Dai Chung la su suy ngam cua toi ve cuoc doi, xa hoi, nhan sinh
TT&HĐ IV - 33/l
Nhận đường liên kết
Facebook
X
Pinterest
Email
Ứng dụng khác
-
Truyền thuyết về nguồn gốc 12 cung hoàng đạo
Khám phá bí ẩn các ngôi sao trên bầu trời - chòm sao Thiên Nga Cygnus |Khoa học vũ trụ - Top thú vị|
PHẦN IV: BÁU VẬT
"Dọc
đường lịch sỏ đi hoặc đánh rơi, đã chìm
trong quên lãng. Kẻ nào muốn có ngọc, chử nhân loại, có rất nhiều báu vật bị người đời, vô tình hay hữu ý, lỡ bỉ cần dò tìm lại chúng, nhặt
lên, đánh bóng..."
NTT
“Sách là nguồn của cải quý báu của thế giới và là di sản xứng đáng của các thế hệ và các quốc gia.”
Tôi bước chân vào thư viện và khép cửa lại. Như thế là tôi đã tách khỏi
tính tham lam, lòng tự ái, tệ say rượu và sự lười biếng củng tất cả
những thói hư tật xấu do cái dốt nát, sự vô công rỗi nghề và cảnh sầu tư
sinh ra. Tôi đắm mình vào cái vĩnh hằng giữa những tác giả tuyệt diệu
với một niềm tự hào, với một cảm giác thỏa mãn đến mức cảm thấy thương
hại tất cả các ông quan lớn sang trọng và giàu có nhưng không được hưởng
niềm hạnh phúc này. D. Henziut
Những
người đọc sách tuy chưa thành danh nhưng cũng đã có một tư cách cao
thượng, những người làm điều thiện, tuy không mong báo đáp nhưng tự
trong lòng khoan khoái. Ngạn ngữ Trung Quốc
Đọc sách hay cũng giống như trò truyện với các bộ óc tuyệt vời nhất của những thế kỷ đã trôi qua.
Rene Descartes
Những gì sách dạy chúng ta cũng giống như lửa. Chúng ta lấy nó từ nhà
hàng xóm, thắp nó trong nhà ta, đem nó truyền cho người khác, và nó trở
thành tài sản của tất cả mọi người.
Voltaire
Một thư viện của sự hiểu biết quý giá hơn tất cả sự giàu sang, và tất cả
mọi thứ đáng khao khát đều không thể so sánh với nó. Vì vậy bất cứ ai
nhận mình là có nhiệt tâm với sự thật, với hạnh phúc, với sự hiểu biết
hay tri thức đều phải trở thành người yêu sách.
Plato
“Khi họ đốt sách thì chính là họ cũng đang đốt cả loài người.”
“Khi
đã biết sự thực của vật thể, ta sẽ thấy rằng thật vô lý khi tôn thờ các
sản phẩm cô lập của dòng chảy không ngừng nghỉ của sự biến hóa, làm như
chúng là vĩnh cửu và đích thực. Đời sống không phải là vật thể hay dạng
của vật thể mà là một sự vận động liên tục hay chuyển hóa”
S. Radhakrishnan
“Nếu có ai hỏi di vật thuộc nền văn minh cổ xưa nào của những người anh
em ruột thịt thiểu số phương Nam của Trung Hoa là quan trọng nhất, chúng
ta có thể trả lời không do dự rằng đó chính là Trống Đồng”
Wen You
Cũng không ai phủ nhận được rằng – dù ai
đó có ý định “gây nhiễu” bằng những sự thác loạn chữ nghĩa và trí tuệ –
ghi chép về thư tịch xưa nhất về Trống đồng – đoạn ghi chép của Hậu Hán
thư Mã Viện truyện – đã bộc lộ rõ ràng một sự thực: Trống đồng Lạc Việt
ở đất Giao Chỉ.
Nguyễn duy Hinh
(Tiếp theo)
Các
nhà nghiên cứu hiện nay cho rằng Âm lịch (lịch trăng) ra đời trước
Dương lịch (lịch Xuân Phân) trong lịch sử. Thế nhưng, niên đại ra đời
của những loại Âm lịch cổ xưa nhất trên thế giới vẫn chưa được biết chắc
chắn. Theo truyền thuyết được các sử gia cổ đại ghi lại thì từ trước
thời Hoàng Đế (khoảng năm 2697 - 2597 TCN), người Trung Hoa đã biết dùng
Âm lịch và chính Hoàng Đế đã cho dựng tháp để quan sát bầu trời sao mà
chỉnh sửa hệ Âm lịch đó. Tương truyền, đến đời vua Thuấn (2255 - 2205
TCN) cũng đã từng sửa lại Âm lịch. Còn người cổ Ai Cập, thì được cho
rằng đã định hình hệ Âm lịch của họ vào khoảng năm 2000 TCN. Tiếp đến là
người Do Thái cổ, người Hy Lạp cổ, người Ả Rập cổ. Đến khoảng năm 800
TCN, người Etruscan đã tiếp thu Âm lịch của người Do Thái cổ và người Hy
Lạp cổ, áp dụng nó trên vùng Tuscany thuộc miền Bắc Ý ngày nay. Hệ Âm
lịch này lại được người La Mã cổ tiếp thu, sử dụng sau khi đã
chinh phục người Etruscan vào cuối thế Kỷ III TCN.
Có
một điều rất đáng chú ý: Âm lịch (nói chung) đều được cho là di sản của
những nền văn minh cổ đại - những trung tâm văn minh lớn nhất và xuất
hiện sớm nhất trên thế giới. Tuy nhiên, lạ lùng là trong di tích của
những nền văn minh cổ sơ ấy, hầu như không thấy (ngay cả khi đã xuất
hiện số đếm và phép tính (cộng, trừ…)) sự biểu hiện của Âm lịch như một
công cụ dùng để biên niên hay dưới dạng những biên niên. Hoặc là thời đó
chưa xảy ra nhu cầu phải biên niên một cách cụ thể và chính xác các sự
kiện để lưu truyền cho đời sau, hoặc Âm lịch còn ở dạng sơ khai và chưa
có khái niệm về “năm”, về số lượng năm, tháng đã trôi vào quá khứ?
Vì
sao lại có hiện tượng đó? Chúng ta đoán rằng thuở ban đầu, cái đơn vị
thời gian trực giác nhất đối với con người là “ngày”. Tiếp đó, đơn vị
thời gian dễ xác định rõ ràng được là khoảng thời gian gồm những ngày
vào ban đêm có trăng, hay nói chính xác hơn là số (ngày) đêm giữa hai
lần trăng tròn. Quá trình quan sát sự tròn, khuyết của trăng rồi cả bầu
trời đêm sao đã đưa con người đến khái niệm “tháng” trăng và một tháng
trăng thì gồm trung bình 29,5 ngày. Và chỉ đến thế thôi chứ chưa có khái
niệm “năm” trăng, vì không thể cảm nhận dù là tương đối được bằng trực
giác một khoảng thời gian không có một mốc so sánh nào như thế. Vậy, cần
phải phán đoán rằng trước khi xuất hiện Dương lịch, Âm lịch chỉ mới ở
dạng sơ khai có vai trò đơn giản như một lịch trình chuyển biến một cách
chu kỳ của Trăng, biểu hiện ra bằng quá trình biến dạng tròn - khuyết
của nó, để dựa trên cơ sở đó mà con người có thể phán đoán, xác định
những biểu hiện thiên nhiên có liên quan. Không thể dùng nó để xác định
hiện tượng chu chuyển lớn hơn nhưng có vẻ cũng rất đều đặn của thiên
nhiên là thời tiết bốn mùa (có thể sơ khởi, con người chỉ phân biệt ra 2
mùa: nóng nực, ấm áp và mát mẻ, lạnh giá?), nếu không liên tục bổ sung,
điều chỉnh lịch trình đó. Chính sự bất ổn định của lịch trình Âm lịch
đã làm cho nó không thể đáp ứng thỏa đáng yêu cầu của công tác biên
niên.
Sự
đòi hỏi phải có một công cụ tính thời gian xác định chính xác và ổn
định khoảng thời gian tồn tại của từng mùa trong 4 mùa thời tiết và quá
trình chuyển biến tuần hoàn của 4 mùa đó, cũng như dùng để “đếm” thời
gian phục vụ cho việc biên niên các sự kiện đã dẫn đến nhiều khám phá về
mối quan hệ khăng khít giữa Trái đất và Mặt trời để từ đó mà sáng tạo
ra Dương lịch. Dương lịch ra đời trên cơ sở đã xác lập khái niệm “năm”.
Năm là gồm 365,25 ngày (chọn số nguyên ngày là 365 rồi đưa ra một nguyên
tắc điều chỉnh cho phù hợp với thời gian thực tại). Đó là số ngày lần
lượt xuất hiện đủ 4 mùa và đóng vai trò là thời gian của một chu kỳ vận
động của thời tiết Trái đất (Trái đất quay đúng một vòng xung quanh Mặt
trời). Có thể người Ai Cập cổ đại đã xác định được lượng thời gian này
qua việc quan sát sao Thiên Lang (Sirus) - bằng khoảng thời gian giữa
hai lần mọc của ngôi sao này. Thời điểm sao Thiên Lang mọc cũng là lúc
nước sông Nin bắt đầu dâng!
Khi quan sát bầu trời đêm, ta có thể nhìn
thấy được nhiều ngôi sao. Tuy nhiên không phải ngôi sao nào cũng đều
giống nhau và nhìn được bằng mắt thường.
Những ngôi sao sáng nhất trên bầu trời
10. Archerna
Ngôi
sao Archerna nằm trong chòm sao Eridanus. Ngôi sao có độ sáng rõ ràng
là 0.46 và độ sáng tuyệt đối là -1.3. Ngôi sao này nằm cách Trái Đất 69
năm ánh sáng ( 1 năm ánh sáng bằng 9000 tỷ km).
9. Procyon
Tiếp
theo trong danh sách là Procyon, nằm ở chòm sao Canns Minor, cách Trái
Đất 11,4 năm ánh sáng. Ngôi sao có độ sáng rõ ràng là 0.38 và độ sáng
tuyệt đối là 2.6.
8. Rigel
Nằm
trong chòm Orion, cách Trái Đât 1400 năm ánh sáng, Độ sáng rõ ràng của
nó là 0.12 và độ sáng tuyệt đối là -8.1. Trong ảnh là ánh sáng từ Rigel
phản chiếu cụm bụi không gian tạo thành cụm tinh vân Nebula.
7. Capella
Capella
nằm trong chòm sao Auriga, 41 năm ánh sáng từ Trái Đất. Độ sáng rõ ràng
của ngôi sao này là 0.08 và độ sáng tuyệt đối là 0.4
6. Vega
Ngôi
sao Vega ở chòm Lyra, cách Trái Đất 25 năm ánh sáng. Có độ sáng rõ ràng
là 0.03 và độ sáng tuyệt đối là 0.6. Trong hình là dải ngân hà chiếu
sáng bầu trời phía Tây của Iowa Hoa Kỳ vào 31/3/2013. Ngôi sao Vega sáng
nổi bật ở phần giữa phía trên.
5. Arcturus
Nằm
trong chòm sao Bootes, cách Trái Đất 34 năm ánh sáng. Độ sáng rõ ràng
của nó là -0.04 và độ sáng tuyệt đối là 0.2. Trong hình, ở trung tâm là
Mặt Trăng, còn Arcturus là ngôi sao sáng thứ 4 nằm ở góc phải phía trên.
4. Rigil Kentaurus
Là
ngôi sao sáng thứ ba trên bầu trời đêm, mặc dù độ sáng của nó là do mật
độ của hệ thống sao quanh nó - được biết đến với cái tên Alpha
Centauri. Là hàng xóm gần nhất của Mặt Trời, Rigil Kentaurus cách Trái
Đất 4.3 năm ánh sáng, thuộc chòm Centaurus. Ngôi sao có độ sáng rõ ràng
là -0.27 và độ sáng tuyệt đối là 4.4
3. Canopus
Cách
Trái Đất 74 năm ánh sáng, Canopus thuộc chòm Carina. Độ sáng rõ ràng
của ngôi sao này là -0.72 và độ sáng tuyệt đối là -2.5. Canopus, ngôi
sáng sáng thứ hai trên bầu trời, hiện rõ trong tấm ảnh của phi hành gia
Donald R. Pettit, chụp trên Trạm vũ trụ ISS.
2. Sirius
Nằm
ở chòm Canis Major, cách Trái Đất 8.6 năm ánh sáng. Sirius có độ sáng
rõ ràng là -1.46 và độ sáng tuyệt đối là 1.4. Hình chụp từ kính thiên
văn vũ trụ Hubble cho thấy Sirius A, ngôi sao sáng nhất trên bầu trời
đêm, đốm xanh bên phải là bà con của nó, Sirius B
1. The Sun ( Mặt trời)
DĨ
nhiên ngôi sao sáng nhất không gì khác chính là Mặt Trời, gần nhất với
hành tinh của chúng ta. Cách Trái Đất 9149 668 992 km, với độ sáng rõ
ràng là -26.72 và độ sáng tuyệt đối là 4.2.
Nếu
quan niệm một lịch pháp hoàn chỉnh phải thỏa mãn được đòi hỏi phản ánh
chính xác thời tiết và có công dụng biên niên thì rõ ràng Dương lịch ra
đời trước Âm lịch. Chính nhờ có Dương lịch đóng vai trò như sự “cứu rỗi”
mà lịch trình Âm lịch đã thăng hoa lên hoàn thiện thành một lịch pháp
thực thụ với một năm Âm lịch là 354 ngày (đúng ra là 354,36708 ngày) kèm
theo qui tắc bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp với thời tiết 4 mùa (và
hơn nữa là phù hợp với Dương lịch).
Thế
thì Dương lịch ra đời lần đầu tiên từ khi nào và ở đâu? Theo lịch sử
chính thống (được đa số nhà sử học thừa nhận) thì bộ Dương lịch mà toàn
thế giới hiện đang sử dụng, có khởi thủy bắt nguồn từ một lịch trình đếm
thời gian theo sự vận động tương đối giữa Trái đất và Mặt trời, xác
định được chu kỳ vận hành của thời tiết của người Ai Cập cổ đại. Nhờ
phát hiện một cách chính xác thời lượng không đổi của chu kỳ đó (cũng là
thời lượng Trái đất quay hết đúng một vòng quanh Mặt trời, mà theo quan
niệm bấy giờ là Mặt trời quay quanh Trái đất) là 365 ngày, 5 giờ, 48
phút, 48 giây (viết dưới dạng thập phân là 365,245199 ngày), các nhà
thiên văn cổ Ai Cập đã chế định được một lịch pháp Dương lịch sơ khai
tương đối chuẩn xác để (có lẽ) với công dụng ban đầu là làm cơ sở cho
việc cải tiến Âm lịch. La Mã mới là quốc gia chính thức sử dụng bộ lịch
pháp Dương lịch sớm nhất. Vào khoảng năm 46 TCN, để cho ngày tháng phù
hợp với sự vận hành, chu chuyển của các mùa thời tiết trên Trái đất,
người La Mã đã thay thế Âm lịch Etruscan bằng loại Dương lịch này. Lịch
này còn được gọi là lịch Julian. Tên gọi Julian có xuất xứ từ Juliuxơ Xêđa (Julius Caesar, 100 - 44 TCN), tên vị quan chấp chính của nhà nước
La Mã đồng thời là một thiên tài quân sự thế giới, sau trở thành độc tài
và cuối cùng bị Brútuxơ và Cátxiuxơ - những kẻ thân tín nhưng lại phản
bội Xêđa - đâm chết trong khi ông đang chủ trì buổi họp của Viện nguyên
lão (một tổ chức tương tự Quốc hội ngày nay). Theo lịch Julian mỗi năm
bình thường có 365 ngày, và cứ 4 năm có 1 năm nhuận (thêm một ngày vào
tháng 2 là tháng lúc bình thường chỉ có 28 ngày, tức mỗi năm bình quân
có 365,25 ngày).
Sự
sai lệch giữa số ngày bình quân trong một năm của lịch Julian so với số
ngày thực tế của một năm làm cho sự đếm thời gian theo lịch đó từ năm
46 TCN đến năm 1582 chậm mất 12,70028 ngày. Đó là lý do vào năm 1582,
Giáo hoàng La Mã khi đó là Gregory (1502 - 1585) đã cải tiến lại lịch
Julian mà sau này mang tên gọi mới là Lịch Gregorian. Từ đó, lịch Gregorian bắt đầu được áp dụng ở Tây Âu. Theo lịch này thì mỗi năm bình
thường vẫn là 365 ngày, nhưng cứ 400 năm thì nhuận 97 ngày (vẫn thêm 1
ngày vào tháng 2). Như vậy 1 năm bình quân theo lịch Gregorian chỉ chậm
hơn 1 năm thực tế có 0,00301 ngày, và phải sau 4000 năm mới chậm hơn
1,204 ngày. Với độ chính xác như thế nên lịch Gregorian đã trở thành
lịch chung của toàn thế giới ngày nay.
Hình khắc trên mộ của Giáo hoàng Gregorius XIII, kỷ niệm sự việc ban hành lịch Gregorius
Đặc
biệt, Dương lịch cũng đã từng được sử dụng ở miền Bắc - Ấn Độ từ thế kỷ
I trở về trước. Bộ Dương lịch này qui định mỗi năm có 12 tháng, mỗi
tháng có 30 ngày, và cứ 5 năm lại nhuần 1 tháng, tức bình quân mỗi năm
của lịch này có đến 366 ngày, kém chính xác hơn cả lịch Julian của người
La Mã. Đó có thể là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc từ thế kỷ I
trở về sau, Dương lịch Ấn Độ bị Âm lịch của người Saka thay thế sau khi
bị bộ tộc này xâm nhập vào miền Bắc - Ấn.
Còn
theo các nhà sử học Trung Quốc thì Khổng Tử có nhắc đến lịch đời nhà
Hạ. Nhưng lịch đời nhà Hạ “mặt mũi” như thế nào thì đời sau không ai
biết. Trước đó rất lâu, ở tận thời vua Nghiêu, ông này đã định ra phép
đo lường để tính Âm lịch, nhưng cũng chỉ “nghe nói thế” chứ chưa tìm ra
bất cứ dấu di tích nào mách bảo điều đó. Loại Âm lịch được biết đến sớm
nhất ở Trung Quốc là lịch đời Ân - Thương. Lịch đời Thương chia một năm
thành 12 tháng, tháng đủ có 30 ngày, tháng thiếu có 29 ngày và đã biết
điều chỉnh cho phù hợp với lịch trình thời tiết bằng cách thêm tháng
nhuận. Lúc đầu, tháng nhuận để ở cuối năm gọi là tháng 13, về sau nó
được để ở giữa năm. nếu quả đúng như thế thì cần phải cho rằng trước đó,
người Trung Hoa cổ đã phải biết đến khái niệm sơ khởi cũng như thời
lượng của “năm” (Mặt trời), nghĩa là đã phải có một lịch trình thời gian
nào đó về sự chu chuyển, biến hóa của thời tiết, có bản chất Dương
Lịch. Bởi vì khi đã biết thời lượng theo đơn vị ngày của một quá trình
chuyển hóa thời tiết và quá trình đó luôn là sự lặp đi lặp lại thì “tội
gì” không dựa luôn vào nó (như một hệ tọa độ thời gian) để xác định
những thời khoảng biến đổi, xuất hiện các tiết khí trong quá trình đó và
chỉ việc đếm số những thời lượng rồi khắc ghi lại là có được ngay một
“biên niên sử”?
Điều
lạ lùng nhất là sau khi đã biết đến lịch trình vận động của thời tiết
Trái đất một cách chính xác thì các dân tộc Á Đông lại không “tiện đà”
xây dựng và sử dụng một hệ lịch vừa giản tiện hơn, vừa hợp lý hơn mà lại
chỉ dựa vào đó để tìm cách điều chỉnh theo từng thời đoạn qui ước đối
với Âm lịch cho phù hợp với chu kỳ biến chuyển thời tiết và vẫn sử dụng
Âm lịch trong suốt một khoảng thời gian rất lâu trong lịch sử. Chỉ có
thể giải thích được điều lạ lùng đó, khi cho rằng lịch trăng từ lâu đã
trở nên rất quan trọng đối với dân cư cổ xưa trong lao động, sản xuất,
nhất là trong quá trình gieo, trồng, chăm sóc, gặt hái ngũ cốc cũng như
các loại cây trồng nói chung. Kinh nghiệm phán đoán, nhận biết những
biểu hiện khác thường của điều kiện, khí hậu môi trường, được đúc kết từ
đời này qua đời khác của họ, có một phần không nhỏ là dựa vào sự quan
sát trăng, sao.
Để
có được Dương lịch Julian, loài người đã phải trải qua một chặng dài
đăng đẳng trên con đường nhận thức tự nhiên. Điều kiện cần có để xây
dựng lịch Julian là phải xác định được đơn vị đo thời gian, lượng đơn vị
thời gian đo của 1 ngày, phải phát hiện được thời lượng (tính theo đơn
vị thời gian là ngày) của một chu kỳ biến đổi thời tiết của Trái đất
biểu hiện ra thành 4 mùa kế tiếp nhau đến bất tận, và trước hết phải
phát minh ra được một công cụ đo thời gian đạt đến độ chính xác khả dĩ
chấp nhận được. Có được những điều kiện đó vào thời nhận thức (so với
ngày nay) còn chìm sâu trong mù quáng là vô cùng khó khăn và thậm chí là
không thể. Tuy nhiên, nếu bây giờ ai đó bảo chúng ta xây dựng nên bộ
Dương lịch kiểu Julian thì đó là một việc thật dễ dàng. Một cách “lý
thuyết”, chúng ta cũng nhanh chóng xác định được như sau:
Biết
một chu kỳ biến đổi thời tiết Trái đất có thời lượng là 365,25 ngày
(với 1 ngày gồm 24 tiếng đã được xác định trước). Gọi thời lượng đó là
“năm”. Sự trải nghiệm đã dẫn con người đến việc phân 1 năm thời tiết ra
thành 4 trạng thái gọi là 4 mùa (Xuân, Hạ, Thu, Đông). Vậy thời lượng
của 1 mùa là:
365,25 ngày : 4 mùa = 91,3125 ngày/mùa
Khi
đã qui định đơn vị nhỏ nhất thì không thể hình dung được thời lượng của
mùa (và cả của năm) lại là số thập phân (người xưa càng không thể hình
dung được!). Trong thực tiễn đời sống, phần thập phân của thời lượng là
không thể đếm được. vậy phải chọn thời lượng của 1 mùa là 91 ngày.
Đến
đây, một năm đã có 2 đơn vị thời gian để đếm là ngày và mùa. Tuy nhiên
đơn vị mùa thì lớn quá, đơn vị ngày thì nhỏ quá trong việc theo dõi sự
biến chuyển của thời tiết và xác định mùa màng trong lao động nông
nghiệp. Cần tìm một (hay vài) đơn vị thời gian mới với điều kiện nhỏ hơn
mùa nhưng lớn hơn ngày và phải là số nguyên lần của ngày đồng thời mùa
phải là nguyên lần của nó. Tìm tòi theo hướng ấy sẽ đi đến điều “hi
hữu”: số 91 chỉ chia hết cho con số 7 trong các số từ 1 đến 10 - là con
số mang “đức tính” đơn vị như con số 1, nghĩa là không thể chia hết nó
cho bất cứ số nào ngoài số 1 và chính nó (số nguyên số). Người xưa thấy ở
con số 7 tính huyền bí, thiêng liêng có lẽ một phần là vì thế chăng? Và
thế là thời lượng 7 ngày được chọn làm đơn vị mới, gọi là “tuần”.
Khi
chia 91 cho 7, được kết quả 13. Số 13 cũng là số nguyên tố và cũng có
thể đã được người xưa chọn làm một loại đơn vị thời gian cho năm nữa.
Như
vậy, chúng ta đã có một lịch trình Dương Lịch: 7 ngày là 1 tuần, 13
tuần là 1 mùa, 4 mùa là 1 năm. Lịch trình này có 1 năm ngắn hơn 1 năm
thực là:
0,3125 x 4 = 1,25 ngày
Để
có thể đưa lịch trình đó vào sử dụng “ngon cơm” hơn, chúng ta “cho
phép” tuần đầu của mỗi năm có thêm 1 ngày, nghĩa là gồm 8 ngày và cứ 4
năm thì tuần cuối cùng của năm thứ tư cũng được thêm 1 ngày, nghĩa là nó
cũng gồm 8 ngày.
Đó
là một lịch pháp khá giản dị và tiện lợi trong việc theo dõi thời tiết
và biên niên. Thế nhưng nếu đem nó ra sử dụng vào thời đại mà hầu hết
dân cư sống bằng sản xuất nông nghiệp và chăn nuôi gia súc, đánh bắt hải
sản…, thì không những chẳng có “ma” nào hưởng ứng mà trái lại sẽ phải
nghe toàn những lời ta thán đến “nản lòng”. Vì rằng dân cư thuở ấy không
chỉ đã quen dùng lịch trình theo chu kỳ vận động của Trăng mà còn (và
đây mới là điều quan trọng hơn) thấy ở đó những lợi ích to lớn và sát
sườn. Dù có thể là đại khái thì dựa vào lịch trình trăng và quan sát
trực quan những biến động của môi trường thiên nhiên, họ cũng ước lượng
được quá trình chu chuyển của thời tiết. Chẳng hạn người Ai Cập cổ đại,
lúc đầu đã lấy sự lên xuống của nước sông Nin (chu kỳ bồi đắp phù sa) để
định lượng thời gian trong sản xuất nông nghiệp. Thời lượng đó lặp đi
lặp lại tương đối ổn định đã dần làm nảy sinh ra khái niệm mà ngày nay
chúng ta gọi là “năm”. Năm mới của người Ai Cập cổ thời ấy bắt đầu từ
ngày nước sông Nin dâng (vào khoảng tháng 7 dương lịch) và một năm của
họ được chia làm 3 mùa là mùa Nước Dâng, mùa Ngũ Cốc và mùa Thu Hoạch.
Rõ ràng điều bức thiết đối với cư dân tiền sử là mưu sinh sao cho ngày
một hiệu quả chứ không phải biên niên. Rất có thể nhu cầu biên niên sử,
mãi về sau, khi trình độ toán học - thiên văn cho phép và vào lúc hình
thành sự chuyên chế, độc tài trong xã hội.
Đối
với cư dân nông, ngư nghiệp cổ đại, nhất là ở những vùng duyên hải Đông
và Nam Á, khi đã quen lao động và sinh hoạt dựa vào kinh nghiệm quan
sát được từ trạng thái của Trăng, sao. Khi đã có một lịch trình theo chu
kỳ vận động của mặt Trăng, thì đòi hỏi tiếp theo không phải là một hệ
Dương lịch mà chính là dựa vào những số liệu đo đạc thời gian (tạm gọi
là) của Dương lịch để hoàn thiện lịch trình có sẵn sao cho nó vừa đảm
bảo được những thông tin, dự báo liên quan đến khí hậu, mùa màng vừa phù
hợp với chu kỳ chuyển vận thời tiết Trái đất, đồng thời đáp ứng được cả
cho công việc biên niên sử. Nguyên nhân ra đời các hệ lịch pháp Âm Lịch
của các dân tộc có thể là như vậy. Sự ra đời của nông lịch là một ví dụ.
Sự
sản xuất có tính hàng hóa thúc đẩy các ngành nghề thủ công phát triển.
Tiểu thủ công nghiệp ngày càng chuyên sâu và mở rộng đã làm hình thành
trong xã hội một hình thức kiếm sống mới, tương đối không còn phụ thuộc
trực tiếp vào khí hậu, thời tiết nữa, đó là công - thương nghiệp. Hoạt
động công - thương nghiệp phát triển ngày một mạnh mẽ theo xu thế tất
yếu của đời sống xã hội dần dần trở nên nổi trội, biểu hiện (có vẻ) lấn
át hoạt động nông nghiệp và có tính chất đa quốc qua. Hoạt động công -
thương nghiệp cùng với một số hoạt động lao động phi sản xuất khác hợp
thành một lực lượng người to lớn thoát ly khỏi sản xuất nông nghiệp, (kể
cả ngư nghiệp, chăn nuôi…), tạm gọi là mưu sinh phi nông nghiệp, hoạt
động trên khắp các khu vực lãnh thổ và có mối quan hệ (với nhau) ngày
một rộng khắp. Trạng thái xã hội đó đã là nguyên nhân chủ yếu làm nảy
sinh đòi hỏi phải có một lịch pháp chung tiện dụng, chính xác, thỏa mãn
yêu cầu của biên niên. Có thể thấy rằng Dương lịch xuất hiện, được áp
dụng ngày một rộng rãi là một tất yếu lịch sử.
Tuy
nhiên, dù có vẻ bị lấn át, có vẻ lặn đi trên thương - chính trường,
nhưng sản xuất nông nghiệp vẫn luôn là nền tảng của mưu sinh xã hội (đến
ngày nay vẫn vậy!). Giả sử rằng nếu đột nhiên không còn sản xuất nông
nghiệp nữa thì ngay lập tức, không những công - thương nghiệp sẽ trở nên
hoảng loạn và mau chóng sụp đổ tan tành, mà ngay bản thân xã hội loài
người cũng “tắt tiếng”, chấm dứt tồn tại. Do đó, một trong những đòi hỏi
là nếu Dương Lịch muốn xuất hiện và được ứng dụng rộng rãi thì nó phải
“bắt chước”, “thỏa hiệp” với Âm Lịch và nhất là ở những vùng sản xuất
nông nghiệp truyền thống, nó và Âm Lịch sẽ “thỏa thuận với nhau” cùng
tồn tại.
Ấn
tượng mạnh mẽ nhất tác động đến tâm thức người thượng cổ là những đêm
trăng tròn vành vạnh và sáng vằng vặc. Nhờ thế mà sự vận động theo một
chu kỳ xác định đã được họ biết từ lâu, và trong Âm Lịch, tất yếu phải
tồn tại một thời lượng đóng vai trò là đơn vị thời gian cơ bản gọi là
“tháng Trăng”. Một tháng của lịch trăng (Âm lịch) được xác định bình
quân là 29,53 ngày.
Chính
khái niệm “tháng” trong Âm Lịch đã “gợi ý” cho Dương lịch, cũng phải có
đơn vị thời gian “tháng” và để “thỏa hiệp” được với Âm lịch thì thời
lượng của tháng Dương lịch phải tương đối “hòa đồng” với tháng Âm lịch.
Điều may mắn lạ lùng và có tính định mệnh là thế này, nếu lấy thời lượng bình quân của một tháng trăng chia cho 4, sẽ có:
29,53 : 4 = 7,3825;
Trong khi thời lượng bình quân thực của một tuần dương lịch là:
(365,25 : 4) : 13 = 7,024;
Nếu
không chú ý đến phần thập phân (sau dấu phẩy), chúng ta sẽ có 2 kết quả
đều là 7 - đúng bằng số ngày của một tuần Dương lịch qui ước!
Chắc
rằng các nhà thiên văn thời tiền - sơ sử, cũng như các nhà làm lịch cổ
đại, dù chưa nhận thức được đích xác bản chất vận động của các vì tinh
tú, của Mặt Trăng, Mặt Trời, của sự chuyển biến ngày đêm, các sự xoay
vần thời tiết… nhưng đã cảm nhận được mối liên quan hết sức mật thiết
giữa chúng, giữa thời lượng cũng như quĩ đạo chu chuyển của các vì tinh
tú trên bầu trời đêm và của Mặt Trời, của chu kỳ thời tiết; giữa chu kỳ
tròn - khuyết của ánh Trăng và thời lượng 7 ngày của một tuần. Đối với
họ, hình như Vũ Trụ đã được một lực lượng siêu nhiên nào đó sắp xếp,
điều hành để vận động một cách trật tự, đồng bộ theo một lịch trình chu
chuyển vĩ đại. Phải chăng vì thế mà họ đã thấy ở con số 7 (số lượng 7
đơn vị) sự biểu hiện của điều huyền bí thiêng liêng ấy? Và đơn vị tuần,
qua bao nhiêu lần “vật đổi sao dời” vẫn tồn tại trong Dương Lịch cho đến
tận ngày nay như để kỷ niệm buổi ban sơ của lịch sử hình thành Dương
Lịch?
Sau
khi vừa phỏng đoán (một cách vô ý vô tứ?), vừa tự diễn giải (theo hướng
ưu tiên cho định kiến của mình!) để rồi từ đó mà tự giác ngộ (sao cho
mình được lợi nhất!), chúng ta thấy rằng bộ Dương Lịch mới tạo dựng được
ở trên là còn “thô quá!”, cho nên cần phải điều chỉnh và hoàn thiện hơn
nữa. Tại Ai Cập, năm mới không được tổ chức vào một ngày cố định vì thời
khắc chuyển giao giữa năm cũ và năm mới được đánh dấu bằng sự kiện lũ
lụt hàng năm của dòng sông Nile xảy ra. Thông thường, năm mới của Ai Cập thường rơi vàotháng 7 hàng năm . Khi đến năm mới, người dân Ai Cập sẽ tổ chức lễ hội lớn có tên Wepet Renpet (có nghĩa "mở cửa năm mới").
Lễ hội này có ý nghĩa quan trọng đối với người Ai Cập vì nó là sự
kiện nhằm đảm bảo khả năng sinh sôi nảy nở, phát triển của nông nghiệp,
mùa màng bội thu trong năm mới.
Đặc biệt, trong ngày đầu tiên của năm mới, người dân Ai Cập sẽ ăn
mừng bằng cách tặng quà cho nhau. Thông thường, họ thường tặng nhau lá
bùa hộ mệnh nhỏ thần Sekhmet - nữ thần đầu sư tử haybùa hộ mệnh thần Bastet - nữ thần đầu mèo.
Những bữa tiệc tùng tràn ngập rượu, bia là điều không thể thiếu
trong dịp đón năm mới của người dân Ai Cập cổ đại. Họ thường đắm chìm
trong dịp nghỉ lễ năm mới kéo dài hàng tuần.
Chúng
ta sẽ tiếp tục chọn thêm một đơn vị thời gian nữa có thời lượng giữa
đơn vị mùa và tuần. Bắt chước Âm Lịch, chúng ta gọi đơn vị thời gian
mới, cũng để “đo” năm, là “tháng”. Thời lượng của tháng phải được chọn
là nguyên và như đã nói, phải tương đương với tháng Âm Lịch để “thân
thiện” với nó. Đã biết thời lượng của 1 mùa là 91 ngày và chỉ chia hết
cho 7 (và 13), do đó có thể chọn tháng dương lịch có thời lượng:
13 x 2 = 26 ngày
và 7 x 4 = 28 ngày
So
với thời lượng trung bình của tháng Trăng (29,5 ngày) thì thời lượng 28
ngày là phù hợp hơn và có thể chọn nó (chỉ chênh lệch có 1,5 ngày)
Với 1 tháng Dương Lịch được chọn là 28 ngày thì 1 mùa sẽ có:
91 : 28 = 3,25 tháng
Tuy
nhiên đó chưa phải là cách chọn tối ưu. Nếu chọn 1 tháng Dương Lịch gồm
30 ngày thì so với tháng Trăng, (bình quân), chỉ còn chênh lệch 1 ngày,
và 1 mùa bình quân lúc này là:
91 : 30 = 3,033… tháng Dương lịch.
nghĩa là thời lượng của mùa “lý thuyết” và mùa “thực tế” trong cách chọn này “gần nhau” hơn cách chọn trên.
Vậy,
chúng ta tạm chọn 30 ngày làm thời lượng của tháng Dương Lịch; và thấy
rằng với cách chọn đó thì 1 năm Dương lịch “chỉ còn” 360 ngày, hụt mất
5,25 ngày so với 1 năm thực tế. Để khỏa lấp sự sai biệt đó và đảm bảo sự
phân bố thời lượng của các tháng trong năm cho tương đối “suông sẻ”,
hài hòa, chúng ta sẽ tự nhiên đi đến một lựa chọn chung cục là chọn 2
loại tháng Dương lịch có thời lượng chênh nhau 1 ngày, nghĩa là có tháng
30 ngày và tháng 31 ngày, cho các tháng đó xen kẽ nhau, mà tháng đầu
tiên của năm là tháng 31 ngày.
Sắp
12 tháng như vậy thật là đẹp nhưng té ra 1 năm lại gồm 366 ngày, dài
hơn năm thực 0,75 ngày. Vậy phải giảm bớt 1 ngày của tháng nào đó (chúng
ta chọn tháng 2) làm cho 1 năm còn 365 ngày, thiếu mất 0,25 ngày. Đến
đây chúng ta quyết rằng năm thường có 365 ngày, trong năm đó, tháng 2
chỉ có 29 ngày; sau 2 năm thường sẽ đến 1 năm “nhuận”, năm nhuận có 366
ngày và tháng 2 của năm đó có “đủ” 30 ngày.
Thế
thì tại sao tháng 2 trong năm thường của lịch Julian chỉ có 28 ngày? Có
thể là do những “khúc mắc” nào đó trong lịch sử, những “kiêng kỵ” nào
đó của thời xa xưa mà trong lịch Julian có đến 7 tháng với thời lượng 31
ngày (lại con số 7!!!).
Ngày
nay, chúng ta thấy sự tồn tại của đơn vị thời gian tuần (gồm 7 ngày)
thật lạ lùng. Nó không cần “biết” đến tháng đến năm. Không ai có thể xác
định được một tháng gồm mấy tuần, cũng không ai xác định được bao nhiêu
tuần thì đủ 1 năm. Thế nhưng nó cứ mặc nhiên tồn tại như một sự cần
thiết cho mọi tầng lớp dân cư, nhất là cho lực lượng mưu sinh trong lĩnh
vực công - thương và hành chính - sự nghiệp.
Đúng
là con người sẽ sáng tạo ra đơn vị thời gian “tuần”. Thế nhưng cơ sở để
xây dựng được đơn vị thời gian có vẻ chủ quan đó lại là “ngày” - một
đơn vị thời gian nhỏ hơn, có tính hiển nhiên và có thể nói là hoàn toàn
khách quan. Việc định ra thời lượng bảy ngày cho một đơn vị thời gian
“tuần” không phải là một sự tùy tiện lựa chọn mà là do có sự mách bảo
thầm kín của Thiên Nhiên. Hình như nó đã phải tất yếu xuất hiện trong
buổi bình minh của quá trình hình thành Dương Lịch để rồi sau khi đã
“hoàn thành nhiệm vụ thiêng liêng” và không còn tác dụng gì đối với lịch
pháp nữa, nó vẫn không chịu rời bỏ “vũ đài xã hội” mà tiếp tục tồn tại
như một “thực thể độc lập”. Dù hầu như không ai dùng đơn vị tuần để “đo”
tháng, “đo” năm nhưng trong đời sống lao động và sinh hoạt thường nhật,
con người lại gắn bó với nó có vẻ mật thiết hơn tháng, hơn năm. Ngày
nay, trong chúng ta đây, mấy ai mà không mong ngóng đến Chủ Nhật cũng
như những ngày nghỉ cuối tuần? Tục ngữ “mắt thứ hai, tai thứ bảy” là một
báo hiệu rằng “tuần” đã xâm nhập vào tâm trí con người và đóng vai trò
như một nhịp điệu sinh học.
Lịch của người Aztec.
Người Maya quan niệm thời gian như là dòng chảy của các dòng sông. Với họ, thời gian trôi đi
luôn gắn với từng nốt nhạc, vần thơ khác nhau chứ không đơn thuần là cái
gì đó biến mất vào hư không. Vì lẽ đó mà Người Maya luôn trong tâm niệm
“hãy thưởng thức cuộc sống một cách tự do như nó vốn có mà không cần để
ý đến khái niệm thời gian, ngày hay đêm”. Và điều này thể hiện rõ ràng
trong lịch người Maya, cứ mỗi cuối năm, họ lại dành ra “Năm ngày Không
tên” (hay còn gọi là “Time Out of Time”) của dịp Wayed để kết thúc năm
cũ và chuyển sang một năm mới.
Bên cạnh ý nghĩ của “khoảng thời gian rảnh rỗi”, năm
ngày trong dịp lễ Wayed còn là khoảng thời gian thiêng liêng và bí ẩn mà
người Maya gọi là “Những ngày sống trong sự sợ hãi”. Với họ đây là thời
điểm “giao thoa” giữa thế giới âm phủ và trần gian, không gì có khả
năng ngăn chặn những người âm này gây bệnh tật, khổ đau”. Theo lịch niên
đại, Wayed rơi vào khoảng 28/3 đến 1/4.
Hệ thống lịch này xuất hiện khoảng 5000 năm Trước Công
nguyên, được coi là một trong những bức lịch làm bằng giấy cói cổ nhất,
đẹp nhất và tinh xảo nhất trong lịch sử xuất hiện loài người.
Đây là hình ảnh bức lịch thiên văn lớn, dễ dàng cho ta
thấy những nét tinh xảo, tỉ mỉ, phức tạp như một tác phẩm nghệ thuật
điêu khắc (Bạn có thể bắt gặp các tác phẩm mô phỏng này tại các quán bên
đường Thủ đô Cairo, Ai Cập ngày nay).
Dưới đây là một số hình ảnh lịch cổ ở các nước khác:
Lịch cổ của người Nga.
Hình ảnh bức phù điêu thiết kế thời Trung Cổ vào năm 1383 sau Công nguyên.
Đây là hình ảnh bức lịch của người Ấn Độ cổ, bản lịch cổ có tên Codex Borbonicus tìm thấy năm 1507.
Có
nhiều thuyết lí giải về sự xuất hiện của “tuần” trong lịch pháp. Một số
người cho rằng “tuần lễ bảy ngày” có nguồn gốc từ Ai Cập cổ đại và họ
đặt tên cho các ngày trong tuần theo tên các vị thần của họ. Tuy nhiên,
nhiều người hơn lại cho rằng “tuần lễ bảy ngày” là do người Babylon đặt
ra. Các nhà thiên văn học Babylon, trong quá trình quan sát bầu trời đã
phát hiện có 5 thiên thể (hành tinh) thấy được bằng mắt thường “phiêu
du” quanh Trái đất (có vẻ như) trên cùng một lộ trình (quanh đường Hoàng
Đạo) theo chiều từ Đông sang Tây tương tự như Mặt Trời, Mặt Trăng. Sau
khi đã định ước ra đơn vị thời gian “tuần lễ bảy ngày”, họ dùng luôn tên
của năm hành tinh đó (“hành tinh” có gốc từ ngôn ngữ Hi Lạp cổ, có
nghĩa là “kẻ lang thang”), cùng với Mặt Trời và Mặt Trăng đặt cho bảy
ngày đó theo thứ tự (có thể là theo quan niệm thời đó về độ xa gần, độ
sáng, tầm quan trọng…) là (viết theo tiếng Việt): ngày Mặt Trời, ngày
Mặt Trăng, ngày Sao Hỏa, ngày Sao Thủy, ngày Sao Mộc, ngày Sao Kim và
ngày Sao Thổ.
Sau
này, người La Mã, Giecmanh, Hi Lạp… cũng áp dụng cách tính thời gian
theo “tuần lễ bảy ngày”. Người La Mã, trừ ngày Mặt Trời được đổi tên
khác, còn những ngày còn lại vẫn gọi theo tên cũ. Cách gọi tên này được
người Pháp dùng theo người Giecmanh giữ nguyên tên gọi ngày Mặt Trời,
ngày Mặt Trăng, ngày Sao Thổ. Các ngày còn lại được họ thay bằng tên các
vị thần của mình: Twia (hay Tiu), Woden, Thór, Feya (hay Frea). Kế thừa
cách gọi này mà trong tiếng Anh ngày nay, bảy ngày của tuần lễ được
viết lần lượt như sau: Sunday, Monday, Tuesday, Wednesday, Thursday,
Friday, Saturday.
Ngày
Mặt Trời được người Pháp gọi là Dimanche. Từ này có nguồn gốc từ chữ La
tinh là Diesdominicus có nghĩa là “ngày của Chúa” hay “Chúa nhật”. Có
thể cách gọi này xuất phát từ đạo Thiên Chúa (đạo Ki-tô), một đạo có
xuất xứ từ khu vực phía Đông của Đế quốc La Mã mà “Thánh Kinh” của nó
được cấu thành trên cơ sở “Kinh Cựu Ước” - bộ kinh của đạo Do Thái.
Người
Do Thái không dùng tên các hành tinh mà dùng tên các con số để gọi các
ngày của tuần lễ. Có lẽ, đạo Ki-tô đã tiếp thu cách gọi các ngày của
tuần lễ rồi dựng nên huyền thoại Chúa sinh ra thế giới muôn loài trong
sáu ngày, ngày thứ bảy thì xong việc, Chúa nghỉ ngơi. Ngày Chúa nghỉ trở
thành ngày thiêng liêng, được chọn là ngày đầu tuần và gọi là “Chúa
nhật”.
Năm
321, Hoàng đế La Mã lúc bấy giờ là Cônxtăngtin (Constancetine) chính
thức công nhận cách gọi tên ngày theo người Babylon trừ ngày Mặt Trời,
được đổi thành ngày của Chúa.
Ngày
nay, ngày Mặt Trời còn mang những tên gọi có nghĩa khác nhau như trong
tiếng Nga là “sự phục sinh”, trong tiếng Ba Lan là “ngày không làm
việc”, trong tiếng Việt là “Chủ nhật”… Có người nói rằng trong tiếng Bồ
Đào Nha, các ngày trong tuần lễ được gọi theo số đếm: Thứ Nhất, Thứ Nhì,
Thứ Ba… Thứ Bảy. Cách gọi ấy theo các nhà truyền đạo Bồ Đào Nha phổ
biến vào nước ta từ đầu thế kỷ XVII, chỉ thay ngày Thứ Nhất thành Chúa
Nhật. Sau, từ Chúa Nhật bị biến âm đi, đọc trại ra thành Chủ Nhật.
Có
lẽ không đơn giản thế! Chủ Nhật, theo nghĩa là ngày chủ của ngày
thường, ngày quan trọng, ngày đứng đầu của một nhóm ngày nào đấy chắc
rằng đã có trước tiếng Chúa Nhật từ rất lâu trong ngôn ngữ của người
Việt. Thậm chí nguồn gốc của nó có thể là đã xuất phát từ khái niệm cổ
xưa hàm nghĩa như ngày làm chuẩn mốc, ngày phân chia thời lượng, ngày
thiêng liêng của Trời - Đất, thần linh ban cho, hay nghĩa chung nói theo
ngày nay là: Ngày Lễ.
Do vậy nói “Sóc Vọng” là chỉ ngày mùng 1 và ngày 15 âm lịch và ngày này
các thiên nam tín nữ đều thắp hương tại nhà hay lên chùa.
Thực
tế tên gọi “Trăng non”, “Trăng đầu” và “Trăng già”, “Trăng cuối” là để
chỉ hình ảnh “khuyết”, tròn” của Mặt Trăng từ Trái đất nhìn thấy được
trong tháng đó chứ tuổi của “Ông Trăng” hay “Bà Nguyệt” hoặc “Chị Hằng”
đều rất cao. Theo các nhà khoa học thuộc Phòng thí nghiệm quốc gia
Lawrence Livermore của Mỹ khi phân tích một viên đá mà tàu Apollo 16
mang từ mặt trăng về trái đất cho thấy tuổi thực của Mặt Trăng là 4 tỷ
360 triệu năm!
Dù thế nào, Mặt Trăng luôn gắn với tuổi thơ, nhất là tuổi thơ nơi, những khi không có “đèn điện sáng át trăng sao”.
Vào tuổi trưởng thành, làm chủ gia đình thì vầng Thái âm này và chu kỳ
quay của nó gắn với ngày Sóc Vọng, gắn với việc thờ cúng hằng tháng của
các Thiện nam tín nữ.
Hễ gặp tiết đẹp đêm trăng, các ngày tam nguyên, sóc vọng thì treo đèn, đặt án, đua tranh kỳ xảo...
Nếu
thực sự có khái niệm Ngày Lễ thì khái niệm này muộn nhất cũng đã xuất
hiện vào thời Hùng Vương, khi mà lịch pháp kiểu Âm - Dương lịch như mô
tả ở hình 11 đã được xác lập. Trong lịch pháp ngày, có thể người xưa đã
phân biệt rạch ròi giữa ngày của Tuần (ngày thường) và ngày của Lễ (sau
này mới có cách nói gộp thành “Tuần lễ” để biểu thị một thời đoạn nào đó
trong năm (tất nhiên) có cả tuần, cả lễ; chẳng hạn: đã trôi qua 2 tuần
lễ, 3 tuần lễ nữa là đến kỳ gặt lúa… Cũng theo lịch này thì một năm có
48 tuần, nghĩa là có 336 ngày thường, và có 30 ngày lễ. Trong 30 ngày lễ
đó, có: 12 ngày lễ vọng (lễ Trăng), 12 ngày lễ sóc (lễ tháng), 4 ngày
lễ quỉ (lễ mùa), 1 ngày lễ nhuận (4 năm có 1 lần) và 1 ngày lễ năm - còn
gọi ngày Chủ Lễ, Ngày Chủ Niên và Ngày Chủ Nhật?).
Chúng
ta biết rằng mọi truyền thuyết đều chứa đựng trong lòng chúng không ít
thì nhiều những sự thực của quá khứ và ngay bản thân chúng cũng chính là
những di tích có thực của quá khứ; nhưng lại đồng thời không phải là
những câu chuyện kể về sự thật của quá khứ. Chủ nghĩa thực chứng cho
rằng để xác minh một chân lý thì phải có bằng chứng. Nhưng muốn chứng
minh sự đúng đắn của một lịch sử thì lấy bằng chứng ở đâu nếu không phải
là từ chính lịch sử ấy? Bằng chứng lịch sử là gồm những dấu tích (thời
xa xưa thường là câm nín huyền bí) còn lưu lại, những quan sát, tổng kết
và đánh giá của các nhà nghiên cứu, các sử gia đi trước theo cách nhìn
chủ quan (vô tình hay cố ý) của mình trên cơ sở một quan niệm nào đó
trong đa dạng, đa chiều quan niệm cũng nặng tính chủ quan nốt. Vậy thì
những bằng chứng lịch sử ấy đã đáng để tin cậy hoàn toàn chưa? Câu trả
lời chỉ có thể là phủ định. Cho nên, để chứng minh cho những sự kiện đã
từng thực sự tồn tại, thực sự xảy ra trong quá khứ, nghĩa là chứng thực
cho một lịch sử thì việc chỉ trưng ra đủ những bằng chứng lịch sử không
thôi là không đủ, mà còn cần phải biết hoài nghi để soi xét lại, nhận
thức lại và đánh giá lại theo quan niệm được đa số thừa nhận của thời
đại mới. Quan niệm đó càng sát với thực tại thì càng có cơ may thấy
được, hiểu được một cách đúng đắn nhất về một lịch sử. Nhưng làm sao
biết được quan niệm đó đã phù hợp với thực tại? Chào thua!!! Chúng ta
chỉ có thể biết chắc chắn điều này: trong một chừng mực nhất định, thực
chứng là vô cùng quan trọng trên con đường nhận thức chân lý, nhưng một
cách phổ biến và tuyệt đối thì thực chứng đơn thuần không đủ khả năng
xác nhận chân lý. Chỉ có thể nhận thức được chân lý đích thực thông qua
suy lý và trên cơ sở thực chứng được xây dựng nên từ suy lý. Bởi vì Tự
Nhiên Tồn Tại là duy nhất mà cũng có tính nước đôi, khách quan mà cũng
là chủ quan, thực tại mà cũng là phi thực, vừa là này vừa là kia, là cả
hai mà cũng không phải cả hai!
Lịch sử Khí công Khởi nguồn và lịch sử phát triển YOGA - Ấn Độ PHẦN I: CÓ MỘT CÁI GÌ ĐÓ “Tại sao có một cái gì đó chứ không phải là không có gì?” Lepnit . CHƯƠNG IX: NHÌN LẠI -"Mục đích duy nhất của khoa học là giảm bớt vất vả cho nhân loại." Bleiste -"Đạo đức cao thượng nhất của nhân loại là gì?Đó chính là lòng yêu nước" Napoleon. -"Nhân loại luôn có một chỗ độc đáo: nó lưu giữ hai bộ phép tắc đạo đức - một bộ lén lút, một bộ công khai; một bộ chân chính, một...
(ĐC sưu tầm trên NET) Bản tin 113 online cập nhật ngày 14/3: Bắt phó giám đốc dùng tài liệu giả tham gia đấu thầu | ANTV TRỰC TIẾP: Thời sự quốc tế 15/3 | Nga lập thế trận siết vòng vây 3000 quân Kiev, Ukraine run rẩy Tin tức thời sự mới nhất hôm nay | Bản tin sáng ngày 14-3-2024 Các quan chức cộng sản cấp cao biến mất | Trung Quốc Không Kiểm Duyệt THIÊN TRANG - Chỉ Hai Đứa Mình Thôi Nhé || Nhạc Vàng Xưa Bất Hủ Thêm 162 người nhập viện sau khi ăn cơm gà ở Nha Trang 8 giờ trước Việt Nam đề nghị Trung Quốc tôn trọng và tuân thủ hiệp định về phân định vịnh Bắc Bộ 9 giờ trước Khoảnh khắc một căn nhà bị sông Cầu 'nuốt chửng' ở Bắc Ninh 5 giờ trước Hà Nội: Cô bán trứng bất ngờ "được" ném nhầm bọc tiền hơn 1 tỷ vào xe 17 giờ trước Vũ khí đặc biệt trong gói viện trợ của Mỹ dành cho Ukraine 12 giờ trước Video quân đội Nga bắn nổ 2 trực thăng của Ukraine ở Donetsk 18 giờ trước Ông Trump vượt Tổng thống Biden về tỉ lệ ủng hộ trong thăm dò dư luận 11 giờ trước Làm...
Nỗi Buồn Hoa Phượng - Ý Linh (Thần Tượng Bolero 2017) [MV Official] NGẬM SẦU Sầu ta chẳng biết sầu gì Cứ như cơn sốt li bì mê man Lê la đã khắp trần gian Mà nào gặp thuốc uống tan nỗi sầu... Sầu ta chẳng biết tại sao Càng cười ha hả càng đau thấu tình Đã từng trải hết phiêu linh Tưởng là bệnh khỏi, hóa trên đỉnh sầu. Ai ơi cứu được ta nào Ta xin hậu tạ một chầu sầu riêng... Trần Hanh Thu Hạ Thương - Hồ Phương Liên (Á Quân Thần Tượng Bolero 2017) [MV Official] 【Top】Những Hình Ảnh Buồn Về Tình Yêu Hay Và Ý Nghĩa Nhất By Hoàng Trung Văn Nghĩa - 26 Tháng Mười, 2019 0 1595 Share ...
Nhận xét
Đăng nhận xét