Thứ Năm, 16 tháng 2, 2017
CÂU CHUYỆN KHOA HỌC 77/f (VŨ KHÍ CỔ ĐẠI)
Vũ khí cổ đại P6
Top 10 loại Vũ khí Sát thương nhất của Trung Quốc
Những vũ khí cổ đại "quái dị" của Trung Quốc
PV |
Người Trung Quốc cổ đại là những bậc thầy về sáng chế. Điều này thể hiện rõ nét qua các loại vũ khí kỳ lạ họ sử dụng trong chiến trận.
Chiếc chiến xa nhiều tầng này vừa là một thứ vũ khí cận chiến, vừa
được sử dụng để áp thành đối phương và cho quân lính tràn lên chiếm
lĩnh.
Chiến xa này cũng được dùng để chiếm thành, được thiết kế với một
chiếc thang gấp có độ cao được tính toán phù hợp với bức tường cần vượt
qua.
Một chòi quan sát di động có chiều cao khoảng 6m. Người quan sát sẽ được bảo vệ trong khoang làm bằng nhiều lớp da bò.
Chiếc chiến xa lắp hàng chục mũi dao này rất phổ biến trong các đội quân Trung Quốc cổ đại.
"Hổ xa" là chiến xa có hình dáng một con hổ, vừa có thể sát thương vừa uy hiếp được tinh thần kẻ thù.
Chiến xa cá nhân với những tấm khiên dài che chắn.
Những chiến xa kiểu này có nhiều biến thể khác nhau, phụ thuộc vào loại vũ khí được người lính sử dụng.
Xe bọc thép che chắn cho bộ binh tiếp cận thành dưới cơn mưa tên của kẻ thù.
Xe phun lửa, một ứng dụng của thuốc súng trong trận mạc.
Một thứ vũ khí "quái dị" của người Trung Quốc là những"ngọn đuốc sống"
lằm bằng trâu, ngựa. Con vật sẽ bị tẩm hóa chất cháy vào đuôi, điên dại
lao thẳng vào kẻ thù vì sức nóng của ngọn lửa.
Máy ném đá sử dụng sức kéo và nguyên lý đòn bẩy, một thứ vũ khí tầm xa có sức sát thương rất lớn.
"Phát thạch xa" là tên gọi của loại máy ném đá có bánh xe.
Máy ném đá liên hoàn, có thể ném cùng lúc 5 viên đá.
"Liên nỗ" là loại nỏ có hộp nạp tên tự động, tốc độ bắn rất nhanh.
"Tam cung sàng nỗ" là loại nỏ máy có tầm bắn xa và lực bắn cực mạnh.
Hệ thống nỏ tự động gồm nhiều máy nỏ, mổi chiếc có thể bắn nhiều mũi tên.
Giàn phóng tên lửa, có thể phóng hàng chục mũi tên nhờ lực đẩy của thuốc súng. Ảnh: Internet.
theo Theo Kienthuc
Những vũ khí gây kinh hoàng trên chiến trường cổ đại
23-04-2016
Móc Acsimet dùng để phá chiến thuyền địch hay súng phun lửa sơ khai là
những vũ khí kỳ lạ thời cổ đại được cho là có khả năng thay đổi cục diện
chiến trường.
Khi
nói đến chiến tranh thời cổ đại, phần lớn mọi người đều cho rằng chúng
chẳng có gì ngoài giáo mác, cung tên hay ghê gớm nhất cũng chỉ là máy
bắn đá. Thế nhưng, trong thực tế, các chiến binh thời xa xưa còn sở hữu
những vũ khí vô cùng lợi hại và tinh vi khác. Dưới đây là 4 trang bị gây
ấn tượng thời cổ đại theo đánh giá của trang tin quân sựWearethemighty.com
Móc Acsimet
Móc Acsimet. Ảnh minh họa: Wearethemighty.com
|
Nhà
toán học kiêm chuyên gia phát minh trứ danh người Hy Lạp Acsimet đã
phát triển nhiều vũ khí để hỗ trợ hệ thống phòng thủ tại quê hương ông ở
thành phố Syracuse trên đảo Sicily. Những vũ khí này bao gồm các phiên
bản cải tiến của vũ khí tầm xa thời bấy giờ như máy bắn đá hay máy bắn
tên ballista.
Ông
cũng được cho là đã thiết kế ra một số vũ khí khá kỳ lạ để hỗ trợ sứ
mệnh bảo vệ tuyến đê biển của Syracuse trước những cuộc tấn công của các
chiến thuyền La Mã thời Chiến tranh Punic lần thứ hai, giai đoạn từ năm
218 đến 202 trước Công nguyên.
Mặc
dù kiểu dáng chính xác của móc Acsimet đến nay vẫn chưa sáng tỏ nhưng
theo miêu tả của nhiều chuyên gia, nó là một cần trục lớn có gắn một
chiếc móc hàm khổng lồ. Khi chiến thuyền La Mã áp sát đê biển, móc
Acsimet sẽ được thả xuống để quặp vào thuyền địch rồi nhấc bổng chúng
lên khỏi mặt nước. Khi bị thả xuống biển, những chiến thuyến này sẽ bị
lật hoặc ít nhất là va chạm mạnh với mặt nước rồi vỡ tan, các thủy thủ
cũng bị bắn tung ra ngoài.
Nhà sử học Titus Livius cho rằng hạm đội La Mã đã hứng chịu thương vong khủng khiếp trước loại vũ khí này.
Một
nhóm chuyên gia làm việc cho kênh truyền hình Discovery từng tái tạo
móc Acsimet bằng cách vận dụng công nghệ thời đại đó, đồng thời thử dùng
nó để lật úp một bản sao chiến thuyền La Mã nhằm chứng minh rằng móc
Acsimet quả thực là một vũ khí cực kỳ hữu hiệu.
Gương hội tụ ánh sáng mặt trời
Chiếc gương hội tụ ánh sáng mặt trời thành tia nhiệt đốt cháy thuyền chiến địch. Ảnh minh họa: Wearethemighty
|
Một
phát minh khác của Acsimet còn gây tranh cãi và ẩn chứa nhiều điều kỳ
bí hơn là một dạng vũ khí chiếu tia nhiệt giúp thiêu cháy chiến thuyền
kẻ thù. Theo đó, hàng loạt tấm gương lồi sẽ được đặt ở các vị trí chiến
lược nhằm hội tụ ánh sáng Mặt Trời vào một điểm trên thuyền gỗ của địch,
khiến nó bốc cháy. Cơ chế hoạt động của vũ khí này hoàn toàn giống hành
động sử dụng kính lúp để đốt cháy giấy dưới ánh nắng.
Hầu
hết các chiến thuyền La Mã thời đó đều có phủ một lớp hắc ín để giúp
bịt kín các kẽ hở, ngăn nước rò rỉ vào. Tuy nhiên lớp hắc ín này khiến
chiến thuyền rất dễ cháy khi bị chiếu tia nhiệt.
Một
số nhà sử học cổ đại ghi chép rằng gương chiếu tia nhiệt từng được
triển khai trong trận La Mã vây hãm Syracuse năm 212 trước Công nguyên.
Song, sau khi thử tái dựng gương chiếu tia nhiệt, Viện Công nghệ
Massachusetts cùng một số nhóm nhà khoa học khác kết luận rằng đây là
loại vũ khí gần như phi thực tế.
Lý
do là để vận hành vũ khí này người ta phải phụ thuộc vào vị trí Mặt
Trời cũng như đòi hỏi bầu trời phải quang mây. Hơn nữa, gương chiếu tia
nhiệt chỉ phát huy tác dụng đối với các mục tiêu đứng yên bởi nó cần
nhiều thời gian để kích cháy.
Dù
có thành công đi chăng nữa thì gương chiếu tia nhiệt cùng lắm cũng chỉ
có thể tạo ra các đám cháy nhỏ dễ dàng dập tắt. Nếu muốn tấn công chiến
thuyền, những mũi tên lửa hay máy bắn đá là các vũ khí khả dĩ hơn bởi có
tầm bắn xa và dễ dàng triển khai.
Tác
dụng thực tế duy nhất của gương chiếu tia nhiệt là khiến thủy thủ trên
các chiến thuyền địch lóa mắt. Mặc dù còn khiếm khuyết nhưng ý tưởng về
việc sử dụng ánh sáng làm vũ khí gây chết người chính là tiền đề cho sự
ra đời của vũ khí laser hiện đại ngày nay.
Vũ khí sinh học
Sau
hàng loạt xích mích, Hãn quốc Kim Trướng (tên gọi một Hãn quốc Hồi giáo
Mông Cổ) năm 1346 kéo quân bao vây thành phố Caffa (lãnh thổ Crimea
ngày nay). Khi đó, bệnh dịch hạch đang hoành hành ở Crimea và nó nhanh
chóng lây nhiễm sang các binh sĩ Mông Cổ, khiến hàng nghìn người tử
vong.
Theo
ghi chép của công chứng viên người Italy Gabriele de’ Mussi, lúc bấy
giờ, hoàng đế Hãn quốc Kim Trướng Trát Ni Biệt (Janibeg) đã ra lệnh ném
thi thể của các binh sĩ thiệt mạng do dịch hạch sang bên kia thành lũy
của Caffa.
"Chẳng
bao lâu sau, những thi thể phân hủy đã gây ô nhiễm không khí và nguồn
nước. Mùi hôi thối nồng nặc đến nỗi không một ai trong vài nghìn người
bị vây hãm dám bước qua các xác chết này", Mussi viết. Hơn nữa, bệnh
dịch hạch còn lây lan với tốc độ chóng mặt. Cuối cùng, mọi người trong
thành phố đều chết dần do nhiễm bệnh.
Các
tàu buôn của Italy được cho là đã phát tán dịch hạch sang châu Âu khi
bỏ chạy khỏi thành phố Caffa và gây ra đại dịch kinh hoàng, còn gọi là
Cái chết Đen, khiến hơn 25% dân số của lục địa này tiêu vong. Dẫu vậy,
giới chuyên gia nhận định, trận vây hãm Caffa dường như chỉ đóng một vai
trò rất nhỏ trong việc làm bùng phát đại dịch bởi thực tế, châu Âu bị
ảnh hưởng bởi rất nhiều nguồn lây nhiễm khác nhau.
Súng phun lửa
Súng phun lửa. Ảnh minh họa: Wearethemighty
|
Hàng
loạt vũ khí phun lửa và chất lỏng gây cháy từng xuất hiện từ thời cổ
đại nhưng Đế quốc Đông La Mã được cho là nơi tạo ra một loại vũ khí phun
lửa vô cùng đặc biệt. Các nhà sử học còn miêu tả đây là phiên bản thô
sơ của bom napalm ngày nay.
Giới
khoa học vẫn chưa nắm rõ về cấu tạo của vũ khí này, nhưng theo một số
bản ghi chép, chúng thường sử dụng một chất dễ cháy gọi là naptha hay
"lửa Hy Lạp". Naptha sẽ được đốt cháy lên trong các bình đất sét, sau đó
người ta sẽ ném chúng bằng tay hoặc máy bắn đá nhắm vào chiến thuyền,
các phương tiện vây hãm và binh sĩ đối phương.
Naptha
cũng được dùng trong một số phiên bản sơ khai của súng phun lửa. Các
đạo quân cổ đại sẽ đổ đầy naptha vào các ống đồng lớn rồi đặt trên mũi
chiến thuyền. Sau đó, họ đẩy hơi vào ống đồng để bắn chất lỏng gây cháy
này sang thuyền kẻ thù. Naptha chỉ có thể bị dập tắt bằng cát. Nếu dùng
nước để dập sẽ chỉ khiến nó lan rộng ra và đám cháy càng trở nên dữ dội.
Ngoài
súng phun lửa lắp trên chiến thuyền, người cổ đại còn có cả một loại
súng phun lửa cầm tay với tên gọi cheiroseiphon. Chúng thường được dùng
để đốt cháy các tháp chiến đấu, song một số chiến lược gia của Đế quốc
Đông La Mã cũng sử dụng cheiroseiphon trên chiến trường nhằm gây khiếp
sợ và phá vỡ đội hình đối phương.
Theo vnexpress.net
SỰ THẬT ĐẮNG LÒNG VỀ CUNG TÊN LỬA TRONG CÁC TRẬN CHIẾN CỔ ĐẠI
Các bộ phim chiến tranh về thời
trung cổ, hay thậm chí là cả phim về thời Chiến quốc (TQ), chúng ta được
chứng kiến sự phổ biến của việc sử dụng cung tên có châm lửa. Thế
nhưng, trên thực tế thì loại vũ khí này lại khá yếu và không hề hiệu quả
như chúng ta từng xem trên màn ảnh.
Trong các bộ phim chiến tranh kinh điển
như Tam Quốc hay thậm chí cả trong các phim mang bối cảnh khá "Âu hóa"
như Game of Thrones, Gladiator... chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp cảnh
những đội cung thủ đồng loạt bắn tên châm lửa hủy diệt những công trình,
thành quách hay thậm chí là thiêu đốt cả quân lính phía đối phương.
Những cảnh chiến trường hỗn loạn, lửa cháy khắp nơi hay binh lính chạy
tán loạn vì bị lửa đốt đều đã trở thành thương hiệu và khiến cho khán
giả nghĩ rằng cung tên hay nỏ châm lửa luôn là thứ vũ khí lợi hại trong
các cuộc chiến.
Thế nhưng, trên thực tế thì các nhà khoa
học đã chứng minh được rằng loại vũ khí cung tên châm lửa như thế này
không hề hiệu quả và có thể gây nên sự hỗn loạn lớn trên chiến trường
như chúng ta từng thấy trên màn ảnh. Cụ thể như sau:
Độ hiệu quả của một cung tên bình thường
được căn cứ vào 3 yếu tố là: tầm bắn, độ chính xác và khả năng xuyên phá
giáp của đối phương. Một cung thủ trên chiến trường sẽ phải lựa chọn vị
trí để thỏa mãn cả 3 yếu tố trên một cách tốt nhất. Còn với cung tên
lửa thì bạn sẽ phải hi sinh đi một, thậm chí cả 3 yếu tố trên chỉ để có
được một đốm lửa trông khá... "ngầu" ở phía đầu mũi tên.
Bởi lẽ để có thể giữ được lửa trên đầu mũi
tên, người ta sẽ phải quấn nguyên liệu tẩm chất đốt vào đầu mũi tên,
khiến cho nó mất đi hình dáng cơ học thuận tiện nhất để bay xa hay xuyên
phá đối thủ. Để khắc phục điều này, bạn có thể kéo cung căng hơn nhằm
tăng lực bắn nhưng điều này sẽ làm đầu mũi tên (đang có lửa) bị kéo sát
vào cung, khiến tay của cung thủ bị thương và có thể bắt lửa cả vào cây
cung của họ nữa.
Nếu bạn khắc phục điều này bằng cách làm
mũi tên dài hơn thì lại vướng phải vấn đề khác, đó là trọng lượng mũi
tên sẽ bị tăng lên và như thế thì... tầm bắn lại bị giảm xuống. Nếu bạn
làm mũi tên dài nhưng mỏng manh hơn để giữ trọng lượng lý tưởng thì lại
làm giảm độ bền và khả năng xuyên phá của mũi tên. Như vậy thì có thể
thấy rằng dù làm cách nào đi chăng nữa, việc châm thêm một ngọn lửa vào
đầu mũi tên cũng sẽ khiến cho độ hiệu quả của thứ vũ khí này giảm đi khá
nhiều.
Nói đến đây, nhiều độc giả sẽ cho rằng sự
kém hiệu quả về tầm bắn, sức xuyên phá của mũi tên lửa sẽ được bù lại
bằng khả năng tạo lên sự hỗn loạn, châm lên những mồi lửa lớn để phá hủy
công trình phía đối phương hay bám dính trên bộ giáp khiến đối thủ chết
vì bỏng. Nhưng một lần nữa, khoa học lại chứng minh rằng khả năng bắt
lửa của loại vũ khí này không tuyệt vời như trên phim.
Trên phim ảnh, bạn có thể thấy cảnh hàng
loạt cung thủ bắn tên lửa vào các tòa thành, khiến mái nhà bốc cháy, các
mũi tên lửa trúng vào quân lính là ngay lập tức tạo nên ngọn lửa bao
trùm lấy họ....
Thực tế thì các nhà khoa học đã thử nghiệm
với tất cả các loại vật liệu gây cháy có thể sử dụng để đặt vào đầu mũi
tên. Và kết quả cho thấy chỉ 2% số mũi tên bắn ra có thể làm bén lửa
lên mục tiêu bị bắn mà thôi. Điều này có nghĩa là trong 100 mũi tên lửa
bạn bắn ra sẽ chỉ có 2 mũi tên bắt lửa vào lính đối phương nhưng tên
lính đó cũng sẽ chẳng bị lửa thiêu đốt như trên màn ảnh mà hắn có thể dễ
dàng gỡ tên và dập lửa trong một nốt nhạc mà thôi.
Và không phải nói nhiều thì bạn cũng thấy
rằng cái tỉ lệ bắt lửa chỉ chiếm 2% như vậy là quá thấp và không hiệu
quả để sử dụng rộng rãi.
Nói đến đây, nhiều độc giả sẽ lại thắc mắc
rằng tại sao một thứ vũ khí hiệu quả kém như vậy lại vẫn thường xuất
hiện trong các ghi chép về những cuộc chiến thời xưa. Chưa kể đến việc
có nhiều bằng chứng cho thấy cả các chiến lược gia vĩ đại cũng từng cho
binh lính sử dụng cung tên lửa.
Câu trả lời đã được đưa ra, đó là vào thời
trung cổ thì các cuộc chiến có sự hiện diện của cung tên lửa luôn đi
kèm với các vật liệu dễ cháy, dễ phát nổ nằm ngay bên trong lòng địch.
Đó có thể là kho rơm rạ cho ngựa, kho thuốc súng... Khi tấn công những
mục tiêu này thì với số lượng tên bắn ra lớn, chỉ cần 2% trong số đó bắt
lửa là cũng có thể đạt mục đích phá hủy tài nguyên của địch đúng như
yêu cầu.
Như vậy thì cung tên lửa sẽ chỉ được sử
dụng khi tấn công vào những nơi chứa vật liệu dễ cháy, dễ bắt lửa của
địch mà thôi chứ không dùng để tấn công trên chiến trường rộng lớn như
chúng ta từng thấy trên màn ảnh. Và một lần nữa, các nhà làm phim đã
định hướng sai cho trí tưởng tượng của khán giả, khiến chúng ta tưởng
nhầm rằng cung tên lửa là thứ vũ khí cực kì mạnh, được sử dụng phổ biến
trên mọi chiến trường.
Theo TTTO
Kỹ thuật quân sự thời cổ đại (từ thế kỷ thứ V trước công nguyên đến thế kỷ thứ V sau công nguyên)
16:31 | 19/08/2012
(Bqp.vn)
- Theo những tài liệu xác định, những hoạt động quân sự có tổ chức trên
cạn, đã xuất hiện những đụng độ thường xuyên, ác liệt giữa các nước
chiếm hữu nổ lệ cổ đại, trong đó vùng biển Địa Trung Hải là nơi sối động
nhất. Đó là sự ra đời của Quân đội (Army) bên cạnh Hạm đội quân sự
(Flot) như các nước Ai Cập, Phênixi, Cáctagiơ, Hy Lạp, La Mã...
Đỉnh
cao của nghệ thuật quân sự trong thời cổ đại thuộc về những quân đội và
những hạm đội của Hy Lạp, La Mã (thế kỷ VIII trước công nguyên - thế kỷ
V sau công nguyên). Do vị trí địa lý và nhu cầu giao thông buôn bán nên
vùng Địa Trung Hải - cái nổi của nhiều quốc gia chiếm hữu nổ lệ cổ đại
sớm có những hoạt động đặc biệt sối động. Các nước chủ nổ trong vùng đổ
xô vào kiếm lợi bằng con đường thương mại hoặc cướp bóc chinh phục lẫn
nhau. Chưa bao giờ lại có sự đụng độ thường xuyên và khốc liệt như thời
này. Vì vậy, lần đầu tiên trong lực lượng vũ trang phân thành hai bộ
phận riêng biệt là quân đội trên đất liền và hạm đội trên biển.
Theo
Ph.Ăngghen, quân đội Ai Cập là quân đội đầu tiên mà chúng ta có thể có
nhiều tài liệu đáng tin cậy. Thời đại ấy trùng hợp với thời đại trị vì
của Ramxét II (Xêxôtơrítxơ). Những bức tranh và những chữ viết ở rất
nhiều đài kỷ niệm thời đại trị vì của ông và ca ngợi những chiến công,
là nguồn tư liệu chủ yếu của chúng ta về tình hình quân sự của người Ai
Cập. Toàn bộ quân đội được bố trí như kiểu những làng quân sự, mỗi người
lính được nhận một khoảnh đất khá rộng ban thưởng cho công lao phục vụ
của họ. Những làng quân ở vùng hạ lưu sống Nin là vùng mà các quốc gia
châu Á có thể bất ngờ tiến công, còn vùng thượng lưu chỉ bố trí vài làng
quân sự bởi Êtiôpia không phải là đối thủ đáng sợ.
Bộ
binh là sức mạnh của quân đội, đặc biệt là đội lính bắn cung. Ngoài đội
quân bắn cung ra, còn có những đơn vị được trang bị khác nhau tùy theo
vũ khí trang bị của họ: tiểu đoàn lính cầm giáo, kiếm, lính vác gậy,
lính dùng nỏ bắn đá v.v... Bộ binh sử dụng rất nhiều “xe chiến”, trên xe
có hai người lính: một người đánh xe và một người bắn cung, chỉ mãi sau
này mới có những đội kỵ binh. Vũ khí tự vệ của quân lính Ai Cập gồm có
mộc, mũ, giáp che ngực hoặc áo giáp dài làm bằng những vật liệu khác
nhau. Họ đã trang bị một loại mộc dùng để bảo vệ những người lính đánh
thành (testudo); đó là chiến mộc hình mu con rùa hoặc mộc hình lá nho
(một loại lá chắn tết bằng những vòng sắt nhỏ, ngoài bọc da ẩm hoặc cỏ).
Átxiri
là nước đã cung cấp cho chúng ta hình ảnh sớm nhất về các quân đội châu
Á, là quân đội từng chiến đấu hơn 1000 năm để giành giật các nước Địa
Trung Hải và sống Indơ. Qua những tài liệu thì bộ binh cũng được trang
bị giống như bộ binh của Ai Cập, mặc dù cung có lẽ ít có tác dụng. Còn
về vũ khí tự vệ và vũ khí tiến công chỉ khác là Ai Cập chế tạo tốt hơn,
hình dáng gọn ghẽ hơn. Ngoài ra, Átxiri có nhiều kiểu vũ khí hơn do chỗ
có nhiều vương quốc lớn. Vũ khí chủ yếu là giáo, cung, kiếm và dao găm;
có những hình vẽ quân lính Atxiri trang bị cả gậy bọc sắt. Giáp và mộc
thường được bọc dạ hay bọc da. Các cỗ xe chiến là một thành phần quan
trọng trong quân đội, người đánh xe phải được cái mộc của người bắn cung
che chở, xuất hiện những người lính cưỡi ngựa, những đội kỵ binh đầu
tiên trên thế giới. Kiểu yên ngựa mềm và cao tựa yên ngựa ngày nay
phương Đông vẫn dùng. Những đội kỵ binh ấy lại rất đáng sợ đối với một
đạo quân đang bị ròi loạn và đang tan rã. Loại kỵ binh này được khắc họa
như một binh chủng quý tộc và chính những người châu Á đã dạy cho những
người Ai Cập cách sử dụng ngựa chiến và kỵ binh. Atxiri là nước đầu
tiên luyện sắt bằng phương pháp thủ công, chỉ trong một thời gian ngắn,
vũ khí được trang bị bọc sắt, giáp sắt, cung sắt v.v... làm cho sức mạnh
chiến thắng của quân đội Átxiri rất to lớn, các nước lớn láng giềng
phải khiếp sợ.
Vương
quốc Ba Tư lập nên những chiến công hiển hách là nhờ những người lính
du mục của Phácxítxtan, đất nước của những con người cưỡi ngựa, ở đó kỵ
binh chiếm địa vị thống trị. Mỗi tỉnh có một đơn vị thường trực, các
tỉnh phải chịu phí tổn nuôi các đơn vị ấy. Đội cận vệ của Sa hoàng gồm
10.000 tên lính bộ binh, đeo trang sức bằng vàng đầy ngươi; trong đó có
1.000 tên trang bị nỏ sắt, 1.000 tên thuộc đội vệ binh cận vệ, cùng với
rất nhiều cỗ xe chiến.
Sự
hình thành của đế quốc Ba Tư chưa lâu, nhưng uy danh sớm chấn động cả
một phương. Chỉ trong vòng hơn nửa thế kỷ, từ giữa thế kỷ VI đến đầu thế
kỷ V trước công nguyên, bằng sức mạnh quân sự và những chính sách khôn
khéo, người Ba Tư đã thiết lập được một đế quốc rộng hơn bất kỳ một đế
quốc nào trước nó. Xuất phát từ miền tây cao nguyên Iran, những đạo quân
Ba Tư đã rong ruổi sang phía tây tới giáp triển sống Đanuýp (Danube),
về phía đông, họ đã băng qua sống Anhduýt (Indus) xa xôi và cả một dải
đất rộng lớn ở phía nam Địa Trung Hải bao gồm Ai Cập và Libi cũng bị
lưỡi gươm chinh phục của họ đặt vào cương giới. Nhưng ngự trị trên một
đất nước rộng khoảng chục triệu cây số vuông vẫn chưa thỏa mãn được tham
vọng của những vị hoàng đế Ba Tư.
Quân
đội Hy Lạp, bộ binh nặng (hôplít) hợp thành các chấp kích đội (đội hình
tuyến) gồm những lính cầm giáo. Về sau, tổ chức ra bộ binh nhẹ và kỵ
binh thì bộ binh nặng là nòng cốt lực lượng vũ trang. Vũ khí của bộ binh
nặng gồm có giáp che ngực hay gọi là pauxiarơ, mũ, mộc hình bầu dục,
giáo và kiếm ngắn. Các vũ khí trang bị đó làm nên sự nổi danh về khí thế
tiến công cuồng bạo, đặc biệt trận Maratổng (Marathon) tháng 9 năm 490
trước công nguyên, Minchiát đã nâng cao tốc độ tiến công của bộ binh.
Mối đe dọa khủng khiếp về những cuộc xâm lăng của quân Ba Tư đã đời hỏi
phải tăng thêm số lượng và chất lượng quân số, vũ khí, trang bị. Họ xây
dựng một loại binh chủng trung gian giữa bộ binh nhẹ và bộ binh nặng
(pentatsơ) trang bị như bộ binh nhẹ nhưng có khả năng hơn đánh chiếm và
cố thủ các vị trí.
Trong
số các quốc gia Hy Lạp, quân đội Xpáctơ coi người lính sau khi bị thất
bại mà đánh mất chiếc mộc là một điều sỉ nhục. Điều này là bằng chứng
nói về cuộc rút lui có trật tự, còn những tên lính chạy lẻ mong muốn
thoát thân thì tất phải vứt bỏ tấm mộc nặng nề.
Người
Hy Lạp trong thời kỳ này đã bắt chước được các loại vũ khí khác nhau
của các nước láng giềng dã man và bán dã man, đã tổ chức ra lính bắn
cung, cưỡi ngựa, quân lính dùng nỏ bắn đá.
Sự
phát triển kỵ binh lên tột đỉnh thắng lợi với công lao hai cha con, hai
vị đại đế Philíp và Alếchxanđrơ của nước Maxêđoan. Philíp II Maxêđoan
(sống vào khoảng năm 382 - 336 trước công nguyên, Vua Maxêđoan từ năm
359 - 336 trước công nguyên). Ông là cha đẻ của đại đế Alếchxanđrơ
Maxêđoan (sống khoảng năm 356 - 323 trước công nguyên; Vua Maxêđoan năm
336 - 323 trước công nguyên).
Đội
kỵ binh nặng là đối tượng được quan tâm nhất. Trang bị mũ, giáp bằng
sắt mỏng để che thân, kiêm dài và giáo. Ngựa cũng có giáp sắt. Lực lượng
này đã giữ vai trò quyết định trong trận Ácbela (còn gọi là trận
Gôgamen) vào tháng 10 năm 331 trước công nguyên.
Kỵ
binh nhẹ không có vũ khí tự vệ, chỉ có đao và giáo ngắn, nhẹ. Ngoài ra
còn có cả kỵ binh bắn cung. Loại kỵ binh này dùng vào bảo vệ, tuần tra,
trinh sát và các trận chiến đấu không chính quy.
Bước
vào trận Acbela: Alếchxăngđrơ có 40.000 bộ binh, 7000 kỵ binh, người
nào cũng được trang bị đầy đủ: kiếm, mộc, áo giáp đã có đệm thêm những
mảnh sắt; nhưng vũ khí chủ yếu của họ là cây “sarisa” - một ngọn giáo
nặng dài 7 m. Lực lượng Ba Tư rất hùng hậu, nhưng các sử gia vẫn chưa
đưa ra con số chính xác, chỉ biết rằng, các nguồn tài liệu cổ khắng định
ít nhất là 50.000 bộ binh, 15.000 kỵ binh, còn lớn hơn nữa là 200.000
bộ binh và 45.000 kỵ binh. Ngoài ra, quân Ba Tư còn có 200 chiến xa, 15
thớt voi. Bởi Đariuýt biết rằng, không phải chỉ gom quân thật nhiều là
đủ. Ông đã chú trọng tập dượt binh sĩ, cải tiến lại tổ chức trang bị.
Ông đặt nhiều hy vọng vào 200 chiếc xe ngựa kéo, bánh xe có móc thêm các
lưỡi liềm và mũi xe chìa ra những ngọn giáo dài tua tủa như hàng lông
nhím. Từ thực tiễn thất bại, ông đã rút ra bài học lựa chọn chiến trường
giao tranh. Đariuýt đã chọn một vùng đồng bằng bát ngát nằm bên bờ trái
sống Tigơrò, con sống lớn, nước chảy nhanh như “tên bắn” và phía xa hơn
là rặng núi Cuốcđităng. Phía nam cánh đồng là thành phố Acbela, gần
cánh đồng là làng Gôgamen (Gangamàles). Cẩn thận hơn, Đariuýt cho san
phảng những chỗ mấp mô để tiện cho chiến xa hoạt động. Ông cho rằng dù
có thiên tài đến mấy Alếchxăngđrơ cũng khó làm nên chuyện ở đây, nếu
không muốn nói là sẽ bị tiêu diệt.
Tư
tưởng luôn sáng tạo, cải tiến kinh nghiệm với vũ khí. kỹ thuật, chiến
thuật luôn được Alêchxăngđrơ không ngừng phát triển, ông thường nói với
các tướng lĩnh: “Không phải lúc nào cũng cứ cầm ngọn giáo ấy, mặc bộ
giáp ấy và cưỡi ngựa ấy xông vào trận là thắng ngay đâu”.
Ngay
từ khi thị sát chiến trường, Alếchxăngđrơ đã chú ý đến những dấu vết
trận địa mói đắp mà phán đoán có thể là những hố cạm bẫy, những hố chông
của đối phương và đoán ra đòn đánh quyết định của đối phương, ông đã dự
kiến trước và hoàn toàn chủ động trước mưu đồ dùng vũ khí hiểm độc đánh
đòn chủ yếu của Đariuýt. Đặt xong mưu kế, ông dặn dò tướng sĩ về ý
nghĩa trận đánh là giáng đòn quyết định sự sụp đổ của đế quốc Ba Tư, đem
lại cho mỗi người lính vinh quang bất diệt.
Khi
cuộc chiến hai bên đang kịch liệt. Theo lệnh của Đariuýt, kỵ binh lao
ra đánh vào sườn của Alếchxăngđrơ. Đúng lúc ấy, chiến trường náo động
hơn han bởi tiếng quân reo, ngựa hí, đoàn xe Ba Tư chuyển bánh lao về
đối phương, cát bụi cuôn theo mờ mịt, chỉ còn cách độ trăm bước; một
trận mưa tên và lao trùm lên đoàn xe. Người đánh xe bị chết, ngựa bị
trúng thương, những chiếc xe chiến chuệnh choạng đâm sầm vào nhau, đổ vỡ
nghiêng ngả. Một số không người điều khiển mặc sức lao theo những con
ngựa bất kham lồng lộn tứ tung. Một số chiếc tới sát được đối phương,
nhưng lại là những cái bẫy của quân Hy Lạp giãn ra mở lối để bao vây bắt
sống. Việc sử dụng voi chỉ diễn ra một thời gian ngắn ngủi bởi lẽ những
con vật này sợ lửa, do đó tác hại với quân lính của mình còn hơn quân
địch.
Quân
đội La Mã cung cấp cho ta một hình mẫu hoàn thiện vào thời đại chưa
biết dùng thuốc súng. Chế độ huấn luyện cá nhân nhằm mục đích rõ rệt.
Nhờ vậy mà quân đội La Mã đã chiến thắng bất kỳ lực lượng vũ trang nào
kể cả chấp kích đội của Maxêđoan lẫn kỵ binh của Numiđi.
Việc
huấn luyện nhằm vào phát triển thể lực, sử dụng vũ khí, các đội hình,
chú trọng người lính trong hành quân đường dài với đủ trang bị chiến
đấu; huấn luyện sử dụng công cụ đào hào, cấu trúc nhanh chóng phòng ngự.
Lính ở tuyến 2 thoạt đầu được trang bị giáo, sau này chỉ trang bị cho
đội dự bị một loại giáo ngắn nhưng rất nặng và đáng sợ dùng để phóng vào
hàng thứ nhất của đối phương trước khi lao vào dùng kiếm đánh giáp lá
cà. Loại giáo này phóng ra thường chọc thủng những chiếc mộc và giáp che
ngực và hầu như bao giờ cũng đánh gục quân địch.
Kỵ
binh cũng được trang bị vũ khí tự vệ như bộ binh: giáo và kiếm dài hơn
vào thời đại của Xêda (Gai luli Xêda) (Khoảng năm 100 - 40 trước công
nguyên) thủ lĩnh quân sự, nhà hoạt động nhà nước nổi tiếng La Mã. Ngoài
những đội quân tác chiến, Xêda còn xây dựng những đạo quân của các tỉnh,
lính bắn cung người Critơ, lính bắn đá người Bêlaác. Sáng tạo lớn nhất
của quân La Mã là nỏ Catapun, Balixta. Cấu tạo chung giống một chiếc nỏ,
tức là có một trục đỡ để làm chỗ đặt tên, đạn và một dây da buộc vào
hai đầu tay đòn, dùng sức bật đàn hồi để bắn. Ở những chiếc nỏ bình
thường, lực đàn hồi là sức bật của cánh tay cung, loại này được người Hy
Lạp phát minh từ trước với tên là Gaxtaphê. Khác biệt căn bản của
Catapun và Balixta với nỏ Gaxtaphê ở chỗ, người La Mã đã phát minh ra
những cuộn xoắn làm bằng gân đuôi ngựa, tạo lực bật thay cho cánh cung
đơn giản. Cuộn xoắn làm bằng gân đuôi ngựa... tết lại, người ta cắm vào
hai ống xoắn hai tay đòn thay cho hai cánh nỏ. Dây bị xoắn sẽ tạo ra lực
bật của cánh tay đòn. Để sử dụng máy bắn có một hệ thống điều chỉnh
tầm, hướng. Catapun gốc tiếng Hy Lạp có nghĩa là mũi tên. Thoạt đầu nó
được dùng để chỉ loại máy bắn tên nhằm phân biệt với Balixta là máy bắn
đá. Sau này nguyên tắc cuộn xoắn của người La Mã còn chế tạo ra loại máy
bắn một tay đòn gọi là Ônagiơ. Các loại máy bắn này thường có kích
thước rất lớn, thông thường có thể bắn được vật nặng hàng chục kilôgam,
đi xa tới 400 - 500 m. Đột xuất có những máy bắn cỡ lớn của Vitơruyvơ
(La Mã) có thể bắn loại đạn nặng tối 162kg, Catapun và Balixta chỉ là
những máy bắn đá hạng nhỏ và trung bình.
Người
Trung Quốc có vũ khí cung nỏ, đánh hỏa công. Lửa và nước từ lâu đã là
vũ khí lợi hại: Dùng lửa hỗ trợ cho tiến công, hiệu quả rõ ràng; nước hỗ
trợ cho tiến công uy lực lớn mạnh. Nhưng nước chỉ có thể cắt đứt liên
hệ của quân địch, không thể cướp đi lực lượng dự trữ của chúng. Hỏa công
có năm mục tiêu: một là, thiêu đốt người của địch; hai là, thiêu đốt
lương thảo của địch; ba là, thiêu đốt xe cộ của địch; bốn là, thiêu đốt
kho tàng của địch; năm là, thiêu đốt thiết bị phương tiện của địch. Thực
hiện hỏa công cần phải chuẩn bị trước khí tài, chọn ngày, chọn hướng
gió, ban ngày gió lâu, ban đêm gió chóng ngừng. Khoa học quân sự cổ đại
phương Đông nói chung, Trung Quốc nói riêng rất coi trọng môi trường tác
chiến: nghiên cứu địa hình và thời tiết, sử dụng gián điệp.
*
* *
Thế
giới mặt nước là môi trường “lạ” đầu tiên mà con người quan tâm đến.
Nước vốn là nhu cầu sống, nhưng cũng là trở ngại thiên nhiên to lớn nhất
trong phạm vi hoạt động của con người. Những người vượn đầu tiên có thể
vượt núi, xuyên rừng, nhưng đành bó tay trước sống, hồ, biển cả... Quá
trình chinh phục mặt nước cũng chính là quá trình phát triển các phương
tiện hoạt động trên mặt nước: Từ những chiếc bè đơn giản, những cây gỗ
to trên mặt nước bập bềnh đến chiếc thuyền độc mộc, rồi những thuyền
đóng ván dùng chèo, dùng buồm đầu tiên; từ những chiếc tơriơ ba tầng
chèo trong văn minh Hy Lạp - La Mã cổ đại đến những Clipơ cắt sóng lừng
lẫy châu Âu; từ những tàu hơi nước đầu tiên Clêmông năm 1807 đến những
tàu dùng năng lượng nguyên tử ngày nay... Đó cũng đồng thời là quá trình
con người chinh phục và phát minh những miền đất mới. Và, đó còn là quá
trình phát triển của nghệ thuật chiến tranh trên mặt nước.
Hạm
đội quân sự là một tập hợp từ để chỉ những chiến hạm của một quốc gia,
một dân tộc nào đó. Các tàu biển của Phiniki và Cácphaghen, của Hy Lạp
và La Mã mới chỉ là các thuyền đáy bằng, không có khả năng bơi trong gió
bão, giữa biển khơi sẽ bị nhấn chìm bởi bão táp. Chưa phát minh ra la
bàn - chưa có kim chỉ nam, chưa có khái niệm kinh tuyến và vĩ tuyến,
hướng dẫn để đi biển là những mốc cắm trên bờ và sao Bắc Đẩu. Chúng chỉ
đi ở ven bờ biển, buông neo ỏ eo biển hoặc vịnh nào đó. Đối với những
chiếc tàu này việc vượt biển Hy Lạp đến Ý hoặc từ châu Phi đến đảo
Xixilơ là những chuyến đầy nguy hiểm. Việc chỉ dựa vào mái chèo thì thì
chúng chỉ có thể đi chậm chạp trên làn sóng mà thôi.
Hạm
đội, thuyền chiến đã mang tính đặc trưng khác hẳn với tàu thuyền vận
tải. Tiêu biểu nhất là tơriơrem (trirem) của Địa Trung Hải. Đến chiến
tranh Punít (năm 264 - 146 trước công nguyên) trong các hạm đội Cáctagiơ
xuất hiện loại thuyền lớn hơn là Pentio (Pentior) dùng độ lớn của
thuyền để áp đảo đối phương. Đến nội chiến Đông - Tây ở La Mã, hạm đội
Ôctayia, nhờ có máy bắn (catapun và Balixta) đã phát triển một loại
thuyền chiến nhỏ hơn rất cơ động có thể dễ dàng tránh các đòn taran,
Varôn của các tơriơrem và pentio để giáng trả các loại máy bắn. Đó là
các libua.
Tơriơrem
là loại thuyền chiến ba tầng chèo bắt nguồn từ chữ la tinh (tres là 3
và remis là mái chèo). Tơriơ Hy Lạp thường có trọng tải 230 tấn, dài 40 -
45 m, rộng 6 m, mớm nước 2,5 m, mái chèo dài 4 - 4,5 m; mỗi thuyền có
150 - 170 mái chèo, xếp thành ba tầng. Tốc độ cao nhất đạt 7 - 8 hải
lý/giờ khi cả ba tầng chèo hoạt động (mỗi hải lý bằng l,852 km).
Tơriơrem có thể có thêm một cánh buồm vuông hứng gió. Biên chế: 150 -
170 nổ lệ chèo thuyền; 18 - 50 lính chiến đấu; 12 - 16 thủy thủ; 1
thuyền trưởng, 1 lái chính, 1 lái phụ và 1 trưởng chèo. Lính chiến đấu
trên thuyền trang bị câu liêm, búa mỏ chim, giáo kiếm, lao, mộc, cung
tên.
Pentio
là loại thuyền có hai tầng chèo ở mũi, ba tầng chèo ở phía lái, mái
chèo rất lớn, từ 3 - 5 người đẩy một mái chèo. Pentio có trọng lượng
choáng nước 500 tấn, dài 51 m, rộng 8 m, mớm nước 3,5 m.
Libua
trung bình có trọng lượng chiếm nước từ 80 - 100 tấn, dài 30 m, rộng 5
m, mớm nước 1 m, chỉ có một hay hai tầng chèo. Loại thuyền này thường có
máy bắn. Những libua lớn có lầu bắn, vách che đạn có lỗ bắn (lữ tường).
Vũ
khí chính của các tơriơ và Pentio là những đòn taran thực hiện bằng
cách đâm các mũi nhọn bằng gỗ cứng bọc thép ở mũi thuyền mình vào phá
thủng mạn thuyền đối phương. Sau này, riêng các Tơriơ La Mã xuất hiện
thêm loại vũ khí mới là Varôn. Đó là một cần trục lớn đặt ở mũi thuyền,
trên đó treo một khối kim loại nặng hình chóp nón, thân cần trục gắn
thêm một tấm ván rộng. Khi hai thuyền giáp nhau, cần trục được kéo lên
và thả khối kim loại xuống giáng mạnh vào b00ng tàu đối phương, đồng
thời cần cẩu hạ xuống, lính giáp chiến theo tấm ván nhảy sang thuyền
địch. Các Libua thường không có taran và Varôn, thay vào đó là các máy
bắn Catapun hoặc Balixta.
Lịch
sử ghi lại nhiều trận đánh độc đáo của các hạm đội đương thời có trang
bị máy bắn. Năm 184 trước công nguyên, hạm đội Haniban dùng Catapun bắn
sang đối phương những giỏ đựng đầy rắn độc. Năm 11 trước công nguyên,
Hạm đội Ôctayia bắn các giỏ đựng hắc in nóng chảy sang thuyền địch rồi
dùng tên gài lửa phóng hỏa: Với trang bị kỹ thuật thời này, cung nỏ,
súng bắn đá và những cỗ máy phóng lao (catapultac) cùng với những máy
phóng đạn đồ sộ (Balistac) là những vũ khí duy nhất ở cự ly xa. Không
thể nào khác được, phải cơ động để mũi sắt nhọn ở đầu mũi thuyền đâm
mạnh vào mạn thuyền, đối phương đánh chìm hoặc áp sát mạn thuyền đối
phương rồi xung phong đánh giáp lá cà, tiêu diệt địch, chiếm tàu. Phục
vụ cho chiến thuật, khoa học kỹ thuật thủy quân đã chú trọng khai thác
các yếu tố thời tiết, khí hậu, địa hình, tâm lý, phản gián, thông tin...
Vì vậy, quân thủy phải được chọn lọc và trang bị tốt, đại diện cho tinh
hoa của sức mạnh.
Ở
bờ tây Thái Bình Dương, các nước Đông - Nam Á cổ đại (bao gồm phía nam
sống Dương Tử trở xuống) đặc biệt phát triển thủy quân - các nước Ngô,
Việt ở hạ lưu sống Dương Tử vào thế kỷ V trước công nguyên hoặc thủy
quân Ngô trong cục diện Tam quốc, thế kỷ IV sau công nguyên. Có thể kể
thêm quân thủy Văn Lang, Âu Lạc, Chămpa, Phù Nam... Quân thủy của các
nước này lập ra trước hết không phải xuất phát từ những mục tiêu quân sự
trên biển, mà phải nhằm đáp ứng với các mục tiêu, nhiệm vụ quân sự
trong đất liền. Các trận Hải chiến rất hiếm hoi; thủy chiến phổ biến
trên sống, bò, cửa biển. Thuyền chiến chủ yếu làm nhiệm vụ cơ động quân
đội trên sống nên kích thước nhỏ, số lượng nhiều, động lực chính của
thuyền là mái chèo, sào đẩy (ở ven bờ sống). Khác với Địa Trung Hải,
người chèo thuyền đồng thời là lính chiến đấu. Trang bị trên thuyền đơn
giản, quân lính có giáo, lao, rìu, qua, cung nỏ và mộc. Có một số thuyền
làm thêm các tầng lầu cho lính cung nỏ, một số trang bị phương tiện
đánh hỏa công. Cá biệt, xuất hiện những thuyền cực lớn. Thuyền chiến ít
có vũ khí riêng như taranvarôn ở Địa Trung Hải, nhưng lại bọc đồng đầu
thuyền và máy nỏ đưa lên thuyền. Lâu thuyền thời Hán, theo thư tịch cao
10 trượng. Ngô Thuyền thời (Tam quốc) dài 20 trượng, rộng 3 trượng, cao 3
- 4 trượng (một trượng thời Hán dài 276,5 cm).
Nghiên
cứu kỹ thuật quân sự không thể giới hạn trong một ngành riêng rẽ nào,
tất cả các ngành đều liên quan mật thiết với nhau; nhưng cũng không thể
nghiên cứu hết được các chủng loại kỹ thuật quân sự. Ở đầu bảng các
chủng loại kỹ thuật quân sự trước hết là vũ khí, vì vũ khí thuộc loại kỹ
thuật quân sự tác động trực tiếp đến quân địch và quyết định tính chất
của đấu tranh vũ trang (cả vũ khí tiến công và phòng thủ); ngoài ra, kỹ
thuật quân sự ít quan hệ trực tiếp đến chiến đấu mà rất cấp thiết cho
chiến đấu, ta gọi là kỹ thuật bảo đảm.
Vũ
khí tiến công và phòng ngự đều là vũ khí lạnh, được dùng bằng sức
người; cùng với vũ khí cận chiến, vũ khí viễn chiến (cung, nỏ...).
Nỏ
máy với nguyên lý “cuộn xoắn” là bước nhảy vọt cao nhất của thời kỳ cổ
đại, cho phép tên, đá, giỏ hắc in làm mồi cho mũi tên cài lửa để phóng
hỏa, bắn giỏ rắn độc vào đội hình quân địch. Phải chăng nguyên lý này là
khởi thủy của nòng súng có rãnh xoắn và nguyên lý phóng phản lực cho
tên lửa sau này. Các loại vũ khí đồ sắt được sản xuất rộng rãi. Không có
đá nào, kim khí nào đương đầu được với nó; nghề đúc đồng, sắt, sản xuất
xe thuyền, đồ ngọc... phát triển buôn bán sầm uất, tiền tệ xuất hiện,
phân hóa giai cấp đẩy nhanh, phát triển quân đội, hạm thuyền mạnh. Nhà
Tây Chu chỉ trong 3 đời vua (Vũ Vương, Chu Công, Thành Vương) đã chiếm
70 nước, không ngừng củng cố thế lực, thu lại nhiều đất đai, chiến lợi
phẩm và nổ lệ.
Sự
phát triển của vũ khí kỹ thuật làm cho tổ chức quân đội và phương thức
tác chiến liên tục biến động: số các quân binh chủng ngày một nhiều, vai
trò của bộ binh nặng, kỵ binh, bộ binh nhẹ, bộ binh hạng trung luôn bị
đảo lộn.
Nắm
vũ khí kỹ thuật mới, cải tiến đạt trình độ cao để bày mưu lập thế trận
như Đariuyt sử dụng 200 xe phá vỡ đội hình đối phương kết hợp với kỵ
binh tập kích bên đánh quyết định. Nắm được ý đồ cải tiến vũ khí và địa
hình mà tương kế tựu kế, bẻ gẫy đòn quyết định của đối phương như
Alếchxăngđrơ Maxêđoan. Vũ khí tiến công, phòng ngự - cận chiến, viễn
chiến (cung, nỏ, phóng lao...) đều dựa vào cơ bắp người và vật nên buộc
phải cận chiến, giáp lá cà là chính. ưu thế của kỹ thuật không tự nó
phát huy tác dụng, nó chỉ được nâng lên bội phần khi các yếu tố chính
trị, mưu lược quân sự sử dụng nó mới tạo ra sự kỳ diệu, bởi vì sự cải
tiến vũ khí, trang bị là liên tục trong từng nước, từng cuộc chiến đêu
có sự thay đổi về kích thước, chất liệu, kiểu dáng, tác dụng... cho bộ
binh, kỵ binh, thủy binh. Sự thay đổi đó là những tích lũy về lượng của
trạng thái vũ khí kỹ thuật; những nhảy vọt của sự phát triển vũ khí kỹ
thuật thời kỳ này chính là sự sáng tạo, phát triển của tướng lĩnh và
binh sĩ nơi trận chiến.
Thủy
quân phát triển ngày một hoàn thiện từ bè mảng, thuyền con đến tàu hạm
luôn đi cùng với sự phát triển vũ khí trang bị trên tàu thuyền và trang
bị cho binh sĩ.
Lịch
sử kỷ thuật quân sự thời cổ đại với sự ảnh hưởng của những sự kiện
trọng đại về những phát minh của mỗi quốc gia và đại đế qua hàng chục
thế kỷ trước công nguyên. Điều chúng ta biết, sự ra đời của mỗi phát
minh, sáng chế là rất khó khăn phải được thai nghén trong hoàn cảnh lịch
sử. Ở thời kỳ trước chế độ chiếm hữu nổ lệ, sử sách đã ghi: “Trong suốt
thời gian dài, đá là công cụ lao động của con người. Một thứ nguyên
liệu vừa cứng, vừa giòn, vừa khó gò đẽo, một cải tiến nhỏ trong cách
ghè, đẽo để làm thay đổi chút ít hình dáng công cụ cũng đời hỏi hàng
ngàn năm, có khi hàng vạn năm tích lũy kinh nghiệm”. Trên ý nghĩa đó,
chúng ta mới thấy được diện mạo lịch sử kỹ thuật quân sự thời cổ đại
được mô tả là bức tranh lịch sử sối động về những phát minh vĩ đại của
nhân loại.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét