6.000 xe tăng, 4.000 máy bay, 2 triệu binh lính đã được huy động trong
trận Vòng cung Kursk, trận đánh xe tăng lớn nhất lịch sử nhân loại.
|
Hitler đã huy động lực lượng chưa từng có trong chiến dịch Citadel nhằm tạo bước đột phá chiến lược trên mặt trận phía Đông. Ảnh lấy từ phối cảnh bộ phim Vòng cung lửa của đạo diễn Yuri Ozerov |
Kế hoạch táo bạo của Đức
Sau thất bại tại Stalingrad, mùa hè năm 1943, quân đội Đức quốc xã đã
quyết định tổ chức một cuộc tấn công quy mô lớn vào khu vực vòng cung
Kursk nhằm làm suy yếu tiềm năng của Liên Xô. Hitler cho rằng một chiến
thắng ở đây sẽ khẳng định sức mạnh của Đức, nâng cao uy tín với các đồng
minh đang muốn rút khỏi cuộc chiến.
Để phục vụ cho trận đánh chiến lược quyết định này, quân đội Đức quốc
xã đã huy động 22 sư đoàn bộ binh với tổng quân số 912.460 binh lính,
17 sư đoàn xe tăng, 2 sư đoàn bộ binh cơ giới với tổng số 2.982 xe tăng
các loại trong đó có 800 chiếc Tiger - loại xe tăng chiến đấu chủ lực
lừng danh của Đức, 9.966 khẩu pháo các loại, 2.110 máy bay chiến đấu.
Lực lượng này chiếm đến 17% số sư đoàn bộ binh, 70% số sư đoàn xe tăng,
30% số sư đoàn cơ giới và 60% số máy bay của Đức trên mặt trận phía
Đông.
Hitler đã đặt mật danh cho chiến dịch này là Citadel. Ông chính là
người đã khai sinh việc đặt mật danh cho các chiến dịch quân sự lớn về
sau. Theo sắc lệnh số 6 do Hitler phát hành, tập đoàn quân Trung tâm do
Thống chế Günther von Kluge chỉ huy phối hợp cùng Tập đoàn quân số 9 do
tướng Walter Model lãnh đạo tạo thành gọng kìm ở phía Bắc.
Tập đoàn quân phía Nam do Thống chế Erich von Manstein chỉ huy phối
hợp cùng Quân đoàn Panzer 4 tấn công vào khu vực phía Nam. Ban đầu chiến
dịch Citadel dự định sẽ bắt đầu vào ngày 3/5/1943, nhưng sau đó Hitler
đã cho hoãn chiến dịch đến ngày 12/6. Ông cho rằng, xe tăng là chìa khóa
của chiến dịch nên tiếp tục hoãn chiến dịch đến ngày 5/7 để chờ đợi các
vũ khí mới như xe tăng Panzer và nâng cấp xe tăng Tiger.
|
Hitler cho rằng, xe tăng là chìa khóa của
chiến dịch Citadel nên đã huy động gần 3.000 xe tăng các loại trong trận
đánh vào vòng cung Kursk. Ảnh: Wikipedia |
Về phía Liên Xô, từ các thông tin tình báo và trinh sát thu thập
được, Nguyên soái Georgy Zhukov khẳng định rằng, quân đội Đức sẽ tiến
hành một chiến dịch quân sự lớn vào khu vực Kursk cách 450 km về phía
tây nam Moscow.
Nguyên soái Zhukov đề nghị xây dựng tuyến phòng ngự vững chắc kéo
quân Đức sa vào cái bẫy để đập tan lực lượng thiết giáp, tạo điều kiện
cho một cuộc phản công quy mô lớn nhằm giành thắng lợi quyết định. Hồng
quân đã xây dựng 6 vành đai phòng thủ với chiều sâu 130-150 km trong đó
có 3 khu vực phòng ngự chính với chiều sâu 40 km.
Lực lượng công binh Hồng quân đã cài 503.663 quả mìn chống tăng,
439.348 quả mìn sát thương trên 3 khu vực phòng ngự chính. 4.800 km giao
thông hào đã được đào chằng chịt trong khu vực. Các bãi mìn tại khu vực
Kursk có mật độ 1.700 quả mìn sát thương và 1.500 mìn chống tăng trên
km 2, gấp 4 lần mật độ được sử dụng để bảo vệ Moscow.
Lực lượng huy động cho chiến dịch phòng ngự tại vòng cung Kursk lên
đến 1,3 triệu quân, 3.600 xe tăng các loại, 20.000 khẩu pháo chủ yếu là
pháo chống tăng, 2.729 máy bay chiến đấu các loại. Lực lượng này chiếm
26% tổng quân số Hồng quân, 26% lực lượng pháo binh, 35% máy bay và 46%
lực lượng tăng thiết giáp. Việc hoãn kế hoạch tấn công muộn hơn 2 tháng
của Đức đã tạo thêm thời gian cho Hồng quân xây dựng tuyến phòng ngự kỹ
lưỡng nhất.
Cuộc chạm trán xe tăng lớn nhất lịch sử
|
Trận đánh tại cánh đồng Prokhorovka đã trở thành cuộc chạm trán xe tăng lớn nhất lịch sử nhân loại. Ảnh: Wikipedia |
Sáng sớm ngày 5/7/1943, quân đoàn II SS Panzer phát động cuộc tấn
công quy mô lớn vào khu vực Kursk. Sau một tuần công kích, mũi tấn công
phía Nam của Thống chế Von Manstein tiến được 36 km vào tuyến phòng ngự
nhưng không phá vỡ được. Hướng tấn công phía Bắc của Tập đoàn quân trung
tâm chỉ tiến được 12 km vào tuyến phòng ngự.
Ngày 10/7, Hồng quân bắt đầu chiến dịch phản công quy mô lớn, cuộc
chạm trán giữa đôi bên lên đến đỉnh điểm vào ngày 12/7 tại cánh đồng
Prokhorovka. Chỉ trong vòng 3 ngày, hai bên đã tung vào trận chiến những
sư đoàn xe tăng hùng mạnh nhất với tổng số lên đến 1.200 xe tăng và
pháo chống tăng tự hành. Trận đánh tại Prokhorovka đã trở thành cuộc
chạm trán xe tăng lớn nhất lịch sử nhân loại.
Tại Prokhorovka Tập đoàn quân xe tăng số 5 của Hồng quân đã chạm trán
Tập đoàn quân II SS-Panzer của Đức. Hồng quân đã sử dụng chiến thuật
táo bạo khi cho xe tăng hạng trung T-34 cắt vào giữa đội hình xe tăng
Đức. Những chiếc T-34 nhanh nhẹn quần thảo giữa đội hình những chiếc
Tiger và Panzer nặng nề khiến đội hình tấn công bị cắt đứt buộc phải rút
lui.
Cả hai bên đều chịu thiệt hại nặng song đợt tấn công của Đức đã bị
chặn đứng. Tối 12/7, Hitler triệu tập von Kluge và von Manstein yêu cầu
ngưng chiến dịch Citadel để rút quân về đối phó với đợt tấn công của
quân đồng minh vào miền Nam nước Pháp.
Ngày 16/7 quân Đức rút về vạch xuất phát, trong khi Hồng quân đã phát
động đợt phản công quy mô lớn nhằm chiếm ưu thế trên mặt trận phía
Đông. Lần đầu tiên, một đợt tấn quy mô lớn chưa từng có của Đức phải
dừng lại trước khi đạt được sự đột phá.
Tổn thất của đôi bên
|
Liên Xô đã phải trả một cái giá rất đắt cho thắng lợi tại trận Vòng cung Kursk. Ảnh: Wikipedia |
Trận Vòng cung Kursk là một chiến thắng mang tính chiến lược có ý
nghĩa quyết định đến cục diện chiến trường. Thắng lợi của Hồng quân đã
đẩy quân đội Đức quốc xã từ thế chủ động lâm vào thế bị động. Tuy nhiên,
cái giá của chiến thắng không hề rẻ.
Theo số liệu của nhà sử học Grigoriy Krivosheyev, trong trận Kursk,
429.890 chiến sĩ Hồng quân hy sinh, tổng số quân hy sinh và thương vong
lên đến 685.456 người. Tổn thất về trang thiết bị vũ khí rất lớn, 1.614
xe tăng bị phá hủy trong tổng số 3.600 chiếc tham chiến. 2.349 khẩu pháo
các loại bị phá hủy, 1.116 máy bay bị bắn rơi.
Các số liệu về tổn thất của quân Đức không rõ ràng. Theo nhà sử học
Karl-Heinz Frieser, khoảng 198.000 binh lính thiệt mạng hoặc bị thương,
760 xe tăng bị phá hủy, 524 máy bay bị bắn rơi. Cựu Thủ tướng Anh
Winston Churchill từng nói "Trận Stalingrad là kết thúc của sự khởi đầu
nhưng trận Kursk là khởi đầu của sự kết thúc".
Đức Hải
10 trận bao vây đẫm máu nhất trong lịch sử (kỳ 1)
30.000 lính Ottoman tử trận khi vây một pháo đài với gần 3.000 quân, còn
trong số 50.000 người ở thành Kiev, chỉ khoảng 2.000 người sống sót khi
họ chống quân Mông Cổ.
Trận chiến cuối cùng của Suleiman Đại đế (năm 1566)
Đế chế La Mã Thần thánh hay Thánh chế La Mã là tên của một đế quốc
từng tồn tại ở châu Âu từ năm 962 tới năm 1806. Vào thời kỳ thịnh vượng
trong thế kỷ 12, lãnh thổ Thánh chế La Mã bao gồm Đức, Áo, Thụy Sĩ, miền
đông Pháp, Bỉ, Hà Lan, miền tây Ba Lan, Czech, Italy. Tuy nhiên, vào
thế kỷ 16, Thánh chế La Mã trở thành đối tượng chinh phục của vua
Suleiman đệ nhất (hay Suleiman Đại đế), một trong những vị hoàng đế lỗi
lạc nhất của đế quốc Ottoman (Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay) nói riêng và châu Âu
nói chung.
|
Khoảng 33.000 người đã chết trong cuộc vây hãm pháo đài Szigetvár vào năm 1566. Ảnh: Listverse |
Szigetvár là một pháo đài ở rìa phía đông của Thánh chế La Mã. Nó
cũng là nơi mà vua Suleiman Đại đế chỉ đạo trận đánh cuối cùng trong đời
ông. Khi cuộc chiến xảy ra, Suleiman đã hơn 70 tuổi. Với lực lượng dưới
3.000 người, Nikola Zrinski, người đứng đầu Croatia và cũng là chỉ huy
của pháo đài, không chấp nhận yêu cầu đầu hàng của Suleiman Đại đế. Thậm
chí ông còn tuyên bố rằng pháo đài sẽ là chốt chặn cuối cùng của Thánh
chế La Mã trước quân Ottoman. Nếu tính về quân số, lực lượng của
Suleiman gấp 50 lần binh lực của Zrinski.
Ngày 6/8/1566, cuộc vây hãm pháo đài Szigetvár bắt đầu. Vua Suleiman
tung toàn bộ lực lượng, song vấp phải sự kháng cự mãnh liệt của đối
phương. Sau một tháng, chỉ 300 lính Croatia cùng gia đình họ sống sót.
Suleiman hứa rằng Zrinski sẽ làm người lãnh đạo Croatia nếu ông đầu
hàng, nhưng ông từ chối. “Dù tôi thua, nhưng người đời sẽ không trỏ ngón
tay vào mặt các con tôi để nhục mạ cha chúng”, ông lập luận.
Nhận thấy cuộc chiến sắp kết thúc, Zrinski ra lệnh cho binh sĩ giết
vợ, con để họ không phải chịu đựng những hình phạt khủng khiếp nếu rơi
vào tay quân Ottoman. Những người lính tuân theo mệnh lệnh. Sau đó, họ
chiến đấu tới khi người cuối cùng gục ngã. Quân Ottoman tàn sát dã man
những người còn sống trong pháo đài. Tuy nhiên, Suleiman Đại đế cũng
phải trả giá đắt cho chiến thắng, bởi ông đã chết vì bệnh kiết lị 4 ngày
trước khi đội quân của ông kết thúc trận chiến. Ngoài ra, tổn thất của
quân Ottoman lên tới gần 30.000 người nên họ không thể tiếp tục tiến lên
và phải trở về nước. Mặc dù pháo đài Szigetvár thất thủ, người Croatia
vẫn coi trận đánh là một trong những sự kiện hào hùng trong lịch sử Cơ
đốc giáo, bởi nó giúp châu Âu tránh khỏi ảnh hưởng của đạo Hồi.
Trận chiến Nuremberg (năm 1632)
Chiến tranh Ba mươi năm là cuộc chiến giữa người Tin lành và người
Công giáo trên một khu vực thuộc nước Đức ngày nay. Nó bắt đầu từ năm
1618 và kết thúc vào năm 1648. Phần lớn cường quốc tại lục địa châu Âu
thời bấy giờ đều tham chiến.
Trong thế kỷ 17, Nuremberg là một trong những thành phố vĩ đại nhất
của người theo đạo Tin lành. Nhưng nó cũng là nơi mà một trong những
cuộc vây hãm thảm khốc nhất trong Chiến tranh Ba mươi năm diễn ra. Hồi
đó quân đội Thụy Điển, dưới sự chỉ huy của Gustav Adolf, rút vào thành
Nuremberg để thoát khỏi sự truy đuổi của quân đội Đế chế La Mã Thần
thánh. Adolf có gần 150.000 lính, nhiều hơn 30.000 người so với Albrecht
von Wallenstein, vị tướng của đối phương. Tuy nhiên, ông lại không mang
đủ lương thực tới Nuremberg. Dù quân số nhỏ hơn, Wallenstein vẫn ra
lệnh vây thành.
|
Khoảng 40.000 tới 50.000 người đã chết trong trận chiến Nuremberg vào năm 1632. |
Điều may mắn của Adolf là Wallenstein cũng không có nhiều lương thực
và thuốc men. Quân sĩ của cả hai bên đều hứng chịu tình trạng đói và
bệnh tật, đặc biệt là bệnh sốt phát ban. Trong cuộc vây hãm gần 80 ngày,
Adolf đã cố gắng phá vòng vây bằng một trận đánh quyết định, nhưng thất
bại. Ông đào tẩu khỏi thành phố sau khi nhận ra rằng toàn bộ lực lượng
của ông sẽ chết vì đói. Khi trận chiến kết thúc, khoảng 40.000 tới
50.000 lính của hai bên tử trận, song phần lớn họ chết vì bệnh tật, chứ
không phải vì vũ khí của đối phương.
Thành Kiev chống quân Mông Cổ (năm 1240)
Kiev, một trong những thành phố cổ nhất tại châu Âu và thủ đô của
Ukraina, từng phải chống lại sự vây hãm của đội quân viễn chinh hùng
mạnh của Mông Cổ trong thế kỷ 13. Trước khi cuộc chiến diễn ra, Hãn Bạt
Đô, cháu nội của vua Thành Cát Tư Hãn, đã phái sứ thần tới Kiev để yêu
cầu thành phố đầu hàng. Voivode Dmytro, người lãnh đạo cuộc chiến chống
Mông Cổ, đã ra lệnh giết các sứ thần. Việc đó khiến Hãn Bạt Đô tức giận.
Vào ngày 28/11/1240, quân Mông Cổ bắt đầu bao vây Kiev. Chiến dịch công
thành của họ bắt đầu bằng những đợt bắn đá.
|
Một bức tranh về cuộc chiến tại Kiev vào năm 1240. Ảnh: Listverse |
Ngày 5/12, những bức tường thành sụp đổ. Hãn Bạt Đô và quân của ông
tràn vào thành, giết tất cả những người mà họ gặp. Rất nhiều dân thường
đã chạy tới Nhà thờ Tithes, công trình ra đời từ 300 năm trước đó, để ẩn
náu. Song nhà thờ sụp khiến nhiều người chết. Trong số 50.000 dân tại
thành Kiev, chỉ khoảng 2.000 người sống sót. Dmytro là một người trong
số họ. Tới ngày 6/12, quân Mông Cổ hoàn thành việc tàn phá thành phố và
rời khỏi đây. Mức độ tàn phá của quân Mông Cổ khủng khiếp đến nỗi Tổng
giám mục Giovanni da Plano Carpini, người đến Kiev 6 năm sau đó, mô tả:
“Kiev từng là một thành phố lớn và đông dân, nhưng giờ đây nó chẳng còn
là gì cả”.
Còn nữa
Thái Dương (theo Listverse)
10 trận bao vây đẫm máu nhất trong lịch sử (kỳ 2)
Chiến dịch vây hãm lâu nhất trong lịch sử nhân loại diễn ra trong hơn 3
năm tại thành phố Ostend của Bỉ khiến hơn 200.000 người chết.
Quân Tây Ban Nha vây đối thủ hơn 3 năm
Chiến tranh Tám mươi năm hay Chiến tranh giành độc lập Hà Lan
(1568-1648) là cuộc nổi dậy của 17 tỉnh để chống lại vua Felipe đệ nhị
của Tây Ban Nha.
Ostend, nằm trên lãnh thổ Bỉ ngày nay, là nơi mà một trong những trận
vây hãm lâu nhất trong lịch sử nhân loại từng diễn ra. Nó cũng là trận
chiến đẫm máu nhất trong Chiến tranh Tám mươi năm. Do lực lượng nổi dậy
của 17 tỉnh vừa gia cố thành Ostend, nó trở thành nơi lý tưởng để phòng
thủ. Lực lượng trong thành vào khoảng gần 50.000 người - bao gồm cả quân
Hà Lan và lính Anh. Tướng Francis Vere, người chỉ huy thành Ostend, cảm
thấy rằng họ có thể đập tan quân Tây Ban Nha bên ngoài thành do hoàng
tử Albrecht chỉ huy.
|
Hơn 65.000 người đã mất mạng bởi cuộc chiến tại Ostend. Ảnh: Listverse |
Cuộc vây thành bắt đầu vào ngày 5/7/1601, với sự tham gia của khoảng
80.000 lính Tây Ban Nha. Phần lớn họ là bộ binh. Trong trận chiến, cả
hai phe đều sử dụng những mưu hiểm hòng hạ gục đối phương. Albrecht gần
như đã thành công trong việc thuyết phục một nội gián trong thành Ostend
kích động quân Hà Lan chống lại tướng Vere, nhưng kế hoạch bại lộ vào
phút chót. Vere cũng từng muốn đàm phán với Albrecht để chấm dứt tình
trạng đổ máu, nhưng cuối cùng ông rút lui do phía Tây Ban Nha nghi ngờ ý
định của ông.
Cuối cùng, quân Hà Lan và Anh đầu hàng quân Tây Ban Nha vào ngày
20/9/1604. Hoàng tử Albrecht cùng cô vợ Isabella tiến vào thành trong tư
thế của người chiến thắng. Tuy nhiên, khi chứng kiến cảnh hoang tàn của
Ostend, Isabella đã khóc.
Vó ngựa Mông Cổ nghiền nát Baghdad
Vào năm 1258, vó ngựa Mông Cổ đã tiến về phía Baghdad - trung tâm của
thế giới Ả rập thời đó. Người dẫn đầu đội quân này là Húc Liệt Ngột,
một cháu nội của Thành Cát Tư Hãn. Húc Liệt Ngột coi Hồi giáo là mối đe
dọa lớn nhất đối với đế chế Mông Cổ. Vì thế, ông quyết tâm phá hủy một
trong những thành phố lớn nhất và nổi tiếng nhất của người Hồi giáo. Hơn
100.000 quân Mông Cổ bao vây Baghdad sau khi vua Al-Musta’sim không
chấp nhận yêu cầu đầu hàng của Húc Liệt Ngột. Những người Hồi giáo dòng
Shiite vốn có thù với Al-Musta’sim nên họ hỗ trợ quân Mông Cổ. Chiến
dịch công thành bắt đầu vào ngày 29/1/1258 và thành Baghdad thất thủ
vào ngày 10/2 cùng năm.
|
Hơn 200.000 người thiệt mạng vì cuộc chiến Baghdad vào năm 1258. Ảnh: Listverse |
Ngay sau khi quân Mông Cổ tiến vào thành, họ giết tất cả những người Ả
rập mà họ gặp, trừ những người Cơ đốc. Húc Liệt Ngột (hoặc vợ ông) ra
lệnh cho quân lính đưa những người Cơ đốc tới một nhà thờ. Lính Mông Cổ
cuộn vua Musta’sim vào một tấm thảm rồi để ngựa giẫm lên cơ thể vị vua
cho tới khi ông chết. Ngôi nhà Tri thức, một trong những trung tâm học
thuật nổi tiếng nhất trong thế giới Hồi giáo thời bấy giờ, trở thành mục
tiêu mà quân Mông Cổ tàn phá. Lính Mông Cổ vứt mọi quyển sách trong
thành xuống sông Tigris. Nhiều nhân chứng kể lại rằng số lượng sách dưới
sông Tigris lớn đến nỗi ngựa Mông Cổ có thể bước qua sông một cách dễ
dàng.
Quân Nga chống Anh, Pháp, Thổ tại Sevastopol
Sevastopol là một trong hai thành phố cảng trực thuộc trung ương của
Ukraina ngày nay. Nó nằm phía tây nam bán đảo Crimean thuộc Biển Đen.
Chiến tranh Crimean là một cuộc chiến bắt đầu từ năm 1853 và kết thúc
vào năm 1856. Trong cuộc chiến đó, quân Anh, Pháp và Thổ chống lại quân
Nga. Cuộc bao vây Sevastopol – diễn ra từ năm 1854 tới năm 1855 – là
một trong những cuộc chiến tranh hầm hào đầu tiên trong lịch sử. Nó là
cuộc chiến sinh tồn đối với cả quân Nga lẫn liên minh Anh - Pháp - Thổ.
Sau khi các tướng Nga nhận ra rằng họ không thể đánh bại đối phương trên
trận địa trống trải, họ ra lệnh cho quân lính đào hào, hầm để phòng
thủ. Ban đầu quân Nga hứng chịu tổn thất từ các đợt tấn công của liên
quân, nhưng sau đó họ đào đường ngầm và chiến hào mỗi đêm để củng cố
trận địa.
|
Mùa đông lạnh kỷ lục và sự khốc liệt của cuộc chiến Sevastopol khiến hơn 200.000 người chết. Ảnh: Listverse |
Trong lúc cuộc chiến đang diễn ra ở thế giằng co, kẻ thù chung của cả
hai bên đã xuất hiện. Đó là mùa đông khắc nghiệt. Nhiệt độ giảm xuống
mức thấp kỷ lục khiến lính của hai bên chết dần vì bệnh tả và kiết lị.
Quân Pháp hứng chịu tổn thất lớn nhất, bởi số lượng binh sĩ chết vì bệnh
chiếm tới gần một nửa tổng số người tử trận của Pháp. Sau khi bảo vệ
thành công Sevastopol, người Nga vẫn phải rút lui. Vì thế, quân liên
minh dù thua nhưng vẫn tiến vào pháo đài hôm 9/9 cùng năm. Cái giá của
cuộc bao vây là hơn 200.000 sinh mạng của cả hai bên. Chẳng bao lâu sau
chiến tranh Crimean cũng kết thúc.
Chiến dịch bao vây thủ đô của đế chế Aztecs
Aztecs từng là một nền văn minh trên lãnh thổ thuộc Mexico ngày nay.
Đế chế Aztecs bắt đầu từ năm 1248 và kết thúc vào năm 1521, sau khi thực
dân Tây Ban Nha đánh bại quân đội Aztecs.
Trận bao vây Tenochtitlán, thủ đô của đế chế Aztecs, vào năm 1521 là
trận chiến quyết định giữa quân Aztecs và quân Tây Ban Nha. Những thổ
dân châu Mỹ chiếm phần lớn lực lượng của Tây Ban Nha. Họ chiến đấu cho
Tây Ban Nha vì căm phẫn sự áp bức của đế chế Aztecs đối với họ. Hernan
Cortes, vị tướng của Tây Ban Nha, chỉ huy 200.000 quân trong trận bao
vây Tenochtitlán. Trong khi đó, gần 300.000 chiến binh Aztecs bảo vệ thủ
đô. Dù thua kém về quân số, lực lượng Tây Ban Nha lại sở hữu những vũ
khí hiện đại hơn. Lợi thế về vũ khí giúp họ đảo ngược tình thế trong
giai đoạn sau của cuộc chiến.
|
Hơn 200.000 người, trong đó khoảng một nửa
là dân thường, đã chết trong chiến dịch bao vây thủ đô của đế chế Aztecs
vào năm 1521. Ảnh: Listverse |
Ban đầu lợi thế nghiêng về quân Aztecs. Nhưng bệnh đậu mùa đã tấn
công lính Aztecs, khiến khả năng chiến đấu của họ giảm mạnh. Nhận thấy
kiểu chiếm từng nhà không phải là chiến thuật hay, Cortes ra lệnh nã đại
bác vào thành phố, hủy diệt mọi tòa nhà tới khi quân Aztecs đầu hàng.
Chiến dịch bao vây diễn ra trong vỏn vẹn 3 tháng, nhưng nó gây nên tổn
thất cực lớn về nhân mạng. Hơn 200.000 người của cả hai bên đã mất mạng.
Các tài liệu cho thấy dân thường trong thành phố chiếm tới khoảng một
nửa số người chết trong trận chiến.
10 trận bao vây đẫm máu nhất trong lịch sử (kỳ 3)
Với số người chết có thể lên tới 2,5 triệu, nhiều sử gia tin rằng trận
chiến Leningrad tại Nga trong Thế chiến II là cuộc bao vây tàn khốc nhất
trong lịch sử loài người.
Đế chế La Mã bao vây thành Carthage
Carthage từng là một trong những thành phố thịnh vượng và quyền lực
nhất thế giới trước khi Đế chế La Mã ra đời. Nó cũng là một trong những
thành phố lớn nhất hành tinh trong giai đoạn trước cuộc cách mạng công
nghiệp. Nhưng vào năm 149 trước Công nguyên, người dân ở Carthage phải
chứng kiến một trong những trận chiến tàn khốc nhất trong lịch sử. Quân
La Mã từng phát động hai cuộc chiến tranh nhằm thôn tính Carthage nhưng
không thành. Trong cuộc chiến lần thứ ba, Scipio Aemilianus, một chấp
chính quan La Mã, trở thành người chỉ huy quân viễn chinh.
Nhiệm vụ quan trọng và cấp bách đầu tiên của Carthage là sản xuất vũ
khí, bởi họ đã giao nộp toàn bộ áo giáp và vũ khí cho La Mã theo một
thỏa thuận trước đó. Trong giai đoạn đầu của cuộc chiến, họ giành một số
thắng lợi quan trọng và đẩy lùi các đợt tấn công của đối phương. Nhưng
về sau quân La Mã đã thành công trong việc chặn mọi đường tiếp tế vào
thành. Người Carthage cố gắng chọc thủng vòng vây, nhưng thất bại. Cuối
cùng, sau ba năm, quân La Mã chiếm được thành vào năm 146 trước Công
nguyên. Họ biến thành phố thành biển máu, bắt khoảng 50.000 người sống
sót làm nô lệ và phá mọi tòa nhà của Carthage trước khi về nước. Hơn
460.000 người mất mạng trong cuộc chiến.
|
Lửa cháy khắp thành phố Carthage sau khi quân La Mã tràn vào đây. Ảnh: Listverse |
Trận vây thành Jerusalem
Sau cuộc nổi dậy của người Do Thái vào năm 66 sau Công nguyên, Đế chế
La Mã quyết định tiêu diệt vĩnh viễn dân tộc này. Vào năm 70, họ cử
tướng Titus Flavius dẫn 70.000 quân tới thành phố Jerusalem – nơi có vai
trò rất quan trọng đối với người Do Thái - để thôn tính. Gần 40.000
binh sĩ bảo vệ thành Jerusalem.
Titus chia lực lượng thành 4 đạo quân để bao vây Jerusalem từ tháng 2
năm 70. Để thuyết phục đối phương đầu hàng, ông phái Josephus, một sử
gia Do Thái, vào thành để thương thuyết. Nhưng quân Do Thái đáp trả bằng
cách bắn tên về phía sử gia khiến ông bị thương. Dân trong thành thiếu
lương thực trầm trọng do quân La Mã phong tỏa đường tiếp tế vào thành.
Họ phải ăn cả đồ da và rác để tồn tại. Thậm chí nhiều người đã ăn thịt
đồng loại. Sử gia Josephus ghi trong một tài liệu rằng một bà mẹ Do Thái
đã giết con để ăn thịt.
|
Một bức tranh về cuộc chiến Jerusalem vào năm 70 sau Công nguyên. Ảnh: Listverse |
Cuối cùng quân La Mã phá thủng một bức tường thành và thực hiện một
cuộc tấn công bí mật vào ban đêm. Ngay sau khi lọt vào thành, họ tàn sát
mọi người dân mà họ gặp. Binh lính La Mã phá tan những công trình và
hôi của, cướp bóc khắp nơi. Khoảng gần một nửa số dân trong thành
Jerusalem sống sót, nhưng quân La Mã biến họ thành nô lệ và bán. Một tỷ
lệ lớn những nô lệ đó bị sát hại ngay trên các đường phố. Tới ngày
7/9/70, quân La Mã chính thức kiểm soát hoàn toàn Jerusalem. Khoảng 1,1
triệu người chết vì cuộc chiến.
Phát xít Đức bao vây thành phố Leningrad
Một trong những trận bao vây đẫm máu và dài nhất trong lịch sử diễn
ra ở mặt trận phía đông trong Thế chiến thứ hai. Chiến dịch phong tỏa
Leningrad của phát xít Đức kéo dài 871 ngày, bắt đầu từ hôm 8/9/1941 và
kết thúc vào hôm 27/1/1944. Nó là một trong các biểu tượng lớn nhất của
cuộc đọ sức cả về quân sự cũng như sức chịu đựng của con người giữa Liên
Xô và Đức. Trong giai đoạn cuối của trận chiến, khẩu phần của mỗi người
lính Liên Xô chỉ là 1/4 ổ bánh mì.
|
Pháo binh Liên Xô chống trả quân Đức trong trận Leningrad. Ảnh: Listverse
|
Bất chấp tình trạng thiếu lương thực trầm trọng, Hồng quân và nhân
dân Liên Xô tại Leningrad vẫn chống cự quyết liệt. May mắn thay, khi
nước trong hồ Ladoga gần thành phố đóng băng hoàn toàn vào mùa đông,
chính phủ Liên Xô đã có thể đưa hàng hóa vào thành phố, đồng thời đưa
người già, trẻ em, phụ nữ và người ốm ra ngoài. Vì thế người ta gọi lối
vào Leningrad qua hồ Ladoga là “Con đường của sự sống”. Cuối cùng, Hồng
quân đẩy lùi lực lượng Đức ra khỏi Leningrad và kết thúc cuộc vây hãm
Leningrad vào năm 1944. Các sử gia ước tính tổng số lính (của hai bên)
và dân thường đã chết trong trận chiến có thể lên tới 2,5 triệu. Hơn một
triệu dân thường Liên Xô chết vì bom, đạn và đói, rét.
Thái Dương (theo Listverse)
Số phận xe tăng cuối cùng của Đức quốc xã
Những cải tiến quan trọng về tháp pháo, độ dày của giáp bảo vệ của xe
tăng Panther Ausf-F đã không giúp Đức quốc xã thoát khỏi sự thất bại
trên chiến trường.
|
Xe tăng Panther Ausf-F có thiết kế tháp pháo thân hẹp khá độc đáo giúp xe giảm khả năng bị trúng đạn. Ảnh: Topwar |
Vào cuối năm 1943, các nhà thiết kế xe tăng Đức đã cố gắng thay đổi
thiết kế tháp pháo của xe tăng Panther nhằm tạo ra một tháp pháo hẹp
hơn, qua đó giảm khả năng bị trúng đạn. Độ dày của giáp xung quanh tháp
pháo cũng được tăng lên 120 mm cùng các sửa đổi về góc cạnh nhằm làm
giảm khả năng bị tiêu diệt từ trên cao.
Thiết kế tháp pháo mới được gọi là Tiggp Panther và do công ty
Rheinmetal giới thiệu vào tháng 3/1944. Các nhà thiết kế dự định trang
bị cho tháp pháo hẹp này hệ thống quan sát cùng một pháo chính mới.
Mùa xuân năm 1944, sự phát triển của tháp pháo thân hẹp đã được triển
khai tại công ty Rheinmetall Daimler-Benz. Xe tăng Panther Ausf-F được
phát triển trên cơ sở xe tăng Panther Ausf-G nên dù độ dày của tháp pháo
tăng lên nhưng không làm tăng trọng lượng của xe.
|
Việc Hitler yêu cầu sửa đổi xe tăng Panther
Ausf-F với pháo chính 88 mm đã khiến mẫu xe tăng hiện đại của Đức quốc
xã không kịp tham chiến. Ảnh: Topwar |
Các hệ thống vũ khí mới được chế tạo với khả năng tương thích cao với
tháp pháo thân hẹp mới. Thiết bị quan sát hồng ngoại cũng được bổ sung
thêm giúp xe có thể tác chiến vào ban đêm mà các xe tăng thời đó chưa
làm được.
Mẫu thử nghiệm Panther Ausf-F được hoàn thành vào tháng 8/1944. Xe
tăng mới được trang bị pháo chính 75 mm KwK 44/L71. Pháo có một xi lanh
giảm giật cùng hệ thống thu hồi nhiệt mới. KwK44 không có thiết kế thoát
hơi thuốc ở đầu nòng pháo, mặc dù mẫu giới thiệu có tính năng này.
Điều này khiến lực giật của pháo khi bắn tăng đáng kể từ 12-18 tấn.
Tháp pháo có hệ thống trợ lực có thể quay 360 độ trong 30 giây. Nó cũng
có thể quay bằng tay nhưng mất đến 4 phút để quay đủ 360 độ. Tuy nhiên,
khi tháp pháo quay sang một bên, việc nạp đạn khá chậm và cần có sự trợ
giúp của một bánh đà.
Các thử nghiệm cho thấy pháo KwK 44/L71 có khả năng xuyên giáp rất
tốt so với các pháo trước đó nhờ loại đạn mới. Tháp pháo có hệ thống
kính quan sát tiềm vọng TZF13 với khả năng phóng đại từ 2,5-6 lần, độ
phóng đại tối đa có thể lên đến 12 lần.
|
Chỉ 4 mẫu Panther Ausf-F (mũi tên màu
trắng) trên dây chuyền sản xuất khi lực lượng đồng minh tiến vào Berlin
tháng 9/1945. Ảnh: Topwar |
Kính TZF13 có 7 góc quan sát khác nhau giúp chỉ huy quan sát môi
trường xung quanh tốt hơn. Nó đi kèm với một máy đo khoảng cách. Phía
trên kính tiềm vọng có một tấm giáp che đặc biệt giúp nó không hỏng khi
bị bắn bằng vũ khí nhỏ.
Vào thời điểm đó kính tiềm vọng TZF13 có tính năng vượt trội so với
các sản phẩm cùng loại của các nước đồng minh. Tuy nhiên, công ty Leitz
chỉ có 10 mẫu sản xuất thử, đơn hàng 1.000 chiếc loại này chưa kịp sản
xuất thì Đức quốc xã đã bị đánh bại.
Một cải tiến quan trọng trên xe tăng Panther Ausf-F là hệ thống
truyền động mới giúp xe vận hành êm hơn, tốc độ nhanh hơn. Panther
Ausf-F có hệ thống liên lạc radio mới tốt hơn. Kế hoạch sản xuất loạt
1.929 xe tăng mới dự kiến sẽ bắt đầu vào tháng 5/1945.
Tháng 3/1945, Hitler muốn sửa đổi Panther Ausf-F sử dụng pháo chính
88 mm như trên xe tăng lừng danh Tiger. Điều đó khiến kế hoạch sản xuất
ban đầu phải hoãn lại. Mẫu xe tăng hiện đại cuối cùng của Đức quốc xã đã
không kịp thể hiện sức mạnh trên chiến trường.
Khi lực lượng đồng minh tiến vào Berlin chỉ 4 mẫu Panther Ausf-F đang
nằm trên dây chuyền sản xuất. Toàn bộ tài liệu kỹ thuật của dự án xe
tăng này bị phía Mỹ thu giữ.
Đức Hải
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét