TT&HĐ IV - 33/e
Trang phục thời Hùng Vương, Vải thời Đông Sơn
PHẦN IV: BÁU VẬT
“Nếu có ai hỏi di vật thuộc nền văn minh cổ xưa nào của những người anh
em ruột thịt thiểu số phương Nam của Trung Hoa là quan trọng nhất, chúng
ta có thể trả lời không do dự rằng đó chính là Trống Đồng”
Nếu nền văn hóa được hun đúc nên chủ yếu bằng kinh nghiệm sống thì văn minh được hun đúc nên chủ yếu bằng lao động sáng tạo của đại chúng xã hội. Phát triển xã hội chính là phát triển văn hóa và văn minh. Nói cách khác, văn hóa và văn minh là hai mặt hợp thành của phát triển xã hội.
(Còn tiếp)
----------------------------------------------------------------
PHẦN IV: BÁU VẬT
"Dọc
đường lịch sỏ đi hoặc đánh rơi, đã chìm
trong quên lãng. Kẻ nào muốn có ngọc, chử nhân loại, có rất nhiều báu vật bị người đời, vô tình hay hữu ý, lỡ bỉ cần dò tìm lại chúng, nhặt
lên, đánh bóng..."
NTT
“Sách là nguồn của cải quý báu của thế giới và là di sản xứng đáng của các thế hệ và các quốc gia.”
Tôi bước chân vào thư viện và khép cửa lại. Như thế là tôi đã tách khỏi
tính tham lam, lòng tự ái, tệ say rượu và sự lười biếng củng tất cả
những thói hư tật xấu do cái dốt nát, sự vô công rỗi nghề và cảnh sầu tư
sinh ra. Tôi đắm mình vào cái vĩnh hằng giữa những tác giả tuyệt diệu
với một niềm tự hào, với một cảm giác thỏa mãn đến mức cảm thấy thương
hại tất cả các ông quan lớn sang trọng và giàu có nhưng không được hưởng
niềm hạnh phúc này.
D. Henziut
D. Henziut
Những
người đọc sách tuy chưa thành danh nhưng cũng đã có một tư cách cao
thượng, những người làm điều thiện, tuy không mong báo đáp nhưng tự
trong lòng khoan khoái.
Ngạn ngữ Trung Quốc
Ngạn ngữ Trung Quốc
Đọc sách hay cũng giống như trò truyện với các bộ óc tuyệt vời nhất của những thế kỷ đã trôi qua.
Rene Descartes
Những gì sách dạy chúng ta cũng giống như lửa. Chúng ta lấy nó từ nhà hàng xóm, thắp nó trong nhà ta, đem nó truyền cho người khác, và nó trở thành tài sản của tất cả mọi người. Voltaire
Một thư viện của sự hiểu biết quý giá hơn tất cả sự giàu sang, và tất cả
mọi thứ đáng khao khát đều không thể so sánh với nó. Vì vậy bất cứ ai
nhận mình là có nhiệt tâm với sự thật, với hạnh phúc, với sự hiểu biết
hay tri thức đều phải trở thành người yêu sách.
Plato
“Khi họ đốt sách thì chính là họ cũng đang đốt cả loài người.”
“Dẫu có bạc vàng trăm vạn lạng.
Chẳng bằng kinh sử một vài pho.”
“Lạc vào cõi mộng Tự Nhiên
Thẫn thờ một bóng giữa miền Siêu Linh
Nhặt lên dáng ngọc bí huyền
Mắt ai thăm thẳm đắm nhìn mắt ai.”
Thẫn thờ một bóng giữa miền Siêu Linh
Nhặt lên dáng ngọc bí huyền
Mắt ai thăm thẳm đắm nhìn mắt ai.”
Thầy Cãi
CHƯƠNG I (XXXIII): TRỐNG ĐỒNG
“Khi
đã biết sự thực của vật thể, ta sẽ thấy rằng thật vô lý khi tôn thờ các
sản phẩm cô lập của dòng chảy không ngừng nghỉ của sự biến hóa, làm như
chúng là vĩnh cửu và đích thực. Đời sống không phải là vật thể hay dạng
của vật thể mà là một sự vận động liên tục hay chuyển hóa”
S. Radhakrishnan
Wen You
Cũng không ai phủ nhận được rằng – dù ai đó có ý định “gây nhiễu” bằng những sự thác loạn chữ nghĩa và trí tuệ – ghi chép về thư tịch xưa nhất về Trống đồng – đoạn ghi chép của Hậu Hán thư Mã Viện truyện – đã bộc lộ rõ ràng một sự thực: Trống đồng Lạc Việt ở đất Giao Chỉ.
Nguyễn duy Hinh
(Tiếp theo)
Quan
niệm ngày nay vẫn cứ bám vào việc lấy sự xuất hiện nhà nước (và nhà
nước xuất hiện là do sự phân chia giai cấp trong xã hội) làm tiêu chuẩn
đầu tiên xác định một nền văn minh, nghĩa là một nền văn hóa chỉ có thể
tiến lên văn minh, trở thành nền văn minh khi đã có nhà nước (?). Thế
thì văn hóa và văn minh, ngoài tiêu chí nhà nước ra còn khác nhau chỗ
nào? Có đỏ mắt tìm trong các tài liệu nghiên cứu khảo cổ và lịch sử,
cũng khó lòng phân biệt được về mặt nội dung giữa văn hóa và văn minh
nếu tạm quên đi “ông” nhà nước. Nói thêm rằng đúng là trước khi xuất
hiện nhà nước theo quan niệm ngày nay, đã xuất hiện sự phân biệt giàu
nghèo trong xã hội. Song sự phân biệt ấy không có nghĩa là đã xuất hiện 2
lực lượng tương phản có thực, gọi là giai cấp trong xã hội. Việc cho
rằng đã xuất hiện hai lực lượng giai cấp trước khi xuất hiện nhà nước
chỉ là một sự tưởng tượng duy ý chí trong mê lầm, một sự tổng hợp những
đơn vị rời rạc kiểu toán học thuần túy (môn khoa học đầy trí tuệ nhưng
không ít lạc hậu, đầy chân lý nhưng cũng lắm sai trái!), và hoàn toàn
không… “có lý” một tý nào! Theo cách hiểu riêng thì chúng ta nói: đã là
một lực lượng người, hay một giai cấp thì nó phải thể hiện ra trước
quan sát như một thực thể phân biệt được và phải sống động, nghĩa là nó
phải có tính “sự vật” và tính “vận động nội tại”, hay nói cách khác nghe
khoái tai hơn là nó phải có một thể xác và thể xác đó phải “chứa đựng”
một linh hồn (ở sự vật vô tri, linh hồn của nó là sự vận động nội tại
“mù quáng”, lệ thuộc vào môi trường, quanh một “đầu não”, cái gốc “có
tính khí luôn thất thường” của cân bằng nội tại). Sự phân biệt giàu -
nghèo, thông thường, chưa đủ sức làm nên những thực thể giai cấp, nhưng
chính nó, cùng với những yếu tố khác nữa, trong tiến trình vận động xã
hội đã tăng cường chức năng và quyền lực cho bộ phận thủ lĩnh sơ khai),
làm cho nó trở thành một nhà nước thực thụ theo qui ước ngày nay.
Nhà nước không liên quan gì tới văn hóa và văn minh. Nói chung, nền tảng văn hóa xã hội là những quan niệm, tập quán sống của quần chúng đã được xã hội thừa nhận là đúng đắn, tiến bộ. Một xã hội văn hóa chưa chắc đã được gọi là văn minh, nhưng một xã hội văn minh thì chắc chắn phải có văn hóa. Nhà
nước thực thụ, ban đầu chủ yếu là do dân, vì dân, vì sự sống còn chung của xã hội. Tuy nhiên sự thèm khát
danh lợi duy ý chí trong mù quáng của con người đã làm cho nó thoái hóa
đi, biến thái thành một thể xác (gồm vua, đám quan quyền và bộ phận
người hưởng lợi từ nó), có một linh hồn chủ yếu là do nó và vì nó. Đó
chính là thực thể giai cấp thống trị. Quá trình hình thành và tồn tại
cái thực thể ấy cũng là quá trình tập hợp lực lượng làm hình thành nên
thực thể Đại Chúng (với đa số là người nghèo) bị trị. Xã hội bình an khi nhà nước là do
dân và vì dân thì Đại Chúng là do nhà nước và vì nhà nước để thông qua đó được do mình và vì mình. Khi nhà nước biến tướng thành do nó và vì nó thì Đại Chúng vốn dĩ do nó và vì nó nhưng không được thỏa mãn. Lúc đó giữa hai thực thể nhà nước và đại chúng xuất hiện mâu thuẫn. Lúc này quyền lợi
của hai lực lượng là quyền lợi của hai tầng lớp đối kháng một mất một
còn và trong cuộc đấu tranh dài lâu lúc được lúc thua ấy, cuối cùng,
thắng lợi hoàn toàn bao giờ cũng thuộc về Đại Chúng bị trị và nhà nước thống trị cũ, bảo thủ, lạc hậu sẽ tiêu
vong, nhường chỗ cho một nhà nước mới, hợp lòng đại chúng hơn ra đời.
Tổ tiên nghìn xưa muốn nói gì khi chạm khắc những hình
người và động vật, những hoa văn trang trí trên trống đồng? (Giáo sư Hà
Văn Tấn)
Hình minh họa cho sự tiến hóa của áo dài từ thời văn hóa Đông Sơn đến thời nhà Lý. Ảnh: TL.
Sự tiến hóa của áo dài thời Trần - Lê. Ảnh: TL.
Nếu nền văn hóa được hun đúc nên chủ yếu bằng kinh nghiệm sống thì văn minh được hun đúc nên chủ yếu bằng lao động sáng tạo của đại chúng xã hội. Phát triển xã hội chính là phát triển văn hóa và văn minh. Nói cách khác, văn hóa và văn minh là hai mặt hợp thành của phát triển xã hội.
Theo
quan điểm đó thì văn hóa Hòa Bình đã từng là một nền văn minh ít ra là
của khu vực Đông Nam Á và sự rực rỡ của nó đã đủ sức lan tỏa những nét
tiên tiến nhuốm bản sắc văn hóa của nó ra xung quanh. Sau này trên nền
tảng của văn hóa Bắc Sơn (văn hóa hậu Hòa Bình), tiếp thu trở lại những
ưu việt của các nền văn hóa lân cận và gặp được thời cơ biển lùi làm
xuất hiện đắc địa có một không hai là Đồng bằng Bắc Bộ, một trung tâm
văn hóa xuất hiện, tiến nhanh lên văn minh: đó chính là nền văn minh
sông Hồng, có tính kế thừa văn hóa Hòa Bình và rực rỡ nhất vào thời đại
Hùng Vương.
Những
đặc thù về địa hình lãnh thổ, về thổ nhưỡng, thời tiết, khí hậu… sẽ làm
nên đặc tính con người, làm nên những sắc thái, bản chất có tính riêng
của dân tộc. Trên một khu vực lãnh thổ sẵn nhiều thuận lợi cho cuộc sống
và sau khi được khai phá lại càng tỏ ra được thiên nhiên ưu đãi một
cách hào phóng, tổ tiên dân tộc Việt đã là những con người dũng cảm, chí
thú trong lao động, hồn nhiên, hào hiệp, lạc quan trong cuộc sống, có
tinh thần yêu tự do, chuộng hòa bình, thích đoàn kết. Kế thừa những đức
tính ấy, Dân tộc Việt ngay từ khi hình thành đã là một dân tộc hiền hòa,
ít tham vọng, chỉ cầu an thái nên cũng ghét bạo lực, nhưng kiên trinh,
bất khuất khi quê hương, tổ quán bị xâm phạm. Đó là một dân tộc biết ơn
biết nghĩa, biết uống nước thì phải nhớ nguồn nên từ rất sớm đã có tập
tục thờ kính tổ tiên.
Một
nền văn minh được xây dựng nên từ những con người như vậy, từ một dân
tộc như vậy, ắt không thể để lại những công trình khổng lồ, những đền
đài lăng tẩm nguy nga tráng lệ có tính vĩnh cửu cho hậu thế được. Một
nền văn minh mà trong đó nổi bật lên lối sống phồn thực hồn nhiên, cách
sống dung dị, khoáng đạt, hòa đồng, với tinh thần đoàn kết bên nhau cùng
hướng đến cuộc sống ngày một an khang hơn, sẽ không bao giờ tự hủy hoại
mình bằng cách tạo ra núi xương sông máu. Sự vĩ đại đầy kiêu hãnh của
các kim tự tháp Ai Cập không bao giờ có thể che giấu được tội ác cứ hiển
lộ ra trong nền văn minh Ai Cập cổ đại. Vạn Lý Trường Thành, cái công
trình mà chỉ trên tàu vũ trụ mới có thể nhìn thấy rõ toàn cảnh của nó có
thể là bài ngợi ca không tiếc lời về thành quả lao động vô song của con
người nhưng đồng thời cũng là bản tố cáo tội ác ghê gớm mà con người đã
gây ra cho chính con người trong một lần ngu muội.
Có
thể gọi nền văn minh Hòa Bình rồi tiếp nối nó là nền văn minh sông Hồng
là hai nền văn minh (hay hai giai đoạn của một nền văn minh duy nhất?)
“nhu mì” để phân biệt với những nền văn minh “đồ sộ” và “dữ tợn”. Cũng
vì thế mà hiện tượng chậm xuất hiện nhà nước (theo số đông qui ước, định
nghĩa) trong một nền văn minh đã hình thành từ sớm, là điều dễ hiểu.
Như
vậy là chí ít, vòng tròn có chấm giữa đã xuất hiện trong 3 nền văn minh
cổ đại mà chúng ta cho là thuộc hàng sớm nhất thế giới sau nền văn minh
Địa Đàng. Phải chăng họa tiết đó có xuất xứ từ một nơi duy nhất: Đại
Lục Mẫu? Đó là một biểu tượng của một đất nước thờ Thần Mặt Trời (chấm
giữa) nằm ở giữa đại dương mênh mông (vòng tròn) và đồng thời cũng có
thể hiểu đó là biểu tượng của một đất nước (vòng tròn) có ngọn Tu Di
huyền thoại (chấm giữa) sừng sững ở trung tâm Vũ Trụ?
Không,
có lẽ cái vòng tròn bé nhỏ có chấm giữa ấy chỉ là một khắc họa ước lệ
cho một biểu tượng thực sự nào đó đã từng tồn tại. Nếu chúng ta tin vào
sự hiện hữu của đất nước Mặt Trời và tự cho phép mình được quyền lựa
chọn cho nó một biểu tượng thì chúng ta sẽ không do dự mà chọn ngay
Linga Ngọc Lũ, xin lỗi, trống đồng Ngọc Lũ cùng với hệ thống hoa văn
trên bề mặt của nó. Phải nói rằng đó là một biểu tượng hoàn hảo: một đất
nước sống động tươi vui, thanh bình dưới ánh mặt trời sáng lạn, có sông
ngòi đan xen (những đường tròn được coi là đã biến điệu từ những đường
lượn sóng, cặp đôi song song), có nước nổi mênh mông (cặp ba đường tròn
song song ở rìa mặt trống) và những con thuyền theo nhau ngược xuôi, ra
khơi vào lộng mà cũng sẵn sàng hành trình dài hơi đi khắp năm châu bốn
bể.
“Ngộ”
ra được như thế quả là “siêu” nhưng có vẻ còn xa sự thật và quá đà. Có
một hướng “ngộ” khác về vòng tròn có chấm giữa, nghe “thực tế” hơn
nhiều.
Văn
hóa Hòa Bình tồn tại trong khoảng thời đại đồ đá giữa, khoảng giao thời
giữa thời đồ đá cũ và thời đại đồ đá mới. Gọi là khoảng giao thời chứ
thời gian tồn tại của nó không ngắn chút nào, và nói như thế chỉ là
tương đối theo quy ước. Thời đó, tổ chức xã hội còn “lỏng lẻo” hoặc tính
xã hội của cộng đồng dân cư Hòa Bình cổ, đang trong giai đoạn hình
thành. Đó là một cộng đồng bao gồm các thành viên quan hệ với nhau một
cách “rời rạc”. Thành viên của cộng đồng ấy là một “gia đình” mẫu hệ, có
mẹ, có con (con theo mẹ) mà không có cha. Mẹ nuôi nấng, dạy dỗ, quyết
định trong phân phối thức ăn, con lớn lên ở với mẹ, làm lụng suốt đời,
phụng sự cho cái “gia đình” ấy và hưởng thụ từ sự ban phát của gia đình
ấy. Con gái đến tuổi lại sinh con đẻ cái làm cho cái thành viên cộng
đồng có hình thức “gia đình” ấy “phình ra” thành một tập thể kiểu “tam,
tứ đại đồng đường”. Quá trình đó cùng với việc mẹ ngày càng già yếu đã
làm nảy sinh sự ủy quyền lãnh đạo, phân cấp chỉ huy, thay mẹ điều hành
công việc “gia đình”. Số lượng tăng đến mức độ “tới hạn” hoặc do người
mẹ đã chết và do những nguyên nhân gây rối loạn nào đó mà gia đình thuở
ban đầu phải phân ra thành những gia đình nhỏ hơn, làm xuất hiện những
thành viên mới của cộng đồng. Thuở ấy, cái cộng đồng có mối quan hệ nội
tại còn lỏng lẻo ấy hầu như chưa có thủ lĩnh hoặc chỉ xuất hiện thủ lĩnh
trong từng lúc nhất định khi cần, phải liên kết các thành viên thực
hiện một công việc cần kíp nào đó, chẳng hạn như chống kẻ lạ xâm nhập.
Xong rồi thôi, thủ lĩnh “vì dân” ấy lại về làm dân. Chính vì thế cũng
chưa có sở hữu cộng đồng hay còn gọi là công hữu, mà chỉ có sở hữu của
từng thành viên gia đình, gọi là sở hữu tập thể.
Các chum đồng thuộc bộ tùy táng
Lưỡi cày đồng - thế kỷ 3-1 trước công nguyên
Lưỡi dao đồng - thế kỷ 3-1 trước công nguyên
Rìu bằng sứ, đá
Trang sức cho "quý bà"
Các chuỗi ngọc hột đá đen sáng lấp lánh dù đã qua hàng ngàn năm
Trâm cài tóc có hình muôn thú
Vòng đeo ngực có lục lạc
Vòng đeo tay và đeo tai bằng kim loại và đá quý
Gương bằng đồng. Giữa một mặt gương có một núm đồng dùng để hấp thụ ánh sáng
Bàn chải bằng đồng để sản xuất vải
Môi chan canh
Vại đồng
Bình rượu đồng thế kỷ 1 trước công nguyên
Một vật biểu trưng quyền uy bằng đồng
Vại đồng có nắp khắc hình chim lạc, thú rừng và hoa văn tinh xảo
Trống đồng Đông Sơn
1 trống đồng lạ với 4 chú cóc
Lưỡi cày đồng - thế kỷ 3-1 trước công nguyên
Lưỡi dao đồng - thế kỷ 3-1 trước công nguyên
Rìu bằng sứ, đá
Trang sức cho "quý bà"
Các chuỗi ngọc hột đá đen sáng lấp lánh dù đã qua hàng ngàn năm
Trâm cài tóc có hình muôn thú
Vòng đeo ngực có lục lạc
Vòng đeo tay và đeo tai bằng kim loại và đá quý
Gương bằng đồng. Giữa một mặt gương có một núm đồng dùng để hấp thụ ánh sáng
Bàn chải bằng đồng để sản xuất vải
Môi chan canh
Vại đồng
Bình rượu đồng thế kỷ 1 trước công nguyên
Muôi đồng có thể dùng để rảy nước hay dùng trong các lễ nghi tâm linh
Một vật biểu trưng quyền uy bằng đồng
Vại đồng có nắp khắc hình chim lạc, thú rừng và hoa văn tinh xảo
Trống đồng Đông Sơn
1 trống đồng lạ với 4 chú cóc
Cóc thời Đông Sơn được khắc hoa văn, mắt to, miệng dài
Gia
đình mẫu hệ nói trên là kết quả của phương thức kiếm ăn, lấy trồng trọt
chăn nuôi làm chủ yếu, của cách sống lấy định cư làm chủ yếu và bản
thân nó chính là mầm mống của xã hội mang hình thái công xã thị tộc sau
này. Quá trình đó là tự phát một cách tất yếu nên bầy người nguyên thủy
nào ở trên trái đất này cũng đều phải trải qua.
Hơn
thế nữa, có thể nói rằng gia đình mẫu hệ là hạt nhân đầu tiên, là cội
nguồn của mọi hình thái, mọi thể chế xã hội sau này, bởi vì trong vận
động nội tại của nó, chúng ta thấy phảng phất tất cả những yếu tố của
mọi xã hội sau này biểu hiện ra, dù ở chế độ Chiếm hữu nô lệ hay Xã hội
chủ nghĩa cũng vậy.
Khi
con người chuyển sang lấy trồng trọt, chăn nuôi làm phương thức kiếm ăn
chủ yếu thì yêu cầu phải biết và nâng cao trình độ cân đo đong đếm,
“làm toán”, lưu nhớ, theo dõi sự tăng giảm về mặt số lượng gia súc, của
cải tích lũy được… ngày càng trở nên bức thiết. Việc lưu nhớ, lúc đầu có
thể được thực hiện bằng cách cất giữ những hòn sỏi, viên đá. Nhưng làm
cách đó có bất tiện là khó bảo quản, dễ rơi rớt, thất lạc, cho nên trong
thời đại Hòa Bình, con người nguyên thủy đã có sáng kiến dùng vỏ ốc
biểu trưng số lượng và mài thủng lưng vỏ ốc để xỏ xâu. Những xâu vỏ ốc
ấy đã giải quyết thỏa đáng những hạn chế của cách lưu nhớ bằng những
viên sỏi, đá rời rạc. Những xâu vỏ ốc đó luôn được thêm hoặc bớt theo
tình hình thực tế số lượng gia súc và những lượng “của cải” nào đó đã
tích lũy được, nghĩa là người ta thực hiện sự tính toán, chia chác, thu
gom thành quả lao động một cách trực quan ngay trên những xâu vỏ ốc ấy
và khi di dời chỗ ở hay thực hiện việc trao đổi sản phẩm lao động giữa
các thành viên với nhau, người ta thường mang chúng theo, đeo vào tay,
đeo vào cổ…
Rìu đá bằng đồng để sản xuất
Người tham quan rất thích thú trước những món đồ cổ rất lạ và "độc" cũng như có ...giá rất mắc. Thậm chí nhiều món hàng thuộc vào loại vô giá.
Rìu đá bằng đồng để sản xuất
Sưu tập lưỡi rìu đá có từ rất lâu, vào thế kỷ 10-5 trước công nguyên
Chức
năng ban đầu của các xâu vỏ ốc các loại là như thế chứ chưa có chức
năng trang sức làm đẹp. Trong thời đại đồ đá mới (tương ứng là văn hóa
Bắc Sơn) đã xuất hiện những phiến đá có lỗ xỏ ở giữa, những hạt chuỗi
dùng để xỏ xâu bằng đất nung hình trụ hay hình thoi, giữa có xuyên lỗ,
và ở giai đoạn sau thì bắt đầu xuất hiện những chuỗi xâu những viên đá
được tiện tròn xoay và khoan lỗ theo lối tách lõi giữa. Qua hàng ngàn
năm, thậm chí là hàng vạn năm lao động trồng trọt chăn nuôi kết hợp với
săn bắt hái lượm, lên bờ xuống ruộng, vào rừng ra biển, nhận thức về mọi
mặt và trình độ lao động của người tối cổ trên đất Việt đã đạt được đến
những tầm cao nhất định so với khu vực. Nghiên cứu khảo cổ học đã chứng
minh điều đó. Nhờ trình độ nhận thức đã được nâng cao mà những hiểu
biết toán học (số học, hình học) và thiên văn học cũng trở nên ngày một
sâu sắc hơn.
Chắc
rằng vào cuối thời đại này đã bắt đầu phôi thai tính hàng hóa trong
những thành phẩm lao động mang đi trao đổi. Khi cường độ trao đổi và
khoảng cách trao đổi sản phẩm tăng lên trong xã hội thì tất yếu xuất
hiện đòi hỏi phải có những vật phẩm có giá trị, tiện lợi trong tích lũy,
trong việc chứa đựng, mang theo khi di chuyển, được xã hội thừa nhận để
làm vật trung gian của một quá trình trao đổi. Những hạt đá, vì có tính
bền vững, tốn nhiều công sức chế tác, có tính quí giá vì sự công phu
của chúng, đã được đưa ra đảm nhận vai trò đó. Và các xâu chuỗi viên đá
xỏ xâu, ngoài chức năng “kế toán” như vỏ ốc xỏ xâu, từ đây có thêm chức
năng là những vật ngang giá chung dùng trong các cuộc trao đổi. Chức
năng trao đổi trong “thương mại” của các hạt đá xâu chuỗi dần dần làm
cho chúng ngày một xa rời chức năng “quản lí, kế toán” trong lao động
sản xuất của con người. Ai có những hạt đá xâu chuỗi đó thì với một số
lượng thỏa thuận nhất định, có thể trao đổi lấy bất cứ thứ gì đó được
cho là tương xứng trong thiên hạ. Vì vậy mà chúng cũng trở nên quí báu.
Cái quí báu thì phải giữ gìn, bảo quản, cất giấu chứ không thể mang ra
làm “sổ sách kế toán” “dầm mưa dãi nắng” trong lao động sản xuất được.
Đòi hỏi phải có một loại xâu chuỗi đơn giản, “rẻ tiền” (dễ làm) khác đảm
nhận chức năng “thấp hèn” đó và dây thắt nút ra đời như một sáng kiến
tuyệt vời nhất. (Thực ra rất có thể dây thắt nút xuất hiện trước).
Các
xâu chuỗi hạt đá, sau khi đã xa rời cái nguồn gốc “tầm thường” của mình
để hoàn toàn đảm nhận chức năng tiền tệ “cao sang, quyền quí”, lại càng
trở nên quí báu.
Lạc Tiên là con thứ 6 của
Sơn Tinh. Vì Thái Hy – thần trí tuệ tiết lộ rằng, người con thứ 6 của
ngài sẽ mạnh hơn cả cha nó và có một ngày sẽ lật đổ Sơn Tinh để giành
quyền cai quản núi Tản Viên.
Hỏa Chi Ý Chí - Thời kỳ Hùng
Vương, Trần Ngọc Tuấn sinh ra là con nhà võ. Dòng họ Trần là dòng họ có
hỏa đao thuật trứ danh. Và Tuấn là người con duy nhất trong 6 người con
thừa kế hỏa tuyệt kĩ của người cha. Trong trận truy đuổi của quân Tần,
cậu lạc gia đình và vô tình gặp lão bậc thầy võ thuật cổ truyền, ở đây
Tuấn được lão rèn luyện cho một ý chí mạnh mẽ, tất cả là do lửa hận thù
trong lòng mà cậu chưa thể sử dụng được Hỏa Đao. Nhờ sự giác ngộ, Tuấn
luyện thành Hỏa Chi Ý Chí và rời khỏi ngọn núi, nhanh chóng trở thành
thủ lĩnh dẹp loạn quân Tần. Cuộc chiến kéo dài mấy năm, với tuyệt kĩ Hỏa
Đao, Tuấn đã dẹp không ít quân Tần. Đến năm 214 TCN, Thủy Hoàng sai Đồ
Thư mang 50 vạn binh chia làm 5 đạo truy quét đạo quân của Tuấn, cậu
phải rút vào rừng sâu nhưng không thoát nổi với đại đạo quân quá mạnh.
Tuấn đã hi sinh trận đó, tiếp nhận ý chí của cậu, Tổ quốc đã vinh danh
Tuấn là "ngọn lửa sống".
Chân Mỹ - Thời kỳ An Dương
Vương, nhân dân Âu Lạc sống yên bình, làm ăn ấm no. Ở ngôi làng nhỏ, có
một gia đình của một nữ thầy thuốc, nàng tên là Chân Mỹ, sống bên chồng
và con rất hạnh phúc. Chân Mỹ xinh đẹp, giản dị, từ nhỏ đã đi theo các
già làng học hỏi tìm tòi về các phương pháp chữa bệnh.. Với tư chất
thông minh, ham tìm tòi khám phá, nên khi lớn lên, nàng dẫn trở thành
người thầy thuốc giỏi nhất trong làng, và cả nước Âu Lạc. Ngày Triệu Đà
xâm lược Âu Lạc, gia đình nàng trong cơn loạn lạc đã chia cắt trong cảnh
binh đao. Nàng được một vị cao nhân cứu sống, và truyền cho nàng nhiều
phương pháp chữa các bệnh lạ. Giã từ vị cao nhân, nàng bắt đầu cuộc hành
trình, chữa bệnh cho dân chúng khắp mọi nơi, nơi đâu có dịch bệnh là
nơi đó có nàng cứu chữa, giúp cho bá tánh. Và mong muốn của nàng bên
cạnh có thể chữa khỏi bệnh cho người dân, nàng cũng mong gặp lại chồng
và con đã thất lạc của mình năm xưa. Cuộc hành trình vẫn còn kéo dài...
(Còn tiếp)
----------------------------------------------------------------
Nhận xét
Đăng nhận xét