Thứ Sáu, 20 tháng 1, 2017

TIẾNG THƠ 11

(ĐC sưu tầm trên NET)

                                                  Tiếng thơ - nhạc hiệu - Đài tiếng nói Việt Nam

------------------------------------------------------------- 

                                                              Mẹ Suốt - Nghệ sĩ Châu Loan

Mẹ Suốt
Tố Hữu

Lặng nghe mẹ kể ngày xưa
Chang chang cồn cát nắng trưa Quảng Bình
Mẹ rằng: Quê mẹ Bảo Ninh
Mênh mông sông biển, lênh đênh mạn thuyền
Sớm chiều, nước xuống triều lên
Cực thân từ thuở mới lên chín mười
Lớn đi ở bốn cửa người
Mười hai năm lẻ, một thời xuân qua
Lấy chồng, cũng khổ con ra
Tám lần đẻ, mấy lần sa, tội tình!
Nghĩ mà thương mẹ cha sinh
Thương chồng con lại thương mình xót xa
Bây chừ sông nước về ta
Đi khơi đi lộng, thuyền ra thuyền vào
Bây giờ biển rộng trời cao
Cá tôm cũng sướng, lòng nào chẳng xuân!
Ông nhà theo bạn "xuất quân"
Tui nay cũng được vô chân "sẵn sàng"
Một tay lái chiếc đò ngang
Bến sông Nhật Lệ, quân sang đêm ngày
Sợ chi sóng gió tàu bay
Tây kia mình đã thắng, Mỹ này ta chẳng thua!
Kể chi tuổi tác già nua
Chống chèo xin cứ thi đua đến cùng!
Ngẩng đầu, mái tóc mẹ rung
Gió lay như sóng biển tung, trắng bờ...
Gan chi gan rứa, mẹ nờ?
Mẹ rằng: Cứu nước mình chờ chi ai?
Chẳng bằng con gái, con trai
Sáu mươi còn một chút tài đò đưa
Tàu bay hắn bắn sớm trưa
Thì tui cứ việc sớm trưa đưa đò...
Ghé tai mẹ, hỏi tò mò:
Cớ răng ông cũng ưng cho mẹ chèo?
Mẹ cười: Nói cứng, phải xiêu
Ra khơi ông còn dám, tui chẳng liều bằng ông!
Nghe ra, ông cũng vui lòng
Tui đi, còn chạy ra sông dặn dò:
"Coi chừng sóng lớn, gió to
Màn xanh đây mụ, đắp cho kín mình!"
Vui sao, câu chuyện ơn tình
Nắng trưa cồn cát Quảng Bình cũng say...

                                                             Bầm ơi! NSND Châu Loan ngâm

Bầm ơi!
Tố Hữu

Ai về thăm mẹ quê ta
Chiều nay có đứa con xa nhớ thầm...
Bầm ơi có rét không bầm!
Heo heo gió núi, lâm thâm mưa phùn
Bầm ra ruộng cấy bầm run
Chân lội dưới bùn, tay cấy mạ non
Mạ non bầm cấy mấy đon
Ruột gan bầm lại thương con mấy lần.
Mưa phùn ướt áo tứ thân
Mưa bao nhiêu hạt, thương bầm bấy nhiêu!
Bầm ơi, sớm sớm chiều chiều
Thương con, bầm chớ lo nhiều bầm nghe!
Con đi trăm núi ngàn khe
Chưa bằng muôn nỗi tái tê lòng bầm
Con đi đánh giặc mười năm
Chưa bằng khó nhọc đời bầm sáu mươi.
Con ra tiền tuyến xa xôi
Yêu bầm yêu nước, cả đôi mẹ hiền.
Nhớ thương con bầm yên tâm nhé
Bầm của con, mẹ Vệ quốc quân.
Con đi xa cũng như gần
Anh em đồng chí quây quần là con.
Bầm yêu con, yêu luôn đồng chí
Bầm quý con, bầm quý anh em.
Bầm ơi, liền khúc ruột mềm
Có con có mẹ, còn thêm đồng bào
Con đi mỗi bước gian lao
Xa bầm nhưng lại có bao nhiêu bầm!
Bao bà cụ từ tâm như mẹ
Yêu quý con như đẻ con ra.
Cho con nào áo nào quà
Cho củi con sưởi, cho nhà con ngơi.
Con đi, con lớn lên rồi
Chỉ thương bầm ở nhà ngồi nhớ con!
Nhớ con, bầm nhé đừng buồn
Giặc tan, con lại sớm hôm cùng bầm.
Mẹ già tóc bạc hoa râm
Chiều nay chắc cụng nghe thầm tiếng con...



1948

                                                                     Màu tím hoa sim

màu tím hoa sim

Tác giả: Hữu Loan
Nàng có ba người anh
Đi bộ đội
Những em nàng còn chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh.

Tôi là người chiến binh
Xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn nàng không đòi may áo cưới,
Tôi mặc đồ quân nhân
Đôi giày đinh bết bùn đất hành quân,
Nàng cười xinh xinh
Bên anh chồng độc đáo.
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi!

Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng đời chiến chinh
Mấy người đi trở lại
Lỡ khi mình không về
Thì thương người vợ chờ
Bé bỏng chiều quê ...

Nhưng không chết người trai khói lửa
Mà chết người gái nhỏ hậu phương
Tôi về không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con
Đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
Thành bình hương
Tàn lạnh vây quanh ...

Tóc nàng xanh xanh
Ngắn chưa đầy búi
Em ơi!
Giây phút cuối
Không được nghe nhau nói
Không được trông thấy nhau một lần.

Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa một mình
đèn khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa...


Một chiều rừng mưa
Ba người anh
Trên chiến trường Đông Bắc,
Biết tin em gái mất
Trước tin em lấy chồng.

Gió sớm thu về
Rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió thu về
Cỏ vàng chân mộ chí.

Chiều hành quân
Qua những đồi sim ..
Những đồi hoa sim ...,
Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
Tím cả chiều hoang biền biệt
Nhìn áo rách vai
Tôi hát trong màu hoa.
Áo tôi sứt chỉ đường tà,
Vợ tôi chết sớm mẹ già chưa khâu


Bài thơ Màu Tím Hoa Sim, viết để khóc người vợ đầu tiên của ông là Lê Ðỗ Thị Ninh, được nhà thơ Nguyễn Bính công khai cho đăng trên Trăm Hoa ở Hà Nội năm 1956, sau nhiều năm được truyền miệng. Ngoài Màu Tím Hoa Sim, bài Hoa Lúa của ông cũng là một bài thơ tình được ưa thích. Qua hơn 30 năm bầm dập hiện nay, ông sống khá vất vả tại quê nhà.

                                                             Màu Tím Hoa Sim - Duy Khánh

                                                             Những Đồi Hoa Sim - Duy Khánh

Nhà thơ Hữu Loan & mối tình mang “màu tím hoa sim”

21/01/2004 20:12

Vào một ngày cuối năm 2003, dưới tán lá cây bồ đề trong vườn nhà ông, dưới chân núi Văn Lỗi của làng Văn Hoàn (xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, cách TP Thanh Hóa chừng 50 km), bên chiếc chõng tre cũ kỹ, nhà thơ Hữu Loan đã kể cho tôi nghe về mối tình lãng mạn nhưng cũng hết sức bi thương của ông - mối tình đã làm nên bài thơ nổi tiếng màu tím hoa sim.


Hữu Loan sinh năm 1914, trong một gia đình tá điền. Không được đến trường, chỉ học bữa được bữa không tại nhà do người cha dạy dỗ. Bù lại, ông có tư chất rất thông minh. Người làng Văn Hoàn kể rằng vào khoảng năm 1938, Hữu Loan vác lều chõng ra Hà Nội đua tài. Số đỗ kỳ thi ấy thật hiếm hoi. Cùng đỗ với Hữu Loan còn có Nguyễn Đình Thi, Hồ Trọng Gin, Trịnh Văn Xuân, Đỗ Thiện...  Năm 24 tuổi. Hữu Loan rời quê nhà lên TP Thanh Hóa dạy học. Lúc bấy giờ, ở  TP Thanh Hóa có cửa hàng bán vải và bán sách của bà Tham Kỳ (tên thật là Đái Thị Ngọc Chất, vợ của ông Lê Đỗ Kỳ - kỹ sư canh nông, có thời làm Tổng Thanh tra canh nông Đông Dương, sau này là đại biểu Quốc hội khóa đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa). Hữu Loan thường lại xem và mua sách và trở thành gia sư cho người con trai cùng cô con gái yêu của gia đình bà là  Lê Đỗ Thị Ninh, lúc ấy mới tám tuổi.
Hữu Loan kể: “Lần đầu tiên tôi tới nhà, bà Chất phải gọi mãi cô bé Ninh mới chịu ra khoanh tay chào thầy, miệng nói lí nhí: “Em chào thầy ạ!”. Chào xong cô bé bất ngờ mở to mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi mắt to, đen láy, tròn xoe như có ánh chớp ấy đã  hằn sâu vào tâm trí tôi, theo tôi suốt cả cuộc đời. Thế là từ hôm ấy, tôi dạy em đọc, viết. Em là một cô bé thông minh, ít nói và mỗi lần mở miệng là giống y như một “bà cụ”. Có lần tôi kể chuyện này cho hai người anh của em nghe. Không ngờ câu đùa ấy đến tai em. Thế là em dỗi! Suốt một tuần liền, em nằm lì ở buồng trong, không chịu học hành. Trước đó, hằng ngày em vẫn chăm sóc tôi một cách rất thầm kín. Lúc thì đặt vào góc mâm chỗ tôi ngồi ăn một vài quả ớt đỏ au em vừa hái ở vườn, lúc thì quả chanh mọng nước... Những buổi trưa hè, khi tôi ngủ trưa, em lén lấy chiếc áo sơ mi trắng của tôi treo ở góc nhà đem ra giếng giặt".
Một hôm, em nằng nặc đòi tôi đưa em lên khu rừng thông. Tôi sợ em lại dỗi nên đánh liều xin với ông bà Tổng Thanh tra cho đưa em lên núi chơi. Xe kéo chạy chừng một giờ mới tới được chân đồi. Em leo đồi nhanh như một con sóc. Tôi đuổi theo em đến đứt cả hơi. Lên tới đỉnh đồi, em ngồi xuống và bảo tôi: “Thầy ngồi xuống đi!”. Tôi ngồi xuống bên em. Chúng tôi cứ ngồi thế và chẳng nói gì. Bất chợt em nhìn tôi, rồi ngước mắt nhìn ra tít tận chân trời. Không hiểu lúc đó em nghĩ gì. Bỗng em hỏi tôi: “Thầy có thích ăn sim không?”. Tôi nhìn xuống sườn đồi: tím ngắt một màu sim. Em đứng lên và đi xuống sườn đồi. Tôi mệt quá và nằm thiếp đi trên thảm cỏ. Khi tỉnh dậy, tôi thấy em đã ngồi bên tôi với chiếc nón đầy ắp sim. Những quả sim đen nhánh, chín mọng. “Thầy ăn đi!”. Tôi cầm quả sim từ tay em đưa lên miệng. “Ngọt quá!”- tôi trầm trồ. Tôi sinh ra trong một gia đình nông dân. Quả sim đối với tôi chẳng lạ lẫm gì nhưng thú thật chưa bao giờ tôi được ăn những quả sim ngọt đến thế. Cứ thế, chúng tôi ăn hết quả này tới quả khác. Tôi ngước nhìn em, em cười. Hai hàm răng em đỏ tím, đôi môi cũng đỏ tím, hai bên má thì tím đỏ: một màu... sim. Tôi cười phá lên, em cũng cười theo...
Cuối mùa đông năm ấy, tôi lên đường đi kháng chiến. Hôm tiễn tôi, em cứ theo mãi ra tận đầu làng và lặng lẽ đứng nhìn theo. Tôi đi... Lên đến bờ đê, nhìn xuống  đầu làng, em vẫn đứng đó nhỏ bé và mong manh. Em giơ bàn tay nhỏ xíu như chiếc lá sim vẫy tôi. Tôi đi... Tôi quay đầu nhìn lại... Tôi lại đi và nhìn lại cho tới khi không còn nhìn thấy em nữa.
Những năm tháng ở chiến khu, thỉnh thoảng tôi có nhận được tin tức từ quê lên, tôi biết em vẫn khỏe và đã khôn lớn. Chín năm sau, tôi trở lại nhà... Về Nông Cống tìm em. Hôm gặp em ở đầu làng, tôi hỏi em, hỏi rất nhiều nhưng em không nói, chỉ bẽn lẽn lắc hoặc gật đầu. Em giờ đây không còn là cô học trò Ninh bướng bỉnh nữa rồi. Em đã 16 tuổi, đã là một cô gái xinh đẹp. Một tuần sau đó, chúng tôi kết hôn. Đám cưới thật đơn sơ:
“Tôi mặc đồ quân nhân
đôi giày đinh
bết bụi đất hành quân
nàng cười xinh xinh
bên anh chồng độc đáo”.
Khỏi phải nói chúng tôi hạnh phúc như thế nào. Hai tuần phép của tôi trôi đi nhanh quá. Hôm tiễn tôi lên đường, em vẫn đứng ở đầu làng, nơi tám năm về trước em đã đứng. Chỉ có điều giờ đây em không còn là cô bé Ninh nữa mà đã là người bạn đời yêu quý của tôi. Tôi đi, tôi lại quay đầu nhìn lại... Nếu như tám năm về trước tôi đi, tôi nhìn lại và chỉ cảm thấy một nỗi buồn man mác thì lần này tôi thực sự đau buồn. Đôi chân tôi như quỵ xuống... Em cũng như quỵ xuống...
Ba tháng sau, tôi nhận được tin dữ: Vợ tôi qua đời. Em chết thật thảm thương! Hôm đó là ngày 29-5 âm lịch năm 1948. Em đưa quần áo ra giặt  ở sông Chuồng  (thuộc ấp Thị Long, Nông Cống). Đang giặt em trượt chân. Con nước lớn đã cuốn em vào lòng nó, cướp đi của tôi người bạn đời tri kỷ, để lại cho tôi nỗi đau không gì có thể bù đắp nổi. Nỗi đau ấy, hơn 60 năm qua, vẫn nằm sâu thẳm trong trái tim tôi...
Nỗi đau ấy tôi phải giấu kín trong lòng. Tôi như một cái xác không hồn. Dường như nỗi đau càng bị kìm nén thì càng dữ dội hơn. May sao sau đó  có đợt chỉnh huấn. Cấp trên bảo ai có tâm tư gì thì cứ nói ra, nói cho hết. Chỉ chờ có thế, cơn đau trong tôi được dịp bung ra. Chẳng cần phải suy nghĩ gì, những chuyện mộc mạc cứ trào ra:
“Nhà nàng  có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng
có em chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh...
Tôi về
không gặp nàng...”.
Thanh Hóa - Hà Nội
Cuối năm Mùi
Lê Thọ Bình (PLTP)

                                                        Hòa Bình Ơi, Việt Nam Ơi - Duy Khánh 

Hữu Loan – Hai mối tình, hai bài thơ

Chương trình VHNT tuần này Mặc Lâm xin tiếp tục gửi đến quý vị bài viết về cố thi sĩ Hữu Loan, tác giả bài thơ Màu Tím Hoa Sim bất hủ vừa từ trần vài hôm trước tại quê nhà của ông, cùng những chi tiết sau đây về bài thơ nổi tiếng này.
Mặc Lâm, phóng viên đài RFA
2010-03-28
Màu tím hoa sim
Màu tím hoa sim
Photo: RFA

Chuyện tình buồn Màu Tím Hoa Sim

Cho tới nay sau một tuần, người yêu thơ Việt Nam vẫn chưa hết thương tiếc sự ra đi của nhà thơ Hữu Loan. Ông chết đi để lại bài thơ tình có thể nói gây xúc động lớn nhất cho người Việt qua nhiều thế hệ, đó là bài Màu Tím Hoa Sim.
Trong gần một thế kỷ, văn học trữ tình lãng mạn Việt Nam đã cho ra đời hàng trăm bài thơ hay của hàng chục nhà thơ nổi tiếng, thế nhưng bài thơ “Màu Tím Hoa Sim” của Hữu Loan có thể nói là bài thơ duy nhất chiếm trí nhớ người yêu thơ và ở lại trong lòng họ một thời gian bền bỉ nhất. Nhiều người nhớ bài thơ với cái tên của thi sĩ Hữu Loan mà không biết ông là ai, sinh sống và sáng tác ở phương trời nào. Họ chỉ biết Màu Tím Hoa Sim là bài thơ kể lại một chuyện tình có thật, thấm đẫm nước mắt của một đôi vợ chồng trẻ mới cưới nhau chỉ vài ngày mà phải xa nhau bìền biệt. Người thanh niên lên đường theo kháng khiến chống Pháp, cô vợ trẻ ở lại và chết tức tưởi trong một tai nạn bất ngờ…
Câu chuyện chỉ có thế, không nhiều tình tiết lắm nhưng sống day dứt trong lòng người nghe. Day dứt và vang vọng như tiếng nước rơi trên đá. Từng giọt buồn bã và nặng nề có khả năng làm tim ta chùng xuống.
"Chiếc bình hoa ngày cưới thành bình hương" vẫn đặt trên bàn thờ. Hình của Nhạc sĩ Trịnh Hưng. Photo: RFA
Theo dõi chi tiết tình sử của nhà thơ, chúng ta biết rằng ông kết hôn hai lần, lần thứ nhất vào đầu năm 1949 với bà Lê Đỗ Thị Ninh, bà là con gái của nguyên Tổng thanh tra nông lâm Lê Đỗ Kỷ. Ông này là Đại biểu Quốc hội khoá đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà vào năm 1946.
Hữu Loan quen biết bà Ninh khi ông còn đi học tại trường college Đào Duy Từ, Thanh Hoá. Ông nhận làm gia sư dạy mấy người anh trai của gia đình này và sau đó là bà Ninh. Trong một bài báo trước đây, Hữu Loan kể lại chuyện tình này như sau:
Với mảnh tú tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh Hóa để dạy học. Nhãn mác con nhà nghèo học giỏi của tôi được bà tham Kỳ chú ý, mời về nhà dạy cho hai cậu con trai. Tên thật của bà tham Kỳ là Đái thị Ngọc Chất, bà là vợ của ông Lê Đỗ Kỳ, tổng thanh tra canh nông Đông Dương, sau này đắc cử dân biểu quốc hội khóa đầu tiên. Ở Thanh Hóa, Bà tham Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách báo, tôi thường ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt tới.
Đôi mắt to, đen láy, tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằng sâu vào tâm trí tôi, theo tôi suốt cả cuộc đời.
Cố thi sĩ Hữu Loan
Bà tham Kỳ là một người hiền lành, tốt bụng, đối xử với tôi rất tốt, coi tôi chẳng khác như người nhà .Nhớ ngày đầu tiên tôi khoác áo gia sư, bà gọi mãi đứa con gái - lúc đó mới 8 tuổi- mới chịu lỏn lẻn bước ra khoanh tay, miệng lí nhí: 'Em chào thầy ạ' Chào xong, cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi mắt to, đen láy, tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằng sâu vào tâm trí tôi, theo tôi suốt cả cuộc đời. Thế là tôi dạy em đọc, dạy viết. Tên em là Lê Đỗ Thị Ninh, cha làm thanh tra nông lâm ở Sài Gòn nên sinh em trong ấy, quen gọi mẹ bằng má. Em thật thông minh, dạy đâu hiểu ấy nhưng ít nói và mỗi khi mở miệng thì cứ y như một 'bà cụ non'. Đặc biệt em chăm sóc tôi hằng ngày một cách kín đáo: em đặt vào góc mâm cơm chỗ tôi ngồi ăn cơm lúc thì vài quả ớt đỏ au, lúc thì quả chanh mọng nước em vừa hái ở vườn; những buổi trưa hè, nhằm lúc tôi ngủ trưa, em lén lấy áo sơ mi trắng tôi treo ở góc nhà mang ra giếng giặt ...”
Tháng 2 năm 1948, ông cưới cô Lê Đỗ Thị Ninh khi cô mới 16 tuổi. Cưới nhau xong, ông lại lên đường ra mặt trận. Không nói thì chúng ta cũng biết mối tình thơ mộng này gây nên nỗi nhớ nhung cho cả hai như thế nào. Lòng luyến nhớ ấy ám ảnh nhà thơ biết bao nhiêu khi ngày ông lên đường đôi mắt của người vợ trẻ nhìn ông lay láy với bao thổn thức không nói thành câu. Nàng đã chờ ông hơn tám năm, cưới nhau xong là ông lên đường và họ chỉ có cơ hội gần nhau không quá mười ngày… cuộc tình được bồi đắp với một thứ chất liệu duy nhất mà cả hai không ai muốn đó là sự xa nhau vời vợi, liên tiếp và không hẹn ngày về.
Ông chia sẻ với bạn bè ngày chia tay với người vợ trẻ rằng hôm tiễn ông lên đường, Em vẫn đứng ở đầu làng, nơi chín năm trước em đã đứng. Chỉ giờ em không còn cô bé Ninh nữa, mà là người bạn đời yêu quý của ông. Ông bước đi, rồi quay đầu nhìn lại ... Nếu như chín năm về trước, nhìn lại chỉ thấy một nỗi buồn man mác thì lần này, ông thật sự đau buồn. Đôi chân ông như muốn khuỵu xuống.
Ba tháng sau ngày cưới, trên con đường hành quân phủ đầy hoa tím của những rừng sim bạt ngàn nơi núi rừng biên giới, Hữu Loan nhận được tin người vợ trẻ. Đây là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng: tin nàng đã chết…đôi chân ông đã thật sự khuỵu xuống và cũng từ đó màu tím của rừng sim trở thành bất tử trong thơ ông:
Màu Tím Hoa Sim.
Màu Tím Hoa Sim. Photo courtesy of violet.vn
Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh

Tôi người Vệ quốc quân
xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn
nàng không đòi may áo mới

Tôi mặc đồ quân nhân
đôi giày đinh
bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
bên anh chồng độc đáo
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến binh
Mấy người đi trở lại
Nhỡ khi mình không về
thì thương
người vợ chờ
bé bỏng chiều quê...

Nhưng không chết
người trai khói lửa
Mà chết
người gái nhỏ hậu phương
Tôi về
không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
thành bình hương
tàn lạnh vây quanh

Tóc nàng xanh xanh
ngắn chưa đầy búi
Em ơi giây phút cuối
không được nghe nhau nói
không được trông nhau một lần

Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa
một mình đèn khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa...

Một chiều rừng mưa
Ba người anh trên chiến trường đông bắc
Được tin em gái mất
trước tin em lấy chồng
Gió sớm thu về rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió sớm thu về
cỏ vàng chân mộ chí

Chiều hành quân
Qua những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim
những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
tím chiều hoang biền biệt
Có ai ví như từ chiều ca dao nào xưa xa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu
Ai hỏi vô tình hay ác ý với nhau
Chiều hoang tím có chiều hoang biết
Chiều hoang tím tím thêm màu da diết
Nhìn áo rách vai
Tôi hát trong màu hoa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu...
Màu tím hoa sim, tím tình trang lệ rớm
Tím tình ơi lệ ứa
Ráng vàng ma và sừng rúc điệu quân hành
Vang vọng chập chờn theo bóng những binh đoàn
Biền biệt hành binh vào thăm thẳm chiều hoang màu tím
Tôi ví vọng về đâu
Tôi với vọng về đâu
Áo anh nát chỉ dù lâu...
Cái chết của người vợ trẻ đã làm cho Hữu Loan như hóa đá. Với lứa tuổi đã trưởng thành, ông nghiền ngẫm nỗi buồn trong tâm trạng chín muồi của ý thức, và có lẽ từ đó những hình ảnh trên đường hành quân mà nhà thơ đi qua đã quyện vào tâm trí khiến ông bật lên những câu thơ xé lòng trong bài Màu Tím Hoa Sim.

Nhìn ông dạy học rồi mê

huu-loan-and-wife-250.jpg
Thi sĩ Hữu Loan và vợ, chụp năm 2004. Photo courtesy Blog 247. Photo: RFA
Thế nhưng nỗi buồn nào rồi cũng phải qua với thời gian …sau khi dong ruỗi qua nhiều khu chiến vùng biên giới, Hữu Loan trở về với những làng quê công tác và chính những lần công tác này ông gặp mối tình thứ hai.
Người tình này có những nét khác với mối tình lãng mạn của mối tình đầu. Cô gái là một nạn nhân của phong trào cải cách ruộng đất, gặp Hữu Loan trong một hoàn cảnh khá giống với người vợ trước đó là bà nhìn ông dạy học rồi mê hẳn nhà thơ. Bà Phạm Thị Nhu người vợ đã tặng ông hết cả cuộc đời và được ông tặng lại bài thơ bất hủ, bài Hoa Lúa:
Em là con gái đồng xanh
Tóc dài vương hoa lúa
Đôi mắt em mang chân trời quê cũ
Giếng ngọt, cây đa
Anh khát tình quê ta trong mắt em thăm thẳm
Nhạc quê hương say đắm
Trong lời em từng lời
Tiếng quê hương muôn đời và tiếng em là một
Em ca giữa đồng xanh bát ngát
Anh nghe quê ta sống lại hội mùa
Có vật trụi, đánh đu, kéo hẹ, đánh cờ
Có dân ca quan họ
Trai thôn Thượng, gái thôn Đoài hai bên gặp gỡ
Cầm tay trao một miếng trầu
Yêu nhau cởi áo cho nhau
Về nhà dối mẹ qua cầu gió bay
Quê hương ta núi ngất, sông đầy
Bát ngát làng tre, ruộng lúa
Em gái quê hương mang hình ảnh quê hương
Xa em năm nhớ, gần em mười thương
Còn bàn tay em còn quê hương mãi
Em mang nguồn ân ái
Căng ngực trẻ hai mươi và trong mắt biếc nhìn anh
Em gái quê si tình
Chưa bao giờ được yêu đương trọn vẹn...

Anh yêu em muôn vàn như quê ta bất diệt
Quê hương ta ơi từ nay càng đẹp
Tình yêu ta ơi từ nay càng sâu
Ta đi đầu sát bên đầu
Mắt em thăm thẳm đựng màu quê hương.

Dịu dàng nhưng bất khuất

HuuLoanPhuNhan150.jpgBà Nhu kể với nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên về ngày gặp gỡ đầu tiên với nhà thơ Hữu Loan như sau:
“Cha mẹ tôi có 13 người con, tôi là thứ sáu. Lúc ông ấy về làng, làm thầy giáo dạy văn, tôi nghe lóm ở ngoài cửa lớp học, mê ông ấy giảng Kiều đến nỗi đêm về nằm mơ toàn thấy ông ấy. Rồi không hiểu sao ông ấy biết được, tìm đến hỏi tôi về làm vợ. Lúc đó cha mẹ tôi cũng không còn sống, gia đình ly tán sau cải cách ruộng đất. Tôi lấy ông ấy không chỉ vì mê mà cũng vì tìm một chỗ nương tựa. Có lẽ cũng vì lý do đó mà tôi đã không bao giờ rời xa ông ấy cho dù đói khổ thế nào.
Thương là thương ông ấy. Ăn toàn cháo khoai mà phải đẩy từng xe đá to khắp làng để bán. Mỗi vài chục bước lại hoa mắt, dừng nghỉ một lúc mới đẩy tiếp được.
Bà Phạm Thị Nhu
Đến năm ông ấy bị kỷ luật, cả nhà về lại quê, lúc đó tôi đang có đứa thứ tư. Về làng, ông ấy vào núi đục đá, tôi làm bánh bán. Đủ loại bánh và cả bún mọc. Không có chút vốn liếng gì cả, tất tần tật là mua chịu, không phải người ta thương mà bán chịu, mà nhờ cái thật thà. Bán cả ngày xong là đem tiền về trả ngay. Còn bao nhiêu thì nuôi con, bữa đói bữa no cũng sống được mấy mươi năm.
Thương là thương ông ấy. Ăn toàn cháo khoai mà phải đẩy từng xe đá to khắp làng để bán. Mỗi vài chục bước lại hoa mắt, dừng nghỉ một lúc mới đẩy tiếp được.”
Nhà thơ Hữu Loan đã sống hết mình cho cả hai người vợ. Với người vợ đầu ông tặng bà bài thơ Màu tím hoa sim. và bài thơ này đã làm cho người đời thương cảm mối tình tuyệt đẹp khó quên. Đối với người vợ thứ hai, ông không những tặng bà bài thơ Hoa Lúa, mà còn tặng cả những bất khuất, những hiên ngang của một kẻ sĩ chân chính. Và chính điều này đã làm cho bà hãnh diện hơn biết ngần nào khi người đời mỗi lần nhắc đến tên ông, một thi sĩ dịu dàng biết mấy với vợ con nhưng không biết cúi đầu trước bất cứ sức mạnh nào trong cuộc sống.

                                                 Thương Quá Việt Nam - Duy Khánh - Hương Lan

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét