TT&HĐ IV - 33/c
PHẦN IV: BÁU VẬT
"Dọc
đường lịch sỏ đi hoặc đánh rơi, đã chìm
trong quên lãng. Kẻ nào muốn có ngọc, chử nhân loại, có rất nhiều báu vật bị người đời, vô tình hay hữu ý, lỡ bỉ cần dò tìm lại chúng, nhặt
lên, đánh bóng..."
NTT
“Sách là nguồn của cải quý báu của thế giới và là di sản xứng đáng của các thế hệ và các quốc gia.”
Tôi bước chân vào thư viện và khép cửa lại. Như thế là tôi đã tách khỏi
tính tham lam, lòng tự ái, tệ say rượu và sự lười biếng củng tất cả
những thói hư tật xấu do cái dốt nát, sự vô công rỗi nghề và cảnh sầu tư
sinh ra. Tôi đắm mình vào cái vĩnh hằng giữa những tác giả tuyệt diệu
với một niềm tự hào, với một cảm giác thỏa mãn đến mức cảm thấy thương
hại tất cả các ông quan lớn sang trọng và giàu có nhưng không được hưởng
niềm hạnh phúc này.
D. Henziut
D. Henziut
Những
người đọc sách tuy chưa thành danh nhưng cũng đã có một tư cách cao
thượng, những người làm điều thiện, tuy không mong báo đáp nhưng tự
trong lòng khoan khoái.
Ngạn ngữ Trung Quốc
Ngạn ngữ Trung Quốc
Đọc sách hay cũng giống như trò truyện với các bộ óc tuyệt vời nhất của những thế kỷ đã trôi qua.
Rene Descartes
Những gì sách dạy chúng ta cũng giống như lửa. Chúng ta lấy nó từ nhà hàng xóm, thắp nó trong nhà ta, đem nó truyền cho người khác, và nó trở thành tài sản của tất cả mọi người. Voltaire
Một thư viện của sự hiểu biết quý giá hơn tất cả sự giàu sang, và tất cả
mọi thứ đáng khao khát đều không thể so sánh với nó. Vì vậy bất cứ ai
nhận mình là có nhiệt tâm với sự thật, với hạnh phúc, với sự hiểu biết
hay tri thức đều phải trở thành người yêu sách.
Plato
“Khi họ đốt sách thì chính là họ cũng đang đốt cả loài người.”
“Dẫu có bạc vàng trăm vạn lạng.
Chẳng bằng kinh sử một vài pho.”
“Lạc vào cõi mộng Tự Nhiên
Thẫn thờ một bóng giữa miền Siêu Linh
Nhặt lên dáng ngọc bí huyền
Mắt ai thăm thẳm đắm nhìn mắt ai.”
Thẫn thờ một bóng giữa miền Siêu Linh
Nhặt lên dáng ngọc bí huyền
Mắt ai thăm thẳm đắm nhìn mắt ai.”
Thầy Cãi
CHƯƠNG I (XXXIII): TRỐNG ĐỒNG
“Khi
đã biết sự thực của vật thể, ta sẽ thấy rằng thật vô lý khi tôn thờ các
sản phẩm cô lập của dòng chảy không ngừng nghỉ của sự biến hóa, làm như
chúng là vĩnh cửu và đích thực. Đời sống không phải là vật thể hay dạng
của vật thể mà là một sự vận động liên tục hay chuyển hóa”
S. Radhakrishnan
Wen You
Cũng không ai phủ nhận được rằng – dù ai đó có ý định “gây nhiễu” bằng những sự thác loạn chữ nghĩa và trí tuệ – ghi chép về thư tịch xưa nhất về Trống đồng – đoạn ghi chép của Hậu Hán thư Mã Viện truyện – đã bộc lộ rõ ràng một sự thực: Trống đồng Lạc Việt ở đất Giao Chỉ.
Nguyễn duy Hinh
(Tiếp theo)
Sau
khi đạt đến trạng thái sung mãn nhất, mặt trái của chế độ tư sản nguyên
thủy (sự bóc lột) trở nên nổi trội, gây ra những mâu thuẫn gay gắt, xung đột trong
lòng xã hội làm cho đất nước Văn Lang lâm vào giai đoạn suy vi, loạn lạc can
qua. Hiện tượng “kẻ ăn không hết người lần không ra” trở nên phổ biến,
các bộ lạc gây hấn, cướp bóc lẫn nhau, nhà nước Văn Lang chuyển hóa theo
hướng tăng cường quyền lực và trở thành quân chủ chuyên chế ích kỷ, đi
đàn áp, thống trị xã hội, xa rời cái bản chất do dân và vì dân vốn có
một cách tự phát theo đòi hỏi của tiến trình xã hội trước đó. Có thể hình dung hình thái xã hội nước Văn
Lang thời kỳ này tương đối giống với chế độ phong kiến phân quyền, các
Lạc tướng trở thành lãnh chúa cát cứ, có thực lực mạnh mà vua Hùng không
dễ gì trấn áp được dù vẫn được họ tôn trọng ở vị thế đứng đầu thiên hạ. Lúc này khái niệm tư hữu đã được khẳng định và tồn tại như mặc định, bám chặt vào tâm hồn xã hội. Đây có lẽ là giai đoạn xã hội đã bước sang thời đại đồ đồng.
Các chủng loại công cụ đá
Các chủng loại công cụ đá
Di chỉ đá muộn Phùng Nguyên
Sự
phát triển nghề đúc đồng làm xuất hiện hàng loạt công cụ lao động bằng
đồng ưu việt hơn công cụ bằng đá, gốm, cùng với việc sử dụng sức súc vật
trong sản xuất nông nghiệp đã như một cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật
tác động mạnh mẽ vào xã hội, giải quyết được tình trạng suy thoái kinh
tế và qua đó mà cũng giảm thiểu các cuộc xung đột trong đất nước Văn
Lang, đưa nước này bước vào giai đoạn tăng trưởng mới tiến lên thịnh
vượng, nhưng không bao giờ còn có được cái thanh bình, khoáng đạt, tươi
đẹp, đầy chất phác, hồn nhiên của một thời đã qua. Bởi vì, dù có đạt
thịnh vượng đến mức rực rỡ đi chăng nữa thì do tình cảm con người đã trở nên sâu sắc hơn (đã xuất hiện lòng tham, sự yêu - ghét, cảm nhận hạnh phúc và khổ đau rõ ràng trong tâm hồn), do cái bản chất của nhà nước
quân chủ chuyên chế cùng với chế độ tư hữu tư nhân mà trong xã hội luôn
tồn tại ở mức độ nào đó nạn áp bức, bất công, nạn cường hào, ác bá, bóc
lột gây ra đói nghèo, hay nói gọn là sự nhẫn tâm, độc ác và đó cũng
chính là nguyên nhân sâu xa và cơ bản làm cho xã hội bất ổn, tích tụ bạo
lực, luôn có nguy cơ xảy ra xung đột, tranh đấu.
Nửa
cuối thời đại Hùng Vương, sự phân tầng xã hội thành giàu - nghèo trở
nên ngày một rõ rệt. Đã xuất hiện hai tầng lớp cơ bản trong xã hội là tầng lớp bị trị và tầng lớp thống trị. Mâu thuẫn đối kháng giữa tầng lớp thống trị giàu có và tầng lớp bị trị nghèo khó xảy ra ngày một thường xuyên hơn. Vì thế mà
nạn bạo lực trong xã hội được dung túng và hoành hành ngày càng dữ dội
làm cho nước Văn Lang trở nên hỗn loạn, dân tình tan nát, nhà nước hoàn
toàn phản động và bất lực. Tình hình đó đòi hỏi bức thiết một sự biến
cải xã hội triệt để, trước hết là triều đại Hùng Vương phải bị diệt
vong. Thục Phán là người đứng ra gánh vác trách nhiệm đó.
Khoảng
giữa thời đại Hùng Vương cũng là khoảng thời gian phát triển rực rỡ
nhất của văn hóa Đông Sơn (văn hóa đồng thau). Nghiên cứu khảo cổ nền
văn hóa này, người ta có thể biết và suy đoán ít nhiều về đời sống xã
hội của một thời đã quá xa mờ, tít tắp trong quá khứ đó.
Thạp đồng Đào Thịnh - hiện vật điển hình, đặc biệt về đồ dùng sinh hoạt của cư dân Đông Sơn. Ảnh: BTLSQG
Cây đèn đồng hình người quỳ thời văn hóa Đông Sơn, một bảo vật quốc gia. Ảnh: BTLSQG
Tài
liệu khảo cổ học không cho biết nhiều về cách thức cụ thể biến sản phẩm
thừa trong xã hội thành tài sản riêng của tầng lớp người nào đó, song
lại khẳng định một cách chắc chắn sự hiện diện rất rõ ràng của phân hóa
giàu nghèo, sự chênh lệch rất đáng kể về tài sản tư hữu giữa các thành
viên hay nhóm thành viên trong cộng đồng dân cư Đông Sơn. Một trong
những chỗ dựa chính để tìm hiểu đời sống xã hội thời Đông Sơn (cũng là
nửa cuối thời đại Hùng Vương) là việc khai quật và phân tích những ngôi
mộ táng thời đó. Đối với một ngôi mộ, người ta xem xét, đánh giá đồ tùy
táng (chôn theo người chết) theo số lượng nhiều hay ít, theo giá trị,
mức độ quí hiếm, theo chủng loại, chức năng (dụng cụ hay đồ trang sức…)
mà phân loại giàu nghèo hay trung bình (trung lưu).
Trên
cơ sở đó, qua phân tích 714 ngôi mộ có niên đại Đông Sơn ở 5 khu mộ nổi
tiếng là Thiệu Dương, Đông Sơn (Thanh Hóa), Làng Cả (Phú Thọ), Vinh
Quang (Hà Tây) và Làng Vạc (Nghệ An), các nhà khảo cổ cho biết số ngôi
mộ nghèo chiếm 51,9%, thứ đến số ngôi mộ người bình dân (có chút ít của
nả mà thư tịch cổ gọi là Lạc dân) chiếm 41,4%; số ngôi mộ giàu (chôn
theo nhiều đồ đồng, đồ sắt, trong đó có các đồ đồng được cho là quí,
sang trọng như trống đồng, tháp đồng, bình, lọ…) chỉ chiếm 6,5%.
Việc
khảo sát 714 ngôi mộ nêu trên, xét ở góc độ khác, còn thấy những ngôi
mộ không có đồ tùy táng hay chỉ có đồ dùng sinh hoạt mà tuyệt đại đa số
là những thứ thông thường bằng gốm, chiếm tới 53,6% tổng số mộ. Những
ngôi mộ có chôn theo công cụ sản xuất bằng đồng hay bằng sắt chỉ chiếm
11%. Điều đó nói lên tình trạng đồ kim loại còn quí, người xưa không dễ
dàng để bao giờ cũng chôn theo cho người chết, hơn là nói về tình trạng
thoát ly sản xuất của người đó. Những ngôi mộ có chôn theo vũ khí cùng đồ
vật khác chiếm tỷ lệ đáng kể, tới 34,5%. Điều đó cho thấy vũ khí có ý
nghĩa to lớn như thế nào đối với đời sống con người thời Đông Sơn, đồng
thời cũng nói lên xung đột xã hội, nội chiến hoặc đánh trả kẻ thù tiến
công xâm lấn từ ngoài tới, đã trở thành hiện tượng có tính thường xuyên,
nổi trội. Trong số 2.280 đồ vật tùy táng được tìm thấy, trong khi đồ
vật dùng cho sinh hoạt sang trọng là 271 đơn vị, chiếm 11,8% thì đồ vật
là vũ khí lên đến 1.110 đơn vị, chiếm 48,6%. Tỷ lệ các ngôi mộ có chôn
theo vũ khí ở từng khu mộ có niên đại sớm muộn theo thời gian, đã phản
ánh mức độ bạo lực; căng thẳng của thực trạng xã hội có xu thế ngày càng
tăng.
Dao găm Đông Sơn có trang trí hình người ở chuôi dao.
Thạp đồng có hình trai gái giao hoan
Vũ khí người Việt cổ
Lẫy nỏ bằng đồng thời Đông Sơn đã đạt đến trình độ chế tác cơ khí rất cao. Nhìn chiếc lẫy nỏ này, nhiều người sẽ ngạc nhiên khi biết nó thuộc về một nền văn hóa cách đây hơn 2.000 n�
Kho mũi tên đồng với số lượng hàng vạn chiếc được
khai quật ở khu vực thành Cổ Loa (Đông Anh Hà Nội) cho thấy nỏ được sử
dụng hết sức phổ biến thời Đông Sơn.
Dao găm Đông Sơn có trang trí hình người ở chuôi dao.
Thạp đồng có hình trai gái giao hoan
Những chiếc dao đồng Đông Sơn quý hiếm.
|
Lẫy nỏ bằng đồng thời Đông Sơn đã đạt đến trình độ chế tác cơ khí rất cao. Nhìn chiếc lẫy nỏ này, nhiều người sẽ ngạc nhiên khi biết nó thuộc về một nền văn hóa cách đây hơn 2.000 n�
Vũ khí thời Đông Sơn khiến quân đội Triệu Đà khiếp sợ
***
Theo
nhãn quan của mình, chúng ta đã kể một cách sơ lược tiến trình lịch sử
định hình nước Việt và dân tộc Việt để thấy rằng đó là một khoảng thời
gian dài lâu như thế nào với biết bao nhiêu thăng trầm xã hội và tổ tiên
chúng ta cũng nhận đủ đắng cay, ngọt bùi xuyên suốt tiến trình ấy, liên
tục vật lộn với cuộc sống, nỗ lực tìm kiếm những phương cách sống tốt
hơn, vươn tới chất lượng cuộc sống thỏa mãn hơn. Chính tiến trình ấy
cùng với sự nỗ lực vượt thoát những giai đoạn cam go và đi tìm sự sung
túc đã thúc đẩy nhận thức về xã hội và tự nhiên của người Việt cổ ngày
càng được mở rộng và thêm sâu sắc. Yêu cầu của cuộc sống buộc họ phải
tìm hiểu nhiều điều và nâng cao sự hiểu biết đó về toán học, thiên văn
học, lịch trình biến đổi của thiên nhiên, khí hậu… và cũng phải tìm tòi
ra những phương tiện để mô tả, lưu nhớ, lưu truyền những hiểu biết ngày
càng phong phú đó để học hỏi, sáng tạo, áp dụng vào sản xuất và đời
sống.
Khi
nói đến một nền văn hóa thì cũng phải nói đến nhận thức thế giới của
con người làm nên nền văn hóa ấy. Nền văn hóa Đông Sơn không phải là
ngoại lệ, do đó chúng ta tin chắc rằng ẩn chứa trong nền văn hóa ấy là
cả một quan niệm về thế giới (dù còn ngây thơ) nói chung và một nền khoa
học - kỹ thuật (dù còn sơ khai) nói riêng của cả dân tộc Việt thời Văn
Lang.
hác nhau, ta tìm được những điểm
chung hầu như rất ít thay đổi: Hình dáng của trống là mô phỏng hình dáng
chiếc sọt đựng bát (Còn lại đến nay phổ biến khá nhiều ở các miền thôn
dã của xứ Thanh – nơi tìm được khá nhiều trống đồng cổ).
Bình đồng Việt Khê, tìm thấy trong mộ thuyền Việt Khê (Hải Phòng),
hiện vật Bảo tàng Lịch sử quốc gia.
Mộ thuyền Việt Khê được tìm thấy trong một nhóm mộ táng gồm 5 mộ tại công trường ở thôn Việt Khê, xã Phù Ninh, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng năm 1961.
Cảnh “Chó đón hươu” trên các rìu đồng Đông Sơn
Cảnh săn hươu của người Việt cổ, hình đúc trên rìu đồng Đông Sơn. Chó săn chặn đầu hươu, phía trên (ước lệ là đằng xa) 2 thợ săn đang reo hò trên thuyền để gây áp lực.
Trái: lưỡi rìu xéo gót vuông, mạ vàng do C.Huet sưu tầm tại Quốc Oai, Hà Tây hiện bày tại Bảo tàng Nghệ thuật Brussel, Bỉ. Phải: lưỡi rìu hình chiếc hia, 12 x 11 cm, Bảo tàng nhân học (Volkerkund Museum), Thủ đô Viên, Cộng hòa Áo.
Bạn đang sao chép nội dung của Trí Thức VN. Nếu là cá nhân sử dụng, vui lòng ghi rõ nguồn trithucvn.org. Nếu là website, kênh truyền thông, vui lòng chỉ sử dụng nội dung khi có sự cho phép của Trí Thức VN.
Cảnh săn hươu của người Việt cổ, hình đúc trên rìu đồng Đông Sơn. Chó săn chặn đầu hươu, phía trên (ước lệ là đằng xa) 2 thợ săn đang reo hò trên thuyền để gây áp lực.
Trái: lưỡi rìu xéo gót vuông, mạ vàng do C.Huet sưu tầm tại Quốc Oai, Hà Tây hiện bày tại Bảo tàng Nghệ thuật Brussel, Bỉ. Phải: lưỡi rìu hình chiếc hia, 12 x 11 cm, Bảo tàng nhân học (Volkerkund Museum), Thủ đô Viên, Cộng hòa Áo.
Bạn đang sao chép nội dung của Trí Thức VN. Nếu là cá nhân sử dụng, vui lòng ghi rõ nguồn trithucvn.org. Nếu là website, kênh truyền thông, vui lòng chỉ sử dụng nội dung khi có sự cho phép của Trí Thức VN.
Rìu gót vuông trang trí cảnh săn hươu, tìm thấy tại Hà Đông (Hà Nội),
hiện vật Bảo tàng Lịch sử quốc gia.
Hộ tâm phiến trang trí hình giao long, phát hiện tại Ninh Bình,
hiện vật Bảo tàng Lịch sử quốc gia.
Trống đồng Động Xá, phát hiện tại Động Xá, Kim Động, Hưng Yên,
hiện vật Bảo tàng Hưng Yên.
Trống đồng Cổ Loa có niên đại 2000-2.500 năm thuộc thời kỳ văn hóa Đông Sơn. Ảnh: Phương Hòa.
Mặt trống đồng luôn có trung tâm là mặt trời, biểu tượng khí dương của
thần Sinh, tang trống mang dáng cái sọt bát.Cái sọt đựng bát ăn cơm là
biểu tượng của thần Dưỡng. Mặt trời trên mặt trống đồng được cấu trúc
đan xen giữa các tia là biểu tượng của Âm vật và Dương khí (Âm dương xen
kẽ hòa đồng).
Dù
khi xâm chiếm nước ta, Mã Viện đã phá hủy biết bao nhiêu đồ đồng, bia
đá, làm mất đi biết bao nhiêu những thông tin có thể là rất quí giá cho
việc nghiên cứu sau này đối với trình độ nhận thức thế giới thời Đông
Sơn nhưng vẫn có thể suy đoán được phần nào nhờ vào những di vật, di
tích còn lại mà giới khảo cổ đã phát hiện được và còn có thể phát hiện
thêm được trong tương lai.
Trống
đồng là loại di vật độc đáo và có thể nói là tiêu biểu cho nền văn minh
Việt cổ. Trong đó, trống Đông Sơn là loại tiêu biểu nhất, đẹp nhất và
cổ nhất. Qua những hoa văn hình khắc trên trống đồng Đông Sơn và những
đồ đồng khác, các nhà khảo cổ đã hiểu được nhiều điều về cuộc sống - văn
hóa và cũng đưa ra nhiều phỏng đoán khá hợp lý về thế giới - nhân sinh
quan của thời bấy giờ. Chúng ta sẽ liệt kê một số ý kiến đó.
Có
thể trống đồng, lúc đầu được chế tạo ra không (!) nhằm mục đích sử dụng
như một...cái trống. Sau, trong quá trình sử dụng, tình cờ nó mang thêm
chức năng nhạc cụ thuộc bộ gõ trong sinh hoạt cộng đồng khi nhảy múa, ca hát, hò
reo…Nhưng chức năng quan trọng nhất là lưu giữ thông tin những
tinh hoa khoa học - kỹ thuật đương thời và là thứ chính yếu thể hiện
quyền uy nên cũng được chế tác cầu kỳ, tinh xảo để tăng tính
thẩm mỹ, quí báu. Người ta cho rằng trống đồng Đông Sơn có giá trị như
cây gậy chỉ huy của nhiều bộ tộc khác trên thế giới. Chủ nhân của trống
đồng chắc phải là người thuộc tầng lớp lãnh đạo, có quyền lực nhất định
trong cộng đồng xã hội. Theo “Văn hiến thông khảo”, thì tục người Di Lạo
ở phía nam Ngũ - Lĩnh “muốn đánh nhau thì đánh trống (đồng?) lên. (Nghe
tiếng trống) người đến ùn ùn như mây. Người có trống được gọi là Đô
Lão, được dân chúng suy tôn và phục tùng”.
Theo
nhà sử học Lê Văn Lan, trống đồng ban đầu được cư dân Đông Sơn đúc ra
trên đó thể hiện quan niệm về Vũ Trụ của họ và được xem như mô hình Vũ
Trụ của người Việt cổ, là vật thiêng của cộng đồng được thủ lĩnh bảo
giữ, và sau đó chiếm giữ, từ đó trống đồng có thêm một chức năng mới là
biểu hiện quyền uy, chỉ có thủ lĩnh của cộng đồng mới có quyền đó. Rất
có thể ban đầu nó được thủ lĩnh tối cao ban phát cho các thủ lĩnh dưới
quyền như một kiểu sắc phong, một loại ấn kiếm sau này, nó khẳng định
chức trách với bề trên và quyền lực trước thần dân của người được trao
trống. Nghiên cứu chức năng của trống Đông Sơn, có nhà nghiên cứu nước
ngoài cũng có ý kiến xem trống đồng như một thứ sắc phong nhuốm đậm màu
sắc tôn giáo.GIẢI MÃ TRỐNG ĐỒNG NGỌC LŨ
Họa sĩ nhà Điều Khắc Lê Đình Quỳ
Đồng tác giả của bài viết "Pho Tượng Phật Chùa Bút Tháp"(2005)
Chìa
khóa để mở những điều bí ẩn của nghệ thuật trống đồng thời Đông
Sơn.Theo giả thuyết này trống đồng sinh ra để hòa đồng với dàn cồng
trong ngày hội lễ phồn thực của các dân tộc như dân tộc Thái vào mùa
Xuân tháng 2 có hội lễ “Kin Chiêng booc mạy” dịch : Mùa xuân ăn chơi hoa
rừng. Trò ông đúc bà đúc, trò đâm mẹt ,trò đánh đu đôi, trò lễ giao
duyên,chợ tình……Đó là các trò để ca ngợi song thần : Sinh – Dưỡng biểu
tượng cho thần Cha – Mẹ của bộ tộc Việt. Cha thuộc Mặt trời khí Dương,
mẹ thuộc Trái Đất khí Âm, hai vị thần này phù hộ cho bộ tộc sinh nhiều
con cái nhất là nhiều con trai để bộ tộc mới có sức mạnh chống giặc
ngoại xâm.
Hai vị thần Sinh – Dưỡng còn thể hiện ở trong các tháp Chàm, cột đá
chùa Dạm- Bắc Ninh, cây đào, cây quất, đào là khí dương của Cha,có màu
đỏ, mẹ khí âm của đất,cây quất có màu vàng,bánh của người Việt cổ trong
tết ngày xưa là bánh ống tròn như cái giò có nhân bên trong, đó là biểu
tượng của thần Sinh-Cha. Hai bánh dày bằng gạo nếp trắng không có nhân,
đó là biểu tượng của thần Dưỡng- Mẹ ,ngày nay còn lưu lại ở các dân tộc
và miền Nam Việt Nam. Ngày nay bánh chưng và bánh dày vuông và tròn là
bánh mới và quan niệm sai về trời đất. Ở xứ Thanh còn có một loại bánh
gọi là bánh ít trong các ngày tết mùa xuân, biểu tượng đó là dương thực
khí của người cha. Các dụng cụ như ông bình vôi cũng là vị thần sinh
dưỡng,bát cơm in quả trứng ,đũa lông bông,trên hòm người chết cũng là
biểu tượng của thần sinh dưỡng,đó là hình tượng mô phỏng lại 4 cặp giao
cấu trên thạp đồng đào thịnh,đó là mộ chôn xác tộc trưởng bên trong theo
kiểu chôn chum, tục trầu cau của người Việt ,bầu rượu nậm vú của người
Việt cũng là biểu tượng của hai vị thần Sinh –Dưỡng và còn nhiều dụng
cụ khác… Như vậy trống đồng là hai vị thần Sinh- Dưỡng kết hợp với nhau
mà thành, thần Cha thuộc dương mặt trời là mặt trống đồng, phần tang mô
phỏng chiếc sọt đựng bát của người cổ xứ Thanh là biểu tượng của thần
Dưỡng thuộc Mẹ. Trống đồng có rất nhiều loại nhưng đề tài thể hiện chỉ
quay xung quanh nội dung của hai vị thần Sinh- Dưỡng,cho nên đó là chiếc
chìa khóa để mở tất cả các điều bí ẩn được khắc trong hình tượng và
các hoa văn của trống đồng thời Đông Sơn. Thuở hồng hoang dân số còn rất
ít cho nên cần nhiều con trai thì bộ tộc mới có sức mạnh,nên thờ hai vị
thần này là rất quan trọng trong sự sinh tồn của bộ tộc thời tiền sử.
Quan
sát trống đồng qua nhiều niên đại khác nhau,ta tìm được những điểm
chung hầu như rất ít thay đổi : Hình dáng của trống là mô phỏng hình
dáng chiếc sọt đựng bát ( Còn lại đến nay phổ biến khá nhiều ở các miền
thôn dã của xứ Thanh – nơi tìm được khá nhiều trống đồng cổ).
Mặt trống đồng luôn có trung tâm là mặt trời,biểu tượng khí dương của thần Sinh,tang trống mang dáng cái sọt bát.Cái sọt đựng bát ăn cơm là biểu tượng của thần Dưỡng.Mặt trời trên mặt trống đồng được cấu trúc đan xen giữa các tia là biểu tượng của Âm vật và Dương khí (Âm dương xen kẽ hòa đồng).
Trống đồng Ngọc Lũ được cấu trúc hoàn chỉnh nhất theo ý nghĩa của giả thuyết trên.Trên trống có 14 tia mặt trời,con số 14 là biểu tượng cho sự hòa đồng giữa 2 giới tính dương và âm,tình yêu của 2 giới tính luôn được thể hiện không thể thiếu hai bàn tay của nam và nữ,tuy khác nhau về lý tính nhưng giống nhau ở 14 đốt ngón tay của cùng một bàn tay.Trên trống lại xuất hiện thêm con số 14 nữa đó là 14 con cò con – biểu tượng 1 thằng Cò,con số hòa đồng giữa 2 giới tính âm và dương để sinh ra 1 thằng cu.Một bên 8 con cò con cộng với 6 con cò con bên kia tạo thành con số 14.
Cũng trên vòng trang trí với 14 con cò ,còn được khắc họa 20 con hươu,10 con đực,10 con cái xen kẽ nhau – con số 20 là số ngón tay của bốn bàn tay 1 cặp nam nữ đan xen nhau trong thời điểm khoái cảm của ái ân
Trên các họa tiết trang trí khác ,ta còn thấy được các motip ngược xuôi của những vòng tròn đồng tâm có tiếp tuyến.
Các vòng tròn này là biểu tượng của thần Sinh – Dưỡng ,hai vòng tròn có tâm là biểu tượng hai bầu vú – thần Dưỡng,nét gạch tiếp tuyến như chiếc dùi cồng hay là dương thực khí biểu tượng của thần Sinh – Mặt Trời.
Tuy nhiên,khi nói tới nhân sinh quan của người xa được hình thể hóa trên trống đồng,chúng ta không được phép quên cách sử dụng trống đồng cổ của người Việt cổ : Đó là con gái cầm chày giã vào Mặt trời chứ không phải con trai đánh trống đồng,chày ở đây là biểu tượng dương thực khí của thần Sinh ,đánh vào trung tâm Mặt trời ,làm rung động khí âm dương đó là nghi lễ phồn thực.
Trống đồng Ngọc Lũ được đánh giá là loại trống cổ nhất và đẹp nhất,được xếp vào Heger loại 1 ,Phân tích những bố cục chính và các hình ảnh được khắc trên mặt trống Ngọc Lũ cũng như dưới tang trống.
Mặt trống đồng Ngọc Lũ được các nghệ nhân bố cục có 4 phần chính :
Phần trung tâm : Hình ảnh ông Mặt trời được đắp cao nhất có 14 tia sáng là hình tượng thuộc Cha – Thần Sinh.Xen kẽ là 14 tia sáng là hình ảnh của Âm vật biểu tượng cho Mẹ - Thần Dưỡng.Tục ngữ Việt Nam có câu : Cha sinh – Mẹ Dưỡng.Khi đánh vào Mặt trời tức là đánh vào dương khí kích thích vào vị thần Cha – đồng thời cũng là kích thích vào thần Mẹ thuộc âm.Hai vị thần sẽ hòa hợp mà làm nên sự sáng tạo ra linh hồn,vì vậy mà trống đồng là vật thiêng liêng tôn thờ.Ai giữ trống,người đó nắm được quyền uy – tù trưởng.Đặc biệt 1 năm trống đồng chỉ được đánh 1 lần vào lễ hội mùa Xuân tháng 2,đánh xong để thờ - đó là linh hồn của bộ tộc.
Ngoài Mặt trời là một khoảng trống được khắc vạch nhiều chi tiết li ti đó là biểu hiện của sự âm hưởng giao hòa.
Phần thứ hai được khắc họa sinh hoạt văn hóa phồn thực của người Việt Cổ . Hình ảnh chính là các vũ nữ đội mũ lông cò,váy là lá cây hở đùi,ngực để trần phô diễn sinh lực của các cô gái tơ,có vũ nữ thổi khèn bè,có vũ nữ cầm chuông,có vũ nữ cầm tên săn bắn,còn phần lớn là phô diễn đôi bàn tay tuyệt mỹ của vũ điệu.Có 12 vũ nữ biểu hiện cho 12 tháng trong 1 năm.
Vào thời hoang sơ mông muội mà ông cha ta đã quan sát tự nhiên : cỏ cây ,hoa lá để biết được quy luật của Trái đất một năm có 12 tháng.Bên cạnh các vũ nữ lớn có 1 vũ nữ bé cũng tập múa theo.Đó là hình ảnh của tháng nhuận trong năm,không đội mũ lông chim.
Tiếp đến phía trước các vũ công là 1 dàn cồng có 14 chiếc và nhạc công đang gõ nhịp(con số hòa đồng).Hai tay đánh 2 dàn cồng,chân đạp gõ nhịp giống như chiếc mỏ neo luồn dưới gầm dàn cồng.Cồng là hình ảnh của vú Mẹ - thần Dưỡng.Ta nên hiểu ngày hội lễ lớn cồng được xếp số chẵn 10-12-24-18-24 và chỉ khi bộ tộc có người chết,cồng mới đánh số lẻ 3,cồng biểu tượng cho 3 hồn.
Bên cạnh đàn cồng được khắc họa hình ảnh một bà đỡ đẻ.Hai tay bà nâng 1 con cò con ra đời ,đó là niềm hân hoan nhất của bộ tộc,sinh ra nhiều thằng cò.Bên cạnh bà đỡ còn thấy 1 đôi trai gái trẻ đang làm nghi thức giao cấu – đó là hình ảnh hai người ngẩng cao đầu hân hoan giã gạo mà người xứ Thanh gọi là : “giã cấu”,điều đó còn có nghĩa giao hợp nhau để cấu thành đứa con.Thổ ngữ mà người xứ Thanh Hóa hay gọi hạt gạo là “ Hột cấu”.Bên cạnh cặp trai gái là cái nhà sàn được thiết kế rất đẹp ,mái cong,hai đầu nhà biểu tượng hai đầu thần chim cò.
Trên mái nhà được khắc một đôi chim công một trống một mái hoặc một con trống.Chim công là loài chim yêu nhau rất tuyệt mỹ.Công phải múa đẹp để quyến rũ bạn tình,công cũng hiền hòa và chung thủy nên ông cha ta đã lấy Công làm biểu tượng cho tình yêu đẹp.
Trong nhà sàn có đôi trẻ trai và gái ở trần truồng đang chơi trò “khai hoa – kết quả”.Trò chơi mục đồng vẫn còn lưu lại tới ngày nay,ta thường gọi “trồng hoa – trồng nụ”.Đây cũng là trò chơi mang ý niệm phồn thực.Trò chơi là môn luyện nhảy cao tăng thể lực cường tráng để nòi giống khỏe mạnh,ý niệm khai hoa kết quả đến nay tục chơi xuân của ta ngày tết không thể thiếu cành đào,cây quất.Cây quất càng nhiều quả mang nhiều ý niệm mong cho con cháu đông đúc xum vầy.Bên cạnh nhà sàn có 4 đứa trẻ đang tập đánh trống đồng.Qua hình ảnh này,ta nhận thấy trống đồng được đào xuống đất,đặt trống vào để đánh,điều đó càng chứng minh thêm cho giả thuyết : Hội lễ phồn thực để cầu thần Sinh Dưỡng đẻ ra nhiều con trai gái là đúng.Trống thuộc Dương khí,mặt trời,đất Mẹ thuộc Âm khí.Đào xuống đất đánh để hai khí hòa đồng mang theo ý niệm tín ngưỡng.Xin trời đất cho việc sinh nở đúng quy luật tự nhiên,không bị quái thai.Câu ngạn ngữ chúc cho Mẹ tròn con vuông cũng có ý nghĩa như vậy.
Vòng thứ ba được bố cục đối xứng 20 con hươu xen kẽ nhau đực cái.Bên cạnh đàn hươu là đàn cò có đầu to như nhau được xếp mỗi bên 8 con,một bên 6 con tổng cộng là 14 con.Hai mươi con hươu la 20 ngón tay của 1 cặp nam nữ,14 là con số 14 đốt ngón tay giống nhau- đó là số sinh 1 thằng cò (con số hòa đồng của 14 con cò).Tay là nơi biểu hiện cho tình dục,nên các nghệ nhân đã dùng con số 20 và 14 thể hiện thâm ý này.Hươu là loài có nhung rất bổ thận âm dương nên lấy hươu là tượng hình sức mạnh của tình dục.
Mặt trống đồng luôn có trung tâm là mặt trời,biểu tượng khí dương của thần Sinh,tang trống mang dáng cái sọt bát.Cái sọt đựng bát ăn cơm là biểu tượng của thần Dưỡng.Mặt trời trên mặt trống đồng được cấu trúc đan xen giữa các tia là biểu tượng của Âm vật và Dương khí (Âm dương xen kẽ hòa đồng).
Trống đồng Ngọc Lũ được cấu trúc hoàn chỉnh nhất theo ý nghĩa của giả thuyết trên.Trên trống có 14 tia mặt trời,con số 14 là biểu tượng cho sự hòa đồng giữa 2 giới tính dương và âm,tình yêu của 2 giới tính luôn được thể hiện không thể thiếu hai bàn tay của nam và nữ,tuy khác nhau về lý tính nhưng giống nhau ở 14 đốt ngón tay của cùng một bàn tay.Trên trống lại xuất hiện thêm con số 14 nữa đó là 14 con cò con – biểu tượng 1 thằng Cò,con số hòa đồng giữa 2 giới tính âm và dương để sinh ra 1 thằng cu.Một bên 8 con cò con cộng với 6 con cò con bên kia tạo thành con số 14.
Cũng trên vòng trang trí với 14 con cò ,còn được khắc họa 20 con hươu,10 con đực,10 con cái xen kẽ nhau – con số 20 là số ngón tay của bốn bàn tay 1 cặp nam nữ đan xen nhau trong thời điểm khoái cảm của ái ân
Trên các họa tiết trang trí khác ,ta còn thấy được các motip ngược xuôi của những vòng tròn đồng tâm có tiếp tuyến.
Các vòng tròn này là biểu tượng của thần Sinh – Dưỡng ,hai vòng tròn có tâm là biểu tượng hai bầu vú – thần Dưỡng,nét gạch tiếp tuyến như chiếc dùi cồng hay là dương thực khí biểu tượng của thần Sinh – Mặt Trời.
Tuy nhiên,khi nói tới nhân sinh quan của người xa được hình thể hóa trên trống đồng,chúng ta không được phép quên cách sử dụng trống đồng cổ của người Việt cổ : Đó là con gái cầm chày giã vào Mặt trời chứ không phải con trai đánh trống đồng,chày ở đây là biểu tượng dương thực khí của thần Sinh ,đánh vào trung tâm Mặt trời ,làm rung động khí âm dương đó là nghi lễ phồn thực.
Trống đồng Ngọc Lũ được đánh giá là loại trống cổ nhất và đẹp nhất,được xếp vào Heger loại 1 ,Phân tích những bố cục chính và các hình ảnh được khắc trên mặt trống Ngọc Lũ cũng như dưới tang trống.
Mặt trống đồng Ngọc Lũ được các nghệ nhân bố cục có 4 phần chính :
Phần trung tâm : Hình ảnh ông Mặt trời được đắp cao nhất có 14 tia sáng là hình tượng thuộc Cha – Thần Sinh.Xen kẽ là 14 tia sáng là hình ảnh của Âm vật biểu tượng cho Mẹ - Thần Dưỡng.Tục ngữ Việt Nam có câu : Cha sinh – Mẹ Dưỡng.Khi đánh vào Mặt trời tức là đánh vào dương khí kích thích vào vị thần Cha – đồng thời cũng là kích thích vào thần Mẹ thuộc âm.Hai vị thần sẽ hòa hợp mà làm nên sự sáng tạo ra linh hồn,vì vậy mà trống đồng là vật thiêng liêng tôn thờ.Ai giữ trống,người đó nắm được quyền uy – tù trưởng.Đặc biệt 1 năm trống đồng chỉ được đánh 1 lần vào lễ hội mùa Xuân tháng 2,đánh xong để thờ - đó là linh hồn của bộ tộc.
Ngoài Mặt trời là một khoảng trống được khắc vạch nhiều chi tiết li ti đó là biểu hiện của sự âm hưởng giao hòa.
Phần thứ hai được khắc họa sinh hoạt văn hóa phồn thực của người Việt Cổ . Hình ảnh chính là các vũ nữ đội mũ lông cò,váy là lá cây hở đùi,ngực để trần phô diễn sinh lực của các cô gái tơ,có vũ nữ thổi khèn bè,có vũ nữ cầm chuông,có vũ nữ cầm tên săn bắn,còn phần lớn là phô diễn đôi bàn tay tuyệt mỹ của vũ điệu.Có 12 vũ nữ biểu hiện cho 12 tháng trong 1 năm.
Vào thời hoang sơ mông muội mà ông cha ta đã quan sát tự nhiên : cỏ cây ,hoa lá để biết được quy luật của Trái đất một năm có 12 tháng.Bên cạnh các vũ nữ lớn có 1 vũ nữ bé cũng tập múa theo.Đó là hình ảnh của tháng nhuận trong năm,không đội mũ lông chim.
Tiếp đến phía trước các vũ công là 1 dàn cồng có 14 chiếc và nhạc công đang gõ nhịp(con số hòa đồng).Hai tay đánh 2 dàn cồng,chân đạp gõ nhịp giống như chiếc mỏ neo luồn dưới gầm dàn cồng.Cồng là hình ảnh của vú Mẹ - thần Dưỡng.Ta nên hiểu ngày hội lễ lớn cồng được xếp số chẵn 10-12-24-18-24 và chỉ khi bộ tộc có người chết,cồng mới đánh số lẻ 3,cồng biểu tượng cho 3 hồn.
Bên cạnh đàn cồng được khắc họa hình ảnh một bà đỡ đẻ.Hai tay bà nâng 1 con cò con ra đời ,đó là niềm hân hoan nhất của bộ tộc,sinh ra nhiều thằng cò.Bên cạnh bà đỡ còn thấy 1 đôi trai gái trẻ đang làm nghi thức giao cấu – đó là hình ảnh hai người ngẩng cao đầu hân hoan giã gạo mà người xứ Thanh gọi là : “giã cấu”,điều đó còn có nghĩa giao hợp nhau để cấu thành đứa con.Thổ ngữ mà người xứ Thanh Hóa hay gọi hạt gạo là “ Hột cấu”.Bên cạnh cặp trai gái là cái nhà sàn được thiết kế rất đẹp ,mái cong,hai đầu nhà biểu tượng hai đầu thần chim cò.
Trên mái nhà được khắc một đôi chim công một trống một mái hoặc một con trống.Chim công là loài chim yêu nhau rất tuyệt mỹ.Công phải múa đẹp để quyến rũ bạn tình,công cũng hiền hòa và chung thủy nên ông cha ta đã lấy Công làm biểu tượng cho tình yêu đẹp.
Trong nhà sàn có đôi trẻ trai và gái ở trần truồng đang chơi trò “khai hoa – kết quả”.Trò chơi mục đồng vẫn còn lưu lại tới ngày nay,ta thường gọi “trồng hoa – trồng nụ”.Đây cũng là trò chơi mang ý niệm phồn thực.Trò chơi là môn luyện nhảy cao tăng thể lực cường tráng để nòi giống khỏe mạnh,ý niệm khai hoa kết quả đến nay tục chơi xuân của ta ngày tết không thể thiếu cành đào,cây quất.Cây quất càng nhiều quả mang nhiều ý niệm mong cho con cháu đông đúc xum vầy.Bên cạnh nhà sàn có 4 đứa trẻ đang tập đánh trống đồng.Qua hình ảnh này,ta nhận thấy trống đồng được đào xuống đất,đặt trống vào để đánh,điều đó càng chứng minh thêm cho giả thuyết : Hội lễ phồn thực để cầu thần Sinh Dưỡng đẻ ra nhiều con trai gái là đúng.Trống thuộc Dương khí,mặt trời,đất Mẹ thuộc Âm khí.Đào xuống đất đánh để hai khí hòa đồng mang theo ý niệm tín ngưỡng.Xin trời đất cho việc sinh nở đúng quy luật tự nhiên,không bị quái thai.Câu ngạn ngữ chúc cho Mẹ tròn con vuông cũng có ý nghĩa như vậy.
Vòng thứ ba được bố cục đối xứng 20 con hươu xen kẽ nhau đực cái.Bên cạnh đàn hươu là đàn cò có đầu to như nhau được xếp mỗi bên 8 con,một bên 6 con tổng cộng là 14 con.Hai mươi con hươu la 20 ngón tay của 1 cặp nam nữ,14 là con số 14 đốt ngón tay giống nhau- đó là số sinh 1 thằng cò (con số hòa đồng của 14 con cò).Tay là nơi biểu hiện cho tình dục,nên các nghệ nhân đã dùng con số 20 và 14 thể hiện thâm ý này.Hươu là loài có nhung rất bổ thận âm dương nên lấy hươu là tượng hình sức mạnh của tình dục.
Vòng
thứ 4 là bầu trời Lạc Việt : Cò bay,cò đậu,để ca ngợi thần Cha.Bên cạnh
đàn cò bay các nghệ nhân lại để một khoảng trống có vạch khắc li ti đó
là âm hưởng giao thoa giữa mặt trống và tang trống – giữa thần Sinh với
thần Dưỡng.Đặc biệt trên mặt trống còn có khắc họa những vòng tròn đồng
tâm có tiếp tuyến.Các nhà nghiên cứu thường cho đó là những trang trí
có hình kỷ hà,theo giả thuyết này đó là biểu tượng cao của 2 vị thần
.Hai vòng tròn đồng tâm là hình ảnh 2 vú Mẹ,nét gạch giữa là dương thực
khí của Cha.Các vòng tròn được trang trí chạy xuôi ,ngược cũng có ý niệm
âm dương.
Tang trống chủ yếu khắc họa cảnh thuyền chiến bảo vệ nòi giống cũng mang triết lý là thần Dưỡng .
Thuyền chiến dài có đầu chim cò làm biểu tượng,ở giữa thuyền là một chiến binh đánh trống da có lẽ là trống lệnh tiến lui,thu quân,gần đuôi thuyền có một vọng gác nhìn xa cho thủ lĩnh,có hình hươu.Tay thủ lĩnh cầm cung tên,trên thuyền đã có chiến binh đang sọc giáo vào đầu tù binh để thể hiện đây là thuyền chiến .Có những tang trống còn trang trí trừu tượng về những chiến binh đã hi sinh: bằng những vòng tròn đồng tâm mà trên đó là cái lông cò,không có hình người (biểu tượng cho linh hồn của chiến binh đã hi sinh).Bốn quai trống được tạo hình theo kiểu đan tre nứa.Có ngụ ý : hình trống mang hình cái sọt đựng bát bằng nứa xứ Thanh nay vẫn còn dùng ở các chợ quê.Nhân đây xin giải thích thêm có một số trống đồng khác để cóc ,ếch trên mặt trống ,được người Việt cổ tôn thờ ,theo giả thiết của các nhà khoa học thì cóc,ếch để cầu mùa,cầu mưa,nhưng ta phải hiểu rằng lịch sử thời Hùng vương chỉ có 2 nghề săn bắt và hái lượm .Theo giả thuyết này người xưa quan sát tự nhiên thấy cóc,ếch có rất nhiều con như đàn nòng nọc dưới nước nên tôn thờ 2 vị này phù hộ cho bộ tộc của mình cũng có nhiều con như thế.
Qua phân tích trên ta còn thấy,trống đồng là bảo vật đặc biệt của quốc gia – nó đã để lại cho Việt Nam có một nền văn hóa lớn và rất sớm.Nó đã để lại dư âm cường thịnh của một thời “Văn hóa Đông Sơn”.Chúng ta rất tự hào về nghệ thuật tạo hình của người Việt cổ,hình vẽ được biểu tượng rất cao quý,đó là trí tuệ tuyệt vời của người Việt cổ,để cho con cháu ở thế kỉ này còn đang ngỡ ngàng và bái phục.Một nền nghệ thuật của thế kỉ đồ đồng vươn tới đỉnh cao của 1 nền văn minh hùng mạnh - thời của vua Hùng dựng nước Văn Lang.
Tang trống chủ yếu khắc họa cảnh thuyền chiến bảo vệ nòi giống cũng mang triết lý là thần Dưỡng .
Thuyền chiến dài có đầu chim cò làm biểu tượng,ở giữa thuyền là một chiến binh đánh trống da có lẽ là trống lệnh tiến lui,thu quân,gần đuôi thuyền có một vọng gác nhìn xa cho thủ lĩnh,có hình hươu.Tay thủ lĩnh cầm cung tên,trên thuyền đã có chiến binh đang sọc giáo vào đầu tù binh để thể hiện đây là thuyền chiến .Có những tang trống còn trang trí trừu tượng về những chiến binh đã hi sinh: bằng những vòng tròn đồng tâm mà trên đó là cái lông cò,không có hình người (biểu tượng cho linh hồn của chiến binh đã hi sinh).Bốn quai trống được tạo hình theo kiểu đan tre nứa.Có ngụ ý : hình trống mang hình cái sọt đựng bát bằng nứa xứ Thanh nay vẫn còn dùng ở các chợ quê.Nhân đây xin giải thích thêm có một số trống đồng khác để cóc ,ếch trên mặt trống ,được người Việt cổ tôn thờ ,theo giả thiết của các nhà khoa học thì cóc,ếch để cầu mùa,cầu mưa,nhưng ta phải hiểu rằng lịch sử thời Hùng vương chỉ có 2 nghề săn bắt và hái lượm .Theo giả thuyết này người xưa quan sát tự nhiên thấy cóc,ếch có rất nhiều con như đàn nòng nọc dưới nước nên tôn thờ 2 vị này phù hộ cho bộ tộc của mình cũng có nhiều con như thế.
Qua phân tích trên ta còn thấy,trống đồng là bảo vật đặc biệt của quốc gia – nó đã để lại cho Việt Nam có một nền văn hóa lớn và rất sớm.Nó đã để lại dư âm cường thịnh của một thời “Văn hóa Đông Sơn”.Chúng ta rất tự hào về nghệ thuật tạo hình của người Việt cổ,hình vẽ được biểu tượng rất cao quý,đó là trí tuệ tuyệt vời của người Việt cổ,để cho con cháu ở thế kỉ này còn đang ngỡ ngàng và bái phục.Một nền nghệ thuật của thế kỉ đồ đồng vươn tới đỉnh cao của 1 nền văn minh hùng mạnh - thời của vua Hùng dựng nước Văn Lang.
Còn
theo nhà nghiên cứu Bùi Huy Hồng thì bề mặt các trống đồng Ngọc Lũ và
Hoàng Hạ còn là những thiên đồ (đồ hình thiên văn), cũng có thể dùng làm
nhật quỹ để đo bóng mặt trời, lại còn có thể dùng làm tấm lịch theo hệ
thống dương lịch nếu theo năm và tiết khí, và có tính âm lịch nếu theo
tháng và ngày. Cũng theo Bùi Huy Hồng, nếu làm thí nghiệm đo bóng mặt
trời trên mặt trống đồng, người ta có thể xác định rõ được các điểm đông
chí, hạ chí, xuân phân và thu phân. Và cũng theo ông, người thời Hùng
Vương đã chia đêm, ngày thành 10 giờ, mỗi giờ lại chia nhỏ thành 10
khắc.
Có nhà nghiên cứu còn liên hệ những hình trên mặt trống đồng Đông Sơn với một số nghi lễ nông nghiệp và hội cầu mưa…
Bây giờ, đến lượt chúng ta nhìn nhận vấn đề như thế nào trong thế giới hoang tưởng của mình?
Trước
hết chúng ta cho rằng trống đồng ngay từ buổi xuất hiện đầu tiên đã có thể...
không phải dùng để “đánh”, bởi vì ở những trống đồng được nhiều nhà khảo
cổ xác định là có niên đại sớm nhất (khoảng thế kỷ VII - VI TCN; trống
Tùng Lâm), dù những mô típ hoa văn trên trống còn khá đơn giản, chỉ gồm
những đường hoa văn gấp khúc thành hình bình hành, văn thừng và văn que
diêm, nghệ nhân còn chưa chú ý hoặc chưa có kinh nghiệm về việc chia các
khoảng cách giữa các hoa văn, thì cũng phải thừa nhận rằng so với trình
độ lúc đó, việc chế tạo được trống đồng như thế cũng là một việc làm
tốn nhiều công phu và đòi hỏi sự tinh xảo của tay nghề. Do đó mà trống
đồng trở thành sản phẩm có giá trị cao, quí báu, được giữ gìn nâng niu
mà giới bình dân không thể có khả năng “mua” được, sở hữu được. Quí báu
như thế thì sao lại dùng dùi gỗ hay tre đánh vào? Hay là đánh bằng tay?
Đánh bằng tay thì âm thanh vang tới đâu trong khi khảo cổ cho thấy bên
cạnh trống đồng đã có các loại nhạc cụ, tạo âm thanh có cường độ âm vang
hơn nhiều như trống da, cồng chiêng, chuông…? Mà đánh bằng dùi cũng
không sợ làm biến dạng mặt trống?
Nhưng
nếu trống đồng không phải là trống thì có thể nào có công dụng như cái
bàn trong những gia đình giàu có, quyền quí không? Cũng có thể là về sau
này, trống đồng Đông Sơn mới mang chức năng như cái bàn, cái bệ để bày
ra thờ cúng tổ tiên vào những dịp tưởng nhớ thiêng liêng hay vào những
lần cầu đảo thiên nhiên mưa thuận gió hòa. Trên mặt trống đồng Yên
Quang, niên đại sớm nhất cũng vào khoảng đầu Công Nguyên, có 4 tượng cóc
đúc nổi. Mà quan niệm của người xưa về cóc thì vẫn còn truyền lại đến
ngày nay:
“Con cóc là cậu ông Trời
Cóc mà nghiến lợi thì trời đổ mưa”,
“Cóc kêu trời mưa”,
“Gan cóc tía”,
“Con cóc là cậu ông Trời
Ai mà đánh nó thì Trời đánh cho”.
(Vào
thời này việc đúc đồng đã dễ dàng hơn rất nhiều và “giá thành” nói
chung của một chiếc trống đồng đã giảm xuống đáng kể cho nhiều gia đình
bình dân có thể “sắm” được). Phải chăng nhờ cái chức năng thờ cúng
thiêng liêng cùng với tính thẩm mỹ cao của trống đồng mà nó được “xuất
khẩu” ra khắp Đông Nam Á để rồi đến lượt các nơi đó cũng học cách đúc
nó, và cũng… phải chăng vì chức năng thờ cúng tổ tiên, thần linh mà Mã
Viện đã tịch thu triệt để trống đồng của người Việt cổ, đem nấu chảy đúc
ngựa, hầu dễ bề cai trị?
Dù
sao thì thuở ban đầu, trống đồng không có chức năng dùng cho việc thờ
cúng. Vậy nó có chức năng gì và ai có đủ khả năng về “tiền bạc”, về trí
tưởng tượng phong phú cũng như vế kiến thức hình họa để đặt nghệ nhân
chế tạo ra nó, như một sáng tạo hình như chưa có tiền lệ? Không thể là
những người giàu có, trưởng giả, cũng không thể là những kẻ quyền quí,
cao sang, càng không thể là một nghệ nhân nào đó. Phải cho rằng những
trống đồng được làm ra vào nửa đầu thời đại Đông Sơn là những kiệt tác
và để làm ra những kiệt tác đó, phải là công sức của một tập thể tài
giỏi mà người qui tập, đặt hàng không ai khác, chính là nhà nước Văn
Lang, đứng đầu là Hùng Vương.
Chúng
ta biết rằng, hiện nay khảo cổ học vẫn chưa có luận văn nghiên cứu
chuyên khảo nào về trống đồng. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhất là
hiện tượng khá nhiều trống đồng được phát hiện ngẫu nhiên, lẻ loi, ít
khi nằm cùng với những hiện vật có niên đại được xác định rõ ràng, cho
nên việc xác định niên đại xuất hiện và tồn tại của nó vẫn chưa được soi
tỏ một cách cơ bản (vì trống đồng có thời kỳ là vật thiêng, quí giá nên
nó cũng được gìn giữ, lưu truyền có khi đến nhiều đời và việc nó bị vùi
lấp hoặc tùy táng bên cạnh những đồ vật có niên đại muộn hơn nó hàng
trăm năm là điều có thể xảy ra!).
Điểm
chung nhất của mọi trống đồng Đông Sơn là luôn có hình mặt trời nhiều
tia (hay ngôi sao nhiều cánh) ở giữa, sau đó là những hoa văn hình học
tạo những vành tròn đồng tâm và hình tượng người, vật được khắc họa có
tính lặp lại trên các vành đó. Có điều đặc biệt là số cánh của ngôi sao ở
giữa mặt trống đồng không đồng nhất ở các trống đồng đã phát hiện được,
lúc thì 8 cánh, lúc 10 cánh, lúc 12 cánh và lúc 14 cánh. Vì sao vậy?
Phải chăng ngôi sao nhiều cánh đó là biểu thị nước Văn Lang chói lọi như
mặt trời và số lượng các tia chính là số các bộ (lãnh địa chư hầu trong
hình thức liên bang) của nó, tùy thuộc vào triều đại hoặc khoảng thời
gian các khu vực lãnh địa đó giảm, tăng số lượng (do tách thành nước
riêng, hoặc bị chinh phục lại) mà những trống đồng được chế tác lúc đó
có số tia cũng giảm, tăng theo?
Năm âm lịch theo kinh nghiệm nhiều đời nghiên cứu mặt trăng, vẫn được tính là 354 ngày ( dương lịch tính 365 ngày ) chia ra cho 12 tháng, thì mỗi tháng 29 ngày gọi là tháng thiếu và có dư 6 ngày để thêm vào cho 6 tháng khác gọi là tháng đủ.
Vậy một năm âm lịch có 6 tháng 29 ngày và 6 tháng 30 ngày.
Cứ năm năm lại có hai năm mỗi năm dư 1 tháng, gọi là năm dư tháng nhuận.
Và cứ sau năm thứ 18, qua năm thứ 19 gọi là 1 chương thì lại không tính là năm dư, chỉ có 12 tháng thôi, kể như là năm thường vậy.
Do đó, vòng hình vẽ 18 con chim mỏ dài cánh lớn ở ngoài cùng là hình vẽ một chu kỳ 18 năm, mỗi con chim ấy là 1 năm.
Vòng hình vẽ thứ nhất ở trong cùng gần trung tâm có 6 người trang phục kỳ dị mỗi bên vòng tròn đối nhau, đã không phải người Giao Chỉ ăn bận như thế, mà đó là những vị thần cai quản mỗi vị 1 tháng, trong 6 tháng đầu ở 1 bên và 6 tháng cuối mỗi năm. Thêm có một hình người thấp bé hơn cạnh 6 người ở một bên, đó là để ghi tháng nhuận của năm dư.
Vòng hình vẽ thứ nhì ở giữa, có 6 con gà, 10 con hươu, rồi lại 8 con gà, 10 con hươu, ấy là hình vẽ những con vật tương trưng. Gà chỉ đi ăn vào ban ngày, Hươu đi ăn vào đêm trăng sáng. Có 6 đêm vào đầu tháng từ 1 đến 6 không trăng; và 8 đêm vào cuối tháng từ 22 đến 30 cũng không trăng. Những đêm ấy không đi săn thú được. Và sau đó, khi có trăng thì có thể tổ chức đi săn đêm.
Theo kinh nghiệm cũ truyền mãi tới ngày nay, có 6 đêm đầu tháng không trăng, người ta tính :
Mồng 1 lưỡi trâu - Mồng 2 lưỡi gà - Mồng 3 lưỡi liềm - Mồng 4 câu liêm - Mồng 5 liềm vật - Mồng 6 phạt cỏ - Mồng 7 tỏ trăng, là bắt đầu tuần trăng sáng.
Tuần trăng sáng kia dài đến đúng đêm 10 rằm trăng náu (đáo : đủ ). Mười sáu trăng treo ( chiêu : sáng sủa ). Mười bảy trải giường chiếu ( rủ giường chiếu ). Mười tám giương cạm ( trương : xếp đặt, chẩm : cái gối ). Mười chín bịn rịn (bị : áo ngủ đắp trùm, rị : tối ). Hai mươi giấc tốt ( ngủ ngon ). Hai mốt nữa đêm ( mới có trăng ).
Từ 22 lại vào tuần không trăng, ( 22 – 30 ) nên không cần tính nữa.
Cái hoa 14 cánh ở trung tâm không phải là hình mặt trăng hay mặt trời của bộ lạc thờ những tinh thể ấy, đó là hình vẽ để đếm đêm và ngày.
Đêm là khoảng cách nằm giữa mỗi 2 ngày, trong cả tháng 29 ngày. Tổng số khoảng cách ấy là 28 nếu là tháng thiếu, 29 nếu là tháng đủ.
Cái hoa 14 cánh, đếm hết vòng thứ nhất từ 1 đến đêm trăng tròn (15, đêm rằm ) và đếm vòng thứ 2 nữa, từ 16, thì lại trở về đêm không trăng (đêm 30).
Bắt đầu đếm từ đâu ?
Tìm ra đầu mối là vấn đề quan trọng. Chỉ có 1 điểm trong cả vòng tròn để dùng khởi đầu cuộc đếm. Ấy là điểm chỉ vào đêm 30 không trăng.
Ta biết rằng vào đầu tháng có 6 đêm không trăng.
Vậy điểm khởi đầu để xem lịch phải nằm ở đuôi con gà cuối cùng trong dòng 6 con.
Thực hành việc ghi lịch và xem lịch :
Người ta có thể dùng một chất màu (son phấn, mực đen) mà bôi lên hình của mỗi cánh hoa khi có 1 đêm qua. Chẳng hạn đến cánh thứ tư mà vòng ngoài chưa có gì cả thì đó là đêm mồng 4 tháng giêng năm đầu của chu kỳ. Nếu vòng ngoài đã có 3 hình người tượng trưng cho tháng và vòng ngoài cũng đã có 6 con chim bị bôi rồi thì đó là đêm mồng 4 tháng tư năm thứ 7 của chu kỳ.
Người tù trưởng có thể lấy năm đầu của mình chấp chưởng quyền lãnh đạo làm năm đầu chu kỳ. Khi nhìn vào lịch thì biết rõ mình đã cai trị được bao nhiêu năm.
Con vật nhỏ theo sau mỗi con CHIM THỜI GIAN của một năm là để dành ghi năm nhuận 13 tháng. Cứ 5 năm thì bôi màu đánh dấu vào hai con vật nhỏ ấy, để hết tháng sáu nữa mới bôi vào tháng 6.
( Việc làm có vẻ mất công. Như ngày nay, mỗi ngày người ta cũng phải bóc một tờ lịch, và nếu lịch tháng thì mỗi ngày cũng phải lấy bút đánh dấu để hết tháng thì xé một tờ ).
Năm âm lịch theo kinh nghiệm nhiều đời nghiên cứu mặt trăng, vẫn được tính là 354 ngày ( dương lịch tính 365 ngày ) chia ra cho 12 tháng, thì mỗi tháng 29 ngày gọi là tháng thiếu và có dư 6 ngày để thêm vào cho 6 tháng khác gọi là tháng đủ.
Vậy một năm âm lịch có 6 tháng 29 ngày và 6 tháng 30 ngày.
Cứ năm năm lại có hai năm mỗi năm dư 1 tháng, gọi là năm dư tháng nhuận.
Và cứ sau năm thứ 18, qua năm thứ 19 gọi là 1 chương thì lại không tính là năm dư, chỉ có 12 tháng thôi, kể như là năm thường vậy.
Do đó, vòng hình vẽ 18 con chim mỏ dài cánh lớn ở ngoài cùng là hình vẽ một chu kỳ 18 năm, mỗi con chim ấy là 1 năm.
Vòng hình vẽ thứ nhất ở trong cùng gần trung tâm có 6 người trang phục kỳ dị mỗi bên vòng tròn đối nhau, đã không phải người Giao Chỉ ăn bận như thế, mà đó là những vị thần cai quản mỗi vị 1 tháng, trong 6 tháng đầu ở 1 bên và 6 tháng cuối mỗi năm. Thêm có một hình người thấp bé hơn cạnh 6 người ở một bên, đó là để ghi tháng nhuận của năm dư.
Vòng hình vẽ thứ nhì ở giữa, có 6 con gà, 10 con hươu, rồi lại 8 con gà, 10 con hươu, ấy là hình vẽ những con vật tương trưng. Gà chỉ đi ăn vào ban ngày, Hươu đi ăn vào đêm trăng sáng. Có 6 đêm vào đầu tháng từ 1 đến 6 không trăng; và 8 đêm vào cuối tháng từ 22 đến 30 cũng không trăng. Những đêm ấy không đi săn thú được. Và sau đó, khi có trăng thì có thể tổ chức đi săn đêm.
Theo kinh nghiệm cũ truyền mãi tới ngày nay, có 6 đêm đầu tháng không trăng, người ta tính :
Mồng 1 lưỡi trâu - Mồng 2 lưỡi gà - Mồng 3 lưỡi liềm - Mồng 4 câu liêm - Mồng 5 liềm vật - Mồng 6 phạt cỏ - Mồng 7 tỏ trăng, là bắt đầu tuần trăng sáng.
Tuần trăng sáng kia dài đến đúng đêm 10 rằm trăng náu (đáo : đủ ). Mười sáu trăng treo ( chiêu : sáng sủa ). Mười bảy trải giường chiếu ( rủ giường chiếu ). Mười tám giương cạm ( trương : xếp đặt, chẩm : cái gối ). Mười chín bịn rịn (bị : áo ngủ đắp trùm, rị : tối ). Hai mươi giấc tốt ( ngủ ngon ). Hai mốt nữa đêm ( mới có trăng ).
Từ 22 lại vào tuần không trăng, ( 22 – 30 ) nên không cần tính nữa.
Cái hoa 14 cánh ở trung tâm không phải là hình mặt trăng hay mặt trời của bộ lạc thờ những tinh thể ấy, đó là hình vẽ để đếm đêm và ngày.
Đêm là khoảng cách nằm giữa mỗi 2 ngày, trong cả tháng 29 ngày. Tổng số khoảng cách ấy là 28 nếu là tháng thiếu, 29 nếu là tháng đủ.
Cái hoa 14 cánh, đếm hết vòng thứ nhất từ 1 đến đêm trăng tròn (15, đêm rằm ) và đếm vòng thứ 2 nữa, từ 16, thì lại trở về đêm không trăng (đêm 30).
Bắt đầu đếm từ đâu ?
Tìm ra đầu mối là vấn đề quan trọng. Chỉ có 1 điểm trong cả vòng tròn để dùng khởi đầu cuộc đếm. Ấy là điểm chỉ vào đêm 30 không trăng.
Ta biết rằng vào đầu tháng có 6 đêm không trăng.
Vậy điểm khởi đầu để xem lịch phải nằm ở đuôi con gà cuối cùng trong dòng 6 con.
Thực hành việc ghi lịch và xem lịch :
Người ta có thể dùng một chất màu (son phấn, mực đen) mà bôi lên hình của mỗi cánh hoa khi có 1 đêm qua. Chẳng hạn đến cánh thứ tư mà vòng ngoài chưa có gì cả thì đó là đêm mồng 4 tháng giêng năm đầu của chu kỳ. Nếu vòng ngoài đã có 3 hình người tượng trưng cho tháng và vòng ngoài cũng đã có 6 con chim bị bôi rồi thì đó là đêm mồng 4 tháng tư năm thứ 7 của chu kỳ.
Người tù trưởng có thể lấy năm đầu của mình chấp chưởng quyền lãnh đạo làm năm đầu chu kỳ. Khi nhìn vào lịch thì biết rõ mình đã cai trị được bao nhiêu năm.
Con vật nhỏ theo sau mỗi con CHIM THỜI GIAN của một năm là để dành ghi năm nhuận 13 tháng. Cứ 5 năm thì bôi màu đánh dấu vào hai con vật nhỏ ấy, để hết tháng sáu nữa mới bôi vào tháng 6.
( Việc làm có vẻ mất công. Như ngày nay, mỗi ngày người ta cũng phải bóc một tờ lịch, và nếu lịch tháng thì mỗi ngày cũng phải lấy bút đánh dấu để hết tháng thì xé một tờ ).
Có
thể rằng trong số các trống đồng Đông Sơn thì trống đồng Ngọc Lũ có mặt
trống khắc họa tinh xảo nhất, đẹp nhất. Chúng ta sẽ làm một cuộc khảo
cứu mini, có tính chất “tại gia” về nó.
Vua
Hùng cho chế tác ra trống đồng Ngọc Lũ để làm gì nếu không phải để
“đánh” nó? Con người hành động không bao giờ ngoài mục đích danh lợi
(như là sự đáp ứng đòi hỏi của đời sống, xoa dịu thèm khát, thỏa mãn dục
cảm…), cho nên có thể cho rằng vua Hùng đặt làm một đồ vật tinh xảo,
cầu kỳ và đẹp tuyệt như thế để ngắm nhìn cho thỏa lòng, hả dạ. Nhưng nếu
chỉ thế thôi thì chưa đủ động lực để sáng tạo nên một đồ vật cùng với
sự bài trí hình họa của nó, về tổng thể là tuân theo đối xứng nhưng xét ở
tiểu tiết là vi phạm đối xứng. Chẳng hạn như ở vành tròn ngoài cùng có
chứa hình vật là những con chim, gồm các con chim Lạc (một giống cò?)
đang bay và các con chim khác, nhỏ hơn (hay gà, vịt?) đang đứng, trong
khi 18 con chim Lạc giống hệt nhau thì 18 con chim kia lại có hình dáng
hoặc điệu bộ chẳng con nào giống con nào. Hoặc ở vành tròn khắc họa
người vật, khi hai ngôi nhà mái vòm hoàn toàn giống nhau và đối xứng
nhau qua mặt trời trung tâm thì cử chỉ của mỗi con người đứng trong mỗi
nhà đó lại khác nhau… Chính sự phá vỡ đối xứng đó đã làm cho sự bài trí
hoa văn - hình họa sinh động hẳn lên và hàm chứa những ý nghĩa sâu xa
nào đó mà cho đến nay vẫn còn là điều bí hiểm đối với chúng ta. Từ gợi ý
này cũng như qua tham khảo, quan sát, suy ngẫm, chúng ta đi đến nhận
định: trống đồng Ngọc Lũ được chế tác ra nhằm phục vụ cho một mục đích
có tính trọng đại, lớn lao của triều đại Hùng Vương (có thể là) thứ 18,
tồn tại trong khoảng thời gian (có thể là) từ thế kỷ VI đến giữa thế kỷ
III TCN. Với nhận định đó, chúng ta tiếp tục góp thêm ý kiến (trên cương
vị những nhà nghiên cứu “phi” khảo cổ học) về ý nghĩa của trống đồng
Ngọc Lũ cũng như về những ý nghĩa mà bức đồ họa gồm hệ thống các hoa văn
và hình người vật, mà nó (có thể) hàm chứa để rộng thêm đường dư luận,
để vui vẻ và cũng để… mua đường cho ngắn bớt cuộc hành trình.
Trống đồng Việt Nam có nhiều loại hình, nhưng tất cả đều khởi nguồn từ trống Đông Sơn mà đỉnh cao là sự hoàn thiện kỹ thuật chế tạo là trống đồng Ngọc Lũ. Trống đồng là biểu hiện tập trung nhất những thành tựu trong sinh hoạt kinh tế, văn hóa, xã hội và quyền uy của một nhà nước được xác lập đầu tiên trên đất nước ta - Nhà Nước Hùng Vương. Trống đồng và những hình khắc họa trên trống đã giúp chúng ta ngày nay hình dung được đôi nét về cuộc sống của người Việt cổ ở thời xa xưa ấy. Hoa văn trên trống đồng có nhiều loại, kiểu bố trí hợp lý trên các phần mặt, tang và thân trống. Nó được các nhà nghiên cứu tìm hiểu, phân tích để làm một trong những cơ sở khoa học trong phân loại trống và khắc họa những nét sinh hoạt kinh tế, xã hội, văn hóa Đông Sơn thời bấy giờ.
Trống đồng Việt Nam có nhiều loại hình, nhưng tất cả đều khởi nguồn từ trống Đông Sơn mà đỉnh cao là sự hoàn thiện kỹ thuật chế tạo là trống đồng Ngọc Lũ. Trống đồng là biểu hiện tập trung nhất những thành tựu trong sinh hoạt kinh tế, văn hóa, xã hội và quyền uy của một nhà nước được xác lập đầu tiên trên đất nước ta - Nhà Nước Hùng Vương. Trống đồng và những hình khắc họa trên trống đã giúp chúng ta ngày nay hình dung được đôi nét về cuộc sống của người Việt cổ ở thời xa xưa ấy. Hoa văn trên trống đồng có nhiều loại, kiểu bố trí hợp lý trên các phần mặt, tang và thân trống. Nó được các nhà nghiên cứu tìm hiểu, phân tích để làm một trong những cơ sở khoa học trong phân loại trống và khắc họa những nét sinh hoạt kinh tế, xã hội, văn hóa Đông Sơn thời bấy giờ.
Thời
gian đầu triều đại Hùng Vương thứ 18, nhà nước Văn Lang lại trở nên
hùng cường sau khi chấm dứt nạn can qua ở cuối triều đại trước. (Nói 18
đời vua Hùng có thể chỉ là cách nói ước lệ về khoảng thời gian tồn tại
của thời đại Hùng Vương, 18 đời vua Hùng là gồm 18 triều đại vua Hùng,
mỗi triều đại bình quân là 100 năm, tuy có những triều đại chỉ có một
ông vua, nhất là những triều đại đầu tiên khi chưa có chế độ cha truyền
con nối, nhưng cũng có triều đại kéo dài hàng trăm năm hoặc vài trăm năm
với nhiều ông vua cha truyền con nối; Vua Hùng chỉ như là một danh từ
chung, là tên gọi chung của các triều đại dưới thời nước Văn Lang, đất
nước có một cấu trúc xã hội tương đối ổn định, ít biến đổi trong suốt
thời gian tồn tại của nó).
Theo
tiền lệ là (một vài?) triều đại trước đã đúc trống đồng, triều đại vua
Hùng thứ 18 cũng cho đúc trống đồng Ngọc Lũ và nhờ kinh nghiệm, những
hiểu biết mới rút ra từ những lần đúc trống đồng trước đó mà trống đồng
Ngọc Lũ đã thể hiện được tay nghề điêu luyện của những nghệ nhân, trở
thành kiệt tác, thành niềm tự hào của đất nước Văn Lang lúc đó cũng như
của các thế hệ người Việt sau này.
Trống
đồng được đúc ra phỏng theo một dạng nồi gốm tròn xoay, bụng bầu, cổ
thon miệng rộng và bị lật úp. Muốn làm ra được cái nồi gốm có đường bao
uốn lượn như thế, người Việt cổ phải có bàn quay. Bàn quay và nồi gốm
tròn xoay, “thắt đáy lưng ong” ở phần giữa đã là tiền đề cảm hứng chế
tác trống đồng. Hơn thế nữa, trong sâu thẳm tiềm thức, hình đáng tổng
thể của trống đồng Ngọc Lũ còn gợi cho chúng ta nhớ về cái ý thức đề cao
Linga - Yôni (Dương vật - Âm vật, biểu tượng của khoái lạc (hạnh phúc)
và sinh nở (sung túc) trong quan niệm phồn thực, hồn nhiên, mở đầu cho
cái triết lý của người Việt tiền sử, dung dị mà hóa ra cực kỳ sâu sắc về
tính lưỡng phân lưỡng hợp, tương phản đối ứng của thế giới khách quan,
thể hiện trong vận động, biến đổi, chuyển hóa, xoay vần ở mọi sự vật -
hiện tượng tự nhiên cũng như trong đời sống xã hội. Tượng nam nữ giao
hoan được đúc nổi trên nắp thạp đồng Đào Thịnh đã biểu hiện cái tinh
thần công khai thượng tôn niềm đam mê khoái lạc mà Tạo Hóa đã ban phước
cho con người.
Niềm đam mê xác thịt đó vẫn không hề thay đổi trong mỗi con người ở thế hệ ngày nay. Tuy nhiên sự phân hóa về nhân tính càng trở nên sâu sắc, càng làm cho mặt trái tha hóa của đam mê xác thịt nổi trội dẫn tới nguy cơ suy đồi xã hội. Cùng với hiện tượng đó, tiến trình vận động của xã hội đã phân quyền nam nữ và cả sự thăng tiến của trình độ tiêu dùng đã làm nảy sinh những ước lệ xã hội về hôn nhân gia đình, rồi lâu dài định hình thành thuần phong mỹ tục, tập quán có tác dụng dung dưỡng niềm đam mê xác thịt đó một cách có chừng có mực. Sử sách chép, đến khoảng đầu Công nguyên, nhiều làng người Việt vẫn giữ lệ cũ, cho trai gái được tự do gắn bó vào mùa thu, và mãi đến đời Trần, ở những gia đình nghèo, trai gái vẫn tự do lấy nhau, hoặc có những ngày cuối năm, “tháo khoán” cho trai gái tự do lấy nhau, không cần theo điển lễ phong kiến.
Sau này, sự hợm hĩnh, sự cao ngạo và ích kỷ của giới vương tôn quí tộc thượng lưu trong xã hội phong kiến phân tầng sang - hèn đã làm xuất hiện ra một quan niệm lễ giáo màu mè đạo đức giả, coi việc nói đến những hành vi quan hệ xác thịt là dung tục, thậm chí chỉ gọi ra tên các bộ phận sinh dục thôi đã là tục tĩu, thiếu đạo đức và đáng xấu hổ. Phải chăng nguồn gốc những định ước về từ ngữ được cho là tục tĩu và hiện tượng chửi thề, chửi bậy "như hát hay" xuất phát từ đây? Cái quan niệm đạo đức giả đó trở thành chuẩn mực đánh giá nhân cách con người và còn “di hại” đến tận ngày nay, hàng ngày hàng giờ gây ra cảnh tréo ngoe, nực cười không phải ở riêng khu vực nào mà ở toàn thế giới: Chế độ một vợ một chồng luôn được tung hô; được luật pháp ra tay bảo hộ, song cứ thường xuyên bị “xé rào”, đổ vỡ; chê bai bài bác gay gắt trong công khai nhưng thèm khát trong ngấm ngầm; nhiều vị đạo mạo, khả kính và được ca tụng nhờ lối sống chuẩn mực mô phạm theo định kiến xã hội trên chính trường nhưng trong bóng tối ở hậu trường thì ôi thôi, cũng sinh hoạt tình dục luông tuồng, xả láng có khi còn “ghê” hơn dân đen!
Thời đại Hùng Vương bắt đầu từ trước đây bốn nghìn năm. Thời đại đó dài đến hai mươi thế kỷ, đã in dấu rất rõ vào các mặt sinh hoạt tinh thần và vật chất của dân tộc ta, và còn để lại dấu tích trong cuộc sống chúng ta hiện nay.
-Đặc biệt là cho đến nay trải qua mấy nghìn năm, biết bao thế hệ, biết bao biến đổi mà người Việt Nam ta vẫn tưởng nhớ vua Hùng với tất cả tình yêu và lòng tin... thì sự tưởng nhớ đó phải có sức mạnh lạ thường, phải có gốc rễ rất vững chắc. Sự tưởng nhớ ấy là biểu hiện của sức sống mãnh liệt, một biểu hiện của niềm tự hào dân tộc, ý thức cội nguồn dân tộc giống nòi: “con cháu Quốc Tổ Hùng Vương”; lòng biết ơn sâu sắc đến bậc anh hùng đã có công khai sáng lịch sử và văn hoá dân tộc, anh hùng dựng nước.
-Ý niệm về đất nước do Mẹ Âu, Bố Rồng, Vua Hùng khai sáng và tạo dựng sẽ mở rộng dần thành ý niệm về lãnh thổ và giống nòi, thành tình cảm dân tộc đoàn kết nhiều nhóm người lại với nhau như anh em ruột thịt. Hình tượng "sinh ra trong cùng một bọc" là cội nguồn của ý niệm về "đồng bào", một trong những ý niệm đẹp nhất trong tư duy Việt Nam.
-Dân tộc VN rất qúy trọng con người. Từ sự trân trọng con người như thế, ngay từ thời đại các Vua Hùng, đã phát sinh ra một tình cảm sẽ trở thành đạo lý, thấm sâu vào phong tục Việt Nam suốt đời này qua đời khác. Vì biết quý con người, nên quý cả các đấng sinh thành ra người, các vị giữ gìn, bảo vệ cho cả con người và cả đất nước. Từ đó có đạo thờ tổ tiên, đạo thờ cha mẹ.
Chúng ta cho rằng nếu thực sự nằm trong sự thỏa thuận “đôi bên” và không làm tổn hại đến tình yêu thương (tập quán và định kiến xã hội đúng đắn sẽ giải quyết được vấn đề này) thì một ông lấy 10 vợ (nếu có khả năng!) hay một bà lấy 10 chồng vẫn chẳng có gì đáng nói, thế nhưng dù là một vợ một chồng mà sống trong cảnh lừa dối, đày đọa, ức hiếp lẫn nhau thì mới là điều phải phê phán, phải lên án.
Rõ ràng, những thôi thúc tự nhiên bao giờ cũng chiếm ưu thế hơn những định ước xã hội. Không có ý chí nào tiêu diệt được nạn mại dâm là vì thế!
Niềm đam mê xác thịt đó vẫn không hề thay đổi trong mỗi con người ở thế hệ ngày nay. Tuy nhiên sự phân hóa về nhân tính càng trở nên sâu sắc, càng làm cho mặt trái tha hóa của đam mê xác thịt nổi trội dẫn tới nguy cơ suy đồi xã hội. Cùng với hiện tượng đó, tiến trình vận động của xã hội đã phân quyền nam nữ và cả sự thăng tiến của trình độ tiêu dùng đã làm nảy sinh những ước lệ xã hội về hôn nhân gia đình, rồi lâu dài định hình thành thuần phong mỹ tục, tập quán có tác dụng dung dưỡng niềm đam mê xác thịt đó một cách có chừng có mực. Sử sách chép, đến khoảng đầu Công nguyên, nhiều làng người Việt vẫn giữ lệ cũ, cho trai gái được tự do gắn bó vào mùa thu, và mãi đến đời Trần, ở những gia đình nghèo, trai gái vẫn tự do lấy nhau, hoặc có những ngày cuối năm, “tháo khoán” cho trai gái tự do lấy nhau, không cần theo điển lễ phong kiến.
Sau này, sự hợm hĩnh, sự cao ngạo và ích kỷ của giới vương tôn quí tộc thượng lưu trong xã hội phong kiến phân tầng sang - hèn đã làm xuất hiện ra một quan niệm lễ giáo màu mè đạo đức giả, coi việc nói đến những hành vi quan hệ xác thịt là dung tục, thậm chí chỉ gọi ra tên các bộ phận sinh dục thôi đã là tục tĩu, thiếu đạo đức và đáng xấu hổ. Phải chăng nguồn gốc những định ước về từ ngữ được cho là tục tĩu và hiện tượng chửi thề, chửi bậy "như hát hay" xuất phát từ đây? Cái quan niệm đạo đức giả đó trở thành chuẩn mực đánh giá nhân cách con người và còn “di hại” đến tận ngày nay, hàng ngày hàng giờ gây ra cảnh tréo ngoe, nực cười không phải ở riêng khu vực nào mà ở toàn thế giới: Chế độ một vợ một chồng luôn được tung hô; được luật pháp ra tay bảo hộ, song cứ thường xuyên bị “xé rào”, đổ vỡ; chê bai bài bác gay gắt trong công khai nhưng thèm khát trong ngấm ngầm; nhiều vị đạo mạo, khả kính và được ca tụng nhờ lối sống chuẩn mực mô phạm theo định kiến xã hội trên chính trường nhưng trong bóng tối ở hậu trường thì ôi thôi, cũng sinh hoạt tình dục luông tuồng, xả láng có khi còn “ghê” hơn dân đen!
Thời đại Hùng Vương bắt đầu từ trước đây bốn nghìn năm. Thời đại đó dài đến hai mươi thế kỷ, đã in dấu rất rõ vào các mặt sinh hoạt tinh thần và vật chất của dân tộc ta, và còn để lại dấu tích trong cuộc sống chúng ta hiện nay.
-Đặc biệt là cho đến nay trải qua mấy nghìn năm, biết bao thế hệ, biết bao biến đổi mà người Việt Nam ta vẫn tưởng nhớ vua Hùng với tất cả tình yêu và lòng tin... thì sự tưởng nhớ đó phải có sức mạnh lạ thường, phải có gốc rễ rất vững chắc. Sự tưởng nhớ ấy là biểu hiện của sức sống mãnh liệt, một biểu hiện của niềm tự hào dân tộc, ý thức cội nguồn dân tộc giống nòi: “con cháu Quốc Tổ Hùng Vương”; lòng biết ơn sâu sắc đến bậc anh hùng đã có công khai sáng lịch sử và văn hoá dân tộc, anh hùng dựng nước.
-Ý niệm về đất nước do Mẹ Âu, Bố Rồng, Vua Hùng khai sáng và tạo dựng sẽ mở rộng dần thành ý niệm về lãnh thổ và giống nòi, thành tình cảm dân tộc đoàn kết nhiều nhóm người lại với nhau như anh em ruột thịt. Hình tượng "sinh ra trong cùng một bọc" là cội nguồn của ý niệm về "đồng bào", một trong những ý niệm đẹp nhất trong tư duy Việt Nam.
-Dân tộc VN rất qúy trọng con người. Từ sự trân trọng con người như thế, ngay từ thời đại các Vua Hùng, đã phát sinh ra một tình cảm sẽ trở thành đạo lý, thấm sâu vào phong tục Việt Nam suốt đời này qua đời khác. Vì biết quý con người, nên quý cả các đấng sinh thành ra người, các vị giữ gìn, bảo vệ cho cả con người và cả đất nước. Từ đó có đạo thờ tổ tiên, đạo thờ cha mẹ.
Chúng ta cho rằng nếu thực sự nằm trong sự thỏa thuận “đôi bên” và không làm tổn hại đến tình yêu thương (tập quán và định kiến xã hội đúng đắn sẽ giải quyết được vấn đề này) thì một ông lấy 10 vợ (nếu có khả năng!) hay một bà lấy 10 chồng vẫn chẳng có gì đáng nói, thế nhưng dù là một vợ một chồng mà sống trong cảnh lừa dối, đày đọa, ức hiếp lẫn nhau thì mới là điều phải phê phán, phải lên án.
Rõ ràng, những thôi thúc tự nhiên bao giờ cũng chiếm ưu thế hơn những định ước xã hội. Không có ý chí nào tiêu diệt được nạn mại dâm là vì thế!
Vua Hùng đã “cố tình” đòi hỏi phải đúc cho được một đồ vật thật
độc đáo, thật đặc biệt với độ khó về kỹ thuật cũng như độ khó về mức độ
thể hiện tinh xảo hệ thống họa tiết trên đó đến độ không ai có thể chế
tác được ngoài nhóm nghệ nhân và nhà thông thái mà vua Hùng đã huy động
khắp đất nước (do đó mà công nghệ chế tác trống đồng Ngọc Lũ có khả năng
trở thành bí mật quốc gia trong một thời gian dài?).
(Còn tiếp)
------------------------------------------------------------------
------------------------------------------------------------------
|
Nhận xét
Đăng nhận xét