Thứ Ba, 17 tháng 1, 2017

HÁT NỮA ĐI ĐỜI 33

(ĐC sưu tầm trên NET)

                                       Con gái đứng tim khi nghe anh này hát Xin Em Đừng Khóc

                                                     Nghe giọng anh này hát mà đứt cả ruột gan

Đời là vô thường: Hãy sống cuộc sống hạnh phúc ý nghĩa

Thích:
Không có gì thường xuyên trường tồn mãi mãi …! Đời là vô thường, thân vô thường, tâm vô thường, thời gian vô thường, tiền vô thường, … Cuộc sống thì quá ngắn ngủi.

… Đời là vô thường!

Cuộc sống và vạn vật quanh chúng ta, từng giờ từng phút luôn luôn biến đổi theo không gian và thời gian, không có gì tồn tại vĩnh viễn. Đó chính là “Vô thường”, nghĩa là không có gì thường xuyên trường tồn mãi mãi.
Thân vô thường: Sinh, lão, bệnh, tử, bệnh tật, tai nạn bất thường luôn xảy ra.
Tâm vô thường: Lòng tin dễ lung lay, lý tưởng cũng dễ thay đổi.
Thời gian vô thường: Đời người thật ngắn ngủi để rồi thoáng chốc hiểu ra một điều được sống thanh thản hưởng chọn niềm yêu thương là điều quý giá.
Tiền vô thường: Khi chúng ta ra đời thì cũng đã chẳng có một đồng, khi chết rồi cũng chẳng mang đi được một xu..
Đời là vô thường nhưng sống phải có trách nhiệm
20 triết lý sống bình dị của Đức Đạt Lai Lạt Ma
Nói đến Tây Tạng thường chúng ta liên tưởng đến một đất nước Phật giáo đầy bí ẩn được che giấu giữa những dãy núi tuyết Hy Mã Lạp Sơn.

Đời là vô thường nhưng sống phải có trách nhiệm

Nếu đời là vô thường, sự sống có giới hạn thì phải chăng con người ta khi sống nên có một chút ý nghĩa. Bạn ước mong gì? Bạn muốn làm điều gì? Bạn cần phải làm điều gì? Bạn yêu thích điều gì? Bạn không nên làm điều gì? Bạn có biết mình đang muốn gì hay không? Nếu cuộc đời cứ thế trôi qua vô nghĩa, liệu điều gì sẽ khiến chúng ta ân hận về sau?
Có một số người tâm sự với tôi, họ không biết điều gì có thể khiến họ thực sự hạnh phúc! Họ không cảm thấy thế giới này có ý nghĩa, và họ không biết ước mơ của bản thân. Họ cũng không biết cuộc sống của họ có ý nghĩa không nữa!
Tôi bần thần suy nghĩ, giá mà tôi có thể cho họ một lời khuyên nào đó. Giá như tôi có thể giúp cho họ đánh bật những suy nghĩ tiêu cực. Tôi muốn làm điều ấy vì tôi rất quý họ. Tôi chỉ có thể nói với họ rằng, cuộc sống của họ rất có ý nghĩa, ít ra công việc họ đang làm nó có ý nghĩa và hữu ích với rất nhiều người dù những công việc đó chưa thật sự giúp bản thân họ hạnh phúc. Dù cho cuộc đời này có vô thường đến thế nào (làm việc kiếm nhiều tiền cũng chẳng đem được xuống mồ khi chúng ta nhắm mắt, hay tức giận đau buồn cũng chẳng khiến mọi việc trở nên tươi sáng hơn), dù không có gì tồn tại mãi mãi và cuộc đời cứ diễn ra theo cách mà nó muốn, nhưng như thế không phải để chúng ta buông xuôi. Không thể cứ sống kiểu nào cũng được dù trước sau gì cũng trở về cát bụi. Không thể cứ sống kiểu chỉ sống cho bản thân và hôm nay, rồi ngày mai có ra sao thì ra. Nếu sống như vậy phải chăng thật là phí hoài một đời người?! Cuộc sống có nghĩa lý gì nếu chúng ta không để lại cho đời một ký ức!.
Bí quyết sống hạnh phúc: Vui trọn từng ngày
Bí quyết sống hạnh phúc không nằm ở những điều lớn lao, đôi khi đó chỉ đơn giản là cách bạn ứng xử hàng ngày với chính bản thân mình!
Cuộc đời vô thường - Cuộc đời vẫn phải đẹp
Cuộc đời vô thường – Cuộc đời vẫn phải đẹp
Quyền sống sao cho có ích là quyền mà ai cũng có. Không chỉ sống có ích, chúng ta phải còn cần phải sống vui vẻ và hạnh phúc. Lựa chọn sống như thế nào đều là do chúng ta. Chúng ta nên hạn chế việc đổ thừa cho hoàn cảnh, cho số phận, cho cái này cái kia nếu bỗng một ngày, mọi việc xảy ra không như ý muốn. Người nghèo có nỗi khổ của người nghèo. Người giàu có nỗi khổ của người giàu. Nghèo khổ vì không đủ no ấm. Giàu khổ vì áp lực mất tiền vào tay kẻ khác. Tất nhiên là còn hàng trăm ngàn lý do khác!
Quan trọng hơn sự Vô thường khiến mọi thứ luôn không ngừng biến đổi. Nghèo rồi sẽ giàu. Giàu rồi cũng có thể nghèo. Không có điều gì nói trước được cả. Cũng giống như hôm nay bạn vui, mai bạn buồn. Cuộc sống không vì thế mà dừng lại. Cuộc sống vẫn tiếp diễn từng ngày. Không có gì tồn tại vĩnh viễn. Suy nghĩ và kiến thức của chúng ta cũng chẳng bao giờ dậm chân tại chỗ. Nó vẫn tiến bước không ngừng nghỉ. Phải chăng chúng ta cần hướng cuộc đời này theo cách chúng ta cảm thấy hạnh phúc và vui vẻ nhất?
Cuộc đời này ngắn ngủi lắm. Sống vui vẻ, sống hạnh phúc, sống có ý nghĩa là trách nhiệm và quyền lợi của chúng ta trong thế giới vô thường này, đúng không?
Những câu nói hay về cuộc sống đầy ý nghĩa
Lúc rảnh rỗi, chúng ta hay tìm kiếm hoặc có thể chợt bắt gặp những câu nói hay về cuộc sống đâu đó. Chúng ta đọc chúng rồi gật gù.

 

                                                               Một giọng hát cực chất mới lạ

                                                                      Thua một người dưng 

“Vô thường” và vẻ đẹp của cuộc sống*

(PGVN)

Sinh lão bệnh tử là quy luật ở đời, không chống lại được. Khi thần chết gọi thì thanh thản mà đi. Cốt sao sống ngay thẳng không hổ thẹn với lương tâm, để lại ý nghĩa tốt đẹp cho đời  và cuối cùng đặt cho mình một dấu châm hết thật tròn.

Cuộc sống và vạn vật quanh chúng ta, từng giờ từng phút luôn luôn biến đổi theo không gian và thời gian, không có gì tồn tại vĩnh viễn. Đó chính là “Vô thường” nghĩa là không có gì thường xuyên trường tồn mãi mãi, 
Thân vô thường, sinh, lão, bệnh, tử ,bệnh tật ,tai nạn bất thường luôn xẩy ra. Cuộc đời con người cũng vậy nay còn mai mất.
Tâm vô thường, lúc này  yêu tha thiết nhưng gặp nghịch cảnh thì chuyển thành oán hận là chuyện thường tình. Lòng tin cũng dễ lung lay, lý tưởng cũng dễ thay đổi.
Thời gian “ vô thường”: Cuộc sống hối hả, ai ai cũng chạy theo công việc tất bật hàng ngày,tranh đấu trong thương trường, trách nhiệm đối với gia đình và xã hội,  chợt ngoảnh lại thấy mình đã già, thời gian trôi mau đời người thật ngắn ngủi để rồi thoáng chốc hiểu ra một điều được sống thanh thản hưởng chọn niềm yêu thương là điều vô cùng quý giá.

Tiền Vô Thường: Tiền không phải là tất cả đừng quá coi trọng đồng tiền, càng không nên quá lãng phí sử dụng nó. Khi chúng ta ra đời thì cũng đã chẳng có một đồng, khi chết rồi cũng chẳng mang đi được một xu.. Nếu dùng tiền để mua được sức khỏe và niềm vui thì tại sao không làm ? Nếu dùng tiền mà mua được hạnh phúc ,sự an nhàn tự tại thì thật xứng đáng. Người khôn biết kiếm tiền, biết tiêu tiền đúng lúc đúng chỗ. Do vậy ta nên làm chủ đồng tiền, đừng bo bo làm tôi tớ cho nó điều khiển. 
Thế Gian Vô Thường: Tài sản của chúng ta có thể bị mất vì các nguyên nhân: Thiên tai, Hỏa hoạn, Pháp lệnh của chính quyền tịch thu, trộm cướp, con cái tiêu xài…
Vậy hãy coi “Danh vọng vẻ vang là quá khứ,  Địa vị là tạm thời với  hiện tại”. Sức khỏe mới chính  là cuộc sống của mình trong tương lai. Người hiểu đời coi việc lo liệu cho con cái  là nghĩa vụ, là niềm vui, đừng mong  gì sự báo đáp:
“Cha mẹ yêu con là vô hạn; con yêu cha mẹ là có hạn.
Con ốm cha mẹ buồn lo; cha mẹ ốm ho con chẳng nhòm ngó
Con tiêu tiền cha mẹ thật thoải mái ; Cha mẹ tiêu tiền con thật ái ngại 
Nhà cha mẹ là nhà  của con ; Nhà con không phải nhà cha mẹ”.
"Vô thường" trong cuộc sống
Cuộc sống là thế đấy, đừng than trách tự làm khổ mình, làm khổ mọi người. Chân lý của Đạo, đó chính là sự sung sướng và hạnh phúc trong cuộc đời tùy thuộc vào sự thưởng thức nó ra sao. Người hiểu đời rất quý trọng và biết thưởng thức những gì mình đã và đang có,  không ngừng phát hiện thêm ý nghĩa của nó để làm cho cuộc sống được thêm vui thêm và giàu ý nghĩa hơn.

Hãy tập cho mình tự tìm niềm vui trong cuộc sống. Hãy tốt bụng với tất cả mọi người, vui vì làm việc thiện. Sớm muộn nhìn lại, đến lúc quá  nửa đời người ta đã dành khá nhiều cho sự nghiệp, cho gia đình, cho con cái, bây giờ thời gian còn lại chẳng bao nhiêu nên dành cho mình,  sống thế nào cho vui thì sống, việc nào đúng đạo lý thì làm, điều thị phi không thèm nghe và nghĩ ngợi vì nó làm tổn thọ, mình đâu phải sống giả dối đẹp lòng vì ý thích của người khác, nên sống thật với mình.
Con người ta chịu đựng, nhẫn nhịn, hóa giải và xua tan nỗi đau đều chỉ có thể dựa vào chính mình. Thời gian là vị thầy thuốc giỏi nhất  sẽ xoa dịu mọi vết thương trong  cuộc sống. Quan trọng là khi đau buồn bạn chọn cách sống thế nào. Hiểu được vô thường, nhân quả, phải  có tấm lòng rộng mở, yêu và biết thưởng thức cuộc sống, biết đủ thì lúc nào cũng được hưởng an vui và hạnh phúc (tri túc thường lạc).
 
Hiểu được vô thường, con người  giữ được bình tĩnh trước cảnh đổi thay bất ngờ  trong cuộc đời và  thản nhiên trước cảnh ân ái chia ly. Biết vô thường, con người dám hy sinh tài sản, sinh mạng để làm việc nghĩa.

Biết vô thường con người mới chán ngán với những thú vui tạm bợ, giảo trá, và sáng suốt đi tìm những cái vui chân thật thường còn. Khi chúng ta có trí tuệ cương quyết gạt bỏ cái vỏ giả dối, thì tất nhiên cái giá trị  chân thật, cái hạnh phúc  chân chính, cái phật tính sáng suốt  muôn đời sẽ hiện ra.
Sinh lão bệnh tử là quy luật ở đời, không chống lại được. Khi thần chết gọi thì thanh thản mà đi. Cốt sao sống ngay thẳng không hổ thẹn với lương tâm, để lại ý nghĩa tốt đẹp cho đời  và cuối cùng đặt cho mình một dấu châm hết thật tròn.
Sống ngày nào, biết yêu thương, vui tươi an lạc ngày đó!
Thiện Tâm

 

                                                                        Bóng dáng mẹ hiền

                                          Cát Bụi Cuộc Đời......Giàu nghèo hơn thua cũng thế thôi.... 

Hỏi nhanh, đáp gọn: Vô thường là gì?

(TG&DT) - Khoa học đã chứng minh rằng, trong thân thể ta, các tế bào thay đổi luôn, và trong mỗi thời kỳ 7 năm, là các tế bào cũ hoàn toàn đổi mới. Sự thay đổi ấy làm cho thân người chóng lớn, chóng già và chóng chết. Thân năm trước không phải là thân năm nay, thân ban mai không phải là thân buổi chiều, mỗi phút giây trong thân ta đều có sanh và có chết.
Định nghĩa "vô thường". Dẫn chứng ngay bản thân mình.

- Vô thường nghĩa là không thường, không có sự vật nào mãi mãi ở yên trong một trang thái nhất định mà luôn luôn thay hình đổi dạng, đi từ trạng thái hình thành đến biến dị rồi tan rã. Các giai đoạn thay đổi đó gọi là: Thành, trụ, hoại, không hay sanh, trụ, dị, diệt. Tất cả các sự vật trong vũ trụ từ nhỏ như hạt cát, đến lớn như trăng sao, đều phải tuân theo bốn giai đoạn ấy cả, nên gọi là Vô thường. - Khoa học đã chứng minh rằng, trong thân thể ta, các tế bào thay đổi luôn, và trong mỗi thời kỳ 7 năm, là các tế bào cũ hoàn toàn đổi mới. Sự thay đổi ấy làm cho thân người chóng lớn, chóng già và chóng chết. Thân năm trước không phải là thân năm nay, thân ban mai không phải là thân buổi chiều, mỗi phút giây trong thân ta đều có sanh và có chết.

Thế nào là "Tâm vô thường"?

- Những suy nghĩ lăng xăng lộn xộn mà ta cho là tâm mình thực ra đó chỉ là tâm hư vọng, không phải là tâm chân thật. - Vì là hư vọng nên nó cũng bị luật vô thường chi phối, sanh diệt trong từng sát na. Tâm niệm của chúng ta thay đổi trong từng phút giây, theo với ngoại cảnh. Chúng ta buồn đó rồi vui đó, thương đó rồi giận đó. Phút trước ta nhớ chuyện này phút sau đã quay sang chuyện khác. Hôm qua tinh tiến tu hành, hôm nay đã ưu phiền thối chuyễn. Cho nên trong kinh nói "tâm viên, ý mã":

Hoàn cảnh chung quanh ta có vô thường không?

 Hãy dẫn chứng. - Luật vô thường chi phối tất cả. Chẳng những thân, tâm là vô thường mà hoàn cảnh chung quanh ta như ruộng vườn, nhà cửa, lâu đài thành quách cho đến sơn hà đại địa cũng vô thường. - Chúng ta thường nghe câu: "Thương hải biến vi tang điền" (Bãi bể biến thành ruộng dâu). Đọc trong sử sách chúng thấy biết bao cảnh "vật đổi, sao dời" hay những câu thơ như "Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo, Nền củ lâu đài bóng tịch dương" đã đủ nói lên sự vô thường của hoàn cảnh.

Vô thường có phải là chân lý tuyệt đối không?

 - Đứng về mặt hiện tượng vật chất thì hoàn toàn chính xác. Không có sự vật nào thoát khỏi sự chi phối của luật vô thường, vì thế trong kinh nói "vô thường thị thường". - Đứng về mặt bản thể, thì "Vô thường" của đạo Phật chỉ là một phương pháp chỉ rõ mặt trái của đời, để bài trừ những sư mê lầm, ngăn chặn người chạy theo vật dục, nó chưa phải là thuyết tuyệt đối. Đức Phật cũng như vị lương y tùy theo chứng bịnh mà cho thuốc. Với bịnh "chấp thường còn không mất" thì dùng phương thuốc "vô thường" để đối trị, khi lành bịnh thì Phật lại cho thứ thuốc bổ khác quí báu hơn, là "thuyết chơn thường bất biến". Trong kinh Lăng nghiêm đức Phật đã dùng tiếng chuông để chỉ bày cho ngài A Nan phân biệt cái "biến đổi tiêu diệt" với cái "thường còn không thay đổi" đó là Tánh Giác của chúng sanh.


Theo Phật học phổ thông

 

                                                                        Tiền Là Cát Bụi 

                                                                          Cát Bụi Vô Thường

 

Vô Thường Con Đường Đưa Đến Tuệ Giác

Giảng tại chùa Huệ Quang, Melbourne, Úc
I. DẪN NHẬP
Hôm nay hội đủ duyên lành, chúng ta cùng có mặt ở tại chùa Huệ Quang để trao đổi giáo lý. Quý vị ở xứ này, tuy rằng bận rộn nhưng với tâm quý pháp nên vẫn bỏ thời giờ đến để nghe pháp, đó là một điều đáng khích lệ. Hiện nay, trên thế giới chung quanh chúng ta xảy ra nhiều hiện tượng như sóng thần, động đất, lũ lụt …, những hiện tượng này, với cặp mắt giác ngộ của Đức Phật hơn hai mươi lăm thế kỷ về trước, Ngài đã thấy và chỉ dạy cho chúng ta các pháp là vô thường. Đức Phật nói như vậy không phải để chúng ta sầu, ưu, bi, khổ não, chán nản mà nói để giúp chúng ta thấy rõ được bản chất các pháp là vô thường, từ đó lo tu tập để chuyển hóa tâm thức, phát sanh tuệ giác. Cho nên ngày hôm nay, chúng tôi muốn chia sẻ với quý vị đề tài “Vô thường, con đường đưa đến tuệ giác”.
II. VÔ THƯỜNG CON ĐƯỜNG ĐƯA ĐẾN TUỆ GIÁC
Vậy vô thường là gì? Trong cuộc sống này, nhờ có vô thường mà có sáng, có trưa, có chiều, có tối, rồi có một ngày cho đến một tháng, một năm, mười, hai mươi năm. Nhờ vô thường, đứa bé sanh ra đời rồi lớn lên, trưởng thành chứ không đứng yên một chỗ. Nhờ vô thường mà chúng ta gieo hạt lúa, hạt bắp xuống thửa ruộng thì có lúc mình gặt hái được để có cái ăn. Rồi quý vị thử nghiệm lại, trong cuộc đời này quý vị khóc nhiều hay cười nhiều? Khóc nhiều. Nhưng nhờ vô thường mà có lúc chúng ta buồn, khóc nhưng khi hết buồn, hết khóc rồi thì có những lúc chúng ta lại vui. Nếu không nhờ vô thường chắc quý vị khóc suốt luôn, tức là nhờ có vô thường mà những vết thương sẽ lành trở lại, những nỗi đau trong cuộc đời này được xoa dịu. Như vậy, chúng ta thấy vô thường chính là sự biến đổi. Cho nên cuối cùng chúng ta phải cảm ơn sự vô thường. Thấy rõ được bản chất vô thường thì cuộc đời mình sẽ vui, không còn thấy đau khổ như ngày xưa.
Bây giờ quý vị thử trả lời câu hỏi: “Pháp vô thường này là có sẵn hay do Đức Phật tìm ra, phát minh ra?”. Tôi lấy ví dụ, chẳng hạn như cái ly này, trước khi Đức Phật ra đời, nếu tôi liệng cái ly này xuống đất thì nó có bể không? Bể. Mà đến khi Đức Phật ra đời, lấy cái ly này liệng xuống cũng bể. Sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn, cái ly này liệng xuống cũng bể. Như vậy, cả ba thời bản chất của nó đều là vô thường, nhưng vì chúng sanh vô minh nên không thấy, vì không thấy nên sanh chấp ngã về thân, chấp ngã về tâm, từ đó chịu khổ. Nhờ Đức Phật ra đời, giác ngộ, thấy được các pháp là duyên sinh, duyên khởi nên chỉ dạy cho chúng ta để chúng ta thoát khổ. Quý vị nghe nói nhiều về vô thường, nói đến vô thường thì ai cũng biết nhưng thực sự chưa thâm nhập lý vô thường, không hiểu hết được bản chất của vô thường nên khi cảnh đến vẫn khổ.
Một lần sau khi nghe về tính Duyên Khởi, thầy A Nan thưa: “Bạch Đức Thế Tôn, con thấy pháp duyên sinh, duyên khởi mà Thế Tôn nói thật hay mà cũng thật đơn giản và dễ hiểu”.  Phật bảo: “Đừng nói như thế, đừng nói như thế, A Nan. Pháp duyên sinh duyên khởi đó rất sâu sắc và nhiệm mầu, ông chưa hiểu hết đâu. Người nào thấy được tính duyên khởi tức là thấy được Như Lai”. Chúng sanh sở dĩ chìm đắm trong biển khổ, trong tranh đấu hơn thua là vì không biết, không thâm nhập và chứng nghiệm được tính duyên sinh duyên khởi của các pháp nên bị ác ma dẫn vào con đường ác, giống như con thú bị vòng xích quấn vào cổ, ông chủ muốn dắt đi đâu cũng được.
Do đó, Thiền sư Huyền Giác dạy:
Buông bốn đại đừng nắm bắt
Trong tánh vắng lặng tùy ăn uống
Muôn vật vô thường thảy thảy không
Đó tức Như Lai đại viên giác.
Có nghĩa là nếu chúng ta thâm nhập được vô thường thì tuệ giác phát sinh, cuộc đời này chuyện đến chuyện đi, chuyện còn chuyện mất nhưng không ảnh hưởng gì đến tâm của mình hết.
Trong Kinh A Hàm kể lại câu chuyện như thế này: Một thời Thế Tôn ở thành Xá Vệ, vườn ông Cấp Cô Độc, buổi sáng Thế Tôn đang trên đường đi khất thực thì có một Tỳ kheo tên là Ba bi ca, đến trước Thế Tôn nói:
– Bạch Đức Thế Tôn, Thế Tôn hiện hữu trong cuộc đời này rất là khó gặp, sẵn đây Thế Tôn chỉ dạy cho con một pháp yếu để con tu tập.
Phật bảo:
– Này Tỳ kheo, ông phải nói chuyện cho đúng thời. Ta đang đi khất thực làm sao chỉ dạy. Sau khi ta khất thực, thọ trai xong, ta sẽ chỉ dạy pháp yếu cho ông.
Thầy Tỳ kheo hỏi ba lần như thế, Thế Tôn cũng đều đáp lại ba lần như thế. Cuối cùng, Thầy Tỳ kheo nói:
– Bạch Đức Thế Tôn, Thế Tôn có từng dạy các vị Tỳ kheo cuộc đời này là vô thường phải không?
Đức Phật xác nhận:
– Đúng, ta có dạy như vậy.
– Nếu như đợi Thế Tôn thọ trai xong mới về chỉ dạy cho con, biết đâu giữa đường con bị bò húc chết thì làm sao con học.
Đức Phật nghe ông nói có lý, không đi khất thực nữa mà ra chỗ gốc cây ngồi an tọa. Thầy Tỳ kheo Ba bi ca quỳ xuống nghe pháp yếu. Thế Tôn nói một bài pháp thế này: “Trong cái thấy chỉ là cái thấy, trong cái nghe chỉ là cái nghe”.
Ngay lúc đó ông chứng quả A la hán.
Tức là trong cái thấy chỉ là cái thấy thôi, nhưng chúng ta đâu có chịu như vậy đâu. Mình thấy cái ly này rồi nhưng phải thêm, mà quý vị thêm nhiều hay ít? Nào là cái ly này đẹp thật, mua ở đâu, giá bao nhiêu… , rồi thấy người ta nói chuyện riêng với nhau mình cũng để ý xem người ta có nói gì mình không? Thêm rất nhiều cho nên mất đi cái thực tại trong giờ phút đó
Sau khi Ngài chứng A la hán rồi thì quả nhiên trên đường đi, Ngài bị một con bò húc chết tại chỗ. Sau khi chết, thần thức Ngài thể nhập vào cảnh giới Niết Bàn. Đức Phật sai Tôn giả A Nan thiêu và sau đó dựng tháp thờ xá lợi của Ngài. Tôn giả A Nan thắc mắc vị này chưa chứng quả vô sanh sao lại xây tháp, Phật mới kể lại câu chuyện vị Tỳ kheo chứng quả A la hán nhờ thấy được bản chất các pháp là vô thường. Qua đó để thấy nếu như chúng ta thấy được bản chất các pháp là vô thường rồi thì tự nhiên thấu thoát, buông rất dễ.
Tổ Quy Sơn dạy: “Vô thường già và bệnh không hẹn với người, sớm còn tối mất, chỉ một sát na có thể từ đời này chuyển qua đời khác”.
Có khi nào vô thường hẹn với quý vị không? Không. Nhìn quý vị tôi thấy lá thư thứ hai Diêm Vương đã gửi tới rồi đó (tức là tóc bạc).
Trong Kinh Pháp cú có kể câu chuyện: Vua trời Đế Thích khi năm tướng lìa thân, biết mạng mình sắp chết, sau khi chết sẽ đầu thai làm con lừa tại nhà ông thợ đồ gốm vì đã hưởng hết phước nên rất buồn. Một vị Thiên tử khuyên Đế Thích đến gặp Phật Thích Ca Mâu Ni xin quy y. Đế Thích bèn hướng về Phật Thích Ca quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Sau khi quy y xong, ông chết, thần thức vào bụng con lừa nhưng nhờ năng lực quy y Tam Bảo nên sáng hôm sau, ông thợ gốm nổi sân lấy cây gậy đập con lừa làm cho nó bị sẩy thai. Do vậy, thần thức thoát ra trở lại thân cũ. Sau khi trở lại thân cũ, Trời Đế Thích mừng quá xuống đảnh lễ Phật, Phật nói: “Nhờ ông hướng đến Tam Bảo cho nên ông mới thoát nghiệp súc sanh”, và nói bài kệ:
Các hành vô thường
Gọi pháp thịnh suy
Vừa sanh liền chết
Diệt ấy là vui
Thí như nhà gốm
Vừa nặn thành đồ
Tất cả đều bể
Mạng người cũng thế.
Do đó, trong Kinh Niết Bàn, Đức Phật dạy:
Chư hành vô thường
Thị sanh diệt pháp.
Sanh diệt diệt dĩ
Tịch diệt quy lạc.
Có nghĩa là các hành vô thường là pháp sanh diệt, mà cái sanh diệt này diệt rồi thì cái tịch diệt là vui. Đây là nói về chỗ công phu, có nghĩa là thấy các pháp vô thường, chẳng hạn ngồi thiền thấy từng niệm, từng niệm là vô thường, mà từng niệm lặng rồi thì tịch diệt là vui. Tức là cái biết thì không có sanh không có diệt, nó viên mãn, tròn đầy nhưng chúng ta luôn luôn đồng hóa nó với cái pháp vô thường này. Chẳng hạn như cái ly bằng ngọc, nếu lỡ rớt xuống thì chúng ta buồn, khổ bởi vì chúng ta đồng hóa cái ly này của mình mà không nhận diện được còn một ông chủ bên trong là cái tánh biết. Sống với cái tánh biết thì hết khổ. Đây gọi là tịch diệt là vui.
Vua Trần Thái Tông có một bài kệ, trong đó có hai câu:
Vạn sự nước trôi nước
Trăm năm lòng nhủ lòng.
Tức là muôn sự ở thế gian này đều trôi đi như dòng nước, và chúng ta sống trên cõi đời này mấy chục năm phải luôn nhắn nhủ với lòng mình là mình làm được gì cho mình và cho người khác, mình có làm gì cho người khác phải đau khổ hay không?
Cho nên một hôm Khổng Tử đứng trước dòng sông Dịch Thủy nói: “Thệ giả như tư phù, bất xả trú dạ”, có nghĩa là “Chảy mãi, chảy mãi ư. Ngày đêm không ngừng nghỉ”. Quý vị nghiệm lại có thấy tâm mình chảy suốt, không ngừng nghỉ không? Ngay cả ngồi đây mà tâm mình có khi chạy đâu đâu.
Tuệ Trung Thượng Sĩ có làm một bài thơ “Khuyên đời vào đạo” như sau:
Thời tiết xoay vần xuân lại thu
Xanh xanh tuổi trẻ đã bạc đầu
Giàu sang nhìn lại một trường mộng
Năm tháng ôm suông muôn hộc sầu
Nẻo khổ luân hồi xe chuyển bánh
Sông yêu chìm nổi tợ bọt chìm.
Gặp trường chẳng chịu sờ lên mũi
Muôn kiếp duyên lành chỉ thế thôi.
Được làm người là rất quý, lại được gặp Tam Bảo, có cơ hội thoát khổ sanh tử luân hồi đã chịu từ bao kiếp thì tại sao chúng ta không chịu chuyển hóa tâm thức của mình? Trăm ngàn kiếp chúng ta mới gặp được Phật pháp, nếu như quý vị tưởng dễ là lầm, một khi mất thân người thì muôn kiếp khó mà gặp được. Cổ đức nói: “Ngàn năm cây sắt trổ hoa còn dễ, một phen mất thân người muôn kiếp khó được lại”.
Sơ Tổ Trúc Lâm nói:
Thân như hơi thở ra vào mũi
Đời tợ mây trôi đỉnh núi xa
Tiếng quyên từng chập vầng trăng sáng
Nào phải tầm thường qua một xuân.
Vầng trăng sáng tức là tâm thanh tịnh chân thật, tĩnh lặng, rỗng suốt, ngay chỗ động tịnh mà chúng ta thấu thoát được thì không uổng một kiếp người. Nhờ biết được các pháp vô thường, chúng ta mới có sức định tĩnh, tự tại trong cuộc đời. Cho nên cổ đức có nói: “Một kiếp không tu muôn kiếp khổ, một đời không ngộ vạn đời sầu”.
Tế Công đời nhà Tống có làm bài thơ về sự vô thường:
Tiếc thay người đời chẳng biết không
Mê hoa đắm rượu tỏ anh hùng
Nhọc nhằn rốt cuộc về chầu Tổ
Số hết đến kỳ rũ tay không
Khéo léo nào hơn mèo bắt chuột
Thời gian thấm thoắt tựa tên bay
Thảng như lực kiệt tinh thần hết
Thây chết đành vùi chốn huyệt sâu
Suy đi nghĩ lại tỏ tường
Nam kha giấc mộng cũng dường ấy thôi
Trăm năm cuộc thế xoay vần
Lên voi xuống ngựa cũng nhọc nhằn thôi
Tỉnh ra nào có ai đâu
Vui buồn cảnh mộng chỉ là rỗng không.
III. BẢN CHẤT VÔ THƯỜNG CỦA VẠN PHÁP
Nói đến sự vô thường này, chúng ta đi vào ba cấp độ. Thứ nhất là thân vô thường, thứ hai là tâm vô thường, thứ ba là hoàn cảnh vô thường.
1. Thân vô thường
Trong Kinh Tăng chi bộ, có một vị Tăng đến trình kiến giải, nói thế này: “Bạch Đức Thế Tôn, sắc là vô thường, cái gì vô thường là khổ, những gì là vô thường ắt phải chịu sự biến hoại
Quý vị có tin sắc này là vô thường, là hoại diệt không? Nếu mà thường còn là phải đủ ba yếu tố: một là chủ tể, hai là đồng nhất, ba là bất biến. Chủ tể tức là làm chủ được thân mình. Ví dụ như buổi sáng quý vị có công việc phải đi xa, trước khi đi vô tình ăn phải món đồ không hợp với mình nên bị đau bụng, lúc ấy, quý vị bảo nó đừng có đau bụng, nó có không đau không? Răng mình bị đau nhức, mình bảo nó không được đau nhức có được không? Hay như quý vị bảo cái thân này phải trẻ mãi không già liệu nó có nghe mình không hay nó vẫn cứ già? Như vậy thì đâu có làm chủ được. Còn nếu mà bất biến thì phải không thay đổi, nhưng cơ thể mình mỗi giây, mỗi phút nó sanh ra không biết bao nhiêu tế bào, chết rồi sống, sống rồi chết liên tục, mình không làm chủ được. Rồi cái gì là đồng nhất? Thân mình bao gồm đất, nước, gió, lửa, đất là xương thịt, móng tay, móng chân, tóc…, nước là máu, là các chất lỏng trong cơ thể, hơi ấm là lửa, gió là khí lưu thông trong cơ thể, bốn thứ này khác nhau, trong nhà Phật gọi là bốn con rắn tranh giành lẫn nhau trong thân ngũ uẩn này. Cho nên chúng ta thấy được nó khác nhau, không đồng nhất. Như vậy cái nào là vô thường chính là khổ, là sự biến hoại.
Ngài nói: “Do đó, con không có lòng tham, không có lòng dục, không có lòng sân, không còn lưu luyến đối với sắc thân nữa. Bạch Thế Tôn, thọ, tưởng, hành, thức là vô thường, cái gì vô thường là khổ, những gì vô thường là khổ, ắt phải chịu sự biến hoại, con không còn nghi ngờ gì về vấn đề này nữa. Do đó, con không có lòng tham, không có lòng ham muốn, không ưa thích, không lưu luyến đối với năm ngũ uẩn”.
Ngay trong giờ phút đó, Ngài chứng A la hán.
Nếu quý vị cũng quán chiếu sâu sắc được như thế thì lòng dục, lòng ham muốn sẽ giảm. Chẳng hạn ngày xưa mình có một chiếc xe vừa đủ để đi, nếu mình thấy người ta đi chiếc xe mới hơn mình thì tâm mình rộn rạo, muốn một ngày nào đó sắm chiếc xe đẹp hơn, mới hơn nhưng bây giờ, nhờ thấy được các pháp là tạm bợ, mỏng manh, vô thường, chỉ cần dùng đủ để sống thôi thì tự nhiên lòng ham muốn của mình dừng bớt. Những người sở dĩ không dừng được ham muốn là vì họ không thấy được bản chất các pháp là vô thường, nên sẵn sàng làm tất cả mọi việc, dù cho việc đó có làm người khác đau khổ. Thấy được tính duyên sinh duyên khởi của các pháp thì buông bỏ dễ dàng, nếu không thấy được thì lòng tham chấp, lòng dục tăng trưởng, giống như uống nước biển, càng uống càng khát mà không thỏa mãn được.
Đức Phật lấy ví dụ, có một ngôi làng trong đó một số người bị phong cùi, ngứa quá chịu không nổi nên nghĩ ra cách đào một cái hầm, nhóm lửa lên rồi hơ lửa gãi, càng gãi càng đã, nhưng qua cơn đã rồi thì lại thấy rát (ai mà chiêm nghiệm rồi mới thấy dục cũng như thế). Sau đó, có một người được vị lương y đến chữa lành bệnh cùi, một hôm người đó đi qua chỗ những người bị cùi đang hơ lửa gãi, những người này rủ ông vào hơ lửa cùng, ông từ chối và nói hết bệnh rồi. Đức Phật ví như một người xưa giờ lặn hụp trong biển ái, trong sự ham muốn, nhưng giờ nhờ học Phật pháp, biết cái này là dục, trước vui nhưng sau khổ, vui thì ít mà khổ thì nhiều, sau khi biết được như thế tức khắc lìa tham dục.
Trong Thiền thoại có kể: Có một vị Thiền sư tu hành rất tinh tấn, có một ông bạn làm ăn rất giàu có tên là Trương Tổ Lưu. Một hôm, ông xuống thăm người bạn của mình, nói: “Tôi thấy anh cũng lớn tuổi rồi, giờ anh buông xả bớt đi, hàng ngày đến tu tập với tôi”. Ông Trương Tổ Lưu nói: “Tôi cũng muốn lắm, nhưng mà tôi còn ba việc chưa làm. Thứ nhất con trai lớn chưa gả vợ, thứ hai con gái út chưa gả chồng và thứ ba là căn nhà này tôi chuẩn bị xây lại. Làm xong ba việc này tôi mới đến chỗ ông tu tập được”. Một tháng sau, ông Trương Tổ Lưu bị bệnh chết. Sau khi ông chết, vị Thiền sư đến viếng, không có tụng kinh hay khai thị gì, chỉ lấy một tờ giấy và viết như thế này:
Bạn tôi tên là Trương Tổ Lưu
Khuyên ông tu Phật, hẹn ba điều
Ba điều chưa vẹn, vô thường đến
Đáng trách Diêm Vương chẳng nể nhau.
Đúng duyên là đến chứ không có nể nang, hẹn trước gì cả, không chỉ có người già mà người trẻ cũng chết, dù cho giàu có hay nhiều uy quyền như tổng thống, thủ tướng, vô thường cũng đến. Diêm Vương không nể bất cứ ai cả.
Đời vua Anh Tông có vị Trạng Nguyên là Mạc Đĩnh Chi, ông đi sứ qua triều Nguyên nhằm lúc Nguyên Thế Tổ có một người con gái rất đẹp mất. Trong ngày đó, người đi sứ của các nước lân bang đến rất nhiều. Ông vua muốn thử những người đi sứ xem ai là người thông minh nhất nên đến lúc điếu tang, ông ghi lên chỉ một chữ “Nhất” rồi đưa cho các vị sứ giả các nước nhưng không ai đọc được hết. Chỉ có Mạc Đĩnh Chi liền ứng khẩu thành thơ, nên sau này được phong là Lưỡng quốc Trạng Nguyên (Trạng Nguyên hai nước):
Thiên thanh nhất đóa vân
Hồng lô nhất điểm tuyết
Thượng uyển nhất chi hoa
Diêu trì nhất phiến nguyệt.
Ô hô!
Vân tán, tuyết tan, hoa tàn, nguyệt khuyết
Tức là trên bầu trời xanh chỉ có một đám mây rất đẹp, tiêu biểu cho một người công chúa tài sắc vẹn toàn, nhưng dù cho đám mây đẹp cách mấy cũng bị gió thổi tan mất. Một lò lửa hồng điểm một hạt tuyết, hạt tuyết dù rất đẹp nhưng gặp lò lửa thì cũng tiêu mất. Vườn thượng uyển rất rộng nhưng chỉ có một đóa hoa duy nhất, nhưng hoa thì sớm nở tối tàn. Rồi cái ao ẩn hiện một vầng trăng rất đẹp, nhưng than ôi, mây thì tán, tuyết thì tan, hoa thì tàn, trăng thì khuyết, đều cho chúng ta thấy sự vô thường dù có đẹp đến mấy. Bây giờ biết được như vậy, chúng ta phải tỉnh cơn mộng đi, quý vị đừng ngủ mê, đừng tiếp tục vùi sâu trong lớp màn vô minh nữa. Nhiều khi mình nói mình thức chứ thực ra mình vẫn đang ngủ. Do đó, ông Ôn Như Hầu nói:
Khóc vì nỗi thiết tha sự thế
Ai bày trò bãi bể nương dâu
Trắng răng đến thuở bạc đầu
Tử sinh kinh cựu làm nao mấy lần.
Ai bày ra cái trò bãi bể nương dâu? Chính là nghiệp của chúng ta. Chính chúng ta đã bày ra các cảnh thế gian này, do nghiệp mê nên chúng ta gá vào đó, gá vào thì sanh cảnh, cảnh từ đó sanh tình, từ đó chịu không biết bao nhiêu nỗi khổ trong vòng luân hồi, sinh đi tử lại biết bao lần.
Trong Kinh Tạp A Hàm quyển 8, Đức Phật dạy: “Bậc trượng phu qua bờ giải thoát có bốn pháp vi diệu. Thứ nhất, nghe ở trong xóm có kẻ nam người nữ nào bị bệnh khổ đau đến sắp chết. Nghe như vậy rồi đối với các pháp thế tục vô cùng nhàm chán, do vì nhàm chán nên hết lòng tu thiện, chuyển hóa nội tâm. Đây là bậc thượng”.
Tức là nghe trong xóm có người nam, người nữ bệnh sắp chết thì giật mình, thấy một lúc nào đó mình cũng chết, về gắng tu thiện, gắng bố thí, cúng dường, tu tập, tụng kinh, sám hối, niệm Phật, ngồi thiền…,
“Thứ hai, trong xóm chính mắt mình thấy có kẻ nam người nữ lâm bệnh nặng khốn khổ sắp chết, thấy đó rồi sanh tâm nhàm chán, do vì nhàm chán nên hết lòng tu thiện. Đây là bậc trượng phu điều thuận mà được độ”.
Tức là chính mắt mình thấy trong xóm người này người kia đang lâm bệnh nặng khốn khổ thì sợ, nghĩ rằng một lúc nào đó mình cũng như vậy, do đó tỉnh lại mà tu tập, làm thiện.
Ngài Hàm Sơn nói:
Một mai vô thường đến
Mới hay mộng huyễn thân
Muôn việc đem chẳng được
Chỉ nghiệp theo thức thần.
Tức là một mai vô thường già bệnh đến thì mới hay cuộc đời này là mộng, là huyễn. Có nhiều người khi sắp chết khóc, nói bây giờ mới thức tỉnh vô thường, nhưng lúc còn khỏe thì họ không chịu nghĩ tới điều đó. Quý vị thấy trong những pháp hội ít có người trẻ là vì họ thấy họ còn sung sức, còn nhiều năng lực, thấy chuyện vô thường, tu tập này mơ hồ nên cứ để từ từ. Còn những người lớn tuổi sở dĩ đến đông hơn là bởi vì họ đã đi qua phần lớn chặng đường đời, thấy rõ được những khổ vui, vinh nhục trong cuộc đời nên thức tỉnh tìm đến nương tựa nơi Tam Bảo. Chỉ có sự tỉnh thức của Đức Phật mới cho mình chỗ để nương tựa chứ không phải vì già, chán ngán cuộc đời mà đến. Đến lúc chết, muôn việc đem theo chẳng được, chỉ có nghiệp đi theo. Nói đến đây, quý vị phải nghiệm cho kỹ, không phải nghe nói vô thường rồi về mình không chịu làm gì thì không ổn. Đức Phật dạy rất rõ là từ khước sự tham chấp, tật đố, ngã mạn, ích kỷ chứ không từ khước cuộc đời. Chúng ta vẫn làm ăn, vẫn sinh hoạt nhưng làm đến đâu thì bớt chấp đến đó, để cho tâm mình nó rỗng, an ổn.
Trong Kinh Tạp A Hàm có kể câu chuyện như thế này: Ngày xưa ở thành Xá Vệ có anh chàng rất nghèo, nghèo đến mức độ không có quần áo để mặc, quanh năm chỉ thui thủi ở trong nhà chứ không dám đi ra ngoài đường, tối đến mới đi bắt cua, bắt cá kiếm ăn. Một hôm anh nghe nói ở thành Xá Vệ tổ chức một buổi hội rất lớn nên anh quyết định đến từng nhà hàng xóm mượn áo mới, quần mới, mượn xe, mượn ngựa rồi thắng yên đến dự buổi hội. Đến thành Xá Vệ, mọi người đều trầm trồ khen ngợi anh là người giàu sang, sang trọng. Nghe vậy xong, khi về anh không còn muốn trả đồ đã mượn cho hàng xóm nữa.Vì đòi mà không trả nên hàng xóm kiện anh, quan xử án xong bắt anh phải trả đồ cho hàng xóm nên anh không còn gì cả. Đức Phật ví chúng ta như anh chàng này, khi sanh ra đời không mang theo bất cứ cái gì, sống trong cuộc đời chỉ là mượn tạm tứ đại bên ngoài, sau khi chết cũng phải bỏ tất cả lại, không đem theo được gì hết. Nghiệm ra được như thế rồi thì cuộc đời này không có gì làm cho mình phải đau khổ nữa.
2. Tâm vô thường
Tâm vô thường là tâm vọng tưởng lăng xăng, lúc nghĩ thế này, lúc nghĩ thế khác, niệm niệm không ngừng nghỉ. Mình tuy thân ngồi ở đây, nhưng có khi tâm lén lút chạy đầu này đầu kia, nhớ nghĩ đến người này người nọ, nghĩ những điều không phải. Trong ca dao Việt Nam thường nói từ “đồng sàng dị mộng”, đó cũng là một dạng tâm vô thường, nhiều khi mình có chồng, có vợ rồi nhưng sống mà lại nghĩ đến người khác, đó là tâm tà dâm, rồi tâm lén lút đi đầu này đầu kia cũng là tâm ăn trộm. Nhiều khi mình nói thân mình ở đây, đâu có phạm gì, nhưng thực ra tâm duyên theo nghĩ đến người khác là phạm rồi. Chỉ có tu, mình mới thấy được những niệm đó để chuyển hóa.
Trong Kinh Pháp cú có kể: Có một ông Thầy Tỳ kheo tên là Tăng Hộ, đi tu với người cậu ruột là Tỳ kheo đã chứng A la hán. Một hôm đi khất thực, ông được thí chủ cúng dường một sấp vải. Ông suy nghĩ, muốn đem sấp vải quý cúng dường cho Thầy, đồng thời là cậu mình. Nhưng khi mang đến thì người cậu nhất định không nhận. Thầy Tỳ kheo buồn, suy nghĩ: “Cha mẹ mình đã chết, giờ chỉ còn cậu mà giờ cậu vô tình không chịu nhận đồ cúng dường, chắc không còn thương mình. Giờ phải làm sao, hay là về đem sấp vải này bán đi, mua một bầy gà nuôi, sau khi lớn bán đi mua tiếp một bầy dê, sau bán đi mua tiếp một bầy bò. Có nhiều tiền mình sẽ cưới một người vợ rồi sanh con. Sau khi sanh con thì nhân ngày nghỉ dẫn vợ và con đến thăm cậu. Đi giữa đường hai người giành đứa con để bế, giành qua giành lại đứa nhỏ rớt xuống đất, bực mình quá sẵn cây gậy gõ lên đầu mụ vợ”. Vừa gõ xong, nghe thấy tiếng ông Thầy: “Con không gõ vào đầu mụ vợ của con mà gõ lên đầu của ta rồi”. Mới thấy có một chút, chỉ vì Thầy không nhận cúng dường sấp vải mà tâm của người cháu đã vọng tưởng xa như vậy mà ngay trong giờ phút thực tại đó không thấy lại được chính mình. Ông Thầy đã chứng A la hán, thấy rõ tâm của đệ tử nên nói vậy, đệ tử nghe xong hoảng sợ co giò chạy, các vị sa di khác liền đuổi theo. Đức Phật nghe thấy tiếng ồn ào liền gọi Ngài A Nan đến tìm hiểu. Sau khi nghe trình bày xong, Đức Phật nói bài kệ:
Tâm đi xa một mình
Ẩn hang sâu vô hình
Ai bình tâm khéo giữ
Thoát vòng ma kiết sử.
Ngay cả chúng ta cũng vậy, nhiều khi quý vị thân ngồi đây nghe pháp mà tâm cũng vọng tưởng đi tận đâu đâu, dạo chỗ này chỗ kia, làm việc này việc nọ.
Có người làm bài kệ như thế này:
Loay hoay đã nửa kiếp người
Thu bay trên nửa nụ cười xanh xao
Rõ ràng mở mắt chiêm bao
Biết như mộng huyễn vẫn đau xé lòng.
Chúng ta dù biết rằng cuộc đời này là mộng huyễn, là vô thường nhưng có khi vẫn phải chịu những nỗi đau đến xé lòng, bởi vì chúng ta chưa có một lần nào mở mắt hết. Khi mở mắt, thấy rõ thực cuộc đời là mỏng manh, là vô thường, tạm bợ thì chúng ta mới tỉnh giấc.
Bây giờ qua phần công phu, có một vị Tăng đến hỏi Sơ Tổ Trúc Lâm:
– Đại đức khổ nhọc tu hành đã trải qua nhiều năm, đối với sáu thông của Phật, Ngài đã được mấy thông?”
Tổ đáp:
– Cũng được sáu thông.
Vị Tăng nói:
– Năm thông kia gác qua, thế nào là tha tâm thông?
Tổ nói:
– Đầy cả quốc độ, có bao nhiêu thứ tâm, Như Lại đều biết, Như Lai đều thấy.
Nhiều khi mình thấy ai đó biết được sự vận hành ý niệm của mình thì mình khen người đó tu giỏi. Nhưng đối với nhà Phật thì không dính dáng gì cả. “Đầy cả quốc độ” chính là tâm thức mình, trong tâm thức đó có bao nhiêu thứ tâm, tâm ganh ghét, tâm tật đố, tâm ích kỷ, …., tất cả mọi thứ tâm vọng niệm khởi lên, ai thấy? Chính cái biết của mình thấy. Đó là “Như Lai đều biết, Như Lai đều thấy”. Đó chính là pháp tu thiền của chúng ta, nhìn lại tâm thức của mình, thấy để chuyển hóa, thấy mà không theo duyên, không đồng hóa mình với nó thì mình không có khổ. Có như vậy thôi mà chúng ta không chịu tu, cứ thấy cái gì lạ là chạy theo.
Có ai ở đây khi ngồi thiền thấy chuyện này chuyện kia mà cho đó là chỗ cứu kính không? Dù cho quý vị có thấy được những kiếp xa xưa của mình hay nhìn thấy được bất kỳ cái gì bên ngoài thì đối với nhà Thiền cũng chưa dính dáng gì. Bởi vì đó là tướng sanh diệt, vô thường, tướng ảo, tướng phù du. Chỉ có nhìn lại tâm mình, thấy rõ tâm vô thường để chuyển hóa thì mới không uổng một kiếp người.
Trong Thiền thoại có kể câu chuyện: Có một anh chàng bán đậu hũ, một hôm đi ngang qua Thiền viện của Thiền sư Bạch Ẩn, thắc mắc tại sao các Thầy lại ngồi im nhắm mắt vậy. Sau khi biết được là các vị Tăng đang ngồi thiền, anh cũng thích và muốn được ngồi giống như vậy. Sáng hôm sau, anh đến ngồi thiền cùng các vị Tăng, ngồi một lúc, bỗng anh la lên mừng rỡ: Thấy rồi, thấy rồi. Mọi người nghe ngạc nhiên, tưởng anh ngộ đạo hỏi anh thấy cái gì. Anh trả lời: Pháp thiền này hay quá, nhờ ngồi thiền con nhớ được có người thiếu con mấy chục ngàn tiền đậu hũ mà từ trước tới giờ con quên. Chúng ta tu thiền không phải giống như vậy, không phải để nhớ chuyện này chuyện kia trong quá khứ. Đó đều là tướng sanh diệt, đối với nhà Thiền không dính dáng gì cả.
Trong Kinh Người biết sống một mình, Đức Phật nói bài kệ:
Đừng tìm về quá khứ
Đừng tưởng tới tương lai
Quá khứ đã không còn
Tương lai thì chưa tới
Hãy quán chiếu sự sống
Trong giờ phút thực tại
Kẻ thức giả an trú
Vững chãi và thảnh thơi
Hãy tinh tiến hôm nay
Kẻo ngày mai không kịp
Cái chết đến bất ngờ
Không thể nào mặc cả
Người nào biết an trú
Đêm ngày trong chánh niệm
Thì Mâu Ni gọi là
Người biết sống một mình.
Thường những người lớn tuổi hay duyên về quá khứ, ta đã từng hạnh phúc như thế này, từng có địa vị như thế kia…, còn người trẻ thì hay nghĩ đến tương lai, sau này mình làm gì… mà không hay rằng chính những cái đó đang giết mình, làm cho mình không sống được trong giờ phút thực tại.
Chúng ta tưởng về quá khứ cũng làm cho mình đau khổ, tưởng tới tương lai cũng làm cho mình đau khổ. Ngay trong hiện tại, quý vị cứ làm hết tất cả các điều thiện, cố gắng tu tập thì không cần phải đi coi bói ở đâu cả, cứ làm hết sức mình trong giờ phút thực tại thì tương lai có mặt, làm tốt thì tương lai tốt, làm xấu thì tương lai xấu.
3. Cảnh vô thường
Ở bên ngoài có rất nhiều cảnh vô thường hàng ngày diễn bày một cách rõ ràng trước mắt chúng ta. Trong sự vô thường biến đổi đó, nếu chúng ta không thức tỉnh, không chịu tu tập thì dễ bị những ngũ dục đời thường quyến rũ, dẫn dắt mình đi.
Trong Thiền thoại có kể câu chuyện: Ngày xưa có vị vua tên là Sa-lô-mông, có một vị quan cận thần rất là thân tín, một hôm vua đến tìm vị quan nói: “Khanh hãy tìm cho trẫm một cái vòng đeo tay mà ai đang hạnh phúc nhìn cái vòng này thì khổ đau, ai đang khổ đau nhìn cái vòng này thì được hạnh phúc”. Ông quan đi tìm suốt một thời gian mà không tìm được nên rất buồn. Một hôm ông đi vào một thành rất cổ xưa thì gặp một ông cụ già. Sau khi nghe ông kể hết sự tình thì cụ già đưa ra một cái vòng, hỏi: “Có phải là cái vòng này hay không?” Đang buồn vì không tìm được chiếc vòng nên nhìn thấy chiếc vòng, ông vui liền. Trên cái vòng này ghi một dòng chữ: “Tất cả rồi cũng sẽ trôi qua thôi”. Có nghĩa là có những niềm đau nỗi khổ trong cuộc đời này rồi cũng sẽ trôi qua. Sau khi đem chiếc vòng trở về cung thì bá quan văn võ đều đến xem. Vua rất đắc ý vì tin rằng không có chiếc vòng nào như vậy cả, vừa cười vừa hỏi ông quan: “Đã tìm thấy chiếc vòng chưa?” Vị quan đại thần đưa chiếc vòng ra, nhìn thấy dòng chữ trên chiếc vòng, ngay lập tức sắc mặt vua sa sầm xuống, thấy tất cả những gì mình đang có, cung điện, phi tần… tất cả rồi cũng sẽ qua, không còn gì, tự nhiên hết tâm kiêu mạn,
Qua câu chuyện này để quý vị thấy rằng Đức Phật nói về vô thường không phải để cho chúng ta buồn, bi lụy, khổ đau mà nhờ vô thường chúng ta có một sức sống mới, xưa giờ có làm cho mọi người đau khổ, giờ tu học, hiểu Phật pháp rồi thì không còn muốn làm ai buồn khổ nữa vì biết rằng sẽ có lúc tất cả đều chết, giờ cố gắng làm tất cả các thiện pháp, tu tập để chuyển hóa tâm thức.
Qua bài pháp ngày hôm nay, chúng tôi mong rằng sau khi nghe được bài pháp vô thường này thì quý vị “vạn sự nước trôi nước, trăm năm lòng nhủ lòng”, đời đời phát tâm bồ đề, tu hành cho đến ngày thành Phật theo đúng con đường chánh pháp mà quý vị đã từng thấy, từng nghe, từng tu tập.

Hãy Luôn Quán Niệm Về Cái Chết Trong Cuộc Sống Giữa Đời Thường

Giảng tại Chùa Phật Đạo, CHLB Đức
 I. DẪN NHẬP
Trong Thiền sư Trung Hoa tập 1, có một vị tăng đến hỏi Thiền sư Triệu Châu: “Bạch Hòa thượng, con chó có Phật tánh hay không?”. Thiền sư Triệu Châu trả lời: “”. Vị Tăng hỏi: “Tại sao con chó có Phật tánh mà lại chui vào đãy da như thế?”. Thiền sư Triệu Châu nói: “Vì biết mà cố phạm”.
Cũng vậy, chúng ta là người tu đều biết sân hận là khổ, biết phiền não là khổ, biết nói lời nặng đến người khác là làm người ta đau khổ, mà chính ngay trong giờ phút đó ta cũng không vui sướng gì, nhưng tại sao biết là dở mà vẫn làm? Trong Chỉ Nguyệt Lục có ghi, một hôm bà Yêm Ma La Nữ đến hỏi Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi: “Chúng sanh biết sân là khổ, biết phiền não là khổ, biết con đường luân hồi sinh tử là khổ, mà sao vẫn đi vào?” Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi nói: “Biết, nhưng cái biết đó còn rất yếu”.
Tức là khi dòng tư tưởng khởi lên, mình không dừng được mà bị nó kéo lôi đi. Sở dĩ không dừng được là bởi vì hằng ngày chúng ta không có sự quán chiếu, quán niệm một cách liên tục về cái chết. Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta hay tật đố, ghanh ghét, không chịu được khi thấy người khác hạnh phúc là bởi vì lúc nào mình cũng tưởng cuộc đời này còn dài, mình còn sống dai lắm. Nhưng nếu lúc nào cũng quán niệm là trong cuộc đời này chúng ta chỉ ở tạm thôi, mai kia sẽ phải ra đi thì sẽ buông bỏ rất nhanh. Ví dụ như có hai người giận nhau, luôn ôm ấp trong lòng những phiền não, oán hận nhưng nếu bữa nào nghe được tin người kia bị bệnh sắp chết hoặc mai mình không còn sống trên đời nữa thì có còn giận nhau nữa không, hay là buông? Do đó, ngày hôm nay chúng tôi muốn chia sẻ với quý vị một đề tài: “Hãy luôn quán niệm về cái chết trong cuộc sống giữa đời thường”.
II. HÃY LUÔN QUÁN NIỆM VỀ CÁI CHẾT TRONG CUỘC SỐNG GIỮA ĐỜI THƯỜNG
Trong Kinh Trung Bộ có ghi: Một thời Đức Phật ở tại xứ Koliya, một hôm Ngài nhập đại định, biết cô gái con người thợ dệt có nhân duyên với mình trong thời quá khứ. Trong pháp hội tại đây ba năm về trước, cô gái này đã được nghe Đức Phật dạy quán niệm về cái chết, về nhà cô thường xuyên quán niệm về những lời dạy đó. Bây giờ, khi Đức Phật quay trở lại, Ngài biết chắc chắn rằng tối nay cô gái sẽ chết, và tuy rằng cô quán niệm sâu sắc về cái chết nhưng vẫn chưa chứng quả nên sẽ tiếp tục rơi vào con đường sanh tử. Do vậy, Đức Phật mở lòng từ bi thương xót đến đó để độ cho cô gái.
Khi hội chúng đang đông đủ, cô gái bước vào cửa, thành tâm bước đến đảnh lễ Phật.
Đức Phật hỏi cô:
– Con từ đâu đến?
– Bạch Thế Tôn, con không biết.
– Rồi con sẽ đi về đâu?
– Bạch Thế Tôn, con không biết.
– Con không biết sao?
– Dạ con biết.
– Con biết thật không?
– Dạ con không biết.
Ðại chúng ngồi nghe bốn câu vấn đáp giữa Đức Phật và cô gái, ai cũng ngơ ngác chẳng hiểu gì, cho rằng cô gái trả lời ngớ ngẩn. Ðức Phật  thương xót muốn khai thị cho đại chúng nên hỏi tiếp:
– Này con, khi Như Lai hỏi con: “Con từ đâu đến?”, tại sao con nói “Con không biết”?
– Bạch Thế Tôn, ngài hẳn đã biết con từ nhà đến đây. Nhưng ý Ngài muốn hỏi con từ cảnh giới nào tái sanh đến đây, điều đó con không biết.
Bồ Tát vì nguyện lực mà tái sanh vào cõi Ta bà này dìu dắt chúng sanh, còn chúng ta thì vì nghiệp lực mà đến. Do vậy quý vị có biết mình từ cảnh giới nào mà đến không?
– Này con, khi Như Lai hỏi: “Rồi con sẽ đi về đâu?”, tại sao con nói “Con không biết”?
– Bạch Thế Tôn, Ngài hẳn đã biết con đi đến xưởng dệt vì con đang cầm giỏ suốt chỉ trên tay. Nhưng ý Ngài muốn hỏi con sẽ tái sanh về đâu, điều đó con không biết.
– Này con, khi Như Lai hỏi: “Con không biết sao?”, tại sao con đáp “Con biết”?
– Bạch Thế Tôn, vì con biết chắc chắn rằng con sẽ chết.
– Khi Như Lai hỏi “Con biết thật không?”, tại sao con đáp “Con không biết”?
– Bạch Thế Tôn, vì con không biết rõ chừng nào con sẽ chết và sẽ tái sanh về đâu.
Ðức Phật khen ngợi cô gái sáng trí, nhờ thường quán niệm về cái chết nên đã hiểu ý Phật, rồi Ngài nói bài kệ:
Thế gian này mù quáng
Chẳng mấy người thấy rõ
Như chim thoát khỏi lưới
Rất ít đi thiên giới.
Tức là ai là người thấy rõ được từng tâm niệm của mình sanh diệt liên tục, và ai sẽ thấy rõ được mình sẽ chết rồi tái sanh về đâu?
Sau khi nghe xong bài kệ của đức Phật, cô gái chứng quả Tu-đà-hoàn, tức là đã kiến đạo. Chiều hôm đó, tại xưởng dệt, cô bị tai nạn qua đời. Cha cô vô cùng đau khổ, đến thưa với Phật. Đức Phật giảng Tứ-diệu-đế để khuyên giải ông và cho ông biết con gái ông đã tái sinh về cung trời Ðâu-suất. Nghe vậy người cha xin xuất gia tu tập, sau bốn tháng ông quán chiếu sâu sắc về lý vô thường và cái chết, ông chứng quả vị A la hán.
Như vậy có nghĩa là nhờ quán chiếu sâu sắc về vô thường và cái chết, có những người đã được giải thoát ngay trong cuộc đời này.
Khi chúng ta bước lên giường ngủ, chúng ta không thể bảo đảm ngày mai mình còn sống hay không. Cho nên Ngày Zopha Rinpoche trước khi đi ngủ, thường sắp xếp tất cả đồ đạc ngăn nắp, gọn gàng để cho người sau sử dụng. Bởi vì Ngài thường quán chiếu rất sâu về cái chết đến, cho rằng khi mình lên giường nằm ngủ rồi, biết đâu cơn vô thường xảy đến thì không còn sống và sử dụng những thứ này được nữa. Do quán chiếu sâu sắc về cái chết như vậy nên khi cái chết đến, các Ngài không sợ hãi.
Trước khi nhập Niết bàn, Đức Phật thọ ký rằng sau khi Như Lai nhập Niết bàn, ở xứ Trung Ấn, có một vị thánh đệ tử ra đời tên là Ưu Ba Cúc Đa, nghĩa là Vô tướng hảo Phật, độ người chứng quả rất nhiều.
Tại nước Kế Tân, có một người thanh niên giàu có sống với một người vợ rất trẻ đẹp, nhưng người thanh niên này nhận thấy cuộc đời có nhiều nỗi thống khổ nên quyết chí xuất gia. Được một thời gian anh thấy cuộc sống xuất gia cũng có những khó khăn riêng, không phải lúc nào cũng an ổn giống như mình tưởng tượng nên xin hoàn tục, trở về đời sống cư sĩ tại gia. Tổ Ưu Ba Cúc Đa có thần thông, biết được nên đã bảo ông ở lại với Ngài một đêm trước khi hoàn tục. Tối hôm đó, Tổ dùng thần lực làm cho vị Tỳ kheo này nằm mộng thấy mình về nhà, vợ đã chết được ba ngày, thây sình thối lên. Vị này sợ quá giật mình tỉnh dậy, biết chỉ là giấc mộng. Sáng hôm sau, vị Tỳ kheo này đảnh lễ Tổ, xin về nhà một ngày rồi mới quay trở lại để hoàn tục. Ông đi bộ ba ngày mới về đến nhà, hay tin vợ mình đã chết được ba ngày, thây sình thối. Chứng kiến cảnh trước kia bà vợ rất đẹp giờ chỉ còn lại một thây sình thối, vị Tỳ kheo này quán chiếu sâu sắc về cái chết và ngay trong giờ phút thực tại đó chứng quả vị A la hán. Sau đó vị Tỳ kheo này trở về đảnh lễ Tổ Ưu Ba Cúc Đa xin sám hối.
Qua câu chuyện trên chúng ta thấy, một người thấy cuộc sống xuất gia khổ đau, không có an ổn, hạnh phúc, nhưng sau khi quán niệm sâu sắc về cái chết thì tức khắc lìa bỏ hết tất cả. Khi chúng ta còn thèm, còn muốn là chúng ta chưa quán niệm thật sâu sắc về cái chết, nếu quán niệm liên tục thì tự nhiên buông bỏ rất nhẹ.
Những lượn sóng nghịch duyên khổ đau đó, nếu quý vị chiếu kiến vào mới thấy tuy nghịch duyên khốn khổ thật, nhưng bản chất nó vô thường, không tự tánh. Cái gì thấy được bản chất vô thường, không tự tánh đó? Hiểu được và sống được với nó tự dưng mình vượt thoát ra được nghịch duyên đó.
Ngài Lạt ma Zopha Rinphoche nói rằng: “Phương thuốc chính yếu để chữa trị các pháp thế gian là thiền định về sự vô thường và cái chết. Nếu ta không nhớ tưởng về cái chết, ta không nhớ tới pháp.” Đang nghe pháp như vậy, nhưng khi ra đến ngoài cửa là quý vị không còn nhớ pháp, mà không nhớ pháp thì không hành pháp, dần dần sẽ bị thối Bồ đề tâm. Cổ đức có nói: “Nhất niên Phật tại tiền, nhị niên Phật thăng thiên, tam niên bất kiến Phật”. Có những người thời gian đầu mới biết pháp, tu tập rất tinh tấn, nhưng một thời gian sau bị lờn thuốc, cũng là do không quán niệm sâu sắc về cái chết. Một khi đã quán niệm sâu sắc rồi thì lúc ngồi thiền, vọng tưởng không còn xô đẩy đến nhiều nữa. Chính bản thân chúng tôi cũng có kinh nghiệm điều này khi nhập thất, rằng khi lên bồ đoàn, quán niệm chưa chắc mình sẽ còn đứng dậy để sống trong cuộc đời này nữa thì tự dưng niệm lăng xăng bặt đi. Rất hay!
“Và cho dù ta nhớ tưởng tới pháp, nhưng nếu ta không nhớ tưởng về sự vô thường về cái chết thì ta cũng không thực hành pháp được”.
Có nhiều quý vị nhớ tới pháp, lý luận rất hay, nhưng do không nhớ đến cái chết nên không chịu tu. Mình tưởng mình sống đời, sống mãi mãi mà không biết cái chết đến bất chợt, không báo trước. Hiểu được điều đó rồi chúng ta mới thực hành được pháp.
Trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương, Phật hỏi các chúng đệ tử:
– Mạng người sống trong bao lâu?
Vị thứ nhất trả lời: Mạng người sống trong một ngày.
Phật nói: Ông chưa thấy đạo.
Vị thứ hai nói: Mạng người sống trong bữa ăn.
– Ông cũng chưa thấy đạo.
Vị thứ ba trả lời: Mạng người sống trong hơi thở.
Phật xác chứng: Ông đã thấy đạo.
Hơi thở mình hít vào, không thở ra là chết. Chính ngay trong khoảng khắc đó, Phật tử quán sâu sắc là quý vị đã thấy đạo, là giải thoát.
Bên Thiền Nguyên thủy dạy rất kỹ về vấn đề này. Chẳng hạn ly nước này rất thơm ngọt, quý vị có cảm nhận được không? Đương nhiên là cảm nhận được, mình đâu phải là gỗ đá. Nhưng cảm nhận đây là vị ngọt và thấy được sự nguy hiểm của vị ngọt thì tức khắc xuất ly, mà xuất ly là giải thoát. Ví dụ biết đây là thuốc độc, mình có uống hay không? Mình không uống nữa là giải thoát rồi. Rất đơn giản. Nhiều khi chúng ta cho rằng Thiền Nguyên thủy có thứ lớp, nhưng thực ra pháp không có thứ lớp, thứ lớp hay không là do mình. Các phương pháp Đức Phật dạy đều chỉ thẳng vào tâm yếu của mình. .
Nhiều người nói tu theo phương pháp sổ tức là hạng sơ cơ, nhưng hoàn toàn không phải. Khi quý vị hít sâu vào, thấy được từng niệm, từng niệm, đó là tuệ. Mà cái gì thấy được là tuệ, cái gì dừng được những niệm này là định. Định tuệ đồng đẳng. Phương pháp niệm Phật cũng vậy, Mật tông cũng vậy. Muốn đi vào chỗ Đại Phật Như Lai hay Đại Thủ Ấn thì thân khẩu ý phải tương ưng. Cho nên các phương pháp Phật đưa ra đều chính xác hết, chỉ sợ mình có chịu thực tập hay không.
Trong Thiền thoại có kể lại rằng, vào đời nhà Tống, có một vị Hòa thượng tu hành đắc đạo có một người bạn tên là Trương Tổ Lưu. Một hôm Hòa thượng khuyên bạn đã lớn tuổi rồi, cái chết vô thường không biết đến lúc nào, cố gắng tu hành, bố thí và làm các thiện pháp. Ông bạn cho rằng mình hãy còn khỏe, còn sống được lâu nên hẹn sẽ tu tập sau khi hoàn thành ba điều ước nguyện. Điều thứ nhất là con trai lớn chưa lấy vợ, đứa con gái kế lại chưa gả chồng, điều cuối cùng là nhà chưa xây cất xong. Quả tình đúng một tháng sau, ông Trương chết. Hòa thượng đến đưa đám, không tụng kinh gì mà chỉ đọc một bài kệ:
Bạn tôi tên là Trương Tổ Lưu
Khuyên ông tu học, hẹn ba điều
Ba điều chưa vẹn, vô thường đến
Đáng trách Diêm Vương chẳng nể nhau.
Một khi vô thường đến thì Diêm Vương không nể một ai cả, có chăng là trường hợp của ông tri sự trong câu chuyện sau. Trong Ngũ Đăng Hội Nguyên có kể rằng, trong hội của Thiền sư Tuệ An, có ông thầy tri sự tuổi cũng khá lớn, đạo hạnh cao minh, giữ gìn giới luật, nhưng hiềm nỗi việc Phật sự bề bộn nên không có thời gian tu nhiều. Một hôm ông đang ngồi thiền, lính của Diêm vương hiện lên nói rằng: “Bạch Hòa thượng, thời hạn của Hòa thượng hết rồi, xin Ngài đi theo tôi”. Hòa thượng nói rằng: “Ông về tâu với Diêm Vương, việc Phật sự của tôi bề bộn quá, tôi phải lo cho đại chúng nhiều, nên xin gia hạn cho tôi bảy ngày”. Diêm Vương nể tình ông Thầy tri sự nên đồng ý lùi lại bảy ngày. Trong suốt bảy ngày này, ông thầy tri sự tu miên mật, không xen hở một niệm. Hết bảy ngày, quỷ sứ đến tìm ông nhưng không thấy. Ngài ngồi ngay đấy, mà nó tìm không thấy. Thấy chỗ nào? Ngồi đây là thấy cái bóng thôi, chỗ chánh nhân Phật tánh làm sao mà thấy? Ngay chỗ vô niệm ai thấy được? Quỷ sứ tìm suốt bảy ngày không thấy bèn bỏ đi. Ngài ngồi xong cũng tịch luôn. Như vậy là dù cho Diêm Vương có nể, cũng chỉ cho hạn bảy ngày. Nếu có người nào biết mình chỉ sống được một tháng nữa, bảo đảm người đó tu rất tinh tấn để giải thoát.
Một trường hợp có thật, tại nước Bỉ có một cô gái tuy cả đời không làm điều ác, nhưng không hề biết đến việc tu tập mà chỉ cảm thấy đó là chuyện mơ hồ. Bỗng một hôm khám bệnh, cô phát hiện mình bị ung thư ở giai đoạn cuối không thể cứu chữa, bác sĩ khẳng định cô sẽ chết trong một, hai tháng tới. Gia đình mời hai vị thầy đến hướng dẫn, khuyến khích và trợ duyên cho cô ngồi thiền. Biết chắc chắn là mình chỉ còn sống được một tháng thôi, nên cô buông bỏ hết tất cả, chỉ tập trung ngồi thiền, không nhớ nghĩ gì khác, thậm chí có ngày ngồi suốt cả buổi không ăn uống gì. Cho đến ngày cuối cùng trước khi cô ra đi, cô nắm tay người chị gái, cười rồi nhẹ nhàng ra đi, không hề cảm thấy đau đớn gì.
Một trường hợp khác, tại Canada có một người Phật tử trước đây cũng tu thiền. Một hôm anh cũng phát hiện mình bị ung thư giai đoạn cuối và được bác sĩ trả về nhà. Biết mình chắc chắn sẽ chết, anh quyết định bỏ hết tất cả, vào phòng riêng đóng cửa ngồi thiền cho đến chết. Trước đây anh chỉ ngồi một tiếng thì bây giờ anh ngồi liên tục cả ngày cho đến hai, ba ngày. Ngồi suốt như thế đến một hôm khi đang ngồi, anh thấy bụng mình sôi lên, khi xả chân ra đi cầu thấy phân đen như hắc ín. Sau khi đi khám lại thì hết bệnh luôn.
Hai trường hợp trên là tùy theo phước duyên của mỗi người. Nhưng qua đó chúng ta thấy khi quán niệm sâu sắc về cái chết rồi, mình tu hành sẽ rất tinh tấn. Còn giờ chúng ta ngồi nhức nhức chân là xả ra, nói thôi mai tu tiếp, hoặc mình niệm Phật được một lúc, thôi xả ra đi chơi, mai tu tiếp. Nhưng ngày mai chúng ta có tu tiếp không? Cũng chưa chắc, đúng không?
Quán chiếu được sự vô thường đó, Sơ tổ Trúc Lâm có làm bài kệ:
Thân như hơi thở ra vào mũi
Đời giống mây trôi đỉnh núi xa
Tiếng quyên từng chập vầng trăng sáng
Đâu phải tầm thường qua một xuân.
Quý vị có thấy cuộc đời mình giống những đám mây không? Có lúc chúng ta làm được những thiện pháp trong đời quá khứ thì đám mây tụ lại thành hình ảnh giàu sang, sung sướng. Qua giai đoạn đó rồi, trong thời quá khứ ta cũng đã từng làm ác pháp, đám mây lại tan ra, tụ lại thành hình ảnh khác. Chúng ta thấy cuộc đời rất ảo ảnh, vô thường. Nhưng đạo Phật chỉ ra điều đó không phải để quý vị bi quan, mà là để quý vị phấn phát đi sâu vào thiền định, thấy rõ được tính vô thường của các pháp và mình phải sống cuộc đời như thế nào cho có giá trị.
Tinh thần của nhà Phật là “từ khước”, có nghĩa là từ khước mọi tham ái, chấp thủ, tật đố, ích kỷ… nhưng không từ khước cuộc sống. Biết cuộc đời là vô thường, nhưng phải nương sự vô thường này để đi đến chỗ chân thường. Đạo Phật không hề bi quan, yếm thế, mà đạo Phật là “tự mình thắp đuốc lên mà đi, thắp đuốc với chánh pháp.”
“Tiếng quyên từng chập vầng trăng sáng”: Chim quyên cất tiếng kêu là động hay tịnh? Động. Vầng trăng sáng là tịnh hay động? Tịnh. Muốn thấy được mùa xuân miên viễn trong tự tánh của chính mình thì quý vị phải vượt thoát chỗ động tịnh, thương ghét, chủ khách.
Như vậy, sau khi quán chiếu sâu sắc sự vô thường và cái chết, tự nhiên quý vị sẽ có một nguyện lực mạnh mẽ hơn ngày xưa nhiều. Sẵn sàng xả thân để làm lợi ích cho tất cả, nhưng với một điều kiện là không chấp thủ. Đó chính là hạnh nguyện của Bồ Tát.
Trong Ngũ Đăng Hội Nguyên ghi, có một bà già đến hỏi Thiền sư Triệu Châu:
– Bạch Hòa thượng, con thấy thân người nữ khổ quá, bị chướng ngại khó tu, xin Hòa thượng chỉ cho con cách tu làm sao để kiếp sau con thành thân nam.
Hòa thượng nói:
– Không cần phải đợi đến kiếp sau, đến trước Chánh điện tôi sẽ chuyển cho bà.
Khi bà già đã đứng trước Chánh điện, Thiền sư Triệu Châu đánh ba tiếng chuông, nói:
– Nếu bà muốn chuyển thành thân nam, bà phải nghe lời tôi, phát nguyện lực như thế này: “Con phát nguyện cho tất cả mọi người đều sanh lên cõi trời, còn con thì trầm luân dưới hỏa ngục”.
Bà già sợ hãi, cho rằng lời phát nguyện này không liên quan gì đến việc bà muốn chuyển sang thân nam để dễ tu hành. Hòa thượng lúc này mới khai thị:
– Đó mới chính là chuyển thân nam.
Câu chuyện này tưởng như rất đơn giản, nhưng quý vị thử ngẫm nghĩ lại, đại trượng phu là gì? Nói người nam là trật. Đại trượng phu là người có một tâm hồn bao dung, có cái thấy xa, có nguyện lực lớn, muốn cho tất cả mọi người đều được sung sướng, an ổn còn mình sẵn sàng chịu những nỗi đau khổ của con người trong cuộc đời. Đó chính là đại trượng phu, là Phật, là Bồ tát rồi. Mà đã là Phật, là Bồ Tát thì đâu còn phân biệt nam nữ nữa. Trong thiền viện có những vị thầy tri khố trong nhà bếp, ăn uống cho bản thân rất đơn giản, nhưng lại mong muốn cho tất cả chư Tăng, chư Ni, quý vị ăn cho đầy đủ, sung túc. Tu là từ nơi tâm. Thấy được như thế rồi, các Ngài sẵn sàng phát nguyện lực lớn là chịu thống khổ cho chúng sanh là tức khắc giải thoát.
III. NĂM PHƯƠNG PHÁP QUÁN NIỆM VỀ CÁI CHẾT
Đại sư Liên Hoa Sanh đưa ra năm phương pháp quán niệm về cái chết để đưa hành giả đến con đường giác ngộ và giải thoát.
1. Quán niệm càng lúc càng tới gần cái chết.
Khi ta bước đi, mỗi bước đi là gần kề cái chết”. Chẳng hạn như bước một bước mà biết bước thứ hai mình sẽ chết, nếu quán niệm sâu sắc như thế thì còn có vọng tưởng không? Bảo đảm là hết luôn.
“Khi ta về đến nhà, phần lớn cuộc đời đã kết thúc.”
Chúng tôi kinh nghiệm là khi đi máy bay hay xe đò…hãy liên tục quán chiếu là không có gì bảo đảm mình sẽ còn sống cho đến khi về đến nhà. Liên tục quán chiếu như vậy thì sẽ không khởi niệm về pháp thế gian nữa mà luôn luôn an trú trong pháp xuất thế gian. Khi an trú như vậy thì những niệm sợ hãi không còn nữa nên mình rất an ổn và không sợ chết.
“Khi ta đang uống một tách trà, khi ta đang ăn cơm, khi ta nói chuyện, khi ta đang thiền tập, mỗi việc ta đều quán niệm thì tự dưng việc buông xả rất nhẹ”.
Ngài Đạt Lai Đạt Ma nói: “Hãy cẩn thận, hãy thành tâm, một ngày nữa đã trôi qua”.
Trong Thiền quan sách tấn có kể một câu chuyện về Thiền sư Y Am tu hành rất tinh tấn. Khi trời chiều ngả bóng, Ngài khóc, than rằng: “Ngày nay vẫn chưa được gì, ngày mai chưa biết công phu tu tập ra sao”.
Còn Thiền sư Nham Khâm nói: “Thời giờ không đợi người, một chớp mắt đã qua đời khác, lúc thân thể còn tráng kiện, sao không dốc chí học hỏi cho thấu nguồn tột đáy, chúng ta có diễm phúc gì mà ngày nay gặp được chánh pháp?”
Quý vị nghiệm lại mình có diễm phúc không? Nhiều khi chúng ta thấy việc nghe pháp sao đơn giản quá, nhưng theo lời của Đức Phật, chúng ta có diễm phúc, có duyên may lớn mới được nghe lời thánh pháp của Đức Phật. Mà khi nghe như vậy thì những lời dạy của Đức Phật đã rớt trong tàng thức của mình, không bao giờ mất đi.
Có nhiều người lớn tuổi đến thiền viện than thở là biết đến Phật pháp quá trễ nên đã sống một cuộc đời có nhiều lầm lỗi. Nhưng có gì là muộn?
Kinh Pháp cú nói:
Ai sống một trăm năm.
Ác giới, không thiền định
Tốt hơn sống một ngày
Trì giới tu thiền định.
Chỉ sống một ngày có giữ giới, tu tập thiền định mà tốt hơn cả trăm năm không giữ giới, không chịu tu thiền định. Vậy hiện nay quý vị có túc duyên sống được bao nhiêu ngày trì giới, tu thiền định? Quá nhiều.
Ngài Lam Lim nói: “Một đời người, một trăm năm, có thể được chia làm hai phần, một nửa tiêu phí vào giấc ngủ, đây là chưa tính việc ngủ ngày, và phần lớn năm mươi năm thức giấc kia trôi đi trong việc tranh cãi, bệnh tật và nhiều hoạt động vô ích khác. Nếu chúng ta gộp lại tất cả thời gian sử dụng trong việc tu tập thì rất là ít. Và sau đó chúng ta phải chết, mặc dù bạn có một thân người toàn hảo”.
Trong Kinh Pháp cú thí dụ có ghi, bốn anh em Phạm chí chứng ngũ thông, biết còn bảy ngày nữa là chết, nên đến chào tạm biệt đức vua. Người thứ nhất nói: “Tôi lặn xuống biển, ở giữa chừng thì vua Diêm Vương sẽ không làm gì được”. Người thứ hai nói: “Tôi chui vào kẹt núi Tudi”. Người thứ ba nói: “Tôi bay trốn trong hư không”. Người thứ tư nói: “Tôi lẩn vào trong chợ”. Quả tình bảy ngày sau, quỷ vô thường đến. Người coi chợ thấy có một người Phạm chí chết ngoài chợ, đến tâu với vua. Vua đến bạch Phật, Phật khai thị rằng: “Người đời có bốn việc không thể trốn khỏi. Một là ở trong thân trung ấm không thể sanh, sanh đều phải già, già đều phải bệnh, bệnh đều phải chết”. Tức là bốn việc đó, không ai trốn được hết. Nếu chúng ta làm việc cực thiện, khi chết sẽ được tái sanh lên cõi trời; nếu chúng ta làm việc cực ác, sẽ bị đọa xuống hỏa ngục; còn những người nào lưng chừng thì thọ vào thân trung ấm, đúng 49 ngày sau là phải tái sanh, nên mới nói “ở trong thân trung ấm không thể sanh…”
Thế Tôn nói kệ:
Không trên trời giữa biển
Không lánh vào động núi
Không chỗ nào trên đời
Trốn khỏi tay thần chết
Mãi lo nghĩ trước mắt
Cùng những việc sẽ tới
Người làm lòng chẳng yên
Lo già chết theo liền
Biết thế nên tự tĩnh
Như thế sanh đã hết
Tỳ kheo thắng binh ma
Được thoát vòng sanh tử.
Nghĩa là Đức Phật nói biết chắc chắn mình sẽ chết, nên mình dừng lại và tỉnh, tức là “sanh đã hết”, thắng được binh ma phiền não thì được “thoát vòng sanh tử”.
2. Quán niệm giờ chết thì bất định
Tức là chúng ta có thể đón cái chết bất cứ lúc nào, ví như bị rắn độc cắn, bị tai nạn xe cộ, sóng thần, động đất… Trong Kinh Xuất Diệu có kể một câu chuyện: Tôn giả A Nan đi khất thực cùng Đức Phật vào thành Xá Vệ thấy một đám đông bao quanh một vị nghệ sĩ tài ba, ai ai cũng tán thán. Nhưng sau khi khất thực xong đi về, Tôn giả thấy chàng trai này đã chết, rất đỗi ngạc nhiên, Ngài đến bạch Phật: “Điều hôm nay con trông thấy thật quá lạ lùng, chưa bao giờ thấy”. Đức Phật mới nói rằng: “Mạng sống con người qua nhanh như gió, khó kiềm giữ lại được. Thế thì lời ông vừa nói, có gì đâu mà lạ”. Rồi Thế Tôn nói kệ:
Sáng vừa mới thấy
Tối đã mất rồi
Hôm qua mới đó
Giờ đã không còn
Ta đang tuổi trẻ
Không cậy vào đâu
Tuổi trẻ cũng chết
Trai gái vô số.
Trong Kinh Pháp cú, Đức Phật có bài kệ:
Nhìn đời như ảo ảnh
Nhìn đời như bọt nước
Ai nhìn đời như thế
Thần chết chẳng làm gì.
Tức là muốn thoát khỏi sanh tử, bớt đi niệm lăng xăng và những chấp thủ giữa cuộc đời thì chúng ta phải nhìn cuộc đời này như ảo ảnh, như bọt nước.
Thiền sư Khuê Phong nói rằng có ba hạng tu đạo. Hạng thứ nhất là gặp cảnh mà không dính mắc, đó là bậc thánh. Hạng thứ hai, gặp cảnh mà dính mắc, đó là những người không biết tu đạo. Hạng thứ ba, gặp cảnh thì dính mắc, nhưng ngay đó biết buông xả, đó là những người như mình, là người biết tu đạo. Như vậy thì chúng ta cũng có phần trong đó chứ không phải bi quan. Nhiều khi mình cũng sân hận, nhưng cố gắng đừng có giận lâu mà phải biết cách buông xả, còn người xuất gia thì “tăng hận bất cách túc, sanh tử nhất mộng trường”, tức là không giận quá một đêm, thấy được sanh tử chỉ như cơn ảo mộng, thì ngay đó các niệm lắng xuống, không còn giận nữa.
3. Quán niệm ai rồi cũng phải chết
Trong Cổ học tinh hoa kể lại rằng, vua Hán Vũ Đế rất giỏi coi nhân tướng học. Một hôm ông nói trước quần thần là người nào nhân trung dài thì sống rất thọ. Vừa nói xong thì ông quan Đông Phương Sóc cười to. Vua đang nói mà cười to trước mặt vua như vậy là phạm tội khi quân, phải bị chém đầu. Trước khi bị lôi ra ngoài xử trảm, vua hỏi ông: “Khi trẫm nói, tại sao khanh lại cười?”. Ông trả lời: “Thần nghe nói ông Bành

 

 

 

 

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét