TT&HĐ IV - 33/t
Nhớ Tết quê xưa
PHẦN IV: BÁU VẬT"Dọc đường lịch sử nhân loại, có rất nhiều báu vật bị người đời, vô tình hay hữu ý, lỡ bỏ đi hoặc đánh rơi, đã chìm trong quên lãng. Kẻ nào muốn có ngọc, chỉ cần dò tìm lại chúng, nhặt lên, đánh bóng..."
NTT
“Sách là nguồn của cải quý báu của thế giới và là di sản xứng đáng của các thế hệ và các quốc gia.”
Tôi bước chân vào thư viện và khép cửa lại. Như thế là tôi đã tách khỏi
tính tham lam, lòng tự ái, tệ say rượu và sự lười biếng củng tất cả
những thói hư tật xấu do cái dốt nát, sự vô công rỗi nghề và cảnh sầu tư
sinh ra. Tôi đắm mình vào cái vĩnh hằng giữa những tác giả tuyệt diệu
với một niềm tự hào, với một cảm giác thỏa mãn đến mức cảm thấy thương
hại tất cả các ông quan lớn sang trọng và giàu có nhưng không được hưởng
niềm hạnh phúc này.
D. Henziut
D. Henziut
Những
người đọc sách tuy chưa thành danh nhưng cũng đã có một tư cách cao
thượng, những người làm điều thiện, tuy không mong báo đáp nhưng tự
trong lòng khoan khoái.
Ngạn ngữ Trung Quốc
Ngạn ngữ Trung Quốc
Đọc sách hay cũng giống như trò truyện với các bộ óc tuyệt vời nhất của những thế kỷ đã trôi qua.
Rene Descartes
Những gì sách dạy chúng ta cũng giống như lửa. Chúng ta lấy nó từ nhà hàng xóm, thắp nó trong nhà ta, đem nó truyền cho người khác, và nó trở thành tài sản của tất cả mọi người. Voltaire
Một thư viện của sự hiểu biết quý giá hơn tất cả sự giàu sang, và tất cả
mọi thứ đáng khao khát đều không thể so sánh với nó. Vì vậy bất cứ ai
nhận mình là có nhiệt tâm với sự thật, với hạnh phúc, với sự hiểu biết
hay tri thức đều phải trở thành người yêu sách.
Plato
“Khi họ đốt sách thì chính là họ cũng đang đốt cả loài người.”
“Dẫu có bạc vàng trăm vạn lạng.
Chẳng bằng kinh sử một vài pho.”
“Lạc vào cõi mộng Tự Nhiên
Thẫn thờ một bóng giữa miền Siêu Linh
Nhặt lên dáng ngọc bí huyền
Mắt ai thăm thẳm đắm nhìn mắt ai.”
Thẫn thờ một bóng giữa miền Siêu Linh
Nhặt lên dáng ngọc bí huyền
Mắt ai thăm thẳm đắm nhìn mắt ai.”
Thầy Cãi
CHƯƠNG I (XXXIII): TRỐNG ĐỒNG
“Khi
đã biết sự thực của vật thể, ta sẽ thấy rằng thật vô lý khi tôn thờ các
sản phẩm cô lập của dòng chảy không ngừng nghỉ của sự biến hóa, làm như
chúng là vĩnh cửu và đích thực. Đời sống không phải là vật thể hay dạng
của vật thể mà là một sự vận động liên tục hay chuyển hóa”
S. Radhakrishnan
Wen You
Cũng không ai phủ nhận được rằng – dù ai đó có ý định “gây nhiễu” bằng những sự thác loạn chữ nghĩa và trí tuệ – ghi chép về thư tịch xưa nhất về Trống đồng – đoạn ghi chép của Hậu Hán thư Mã Viện truyện – đã bộc lộ rõ ràng một sự thực: Trống đồng Lạc Việt ở đất Giao Chỉ.
Nguyễn duy Hinh
(Tiếp theo)
***
Coi
như chúng ta đã vừa làm xong lễ cúng đưa Táo Công về Trời. Bây giờ phải
quay ngay sang thực hiện cho xong công việc lo Tết còn dở dang. Vào
những ngày này, nhà nào cũng bề bộn công chuyện, trăm thứ bà dằn phải lo
toan. Trước mắt gia chủ ngày xưa còn phải hoàn thành nhiều chuyện, nào là Lễ tiễn ông bà ông vải,
biếu thầy lang, đi Tết (con nợ và chủ nợ), gửi Tết, biếu Tết, rồi treo
câu đối Tết, sắm tranh Tết… Ôi thôi, kể hết ra cũng đủ bở hơi tai huống
chi là làm! Chỉ xin kể hai công việc làm chúng ta chú ý hơn cả là gói
bánh - giã giò và trồng cây nêu.
Tết xưa, thiếu gì thì thiếu chứ không thể thiếu được:
Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ
Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh.
(Ngày
nay vẫn thế, chỉ có “tràng pháo” là im hơi bặt tiếng. Người ta cho rằng
đó là món ăn tinh thần gây lãng phí, một trò chơi gây nhiều nguy hiểm.
Không quản lý được thì cứ cấm tiệt là tiện nhất! Dù sao, kể cũng tiếc,
nhất là vào đêm Giao thừa và sáng mồng một Tết!).
Bắt
đầu từ 26, 27 tháng Chạp, các nhà đã rục rịch nấu bánh chưng (hoặc bánh
tét trong Nam), bánh dày. Đi trên đường làng, ngõ xóm vào những ngày
này sẽ thấy người này người kia mang lá dong, lá chuối ra ao, chuôm rửa
và lau lá; sẽ nghe tiếng giã giò đan xen nhau, văng vẳng từ một số sân
nhà.
Có
lẽ từ đời nào đến giờ, bánh chưng, bánh dày và giò lụa chỉ xuất hiện
trong Tết của dân tộc Việt chứ không thấy ở bất cứ Tết âm lịch của bất
cứ nước nào khác. Điều đặc biệt là bánh chưng, bánh dày chắc chắn đã có
từ rất lâu rồi và có cả một sự tích về chúng.
Trước
hết, về giò, chúng ta trích lời cụ Líu, nghệ nhân giã giò trong “Cảnh sắc và hương vị đất nước” của nhà văn Nguyễn Tuân:
“…
Cái bánh giò sỡ dĩ có hương vị bánh giò vì nó được chân quyện trong mùi
thơm lá chuối luộc cho bằng chín tới đấy. Giò lụa thơm đậm vì mùi thịt
tươi luộc cộng với mùi thơm chát ngậy của lá chuối tươi luộc chín”.
Và:
“Có
phải thịt lợn nào cũng giã được giò lụa đâu. Thịt mà ướp tủ lạnh thì
giời mới giã nổi. Nó phải tươi, để tay vào còn ấm, lúc thái ra miếng
thịt còn phải như nhảy trên thớt, không cẩn thận thì thái vào ngón tay
mình đấy… Đâu lại có cái kiểu nện chày chủng chẳng tiếng đực tiếng cái
tiếng mẹ tiếng con như thế. Cái kiểu giã cho hết giờ ấy thật phí cả yến
(10 kg) thịt tươi ấm. Ngày xưa, tôi giã giò làm gì có quạt máy, cứ mồ
hôi trên mồ hôi dưới, hai tay nện vô hồi kỳ trận, muỗi nhặng đốt mép đốt
mặt cũng kệ, cứ giã đều… Giã mạnh quá cũng không cần, nhưng cốt là giã
đều và bền sức. Nghe nó đều đều như dây cung bật bông đệm… Này, nghe
tiếng giã giò, có thể đoán được mẻ giò lụa là được hoặc là bỏ”.
Hay:
“…
Cụ tổ nghề chúng tôi truyền nghề cho, không rõ từ thời vua nào, nhưng
đền thờ tổ là phải có đôi chày gỗ mít sơn son thiếp vàng dài hai, ba
thước ta… Giã giò mà nhịp chày kép không đặm, đều, tôi nói thật cho ông
biết, nó sẽ không khác gì cái thằng đổ bê tông móng cầu chậm chạp lóng
ngóng làm ôi xi măng đấy”.
Còn về sự tích bánh chưng, bánh dày là thế này:
Ngày
xưa, Hùng Vương đã già, muốn tìm người xứng đáng nhất trong 22 người
con để truyền ngôi, bèn gọi tất cả các hoàng tử về bảo: “Cha biết mình
đã gần đất xa trời, muốn truyền ngôi. Bây giờ, mỗi con cố kiếm hoặc làm
một món ăn lạ để cúng tổ tiên. Ai có món ngon, vừa ý ta thì ta sẽ chọn
người đó”.
Nghe vua cha nói vậy, các hoàng tử đều cố gắng cho người đi khắp thiên hạ để tìm tòi thức ngon miếng quí để dâng lên vua cha.
Trong
số đó, có hoàng tử thứ 18 tên là Lang Liêu. Liêu thuở nhỏ mồ côi mẹ,
quen sống đời dân dã. Chàng chẳng nghĩ ra được món nào đặc sắc để dâng
gửi lên Hùng Vương. Chỉ còn 3 ngày nữa là hội thi diễn ra mà Liêu vẫn
chưa chuẩn bị được gì.
Sự tích bánh chưng bánh dày đã có từ đời vua Hùng vương thứ 6
Đêm ấy, Liêu nằm nghĩ mãi về lễ hội và ngủ quên lúc nào không biết. Một vị nữ thần từ trên trời bay xuống bảo:
-
To lớn nhất là trời và đất, quí báu nhất trần gian là gạo. Vậy, hãy làm
hai cái bánh bằng gạo nếp. Một bánh là tượng trưng cho đất, hình vuông,
có màu xanh của cây cỏ, núi rừng, ở giữa là thịt, đỗ để biểu thị muôn
vật. Đem thứ nếp đó đồ lên cho dẻo, giã nhuyễn, rồi nặn thành cái bánh,
nấu chín, tượng trưng cho Trời: trắng, tròn, khum khum như vòm trời.
Choàng tỉnh giấc, Liêu quyết định thực hiện điều trong mơ.
Đúng
vào lúc mặt trời mọc thì Vua Hùng cùng tùy tùng đến làm lễ gia tiên.
Chiêng, trống, cờ, quạt tưng bừng. Bao nhiêu của ngon vật lạ, bao nhiêu
món “nem công, chả phượng, tay gấu, gan tê” của các hoàng tử đều được
dâng lên. Nhìn cỗ dâng lên vua cha của chàng Liêu, nhiều người chạnh
lòng vì sự biểu hiện hết sức quê mùa, đơn sơ của nó.
Ấy vậy mà quá trưa hôm ấy, Hùng Vương phán rằng sẽ truyền ngôi cho hoàng tử thứ 18 (tức chàng Liêu). Vua nói đại ý:
-
Đó là những thứ bình thường nhưng hương thơm khác thường, chẳng những
ngon mà còn mang ý nghĩa trọng đại: Con tôn thờ cha mẹ như trời - đất.
Không những thế, nó còn chứa đầy tình quê hương, ruộng đồng. Và hơn nữa
nó rất dễ làm vì chỉ bằng những hạt gạo quê nhà, ai cũng có thể thực
hiện được. Phải là người có tài mới làm ra được hai loại bánh đó.
Sau khi vua cha mất, Lang Liêu lên ngôi, hiệu là Tiết Liêu Vương, tức là đời Hùng Vương thứ 7.
Các
hoàng tử khác ganh ghét, ác cảm với Lang Liêu. Họ, người nào người nấy
làm hàng rào gỗ giữ chặt lấy đất đai của mình, có ý cố thủ, cát cứ,
chống lại Tiết Liêu Vương.
Tuy
nhiên cũng từ ngày lễ hội dâng vua đó mà thành tục lệ: hàng năm, cứ mỗi
độ Tết đến, mọi nhà đều làm hai thứ bánh đó, gọi là bánh chưng, bánh
dày để bày lên bàn thờ, cúng gia tiên quốc tổ.
Sự
tích bánh chưng, bánh dày là thế. Thật là một câu chuyện hay vì chúng
ta có cảm giác như nó vẫn lưu giữ được khá rõ những hiện thực lịch sử.
Hình như hơi thở của thời đại quá vãng xa xôi đó vẫn còn phảng phất đâu
đây.
Có
thể khi bước vào đời Hùng Vương thứ 7, nước Văn Lang đã phải chịu một
cuộc phân tranh, huynh đệ tương tàn, xã hội can qua ly loạn. Đó là
khoảng thời gian chuyển biến hình thái xã hội từ liên minh các bộ lạc
sang liên bang nguyên thủy (thể chế này có thể không hẳn là phong kiến
phân quyền và hơi giống với thể chế liên bang ngày nay: thủ lĩnh các
bang cũng theo lệ cha truyền con nối, cũng được xác định cương vực lãnh
thổ riêng, có quân đội riêng (như địa phương quân) nhưng vẫn thuộc quyền
sở hữu chung của nước Văn Lang, nằm trong thể chế ràng buộc chung mà
quyền lực tối thượng là Nhà nước Văn Lang, đứng đầu là Hùng Vương)?
Trong
sự tích bánh chưng, bánh dày có một chi tiết lạ gây cho chúng ta sự chú
ý đặc biệt, đó là có một nữ thần từ trời xuống báo mộng cho Lang Liêu.
Hỏi rằng vị nữ thần này chức danh là gì? Dù trong tín ngưỡng nhất thần
hay đa thần thì con người cổ đại cũng không để cho vị thần linh nào bị
khuyết danh. Có thể nào danh tính của vị nữ thần này đã bị “thất lạc”
qua bề dày thời gian và từ đó đến nay đã từng có nhiều người cất công
kiếm tìm nhưng chưa ra? Hay đơn giản, trong sự tích ấy, thuở đầu tiên
chỉ có việc Lang Liêu mộng thấy bánh chưng, bánh dày, chứ chẳng có sự
mách bảo của vị thần linh nào cả và mãi về sau mới có người nào đó thêm
vào cho “long trọng”? Nhưng nếu thế thì sao không thêm vào thần Kim Qui,
rất tiện mà cũng đáng tin hơn? Câu hỏi này tất nhiên dẫn đến câu hỏi
nữa: Vậy thì thần Kim Qui ra đời trong trí não người Việt cổ vào khi
nào? Và thêm nghi vấn: phải chăng vào thời câu chuyện bánh chưng, bánh
dày ra đời, chưa có thần Kim Qui (động vật linh hóa) mà chỉ có các vị
thần siêu hình như: thần Lửa, thần Nước, thần Sấm Sét, thần Đất… và thần
của các thần là thần Mặt Trời, và vị nữ thần kia chính là thần Mặt
Trời?
Tại
sao thần Mặt Trời lại mang tính nữ trong khi ngày nay chúng ta gọi là
Ông Mặt Trời (và cả Ông Trời)? Tại vì thần Mặt Trời ra đời trong chế độ
Mẫu hệ - Mẫu quyền (chúng ta cho rằng chế độ này tồn tại rất lâu trong
lịch sử loài người và được duy trì, nói riêng tại Việt Nam, đến tận thời
đại Âu - Lạc). Có thể rằng đến cuối thời đại Âu - Lạc, đầu thời đại
Hùng Vương, người Việt cổ vẫn gọi thần Mặt Trời là Bà Trời hay Bà Mặt
Trời. Khi sang chế độ phụ quyền, Bà Mặt Trời phải “chuyển đổi giới tính”
theo để thành Ông Mặt Trời.
Thần
Mặt trời Huitzilopchtli chính là thần tối cao của người Aztec cổ đại.
Theo những tài liệu cổ về nền văn minh này ghi chép, thần Mặt trời khi
mới sinh ra đã vô cùng tàn bạo, hay giận dữ. Thần đã giết chị ruột của
mình Coyolxauhqui, treo đầu lên trời tạo thành Mặt trăng, tàn sát những
anh chị em còn lại và treo đầu họ thành các vì sao trên bầu trời.
Không
chỉ dừng lại ở đó, giống như mọi vị thần Aztec khác, thần mặt trời luôn
luôn đòi người Aztec phải tế lễ và món đồ lễ của thần phải là thịt
người
. Vì thế, mỗi
ngày, những đồ tế sống sẽ được chọn là moi tim trước đền thờ, dâng lên
Huitzilopchtli để tránh khỏi sự trừng phạt bất cứ lúc nào của thần.
Bức tượng thần mặt trời vĩ đại được coi là biểu tượng cho nền văn minh Hy Lạp cổ đại.
Người
Nhật gọi thần Mặt Trời là Amaterasu O Mikami (Thiên chiếu đại thần,
Thái dương thần nữ). Về mặt âm thanh nó gợi cho chúng ta nhớ về tiếng
A-U-M thiêng liêng đã từng vang vọng trên miền đất Ấn Độ từ thuở xa vời,
đồng thời cả tiếng ÂU trong Âu - Lạc (Âu - Cơ). Khẩu khí của chúng xuất
phát trực tiếp từ cùng một gốc, thậm chí, một trong hai tiếng là gốc
của tiếng kia.
Theo
các hiền triết của Ấn Độ cổ đại thì AUM là một âm thanh thiêng liêng và
huyền bí. Đó là biểu hiện của Brahman (Vũ Trụ) ở cả hai trạng thái thể
hiện và không thể hiện. Trong Katha Upanishad có câu chuyện về
Nicheketas và Yama (Tử Thần). Nicheketas, con một tín đồ Bà La Môn nghèo
nhưng sùng đạo. Chàng được Yama thương tình cho phép thỏa mãn 3 điều
ước. Chàng bèn ước điều thứ nhất là được sống sót trở về với phụ thân,
điều thứ hai là biết cách hưởng phúc thiên đàng và điều thứ ba là xin
được giảng dạy về đời sống của linh hồn sau khi chết. Về điều ước thứ
ba, Yama nói: “Ngay cả đến các thần linh cũng còn ngờ vực về chuyện ấy.
Quả thật điều đó không dễ gì mà hiểu được vì chân lý này tinh tế quá.
Hỡi Nicheketas, con hãy chọn một điều ước khác…”. Nhưng chàng trai vẫn
cứ tha thiết khẩn cầu và cuối cùng, Yama nhượng bộ: “Tiếng nói mà mọi
kinh Vêđa đều phát biểu, mọi công cuộc tu trì đều tuyên dương, tiếng mà
những ai sống cuộc đời tu học đều mong ước thực hiện, ta nói cho con
nghe: đó là AUM. Tiếng ấy chính là tinh thần hằng cữu; tiếng ấy chính là
cứu cánh cùng tột. Người nào thấu triệt được tiếng ấy thì muốn gì cũng
sẽ thực hiện được. Trụ cột này hoàn hảo nhất. Trụ cột này là cái tối
cao. Biết được trụ cột ấy, con người sẽ sáng danh trong cõi Phạm Thiên
(Vũ trụ). Tiếng ấy khi được phát ra từ Tự Ngã, nó trở thành âm thanh vô
cảm, vô hình, vô vị, vô hương, vô thủy vô chung hơn cái lớn nhất. Nhận
biết được điều ấy, con sẽ thoát khỏi tử thần.”
Tiếng
AUM đúng là quá ư thiêng liêng và huyền bí! Nó thiêng liêng là nhờ có
sự giảng giải của các bậc hiền triết Ấn Độ cổ đại. Nó huyền bí là vì
không biết từ đâu và từ bao giờ, nó nghiễm nhiên xuất hiện trong Kinh
Vêđa, phát ra từ miệng của các vị chủ tế trong những buổi lễ xướng ca,
xưng tụng thành kính.
Có
một linh cảm sâu xa, thầm thì mách bảo cho chúng ta biết (hay chính cái
nỗi niềm tha thiết yêu thương xứ sở và các bậc tiên tổ của mình đã làm
chúng ta nghĩ ngợi mê man?!), rằng tiếng ÂU cũng thiêng liêng cùng tột
như AUM. Thế nhưng tiếng ÂU không lạnh lùng, huyền bí mà nghe thật gần
gũi, dung dị và cả tự nhiên như vốn dĩ thế. Trong tất cả các bảng chữ
cái có mẫu tự Latinh thì đứng đầu tiên là nguyên âm A. Sắp xếp thế thôi
chứ A không phải là tiếng đầu tiên được phát ra từ thanh quản của con
người để đóng vai trò như xuất phát điểm trong quá trình hình thành ngôn
ngữ. Ngôn ngữ ngày nay chắc rằng đã kế thừa từ một dạng ngôn ngữ sơ
khai chưa có phụ âm và phải kết hợp chặt chẽ (lệ thuộc) với “chỉ trỏ”,
với điệu bộ các bộ phận thân thể mới có thể làm người “nghe” hiểu được.
Trên bước đường tiến hóa thích nghi, đến một giai đoạn nào đấy, do sự
bức thiết phải trao đổi với nhau bằng âm thanh phát ra từ thanh quản
(với cấu trúc răng, hàm, lưỡi, môi… đã định hình và đặc thù hóa ở
người), mà xuất hiện một tập hợp những âm thanh có tính hệ thống và hàm
chứa khái niệm. Tiếng đầu tiên của hệ thống ngôn ngữ “ú a ú ớ” ấy, phát
ra khi môi mở ở trạng thái tự nhiên nhất nhằm cố gây sự chú ý hoặc biểu
lộ sự thảng thốt, có lẽ là tiếng Ơ, mạnh hơn nữa là tiếng Â. Thời nguyên
thủy, để hú gọi nhau, tiếng  phải cao vang dài, miệng mở to hơn, rồi
sau đó hạ thấp dần xuống (hết hơi), độ mở của miệng cũng nhỏ lại, môi
hơi chu và như thế, tiếng  biến thái thành tiếng ÂU (ẤU, ẦU), còn nếu
ngậm luôn môi lại thì sẽ là ÂUM. Phải chăng tiếng ÂUM chính là tiếng AUM
thiêng liêng và huyền bí về sau đã xuất hiện trong thánh kinh Vêđa của
Ấn Độ cổ đại? Còn tiếng ÂU? Có thể coi nó là hợp âm kế tiếp nhau của
tiếng Ơ và U và cùng với tiếng Ơ và U hợp thành bộ ba ngôn từ cơ sở làm
nên hệ thống ngôn ngữ “ú a ú ớ” nguyên thủy của người Việt tối cổ.
(Còn tiếp)
-------------------------------------------------------------
Với tạo hình ấn tượng này, một lần nữa nữ ca sĩ chinh phục khán giả ở hình ảnh đấy biến hóa của mình.
Không
ngừng sáng tạo và khai thác triệt để lợi thế về hình thể và biểu cảm,
Hương Giang Idol luôn mang đến hình ảnh mới mẻ dành cho khán giả yêu
mến.
Người đẹp chọn cho mình hình ảnh của một nữ thần ấn tượng từ tạo hình, trang phục, trang điểm đến biểu cảm gương mặt.
Gợi cảm đầy tinh tế mang đến vẻ đẹp “thoát tục” chính là hình ảnh của Hương Giang hướng đến trong tạo hình lần này của mình.
Nữ ca sĩ chọn cho mình những thiết kế gợi cảm, khéo léo khoe vòng 1 “căng tràn” cùng những đường cong nóng bỏng.
Hương
Giang còn chứng minh sức hút của mình ở khả năng tạo dáng, khai thác
hình thể cùng biểu cảm không thua kém gì người mẫu chuyên nghiệp.
Hương Giang quyến rũ tái hiện hình ảnh 'nữ thần mặt trời' trên Remix New Generation bên trai đẹp sáu múi
(Còn tiếp)
-------------------------------------------------------------
Nhận xét
Đăng nhận xét