anh gửi về trung tâm liên quan đến cuộc tấn công sắp tới của Đức!
Bức điện anh gửi về tổng hành dinh GRU vào ngày 1/6 có đoạn: “Cuộc chiến Đức-Xô dự kiến diễn ra bắt đầu vào tầm ngày 15/6 – điều này dựa trên thông tin mà Trung tá Scholl mang từ Berlin đến cho Đại sứ Ott”. Thế nhưng các thượng cấp của Sorge ở Moscow đã phê vào bức điện như sau: “Nghi ngờ. Liệt bức điện này vào nhóm các bức điện mang tính khiêu khích”.
Cảnh báo sớm này của Sorge đã bị lãnh tụ Liên Xô khi đó là Stalin coi là thứ vớ vẩn “đến từ một gã hay vào nhà thổ ở Nhật Bản”.



VOV.VN - Nguyên soái Tukhachevsky là một nhà chỉ huy thiên tài, một lý luận gia xuất chúng có đóng góp to lớn vào nền quân sự Liên Xô và thế giới.

Bất chấp điều đó, Sorge vẫn tiếp tục công tác tình báo. Sau khi bị sốc từ cuộc tấn công do Đức thực hiện, Moscow bắt đầu chú ý đến các báo cáo do Sorge gửi về. Trong vài tháng sau đó, các hoạt động tích cực của viên sĩ quan tình báo này đã mang lại các thông tin quý báu giúp Liên Xô chặn đứng cuộc chiến chớp nhoáng của Đức ở cửa ngõ thủ đô Moscow và đảo ngược tình thế chiến tranh Xô-Đức.
Dường như ông trời sinh ra Sorge là để thực hiện vai trò này. Sorge được nhiều người coi là điệp viên quan trọng nhất trong Thế chiến thứ 2.
Richard Sorge chào đời vào năm 1895 ở miền nam nước Nga. Mẹ Sorge là người Nga, còn cha là một kỹ sư Đức. Gia đình Sorge chuyển về Đức một vài năm sau đó. Tại đây cậu bé Sorge được nuôi dưỡng trong môi trường của một gia đình trung-thượng lưu. Thế nhưng gốc gác Nga của Sorge đã ảnh hưởng đến anh ta suốt cuộc đời.
Học giỏi, đẹp trai, đa tình
Năm 1914 Sorge nhập ngũ vào lục quân Đức. Sau đó anh bị thương nặng với di chứng là đi cà nhắc. Trong thời gian dưỡng thương, anh ta đã cưa cẩm (và bị cưa cẩm bởi) một y tá chăm sóc cho mình.
Cô y tá này cùng với cha mình – một thầy thuốc theo chủ nghĩa Marx, đã giác ngộ anh bằng các tư tưởng cấp tiến. Vài năm sau đó, anh dành thời gian chuyên tâm nghiên cứu về kinh tế học và chính trị học, đặc biệt là chủ nghĩa Marx.
Vào cuối cuộc Chiến tranh Thế giới thứ 1, tư tưởng cấp tiến thuộc đủ màu sắc ngập tràn trong đất nước Đức. Trong bối cảnh ấy, Sorge nghiêng dần về phái tả. Anh có được học vị tiến sĩ vào năm 1919. Cùng năm này, anh gia nhập Đảng Cộng sản Đức.
Sorge lao vào hoạt động tuyên truyền cánh tả trong các công nhân mỏ ở Đức. Và đồng thời, anh lại sa vào chuyện tình ái với vợ của một trong các giáo sư từng dạy mình trước đây.
Sorge vừa điển trai vừa toát lên vẻ lôi cuốn khó cưỡng đối với phụ nữ. Cánh đàn ông cũng rất ngưỡng mộ Sorge.
Christiane Gerlach - một người làm nội trợ, đã vướng vào lưới tình của Sorge. Những năm sau này, Gerlach kể lại ấn tượng của mình khi lần đầu thấy Sorge: “Cứ như có một tia sét chạy dọc người tôi vậy. Chỉ trong giây lát, nó xuất hiện rồi cứ theo tôi suốt đến tận bây giờ. Một thứ gì đó thật u mê, khó thoát được...”
Sorge cũng giành được cảm tình của chồng Gerlach – một vị giáo sư đã nhất trí ly dị vợ một cách nhẹ nhàng. Sau đó Sorge và Gerlach kết hôn vào năm 1922. Nhưng cuộc hôn nhân này cũng chỉ kéo dài được vài năm.
chan dung diep vien dao hoa giup lien xo danh bai phat xit duc hinh 3
Sĩ quan lục quân Đức Eugen Ott năm 1934. Ảnh: Ullstein Bild.
Các tuyên truyền cánh tả của Sorge khiến anh gặp rắc rối với cảnh sát. Năm 1924 anh rời bỏ nước Đức để sang miền đất hứa mới – nước Nga Xô viết. Tại đó, anh gia nhập tổ chức quốc tế mới của những người Xô viết – tổ chức Quốc tế Cộng sản. Anh phụ trách công tác liên lạc với các đảng cộng sản nước ngoài.



VOV.VN - Mật vụ KGB đã tỉ mỉ tìm ra các dấu hiệu này và dựa vào đó để “nhổ” hàng loạt điệp viên của cơ quan tình báo CIA (Mỹ) cài cắm ở Liên Xô.

Đến năm 1929, anh trở thành sĩ quan tình báo quân sự của Liên Xô (viết tắt là GRU). Cơ quan này cử anh đi làm nhiệm vụ ở Trung Quốc. Người ta đã dạy anh các kỹ thuật căn bản của nghề tình báo và trang bị cho anh kiến thức về chính trị và quân sự.
Vốn là “thỏi nam châm” thu hút phái đẹp, Sorge đã nhanh chóng chiếm được tình cảm của một sinh viên ngành kịch trẻ đẹp, tên là Katya Maximova. Sau ba năm làm công tác tình báo đầy hiệu quả ở Trung Quốc, Sorge quay trở lại Moscow vào năm 1933. Tại đây, anh cưới Maximova làm vợ.
Sau khi Nhật Bản xâm chiếm Mãn Châu trong các năm 1931-1932, Moscow lo ngại đòn xâm lược của Nhật có thể sẽ quay sang cả vùng Viễn Đông của Liên Xô.
Để tạo vỏ bọc nhà báo, Sorge tới Nhật thông qua ngả Đức - ở đây một chủ bút nhận các bài viết của anh đã trao cho anh một bức thư giới thiệu gửi tới một viên sĩ quan lục quân Đức, Đại tá Eugen Ott – tùy viên quân sự mới của Đức ở Tokyo.
Sorge tới Tokyo vào tháng 9/1933. Các bài báo của Sorge giúp anh tạo dựng uy tín của một chuyên gia về Nhật Bản. Anh cũng đã gia nhập Đảng Quốc xã. Bằng cách này, anh tiếp cận được Đại sứ quán Đức, nơi các nhà ngoại giao (gồm cả Đại sứ Đức tại Nhật Herbert von Dirksen) đánh giá cao các nhận định và phân tích của anh./.




VOV.VN - Đam mê tửu sắc nhưng am hiểu chính trị khu vực, điệp viên Liên Xô Sorge đã lấy được nhiều thông tin cơ mật về quan hệ Đức-Nhật rồi gửi về trung tâm.





VOV.VN - Năm 1941 Hồng quân chưa thực sự mạnh, lại bị Đức tấn công bất ngờ. Lúc đó nếu bị Nhật Bản tấn công từ phía đông, Liên Xô sẽ khó bề trụ được.
Trung Hiếu/VOV.VN Dịch từ History.net

Điệp viên siêu hạng “quan trọng nhất” của Liên Xô trong Thế chiến 2

VOV.VN - Đam mê tửu sắc nhưng am hiểu chính trị khu vực, điệp viên Liên Xô Sorge đã lấy được nhiều thông tin cơ mật về quan hệ Đức-Nhật rồi gửi về trung tâm.
VOV.VN tiếp tục giới thiệu với độc giả kỳ 2 trong loạt bài của nhà nghiên cứu Stuart D. Goldman về nhân vật lịch sử - sĩ quan tình báo quân đội Liên Xô Richard Sorge:
Tiến sĩ Sorge không giả vờ làm một gã Đức Quốc xã cuồng tín. Anh thường bày tỏ sự khinh miệt đối với những hành vi thái quá của bọn Quốc xã cũng như sự ngu xuẩn của một số lãnh đạo đảng này. Bất ngờ là điều này lại càng làm gia tăng thay vì hủy hoại uy tín của Sorge. Chắc chắn, một người dám nói lên suy nghĩ của mình chỉ có thể là một học giả tâm huyết, một người yêu nước nói thẳng nói thật, hay một cựu chiến binh với thương tích trận mạc đầy mình.
diep vien sieu hang quan trong nhat cua lien xo trong the chien 2 hinh 1
Chân dung Tiến sĩ Sorge thời trẻ. Điệp viên này sinh ra ở Baku (thời còn thuộc Đế chế Nga) vào năm 1895. Ảnh: spymuseum.com.
Một khía cạnh “thật” khác giúp tạo nên vỏ bọc hiệu quả cho Sorge: Anh ta đam mê cả tửu lẫn sắc. Từng đi nhậu nhẹt với Sorge, một nhà báo Mỹ sau này viết rằng Sorge “tạo cho người khác ấn tượng về một khách làng chơi, một gã vô công rồi nghề - hình ảnh hoàn toàn đối lập với một gián điệp sắc sảo và nguy hiểm”.
Cố vấn tin cẩn
Vào tháng 10/1934, Đại tá Ott – tùy viên quân sự Đức, mời Sorge hộ tống ông ta trong chuyến thăm Mãn Châu. Sorge viết báo cáo về chuyến đi. Bản báo cáo này được Ott gửi về bộ tư lệnh tối cao ở Berlin và nhận được sự khen ngợi ở đây.
Sorge trở thành cố vấn tin cẩn nhất của Ott về chính trị Nhật Bản và hay được mời về nhà Ott chơi. Chả mấy chốc Sorge... leo luôn lên giường với vợ của viên Đại tá Đức – cô Helma Ott.
Những chuyện khó tin nhất đã xảy ra. Sorge dám mạo hiểm phá hỏng quan hệ tốt đẹp của mình với Đại tá Ott. Đến lượt mình, viên tùy viên quân sự này lại sẵn sàng lờ qua chuyện dan díu giữa vợ và Sorge chỉ vì ông đánh giá quá cao trình độ am hiểu Nhật Bản của Sorge cũng như yêu mến viên cố vấn. Đại tá Ott tin rằng mọi chuyện rồi sẽ sớm qua đi (sự thực cũng đúng như vậy).
Mạng lưới tình báo của Sorge ở Tokyo bao gồm 2 điệp viên nữa do Moscow cử đến. Đó là Branko Vukelic, một đảng viên cộng sản Nam Tư, trong vai trò nhà báo cho một hãng thông tấn Pháp và xử lý vi phim cho Sorge. Người thứ 2 là Max Clausen, đảng viên cộng sản Đức, phụ trách liên lạc điện đài cho cả cụm tình báo này.
Clausen gửi các bức điện sử dụng bộ mã số đặc biệt – một hệ thống mã hóa tuy cồng kềnh nhưng gần như không thể phá được vì dựa vào duy nhất một khóa mật mã hoàn toàn ngẫu nhiên. Giới chức Nhật Bản phát hiện ra tín hiệu điện đài trái phép nhưng không định vị được nơi phát sóng cũng như không tài nào giải mã được các bức điện mật mà họ bắt được qua làn sóng điện.
Thành viên quan trọng nhất của cụm tình báo này, ngoài bản thân Sorge, chính là Hotsumi Ozaki, một nhà báo Nhật Bản thiên tả. Ozaki là một chuyên gia uy tín về Trung Quốc. Anh có mối quan hệ với các nhân vật chính trị đầy ảnh hưởng.
diep vien sieu hang quan trong nhat cua lien xo trong the chien 2 hinh 2
Điệp viên người Nhật Ozaki trong lưới tình báo của Sorge. Ảnh: history.net.
Một trong những người bạn của Ozaki là chánh văn phòng Thủ tướng Nhật Bản, Hoàng tử Fumimaro Konoye. Vị hoàng tử này về sau đã dùng Ozaki làm tư vấn viên cho nội các. Ozaki chuyển sang làm tại một văn phòng trong khu nhà công vụ của Thủ tướng. Tại đây anh được tiếp cận các tài liệu mật và chuẩn bị các báo cáo chính sách đối ngoại cùng khuyến nghị cho chính phủ. Các thông tin và đánh giá của Ozaki trở thành các yếu tố chủ chốt trong các báo cáo mà Sorge gửi về Moscow. Trong các cuộc thảo luận với cán bộ của Đại sứ quán Đức, Sorge đều khôn khéo trình bày các ý kiến của Ozaki như thể là ý tưởng của riêng mình – điều này càng làm tôn thêm vị thế “chuyên gia” của Sorge.
Khéo léo che giấu thân phận
Sorge thuê một ngôi nhà nhỏ trong một khu dân cư yên tĩnh nằm trong tầm quan sát của đồn cảnh sát địa phương. Đây có thể là cách của Sorge – “ trú ẩn ở chính mắt bão”. Anh không hề tỏ vẻ giấu giếm. Anh thường phóng xe máy qua các con phố đông đúc của Tokyo trong tình trạng “tây tây say say”.
Mùa hè năm 1936, Sorge lại ve vãn một cô gái Nhật xinh đẹp 26 tuổi tên là Hanako Iishi. Cô này làm phục vụ tại một trong những nơi Sorge thường lui tới. Chẳng bao lâu, Iishi dọn sang sống trong nhà của Sorge. Mối tình với Iishi là mối quan hệ bền vững nhất trong đời Sorge.
Mùa xuân năm 1936, quá trình công tác của Sorge trong 3 năm ở Tokyo bắt đầu mang lại kết quả.
Thông qua các mối liên hệ với quân đội Nhật Bản, Eugen Ott biết được các cuộc đàm phán bí mật giữa Đức và Nhật về một hiệp ước chống Quốc tế Cộng sản – thực chất là hiệp ước chống Liên Xô. Các cuộc thương thảo này được thực hiện ở Berlin, và người ta chủ định giấu Đại sứ quán Đức ở Tokyo các thông tin liên quan đến vụ này. Nhờ tiết lộ của Ott mà Sorge và tất nhiên cả GRU ở Moscow được cập nhật thông tin về tiến trình thương lượng. Moscow lo lắng liên minh Nhật-Đức có thể sẽ tạo thế 2 gọng kìm tiến đánh Liên Xô từ hai hướng.
diep vien sieu hang quan trong nhat cua lien xo trong the chien 2 hinh 3
Lính phát xít Nhật thời Thế chiến 2. Ảnh: pinterest.
Năm 1938, Ott được thăng lên hàm thiếu tướng, trở thành Đại sứ Đức ở Nhật Bản. Điều này củng cố thêm thế đứng của Sorge trong Đại sứ quán Đức. Ott cho Sorge xem bản thảo các bức điện và báo cáo, đồng thời hỏi ý kiến Sorge về việc gửi điện về Berlin.
Các nhân viên trong sứ quán thường tìm đến Sorge để nắm ý đồ của vị Đại sứ. Sorge viết: “Họ thường đến gặp tôi và nói - chúng tôi nghe có chuyện này chuyện này, thế anh đã biết chuyện đó chưa và ý kiến anh thế nào?”
Tùy viên cảnh sát của Đại sứ quán Đức tại Nhật, Đại tá mật vụ Gestapo Joseph Meisinger, xác nhận mối quan hệ giữa Ott và Sorge “gần gũi đến mức mà mọi báo cáo bình thường từ các vị tùy viên gửi về Berlin đều trở thành các phụ lục gắn vào bản báo cáo tổng thể do Sorge viết và Đại sứ ký tên”.
Nắm rõ ý đồ của Nhật muốn cấu kết với Đức
Tháng 6/1938, Tướng Genrikh Lyushkov - trưởng bộ phận NKVD (tức Bộ Dân ủy Nội vụ - tiền thân của cơ quan tình báo KGB sau này) ở vùng Viễn Đông Liên Xô, đã vượt biên sang Mãn Châu và xin tị nạn chính trị ở Nhật Bản để tránh một cuộc thanh trừng do NKVD tiến hành nhằm vào ban lãnh đạo Hồng quân khi đó. Moscow rất lo lắng muốn biết viên tướng đào tẩu này sẽ nói những gì với phía Nhật Bản.
Berlin đã phái một sĩ quan tình báo tới Tokyo để hỗ trợ việc thẩm vấn viên tướng Lyushkov. Sorge nhận được bản sao báo cáo tuyệt mật của Đại sứ quán Đức về vụ này. Theo đó, Lyushkov cho biết trong Liên Xô khi ấy có sự bất mãn với Stalin và nếu Nhật Bản tấn công, Hồng quân sẽ “sụp đổ chỉ trong một ngày”. Ngoài ra có dấu hiệu Lyushkov đã tiết lộ cho Nhật Bản các khóa mật mã và thông tin về thế bố trí các đơn vị quân đội Liên Xô. Tất nhiên, Moscow đã thay đổi mật mã để phòng hậu họa.
Sáu tuần sau đó, một cuộc đụng độ biên giới giữa Liên Xô và Nhật Bản đã bùng phát ở đúng địa điểm Lyushkov đào tẩu. Thông tin tình báo từ mạng lưới của Sorge góp phần hình thành cách phản ứng cứng rắn của Liên Xô.
Hotsumi Ozaki nhận thấy các lãnh đạo Nhật Bản, do bận bịu với cuộc chiến ở Trung Quốc, quyết tâm không để cho đụng độ này trở thành một xung đột trên quy mô lớn. Thế là Moscow tung liền vài ngàn binh sĩ cùng xe tăng và phi cơ yểm trợ vào trận chiến này. Sau 2 tuần giao tranh, trận đánh Hồ Khasan kết thúc với việc Nhật Bản chấp nhận các điều khoản của Moscow.
Mô típ tương tự diễn ra một năm sau đó trong một cuộc chiến tranh không tuyên bố trên tuyến biên giới Mông Cổ-Mãn Châu. Quy mô trận chiến này lớn hơn nhiều nhưng kết quả không thay đổi so với trước.




VOV.VN - Chiến thuật phi công cảm tử Thần Phong (kamikaze) của người Nhật vào cuối Thế chiến 2 đã khiến quân đội Anh phải căng óc đối phó.

Một lần nữa, Sorge lại có điều kiện thông báo với độ chắc chắn cao rằng chính phủ Nhật Bản quyết không để xung đột này leo thang thành một cuộc chiến tranh toàn diện. Điều đó giúp Stalin hạ quyết tâm tung đòn dứt điểm nhằm vào Nhật Bản vào tháng 8/1939 trong trận đánh Khalkhin Gol.
Đồng thời, Sorge tiếp tục thông tin cho Moscow về nỗ lực của Nhật Bản lôi kéo Đức vào liên minh quân sự chống Liên Xô. Chính thông tin này tạo cơ sở quan trọng để lãnh tụ Stalin quyết định sử dụng đòn “tương kế tựu kế” bằng việc ký với Hitler vào cuối tháng 8 năm đó Hiệp ước Không Xâm lược lẫn nhau giữa Đức và Liên Xô. Chỉ một tuần sau khi hiệp ước này được ký kết, Thế chiến thứ 2 bùng nổ.
Như vậy, chỉ bằng một mũi tên, Stalin đã bắn trúng nhiều đích: Vừa tạo xung đột giữa Đức, Anh và Pháp, vừa đẩy Nhật ra khỏi liên minh chống Quốc tế Cộng sản với Đức.
Nhờ thắng lợi ngoại giao ngoạn mục này, Liên Xô có thể rảnh tay xử lý mối đe dọa quân sự từ phía Nhật Bản. Chúng ta phải nhớ rằng các báo cáo tình báo của Sorge đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành nên chiến lược nói trên của Liên Xô. Thế nhưng, đấy vẫn chưa phải là chiến công vĩ đại nhất của Sorge đối với Liên Xô./.




VOV.VN - Một điệp viên Xô viết mang 2 dòng máu Nga và Đức đã lập chiến công lớn trong Thế chiến 2: Thông báo chính xác việc Đức sẽ tấn công Liên Xô.





VOV.VN - Năm 1941 Hồng quân chưa thực sự mạnh, lại bị Đức tấn công bất ngờ. Lúc đó nếu bị Nhật Bản tấn công từ phía đông, Liên Xô sẽ khó bề trụ được.
Trung Hiếu/VOV.VN Dịch từ History.net

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

BÍ ẨN ĐƯỜNG ĐỜI 156

MUÔN MẶT ĐỜI THƯỜNG I/30

KIẾP GIANG HỒ 4