TT&HĐ IV - 33/b
PHẦN IV: BÁU VẬT
"Dọc
đường lịch sỏ đi hoặc đánh rơi, đã chìm
trong quên lãng. Kẻ nào muốn có ngọc, chử nhân loại, có rất nhiều báu vật bị người đời, vô tình hay hữu ý, lỡ bỉ cần dò tìm lại chúng, nhặt
lên, đánh bóng..."
NTT
“Sách là nguồn của cải quý báu của thế giới và là di sản xứng đáng của các thế hệ và các quốc gia.”
Tôi bước chân vào thư viện và khép cửa lại. Như thế là tôi đã tách khỏi
tính tham lam, lòng tự ái, tệ say rượu và sự lười biếng củng tất cả
những thói hư tật xấu do cái dốt nát, sự vô công rỗi nghề và cảnh sầu tư
sinh ra. Tôi đắm mình vào cái vĩnh hằng giữa những tác giả tuyệt diệu
với một niềm tự hào, với một cảm giác thỏa mãn đến mức cảm thấy thương
hại tất cả các ông quan lớn sang trọng và giàu có nhưng không được hưởng
niềm hạnh phúc này.
D. Henziut
D. Henziut
Những
người đọc sách tuy chưa thành danh nhưng cũng đã có một tư cách cao
thượng, những người làm điều thiện, tuy không mong báo đáp nhưng tự
trong lòng khoan khoái.
Ngạn ngữ Trung Quốc
Ngạn ngữ Trung Quốc
Đọc sách hay cũng giống như trò truyện với các bộ óc tuyệt vời nhất của những thế kỷ đã trôi qua.
Rene Descartes
Những gì sách dạy chúng ta cũng giống như lửa. Chúng ta lấy nó từ nhà hàng xóm, thắp nó trong nhà ta, đem nó truyền cho người khác, và nó trở thành tài sản của tất cả mọi người. Voltaire
Một thư viện của sự hiểu biết quý giá hơn tất cả sự giàu sang, và tất cả
mọi thứ đáng khao khát đều không thể so sánh với nó. Vì vậy bất cứ ai
nhận mình là có nhiệt tâm với sự thật, với hạnh phúc, với sự hiểu biết
hay tri thức đều phải trở thành người yêu sách.
Plato
“Khi họ đốt sách thì chính là họ cũng đang đốt cả loài người.”
“Dẫu có bạc vàng trăm vạn lạng.
Chẳng bằng kinh sử một vài pho.”
“Lạc vào cõi mộng Tự Nhiên
Thẫn thờ một bóng giữa miền Siêu Linh
Nhặt lên dáng ngọc bí huyền
Mắt ai thăm thẳm đắm nhìn mắt ai.”
Thẫn thờ một bóng giữa miền Siêu Linh
Nhặt lên dáng ngọc bí huyền
Mắt ai thăm thẳm đắm nhìn mắt ai.”
Thầy Cãi
CHƯƠNG I (XXXIII): TRỐNG ĐỒNG
“Khi
đã biết sự thực của vật thể, ta sẽ thấy rằng thật vô lý khi tôn thờ các
sản phẩm cô lập của dòng chảy không ngừng nghỉ của sự biến hóa, làm như
chúng là vĩnh cửu và đích thực. Đời sống không phải là vật thể hay dạng
của vật thể mà là một sự vận động liên tục hay chuyển hóa”
S. Radhakrishnan
“Nếu có ai hỏi di vật thuộc nền văn minh cổ xưa nào của những người anh
em ruột thịt thiểu số phương Nam của Trung Hoa là quan trọng nhất, chúng
ta có thể trả lời không do dự rằng đó chính là Trống Đồng”
Wen You
Cũng không ai phủ nhận được rằng – dù ai đó có ý định “gây nhiễu” bằng những sự thác loạn chữ nghĩa và trí tuệ – ghi chép về thư tịch xưa nhất về Trống đồng – đoạn ghi chép của Hậu Hán thư Mã Viện truyện – đã bộc lộ rõ ràng một sự thực: Trống đồng Lạc Việt ở đất Giao Chỉ.
Nguyễn duy Hinh
(Tiếp theo)
(Còn tiếp)
-------------------------------------------------------------
***
Cần
có một lãnh tụ, đó là đòi hỏi tự nhiên của một cộng đồng xã hội. Lãnh
tụ là người đứng ra (được bầu lên) để làm điểm gắn kết, thống nhất, tạo
tiếng nói chung cho cộng đồng xã hội trong quá trình đấu tranh sinh
tồn (lao động sản xuất, khắc chế thiên tai, tự vệ chống xâm lược…) nhằm
đảm bảo cho cộng đồng xã hội sống còn. Khi cộng đồng xã hội phát triển
về số lượng theo qui luật tăng trưởng lạm phát, đa dạng về chủng loại, sắc tộc, định cư lâu dài trên một
cương vực lãnh thổ sở hữu tương đối rộng thì để đảm bảo điều hành được
đất nước, lãnh tụ cũng phải tăng cường nhân lực thừa hành làm xuất hiện
một bộ máy lãnh đạo. Đó chính là hình thức đầu tiên (manh nha, sơ
khai…) của hình thái nhà nước. Từ đấy ta thấy, chức năng đầu tiên, tất yếu, tự
nhiên, cơ bản và hoàn toàn chính đáng của nhà nước là phụng sự cho đời
sống của cộng đồng xã hội được đoàn kết, làm ăn suông sẻ, duy trì trị an, đảm bảo mọi người
trong cộng đồng có quyền được sống bình đẳng và tự do, mưu cầu hạnh
phúc một cách chính đáng (thực ra nhiệm vụ cao nhất, có tính lý tưởng
của nhà nước là đảm bảo cho mọi người trong xã hội khi sinh ra đều có
cuộc đời được hưởng thụ hạnh phúc như nhau!). Chính vì thế mà chức năng
đó cũng bao hàm cả việc huy động, tổ chức toàn dân đấu tranh chống
thiên tai, chống ngoại xâm, vì sự sống còn và mạnh giàu của bản thân
cộng đồng xã hội (chứ không phải của nhà nước!). Với chức năng đó thì hình thức nhà nước hình thành chỉ như một công cụ của cộng đồng xã hội nhằm an sinh xã hội, đảm bảo sự đoàn kết xã hội trước thiên tai, địch họa, giúp cộng đồng xã hội duy trì sống còn. Vì là công cụ nên nó không là gì cả (cái cuốc mà không có tay người tiếp sức thì chỉ là đồ vô dụng!). Nhưng sau, trong quá trình hoàn thiện, để có thể thực hiện các chức năng của mình một cách suôn sẻ, nó đã được cộng đồng xã hội tin tưởng ủy quyền, trao cho quyền lực. Từ đó nhà nước mới thâu tóm được quyền lực tối cao trong xã hội, biến chất và dần đổ đốn. Ngày nay nó vẫn tưởng nó là cha thiên hạ với quyền hành vô song, tự cho mình là sáng suốt bậc nhất để lãnh đạo và điều hành xã hội. Tuy nhiên ở một số nước còn theo Mác - Lênin thì về hình thức, nó đã mất bớt quyền lực theo khẩu hiệu: "đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ"! Một câu hỏi được đặt ra: "đảng lãnh đạo" có phải là một nảy sinh tất yếu trong tiến trình phát triển của xã hội loài người?
Tư thế thẳng, vươn cao, mắt nhìn
phía trước, nét mặt vui tươi, thản nhiên. Đặc biệt tay trái nâng nắm đất
tổ quốc, trên có những hạt giống quý làm nên những mùa màng bội thu.
Thể hiện nhớ về nguồn cội và kế tục sự nghiệp muôn đời. Bức tượng vừa
thể hiện được sự quyền uy, nhưng cũng thể hiện được sự thân thiện, gần
gũi.
Như
vậy, chúng ta quan niệm rằng (cũng như trước đây đã từng trình bày):
Không phải xã hội bị phân chia giai cấp giàu - nghèo là nguyên nhân làm
xuất hiện nhà nước mà ngược lại, chính sự xuất hiện quyền lực nhà nước đi đôi với
thèm khát bản năng cùng với lý trí mù quáng (sự thèm khát danh lợi) làm
phân tầng xã hội cơ bản thành hai tầng lớp thống trị và bị trị, mà trong đó tầng lớp bị trị bị nghèo đi một cách bất công, còn tầng lớp thống trị
thì giàu lên một cách bất chính, dẫn đến đấu tranh chống bóc lột, bất công ( mà theo cộng sản là đấu tranh giai cấp) trở thành cuộc đấu tranh cơ bản trong suốt chiều dài của lịch sử loài người. (Nói thêm, một nhà nước sáng suốt, nhận thức đúng, biết thế nào là của dân, do
dân và vì dân (từ đó mà cũng vì mình) thì sẽ không làm xuất hiện sự phân
tầng giai cấp (đối kháng) trong xã hội; còn một nhà nước hoạt động
không phải hoàn toàn vì dân hoặc tưởng là vì dân nhưng thực ra chủ yếu là vì mình thì dù có mang nhãn mác đẹp đẽ đến cỡ nào, dù có “ba hoa chích chòe” đến
mấy, nếu xã hội chưa đến mức bộc lộ sự phân tầng giai cấp (đối kháng) để đi đến sụp đổ do cách mạng
thì chí ít cũng nung nấu sự xung đột ngấm ngầm ở mức độ nào đó có thể dẫn đến tai họa giữa đại
chúng với nhà nước).
Trên
quan điểm đó mà xét thì không những thời Hùng Vương, ngay từ buổi đầu
tiên đã có nhà nước mà nhà nước đã có thể xuất hiện cả suốt thời Lạc Long Quân - Âu Cơ, hơn nữa, dù có thể vào giai đoạn đầu “chân ướt chân
ráo” của thời Kinh Dương Vương chưa hình thành sự lãnh đạo xã hội mang
hình thái nhà nước thì kế sau giai đoạn đó đã có sự lãnh đạo kiểu nhà
nước (cá nhân chỉ huy, tập thể lãnh đạo, có bộ máy thừa hành, có quyền
lực nhằm đảm bảo cho luật lệ xã hội (hay nói như Rútxô là Khế ước xã
hội) được thực thi).
Mở
đầu cho quá trình hình thành dân tộc Việt, mở cõi để sau này xuất hiện
nước Văn Lang, theo truyền thuyết là bắt đầu từ thời Kinh Dương Vương mà
thời điểm khởi thủy là năm Nhâm Tuất - 2879 TCN (phải chăng vì thế mà
nước ta sau này có một thời thờ chó?). Nhưng bằng cách nào mà người ta
lại xác định được niên đại rành rọt như thế của thời tiền sử xa mù,
xuyên suốt một khoảng thời gian chưa có chữ viết, chưa có chữ số, chưa
có lịch pháp, sự lưu nhớ chỉ dựa vào truyền khẩu? Chúng ta đều biết
niên đại này là do nhà sử học thời trung đại của Việt Nam là Ngô Sĩ Liên
nêu ra. Vậy ông dựa vào đâu? Chính Ngô Sĩ Liên, tác giả sách “Đại Việt
sử ký toàn thư” viết: “Kinh Dương Vương là vua bắt đầu được phong của
nước Đại Việt ta, cùng với Đế Nghi một thời, cho nên chép năm đầu ngang
năm đầu của Đế Nghi (làm vua phương Bắc - NV)”. Rõ ràng, Ngô Sĩ Liên đã
dựa theo sử chép của Trung Hoa. Nhưng cổ sử Trung Hoa, dù đã có sớm hơn
thời Lê sơ của Ngô Sĩ Liên bao nhiêu chăng nữa thì cũng chỉ ghi lại từ
truyền thuyết. Vậy cái niên đại 2879 TCN chỉ là một sự ước đoán hoàn
toàn tùy tiện, dựa vào hồi ức. Bản thân Đế Nghi nếu có sống lại, chắc gì đã biết mình
làm vua vào năm nào? Tuy nhiên, về mặt sự kiện thì có thể tin được.
Vua Hùng và Chử Đồng Tử (Lịch sử Việt Nam bằng tranh - Nxb Trẻ - 1998 Lạc LLạc Long Quân và Âu Cơ sinh ra con rồng cháu tiênong Quân và Âu Cơ sinh ra con rồng cháu tiên.
Mẹ Âu Cơ được tạo hình đặc sắc trong trang phục của đồng bào miền núi.
Cận cảnh Sơn Tinh và Thủy Tinh trong cuộc đại chiến giành Mị Nương.
Vua Hùng và Chử Đồng Tử (Lịch sử Việt Nam bằng tranh - Nxb Trẻ - 1998 Lạc LLạc Long Quân và Âu Cơ sinh ra con rồng cháu tiênong Quân và Âu Cơ sinh ra con rồng cháu tiên.
Hình ảnh Lạc Long Quân được thần thánh hóa như một vị vua của biển cả với thân mình nửa người nửa rồng.
Hình ảnh Lạc Long Quân dũng mãnh trong tích chém yêu quái thuồng luồng...
Vua Hùng - biểu tượng của nền văn minh lúa nước và đồ đồng thời đại Văn Lang.
Hiện tượng lan tỏa dân cư là hiện tượng phổ biến ở các thời đại, có nguyên nhân từ sự phát triển lạm phát số lượng dân cư và nỗ lực tìm ăn để sống còn. Vào
khoảng nửa cuối thời đại Đồ đá mới, tại vùng Nam - Trung Hoa xuất hiện
một cuộc lan tỏa dân cư của cư dân Bách Việt. Một bộ phận do Đế Nghi cầm
đầu tiến lên phía bắc, hòa hợp với người bản địa ở đó làm hình thành
nên dân tộc Hoa Hạ. Một bộ phận do Kinh Dương Vương cầm đầu tiến xuống phía
nam, hòa hợp với người bản địa ở đây làm hình thành nên dân tộc Việt. Có lẽ còn bộ phận nữa tiến về miền thuộc Thái Lan ngày nay, hình thành nên dân tộc Thái Lan và nước Thái Lan. Ngày nay, nếu có một số người ăn mặc sắc phục kiểu Việt Nam đang tụ họp, thì quan sát từ xa, khó lòng nếu không muốn nói là không thể xác định được đó là những người Thái hay người Việt. Nếu đúng thế thì người Việt và người Thái có chung gốc gác trong thời tiền sử xa xôi.
Cuộc
lan tỏa dân cư xuống phía nam do Kinh Dương Vương khởi xướng chắc rằng
có qui mô không nhỏ, kéo dài trong thời gian, và dĩ nhiên nó mang theo
cả (một phần) nền văn hóa Bách Việt lúc đó (phải chăng là văn hóa Ngưỡng
Triều, 4.500 - 2.500 năm TCN?) đến vùng đất mới. Các nhà nghiên cứu
ngày nay đều thừa nhận văn hóa Phùng Nguyên có niên đại khởi phát từ
khoảng trên dưới 4.000 năm cách nay. Vậy việc xác định thời điểm Kinh
Dương Vương đến vùng cao - trung du Bắc Bộ vào khoảng cuối thiên niên kỷ
IV - đầu thiên niên kỷ III TCN là chấp nhận được. Bởi vì văn hóa Phùng
Nguyên được xác định là không bắt nguồn trực tiếp từ văn hóa Bắc Sơn
(một nền văn hóa tại chỗ, có tính phổ biến, có cội rễ là văn hóa Hòa
Bình và sâu hơn nữa là văn hóa Sơn Vi), nó cũng không thể từ trên trời
rơi xuống. Cần phải có khoảng thời gian đủ dài lâu (ở đây là trên dưới
1.000 năm) để văn hóa Ngưỡng Triều từ phương bắc tới, thấm dần màu sắc
văn hóa bản thổ, giao hòa với văn hóa Bắc Sơn mà làm hình thành nền văn
hóa Phùng Nguyên - một nền văn hóa thuộc cuối kỳ Đá Mới, đương kỳ Đồ Gốm
và sơ kỳ Đồng Thau!
Kế
thừa thời đại Kinh Dương Vương là thời đại Lạc Long Quân - Âu Cơ. Thời
đại này được đánh dấu bằng cuộc lan cư mạnh mẽ từ khắp các miền Trung du
Bắc Bộ xuống vùng trũng là đồng bằng theo sau sự rút lui của biển Đông.
Lẽ đương nhiên là nền văn hóa Phùng Nguyên cũng lan tỏa xuống đó, rồi
tiếp thu thêm những nét văn hóa cá biệt, địa phương ở những khu vực
quanh đó và cả từ vùng ven biển Hà Tĩnh. Quá trình này làm xuất hiện một
nền văn hóa mới tương đối xác định, là nền văn hóa Gò Mun.
Cảnh An Dương Vương dẫn Mị Châu chạy ra biển trong tranh của họa sĩ nổi tiếng Nguyễn Trọng Khôi.
Cảnh An Dương Vương dẫn Mị Châu chạy ra biển trong tranh của họa sĩ nổi tiếng Nguyễn Trọng Khôi.
Một Trọng Thủy đầy "mưu sâu kế hiểm" được thể hiện sinh động trong nét vẽ hiện đại
Trong
xã hội thời đại Kinh Dương Vương chưa xuất hiện hình thức gia đình (vợ
chồng), vẫn còn lối sống quần hôn và chế độ xã hội vẫn theo phương thức
công xã (chúng ta tạm thời hiểu khái niệm "công xã" ở đây là mọi người cùng làm
cùng được hưởng miếng ăn từ sự phân chia công bằng, có chú ý tới người
nuôi con, người già cả, bệnh tật… Người đứng ra phân chia là "nhà nước".
Nhà nước lúc này chỉ đơn giản là một vị trưởng lão hay thủ lĩnh được bầu
lên từ hội đồng các bô lão. Tùy vào công sức bỏ ra mà sự chia chác
thành phẩm lao động cũng cho có người nhận nhiều, người nhận ít. Tuy
nhiên sự chênh lệch “giàu - nghèo” không đáng bao nhiêu và nhìn chung
thì thành quả lao động xã hội chưa dư dật gì, chỉ “vừa đủ xài” nghĩa là
vừa đủ bù đắp cho sức lao động xã hội…). Hiểu theo ý riêng, chúng ta cho
rằng chế độ Công xã (nguyên thủy) là chế độ có tính tập trung, bao cấp
đầu tiên, còn sơ khai, chất phác của nhân loại (nhưng rất hồn nhiên, rất đẹp).
Hình
thức chia chác thành phẩm lao động rất gần với bình quân đầu người và
cũng mang tính nhân đạo ấy (nhất là việc người phụ nữ khi sinh nở, nuôi
con cũng được phần từ sự phân chia, thậm chí là vì phải nuôi con mà còn
được ưu tiên hơn, được luật lệ công xã bảo hộ), đã làm bật ra trong não
chúng ta một ý nghĩ ngộ nghĩnh và chưa hẳn đã đúng, là khi thành quả lao
động trở nên dồi dào hơn do điều kiện thiên nhiên thuận lợi, do cải
tiến được công cụ lao động, do có được cách canh tác tốt hơn… thì người
đàn ông thấy rằng sống gắn bó với một người phụ nữ nào đấy có lẽ lợi
hơn: khi có con thì người phụ nữ được cộng đồng chia phần, người phụ nữ
còn làm ra thêm được của cải, con cái lớn lên nhanh chóng theo mẹ phụ đỡ
nhiều công việc, lúc “thất bát” người đàn ông có thể “dựa hơi” vào,
người phụ nữ khi quanh quẩn “ở nhà” thì đồng thời cũng vun vén, quán
xuyến của cải tích lũy được từ những lần làm ăn dư dôi… Từ đó mà cách sống theo gia
đình và khái niệm tư hữu của cải xuất hiện.
Người phụ nữ thời đó là một mối lợi, là cơ sở duy trì sự
tồn vong cũng như sự phát triển nhân lực của cộng đồng xã hội, được
công xã ưu ái bảo vệ, ngoài ra, trong khi họ được chọn lựa người đàn ông
theo hàng ngang thì đàn ông chỉ được chọn lựa người phụ nữ theo hàng
dọc, do đó mà cũng trở nên có quyền lực hơn trong gia đình. Người đàn ông muốn “lấy” thì
phải cầu cạnh, xin xỏ và “dụ khị” (ngày nay hầu hết đàn ông muốn lấy
nàng nào làm vợ đều răm rắp tuân theo cách thức ngàn xưa đã trở thành
tập quán ấy!). Người phụ nữ dần được coi trọng, tôn vinh. Điều đó đã giải thích vì sao mà gia đình, trong giai đoạn
xuất hiện đầu tiên thời nguyên thủy lại mang tính chất mẫu quyền, mẫu
hệ (người phụ nữ có quyền uy nhất trong gia đình, con sinh ra chỉ vâng
theo mẹ, được mẹ đặt tên; linh hồn gia đình là phụ nữ và gia đình đó bao
giờ cũng chỉ có một bà nhưng thường là vài ông). Dù “thằng” hay "vài
thằng đàn ông" “vai u thịt bắp” thường "khỏe ghê” trong gia đình của “bà
xã” chung, nhưng không dám ngo ngoe!!!
Thời
đại Lạc Long Quân - Âu Cơ là thời đại lối sống gia đình đã trở nên phổ
biến. Công cuộc đi khai phá, chinh phục thiên nhiên ở đồng bằng Bắc Bộ
là đầy gian nan vất vả vào giai đoạn đầu nhưng nhờ thế mà thiên nhiên
quay sang ưu đãi, nên cuộc sống nhanh chóng trở nên rất sung túc vào
giai đoạn sau và sự sung túc này được duy trì dài lâu khi đất còn rộng,
người còn thưa.
Lãnh thổ hai nước Văn Lang (trên thực tế) và Nam Cương (theo truyền thuyết), sau này hợp nhất thành nước Âu Lạc
Cổng vào Đền thờ An Dương Vương tại xã Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà Nội
Lãnh thổ hai nước Văn Lang (trên thực tế) và Nam Cương (theo truyền thuyết), sau này hợp nhất thành nước Âu Lạc
Cổng vào Đền thờ An Dương Vương tại xã Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà Nội
Mức
sống của mỗi con người, mỗi gia đình trong Công xã ngày một được nâng
cao, có nhiều dư thừa để tích lũy, kéo theo những biểu hiện mới của xã
hội như: làm tăng tiêu dùng phi lương thực thực phẩm (mặc, làm đẹp, đồ
dùng gia đình, lễ hội…), chuyên môn hóa định hình, mở rộng những ngành
nghề phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng đó (sản phẩm làm ra được đem đi trao
đổi lấy lương thực thực phẩm), nghĩa là làm xuất hiện những ngành nghề tiểu thủ công sản xuất ra những sản phẩm tiên dùng phi lương thực, mầm mống của
nền sản xuất hàng hóa, nhân khẩu cộng đồng tăng lên (do sinh đẻ tăng
lên, tuổi thọ tăng lên theo sự tăng của chất lượng cuộc sống, thu hút
nhân khẩu từ các cụm dân cư khác đến), lực lượng vũ trang thường trực
xuất hiện và ngày càng được tăng cường nhằm đề phòng, chống lại sự lấn
chiếm lãnh thổ của các bộ lạc lân cận… Tuy nhiên những biểu hiện này chỉ
bắt đầu chớm nở vào thời gian nửa sau của thời đại Âu Cơ - Lạc Long
Quân (ở đây, chúng ta đưa Âu Cơ lên trước Lạc Long Quân để biểu diễn đó
là thời đại mẫu hệ!) và trở nên rõ rệt trong khoảng thời gian cuối thời
đại này. Tuy nhiên, vào nửa đầu thời đại Âu - Lạc. (Viết tắt chứ không
phải nước Âu Lạc thời An Dương Vương và viết như thế gợi ra một suy
nghĩ rằng sự hòa quyện Âu - Lạc đã xảy ra trước cả thời Hùng Vương.
Thục Phán có thể đơn giản chỉ là một Lạc tướng người Âu Việt nổi dậy
khởi nghĩa, lật đổ vua Hùng đời thứ 18, chấm dứt thời đại Hùng Vương vào
năm 257 TCN, lập lại trật tự xã hội, khôi phục sức mạnh đất nước để rồi
đến năm 208 TCN, đánh tan quân xâm lược nhà Tần trên địa bàn đất Văn
Lang. Việc Thục Phán lấy vương hiệu là An Dương Vương và đặt quốc hiệu
là Âu Lạc, phải chăng là sự hoài niệm về cội nguồn Kinh Dương Vương và
một thời tươi đẹp đến lý tưởng Âu Cơ - Lạc Long Quân mà đương thời đó
còn in đậm trong lòng Đại Chúng?), khi mà thành quả của sự mở rộng lãnh
thổ bằng công cuộc khai phá đồng bằng sông Hồng đã tạo ra nguồn thức ăn
dồi dào đến mức dư dật, đồng thời cái tinh thần lao động tập thể hăng
say, vui thú một cách tự phát từ thời Kinh Dương Vương vẫn tiếp tục được
duy trì, thì chế độ công xã “tập trung bao cấp” tự phát đã chuyển hóa,
nâng lên đến mức cao, thành chế độ cộng sản nguyên thủy, đạt đến gần hơn
bao giờ hết cái lý tưởng “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”.
Dân tộc này cũng dùng mũ lông chim, xăm mình, ở nhà sàn, thờ rồng và chim thần… như các cư dân Việt cổ thời Hùng Vương.
Đảo Borneo, hòn đảo lớn nhất Đông Nam Á thuộc lãnh thổ các quốc gia Brunei, Malaysia và Indonesia là nơi sinh sống của dân tộc Dayak – một cộng đồng người có nền văn hóa cổ xưa và độc đáo.Theo nghiên cứu lịch sử, Dayak là nhóm cư dân bản địa Borneo lâu đời. Tổ tiên của họ đã di cư từ lục địa châu Á ra đảo từ hơn 3.000 năm trước. Xã hội Dayak bắt đầu khởi sắc khi nghề luyện kim được truyền đến hòn đảo này cách nay khoảng 2.450 năm, tương ứng với cuối thời kỳ Hùng Vương ở Việt Nam. Cộng đồng Dayak gồm hàng trăm sắc tộc khác nhau cư trú rải rác khắp đảo Borneo. Họ nói hàng trăm phương ngữ khác nhau nhưng tất cả đều thuộc ngữ hệ Nam Đảo (Austronesien). Ở Việt Nam có nhiều dân tộc sử dụng ngữ hệ này, như dân tộc Chăm, Êđê, Gia Rai, Ra Glai và Churu.
Phần lớn người Dayak sống bằng nghề làm ruộng lúa nước ven sông, làm rẫy, trồng cọ trên những ngọn đồi thấp… Họ cũng làm các nghề thủ công, nghề gốm, nghề dệt thổ cẩm, nghề đúc, săn bắt, chài lưới.
Tôn giáo của người Dayak là đạo Kaharingan, một dạng Hindu giáo đã bản địa hóa theo thuyết đa thần ở Borneo. Họ đặc biệt tôn thờ hình tượng rồng và chim thần, hai linh vật trong truyền thuyết về sự ra đời của dân tộc Dayak. Đặc điểm này khá giống với các cư dân Việt cổ thời Hùng Vương, những người coi mình là “con Rồng, cháu Tiên” và tôn vinh hình tượng chim lạc như biểu tượng của đất nước.
Người Dayak cũng có nhiều phong tục dân gian giống người Việt cổ như tục dựng cây nêu, cưới hỏi, cải táng, tín ngưỡng phồn thực…
Một phong tục tương đồng của người Việt cổ và người Dayak, ít thấy có ở các dân tộc khác trong khu vực, đó là tục xăm mình.
Với người Dayak, hình xăm thể hiện mối liên hệ với các linh hồn, thần linh hoặc tổ tiên và nhằm xua đuổi bệnh tật, tai họa, đồng thời cũng là nghi lễ đánh dấu sự trưởng thành, nhận biết đẳng cấp, địa vị trong bộ tộc hoặc phân biệt bạn với thù…
Cách ăn mặc của người Dayak cũng có đặc điểm rất giống với các cư dân Hùng Vương, đó là việc họ sử dụng loại mũ được trang trí bằng những chiếc lông chim dài, giống như những hình người trên hoa văn trống đồng Đông Sơn.
Trang phục của phụ nữ Dayak thay đổi tùy theo vùng, nhưng đều là những bộ váy làm từ thổ cẩm được trang hoàng bằng những hoa văn rực rỡ. Họ đeo cả những chiếc mũ trang trí cầu kỳ vào những dịp đặc biệt.
Phụ nữ Dayak thường căng dái tai mình bằng những chiếc vòng kim loại nặng. Đây là cách làm đẹp tương tự các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên của Việt Nam như Ê đê, Bana, M’nông, Mạ, Stiêng…
Theo truyền thống, nhiều thế hệ người Dayak cùng sinh sống trong những căn nhà sàn có chiều dài hơn 50m, có sức chứa từ 30 – 40 gia đình và được chạm khắc hoa văn tỉ mỉ.
Những ngôi nhà dài cũng là nơi người Dayak tụ họp, bày lễ vật dâng cúng, đánh trống khua chiêng, nhảy múa trong các lễ hội truyền thống.
Màu sắc ở các hình vẽ, hoa văn chạm khắc trong ngôi nhà này có ý nghĩa riêng của nó. Đáng tiếc rằng các ngôi nhà này đang biến mất dần theo nhịp sống hiện đại.
Người Dayak có một tập tục được cả thế giới biết đến, đó là tục săn đầu người giữa các bộ tộc. Đây là cách để bảo vệ lãnh địa sinh sống và khẳng định sức mạnh của các chiến binh và bộ tộc. Vũ khí chính trong các cuộc săn đầu người là giáo và khiên. Những chiếc sọ người sẽ được cất giữ trong nhà và sử dụng trong nhiều nghi lễ khác nhau.
Ít ai biết rằng dân tộc Cơ tu ở khu vực miền Trung Việt Nam cũng từng có một tục săn đầu người tương tự. Điều này được ghi nhận bởi các học giả Pháp, theo đó, săn máu và lấy đầu người của làng khác là một nhiệm vụ trọng đại để tế thần linh nhằm cầu xin mùa màng tươi tốt, không bị dịch bệnh và tai ương.
Tục lấy đầu người của người Dayak kéo dài cho đến những năm 1970, đến bây giờ đã chấm dứt hoàn toàn.
Về mặt nghệ thuật, người Dayak nổi tiếng với vũ điệu ngajat, lấy cảm hứng từ cuộc chiến của các chiến binh. Họ cũng sáng tạo ra nhiều loại nhạc cụ truyền thống khác nhau.
Nhìn chung, dân tộc Dayak được các nhà nghiên cứu nhìn nhận là một trong những tộc người có nền văn hóa độc đáo nhất trên thế giới.
Ngày nay, sự phát triển của du lịch và các tiện nghi của cuộc sống hiện đại đang khiến nền văn hóa này đứng trước nhiều thách thức lớn.
Ảnh – Tộc người rất giống người Việt cổ trên đảo Borneo
Đảo Borneo, hòn đảo lớn nhất Đông Nam Á thuộc lãnh thổ các quốc gia Brunei, Malaysia và Indonesia là nơi sinh sống của dân tộc Dayak – một cộng đồng người có nền văn hóa cổ xưa và độc đáo.Theo nghiên cứu lịch sử, Dayak là nhóm cư dân bản địa Borneo lâu đời. Tổ tiên của họ đã di cư từ lục địa châu Á ra đảo từ hơn 3.000 năm trước. Xã hội Dayak bắt đầu khởi sắc khi nghề luyện kim được truyền đến hòn đảo này cách nay khoảng 2.450 năm, tương ứng với cuối thời kỳ Hùng Vương ở Việt Nam. Cộng đồng Dayak gồm hàng trăm sắc tộc khác nhau cư trú rải rác khắp đảo Borneo. Họ nói hàng trăm phương ngữ khác nhau nhưng tất cả đều thuộc ngữ hệ Nam Đảo (Austronesien). Ở Việt Nam có nhiều dân tộc sử dụng ngữ hệ này, như dân tộc Chăm, Êđê, Gia Rai, Ra Glai và Churu.
Phần lớn người Dayak sống bằng nghề làm ruộng lúa nước ven sông, làm rẫy, trồng cọ trên những ngọn đồi thấp… Họ cũng làm các nghề thủ công, nghề gốm, nghề dệt thổ cẩm, nghề đúc, săn bắt, chài lưới.
Tôn giáo của người Dayak là đạo Kaharingan, một dạng Hindu giáo đã bản địa hóa theo thuyết đa thần ở Borneo. Họ đặc biệt tôn thờ hình tượng rồng và chim thần, hai linh vật trong truyền thuyết về sự ra đời của dân tộc Dayak. Đặc điểm này khá giống với các cư dân Việt cổ thời Hùng Vương, những người coi mình là “con Rồng, cháu Tiên” và tôn vinh hình tượng chim lạc như biểu tượng của đất nước.
Người Dayak cũng có nhiều phong tục dân gian giống người Việt cổ như tục dựng cây nêu, cưới hỏi, cải táng, tín ngưỡng phồn thực…
Một phong tục tương đồng của người Việt cổ và người Dayak, ít thấy có ở các dân tộc khác trong khu vực, đó là tục xăm mình.
Với người Dayak, hình xăm thể hiện mối liên hệ với các linh hồn, thần linh hoặc tổ tiên và nhằm xua đuổi bệnh tật, tai họa, đồng thời cũng là nghi lễ đánh dấu sự trưởng thành, nhận biết đẳng cấp, địa vị trong bộ tộc hoặc phân biệt bạn với thù…
Cách ăn mặc của người Dayak cũng có đặc điểm rất giống với các cư dân Hùng Vương, đó là việc họ sử dụng loại mũ được trang trí bằng những chiếc lông chim dài, giống như những hình người trên hoa văn trống đồng Đông Sơn.
Trang phục của phụ nữ Dayak thay đổi tùy theo vùng, nhưng đều là những bộ váy làm từ thổ cẩm được trang hoàng bằng những hoa văn rực rỡ. Họ đeo cả những chiếc mũ trang trí cầu kỳ vào những dịp đặc biệt.
Phụ nữ Dayak thường căng dái tai mình bằng những chiếc vòng kim loại nặng. Đây là cách làm đẹp tương tự các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên của Việt Nam như Ê đê, Bana, M’nông, Mạ, Stiêng…
Theo truyền thống, nhiều thế hệ người Dayak cùng sinh sống trong những căn nhà sàn có chiều dài hơn 50m, có sức chứa từ 30 – 40 gia đình và được chạm khắc hoa văn tỉ mỉ.
Những ngôi nhà dài cũng là nơi người Dayak tụ họp, bày lễ vật dâng cúng, đánh trống khua chiêng, nhảy múa trong các lễ hội truyền thống.
Màu sắc ở các hình vẽ, hoa văn chạm khắc trong ngôi nhà này có ý nghĩa riêng của nó. Đáng tiếc rằng các ngôi nhà này đang biến mất dần theo nhịp sống hiện đại.
Người Dayak có một tập tục được cả thế giới biết đến, đó là tục săn đầu người giữa các bộ tộc. Đây là cách để bảo vệ lãnh địa sinh sống và khẳng định sức mạnh của các chiến binh và bộ tộc. Vũ khí chính trong các cuộc săn đầu người là giáo và khiên. Những chiếc sọ người sẽ được cất giữ trong nhà và sử dụng trong nhiều nghi lễ khác nhau.
Ít ai biết rằng dân tộc Cơ tu ở khu vực miền Trung Việt Nam cũng từng có một tục săn đầu người tương tự. Điều này được ghi nhận bởi các học giả Pháp, theo đó, săn máu và lấy đầu người của làng khác là một nhiệm vụ trọng đại để tế thần linh nhằm cầu xin mùa màng tươi tốt, không bị dịch bệnh và tai ương.
Tục lấy đầu người của người Dayak kéo dài cho đến những năm 1970, đến bây giờ đã chấm dứt hoàn toàn.
Về mặt nghệ thuật, người Dayak nổi tiếng với vũ điệu ngajat, lấy cảm hứng từ cuộc chiến của các chiến binh. Họ cũng sáng tạo ra nhiều loại nhạc cụ truyền thống khác nhau.
Nhìn chung, dân tộc Dayak được các nhà nghiên cứu nhìn nhận là một trong những tộc người có nền văn hóa độc đáo nhất trên thế giới.
Ngày nay, sự phát triển của du lịch và các tiện nghi của cuộc sống hiện đại đang khiến nền văn hóa này đứng trước nhiều thách thức lớn.
Ngày
nay, nhiều người trong chúng ta nhìn về cái xã hội Cộng sản nguyên thủy
tự phát ấy, cho rằng nếu so với mức sống hiện nay thì mức sống người
dân thời đó thua kém xa đến hàng chục, hàng trăm lần, thậm chí là hơn
nữa, do đó mà cũng cho rằng cuộc sống của con người thời đó kém tươi vui. Thực ra, đó là sự ngộ nhận, hiểu biết hoàn toàn sai lầm. Một cách cơ học chỉ có thể nói xã hội
chúng ta ngày nay hiện đại hơn, có mức độ tiêu dùng “khủng khiếp” hơn cả
về bề rộng lẫn bề sâu và… chỉ có thế thôi. Chất lượng cuộc sống là một
khái niệm (hay nói to tát hơn, là một phạm trù) trong đó ngoài việc nói
lên mức độ thỏa mãn về vật chất, còn phải bao hàm cả yếu tố nói lên mức
độ thỏa mãn về mặt tinh thần. Cuộc sống sung túc là cuộc sống mà của cải
thu nhập đáp ứng một cách hào phóng và đầy đủ nhu cầu tiêu dùng thiết
yếu (được xác định bởi quan niệm xã hội tương xứng với trình độ sống của xã hội
đương thời) mà vẫn còn dư dôi để tích lũy dự phòng. Khi cái tối quan
trọng, cái cơ bản nhất của cuộc sống được giải quyết thì cũng dẫn đến
trạng thái thỏa mãn của tinh thần. Con người sống trong suy tư ngập tràn
cho nên chính cái trạng thái thỏa mãn tinh thần ấy (nghĩa là cảm giác
vui tươi, yêu đời, hạnh phúc, không phải âu lo…) mới là tiêu chí quyết
định, tiêu chí cốt lõi khi nói về chất lượng cuộc sống. Chất lượng cuộc
sống của một nhà tỷ phú lúc nào cũng lo lắng, bất mãn, ăn sơn hào hải vị
không thấy ngon, ngủ trong lụa là gấm vóc không thấy yên, thừa nhưng
lúc nào cũng thấy thiếu, chắc gì đã hơn chất lượng cuộc sống của anh
chàng đạp xích lô “vui đâu chầu đấy”, “an phận thủ thường”, chỉ mong
đóng đủ “hụi chết” cho vợ con xong, còn tí đỉnh nhậu tàn tàn với bằng
hữu, coi giàu sang phú quí là chuyện đẩu đâu, có mơ cũng không được,
sống nay chết mai nhẹ như cọng bấc, hay chất lượng cuộc sống của anh
nông dân “ước sao đến thấp mà mơ đến nghèo” (mượn thơ Nguyễn Bính) như:
“… cày xong thửa ruộng
Lòng khỏe nhẹ anh dân quê sung sướng
Ngửa mình trên liếp cỏ ngủ ngon lành
Và trong mơ thơm ngát lúa đồng xanh
Vui nhẹ đến trên môi cười hy vọng”
(mượn thơ Tố Hữu)
Không
phải bất cứ một xã hội công xã nguyên thủy nào cũng đạt được trạng thái
cộng sản nguyên thủy vì đó là một tiến trình tự phát có tính nhảy vọt,
ngẫu nhiên, chủ yếu là được thiên nhiên ưu đãi. Khảo cổ học cho thấy sự
sáng chế, cải tiến công cụ lao động thời đó không đủ khả năng tạo được quá trình
đột biến có tính xã hội ấy mà chỉ có thể là sự khám phá ra vùng đất tuy
lầy lội nhưng khi được cải tạo thì sẽ trở thành khu vực màu mỡ, phì
nhiêu, phù sa bù đắp hàng năm, phù hợp cao độ với các loại cây làm nguồn
thức ăn thực vật đủ loại rau, trái, củ hạt, nhất là cây lúa nước. Chính
thiên thời (biển thoái), địa lợi (đồng bằng sông Hồng), nhân hòa (chế
độ công xã nguyên thủy và số lượng dân cư đủ đáp ứng) đã làm nên xã hội
cộng sản nguyên thủy khoảng nửa cuối thời đại Âu Lạc và xã hội “tư sản
nguyên thủy” rất thịnh vượng khoảng hơn nửa đầu thời đại Hùng Vương.
Do
tác động của những yếu tố có hại (chủ yếu là trình độ sản xuất, kéo theo là năng lực sản xuất không đáp ứng kịp sự phát triển lạm phát về số lượng dân cư) làm nên mặt trái của thời
đại cộng sản nguyên thủy mà đời sống xã hội Âu - Lạc dần suy giảm đi,
cùng với tư hữu của cải làm phát sinh giàu - nghèo, làm nảy ra đòi hỏi
tư hữu về phương tiện sản xuất trong lòng cộng đồng dân cư mà đơn vị tư
hữu nhỏ nhất, nói chung là gia đình, tế bào làm nên xã hội. Ngành nghề
phát triển cũng làm cho các bộ lạc đã thần phục, hòa hợp thành cộng đồng
Âu - Lạc, không còn lệ thuộc trực tiếp vào sản xuất trồng lúa, cũng đòi
hỏi đến mức độ nhất định quyền tự quyết, tự làm, tự ăn của mình. Những
đòi hỏi ấy ngày càng trở nên bức xúc gây rối loạn và xung đột trong xã
hội vào giai đoạn hậu kỳ của thời đại Âu - Lạc (chưa kể nạn xâm lấn,
cướp bóc từ bên ngoài lãnh thổ).
Người
đại diện cho những đòi hỏi tư hữu bức thiết của Đại Chúng và đồng thời
cũng là người thực hiện cải cách làm xuất hiện một hình thái kinh tế -
xã hội mới, phù hợp hơn, không ai khác, chính là vị vua Hùng đầu tiên
của thời đại Hùng Vương. Sách “Việt sử lược” ghi: “Hùng Vương là người
lạ ở bộ (bộ lạc) Gia Ninh, dùng ảo thuật áp phục được các bộ (bộ lạc)
khác”. “Ảo thuật” ấy là gì nếu không phải là ngọn cờ đi đòi quyền lợi
một cách chính nghĩa của Đại Chúng trước một chế độ bao cấp đã trở nên
quan liêu, triệt tiêu động lực trong sản xuất và ngăn cản, làm trì trệ
tiến trình vận động theo xu thế tự nhiên của xã hội? Chúng ta cho rằng
vị thủ lĩnh đầu tiên của thời đại Hùng Vương đã lãnh đạo một cuộc cách
mạng “long trời lở đất”; chuyển biến xã hội từ hình thái Cộng sản nguyên
thủy sang hình thái Tư bản nguyên thủy, từ hình thái cộng đồng các bộ
lạc sang hình thái liên minh các bộ lạc, dẹp yên các bạo động, thu giang
sơn về một mối, lập nên nước Văn Lang, nhanh chóng vươn lên cực thịnh
như một mặt trời chói lọi khắp vùng đất trời Châu Á - Thái Bình Dương.
Ảnh Tượng chùa Dâu: Thiên Sứ; Ảnh người phụ nữ nông thôn: Võ An Ninh.
Hình trên mà
các bạn đang xem là một cụm hình, được ghép bởi hình chiếc cán dao bằng
đồng, từ thời Hùng Vương - có niên đại được xác định là 300 năm tr.CN,
được tìm thấy ở Lãng Ngâm - Hà Bắc - trên có tạc người phụ nữ, với y
phục thời Hùng Vương và hình vẽ miêu tả y phục của một phụ nữ miền Bắc
(Ảnh Võ An Ninh) và ảnh Tượng chùa Dâu, do người viết ghép lại thành cụm
hình để tiện so sánh.
Trong
cái xã hội mà chúng ta gọi là “Tư sản nguyên thủy” ấy, cương vực lãnh
thổ đất mở rộng, vượt quá khả năng điều hành trực tiếp của chính quyền
trung ương, buộc phải chia khu vực và phân cấp quản lý, nhà nước phải mở
rộng chức năng và ngày một kiện toàn bộ máy thừa hành chế độ tư hữu về
công cụ, phương tiện sản xuất cũng như tô, thuế được thiết lập (dù có
thể rằng đất đai vẫn thuộc quyền sở hữu chung và do nhà nước định đoạt).
Vào thuở ban đầu của chế độ xã hội ấy, nhà nước có cấu trúc vẫn còn đơn
giản, gói gọn trong chức năng đảm bảo an sinh xã hội bằng việc xử lý,
phán xét các vụ việc nảy sinh trong đời sống dân cư, không có đặc quyền
đặc lợi nào, tô thuế chỉ như một sự đóng góp nuôi sống cho hoạt động bán
thường trực của nhà nước. Có thể đoán rằng dưới chế độ Tư sản nguyên
thủy, hình thức tư hữu về của cải và công cụ sản xuất cũng như phương
tiện sống đã trở nên phổ biến đến tận gia đình, tạo ra hiện tượng làm
nhiều làm giỏi hưởng nhiều, làm ít làm dở hưởng ít, từ đó mà làm cho xã
hội nảy sinh ra mối tương phản giàu - nghèo. Và cũng từ đó (cũng có thể
từ cả sự biến đổi tỷ lệ nam - nữ, có nguyên nhân từ cuộc sống an lạc
thời trước đó, theo hướng nam ít nữ nhiều) mà mối quan hệ trong gia đình
chuyển biến dần từ mẫu hệ, mẫu quyền sang phụ hệ, phụ quyền: đàn ông
trở thành trụ cột và đồng thời có quyền lực cao nhất trong gia đình.
Ngày nay, nếu nói về thời Âu - Lạc:
Thế gian một vợ một chồng
Chẳng như vua bếp hai ông một bà,
thì cũng có thể nói về thời Hùng Vương:
Thế gian một vợ một chồng
Chẳng như vua bếp một ông hai bà.
Theo
các nhà nghiên cứu ngôn ngữ thì “Lang” có nghĩa là “chàng”, là người
đàn ông, là thanh niên và còn có nghĩa là người chồng (Ngưu Lang - Chức
Nữ, Dạ cổ hoài lang). Phải chăng vua Hùng đặt tên nước là Văn Lang (hoặc
do người đời sau đặt ra?) để nói về một đất nước đề cao vai trò của
người đàn ông, về nghĩa vụ và quyền lợi nổi bật của người đàn ông đối
với đất nước nói chung và đối với gia đình nói riêng? Văn Lang phải
chăng hàm nghĩa là chế độ phụ quyền?
Nhà
nước Văn Lang thời kỳ đầu vẫn còn đơn giản, đứng đầu là vị trưởng bộ
lạc mạnh nhất, đông nhất, dưới là hội đồng các trưởng bộ lạc (đứng đầu
các khu vực, còn gọi là Lạc tướng), bên cạnh đó là những người thừa
hành, giúp việc cho chính quyền trung ương (thu tô, thuế, phối hợp điều
hành các hoạt động trong liên bang bộ lạc) gọi là Lạc hầu. Nhà nước đó
mang bản chất do dân và vì dân một cách hồn nhiên, Nguyên thủ nhà nước
không theo thể chế cha truyền con nối mà vẫn do được tín nhiệm, được bầu
ra, do “sống lâu lên lão làng” và đảm nhận cương vị đến mãn đời. Trong
“Lịch triều hiến chương loại chí”, Phan Huy Chú viết: “Lúc bấy giờ, vua
tôi cùng đi cày, cha con tắm cùng (sông) không chia giới hạn, không phân
bậc uy quyền thứ bậc… cùng nhau vui chơi vô sự, gọi là đời rất hồn
nhiên” và “Hùng Vương đi săn được thú, lấy bộ lòng cùng ăn ngay tại chỗ,
thịt về nhà chia”.
Bạn đọc dễ dàng nhận thấy, trên mũ của những hình người trên trống đồng này thể hiện chiếc đầu rồng và đầu chim phượng đă được cách điệu để chứng tỏ địa vị của người đó trùng hợp với văn bản của Kinh Thư.
Hình trên mà
bạn đọc đang coi được chép lại từ bộ truyện tranh "Tam quốc diễn nghĩa"
do chính các họa sĩ Trung Quốc thực hiện, Nxb Mũi Cà Mau in lại vào năm
1995, trọn bộ 30 tập. Đây là hình thứ 3795 trong tập 16. Hình người nổi
bật trong tranh bên chính là Tôn Quyền (Thế kỷ II và III sau CN).
Hình người
phụ nữ ở giữa cụm tranh này chính là Tôn Phu Nhân, em gái Tôn Quyền, vợ
Lưu Bị cũng được chép lại từ bộ truyện tranh trên. Bạn hãy so sánh y
phục của tất cả những nhân vật Tam Quốc, thể hiện nền văn hoá Hán trong
các tranh trên với hình người trên cán dao bằng đồng của thời Hùng Vương
có trước đó 500 năm (Tư liệu trong sách "Thời đại Hùng Vương" Nxb Khoa
học Xă hội Hà Nội 1995).
Động
lực lao động, sản xuất không còn bị kìm hãm bởi sự phân phối bình quân
bao cấp trở nên lạc điệu cuối thời Âu - Lạc, đã đưa đất nước Văn Lang
tiến nhanh trên con đường đến phồn thịnh. Người người lao động, nhà nhà sản xuất, thi đua làm giàu. Vì thế mà xã hội thái bình, tươi đẹp,
sung túc, chất lượng cuộc sống của cư dân nói chung đạt đến trạng thái
hầu như thỏa nguyện, gần như là “cầu được, ước thấy”, “muốn gì được
nấy”.
Cái
xã hội thanh bình và tươi đẹp đó có thể đã tồn tại lâu dài, khi mà
thiên nhiên (chủ yếu là đồng bằng Bắc Bộ) vẫn còn đầy tiềm năng và vẫn
tiếp tục đáp ứng được đầy đủ, dồi dào nhu cầu tiêu dùng ngày một nâng
cao của cộng đồng dân cư, khi mà nhà nước Văn Lang chưa mang tính chất
vương quyền, cha truyền con nối, và sự tồn tại đó có thể là đến gần giữa
thời đại Hùng Vương, hay trong khoảng cuối văn hóa Gò Mun - đầu văn hóa
Đông Sơn.
(Còn tiếp)
-------------------------------------------------------------
Nhận xét
Đăng nhận xét